Đề cương bài giảng tham khảo môn Lý thuyết Tài chính- tiền tệ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương bài giảng tham khảo môn Lý thuyết Tài chính- tiền tệ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_cuong_bai_giang_tham_khao_mon_ly_thuyet_tai_chinh_tien_te.pdf
Nội dung text: Đề cương bài giảng tham khảo môn Lý thuyết Tài chính- tiền tệ
- Đề cương bài giảng tham khảo Môn Lý thuyết tài chính (Dành cho SV chuyên ngành KTNT) Mục tiêu nghiên cứu của môn học: 9 Hiểu được khái niệm về hệ thống các quan hệ tài chính và từng bộ phận của hệ thống các quan hệ tài chính. 9 Nắm được mối liên hệ giữa các bộ phận của hệ thống tài chính với nhau trong tổng thể hệ thống. 9 Hệ thống hóa được những kiến thức cơ bản trong từng chương mục để làm nền tảng nghiên cứu các môn học chuyên ngành. 9 Vận dụng được trong thực tiễn. Thời lượng môn học lý thuyết Tài chính- tiền tệ: 45 tiết Hình thức thi: Trắc nghiệm Hình thức học: Tự nghiên cứu là chủ yếu Là môn học cơ sở ngành, sử dụng kiến thức của các môn học cơ bản như kinh tế học vi mô, kinh tế học vĩ mô và kinh tế chính trị học để làm nền tảng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của môn học này sẽ được sử dụng để phục vụ cho các môn học chuyên ngành ở các kỳ học sau như Bảo hiểm trong kinh doanh, Thanh toán quốc tế, Đầu tư nước ngoài hay Thị trường chứng khoán Tài liệu tham khảo của môn học gồm có: Sách Lý thuyết TC-TT- ĐHNT Sách Lý thuyết TC-TT- ĐHKTQD Các văn bản pháp luật có liên quan đến nội dung nghiên cứu của từng chương. Ngoài ra sinh viên được yêu cầu phải tự cập nhật các kiến thức thực tiễn về tài chính thông qua các sách báo tài liệu, và phải có khả năng phân tích được các hiện tượng thực tế đó bằng các kiến thức nền tảng đã được trang bị. Vì mang tính chất bài giảng tham khảo, không phổ biến nên các nhận định và ví dụ trong tập tài liệu này hoàn toàn mang tính cá nhân, và do người viết hoàn toàn chịu trách nhiệm. Sử dụng cho mục đích tham khảo và ôn tập của sinh viên trường ĐHNT khi nghiên cúu môn học Lý thuyết TC-TT
- Introductory Finance Chương I: Lý thuyết chung I.Khái niệm tài chính hìn chung từ trước đến nay mọi người đều đã có một khái niệm cơ bản nhất định về tài chính, tuy nhiên tuỳ thuộc nhu cầu khác nhau của từng cá nhân mà khái niệm của N mỗi người cũng khác nhau. Việc có được một định nghĩa chung để có được cái nhìn thống nhất về tài chính là rất quan trọng. Vì vậy khi nghiên cứu chương trình lý thuyết Tài chính- tiền tệ của trường Đại học Ngoại thương yêu cầu đối với sinh viên là phải nắm được định nghĩa tài chính một cách thống nhất để có thể nhất quán nghiên cứu trong suốt thời gian của khóa học. 1.Định nghĩa Có rất nhiều định nghĩa khác nhau đã được đưa ra về tài chính, mỗi định nghĩa lại dựa trên một góc độ riêng, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của chương trình học môn Lý thuyết tài chính- tiền tệ tại trường ĐHNT, định nghĩa về tài chính có thể được phát biểu như sau: Tài chính là một hệ thống các quan hệ phân phối giữa các chủ thể kinh tế thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Thông qua định nghĩa nói trên, có thể dễ dàng nhận xét rằng tài chính không phải là một hoạt động đơn lẻ, nó là một hệ thống các quan hệ kinh tế cùng nằm trong một tổng thể và có mối gắn bó chặt chẽ với nhau. Các mối quan hệ đó, còn được gọi là các khâu hay các bộ phận trong hệ thống tài chính bao gồm nhiều loại hình quan hệ khác nhau như: 9 Tín dụng 9 Bảo hiểm 9 Ngân sách Nhà nước 9 Tài chính doanh nghiệp, hộ cá nhân và gia đình. Các bộ phận này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau cấu thành một hệ thống tài chính1 hoàn chỉnh, chúng cùng có những đặc trưng của tài chính, tuy nhiên mỗi bộ phận lại có những đặc trưng riêng, những đặc trưng riêng đó sẽ được đề cập tới trong từng chương cụ thể của môn học về những bộ phận này. 2.Đặc trưng của quan hệ tài chính Như vậy một quan hệ kinh tế muốn được coi là một quan hệ tài chính thì phải thỏa mãn đầy đủ những đặc trưng của một quan hệ tài chính, đó là những đặc trưng sau: Đó phải là một quan hệ phân phối: Nói tới tài chính cũng có nghĩa là nói tới một quan hệ phân phối, và quan hệ phân phối này có những yêu cầu riêng của mình. Như trong môn kinh tế chính trị học đã nêu rõ, quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm bốn khâu, đó là: 1 Xem thêm mục hệ thống tài chính
- Fundamentals of Finance Sản xuất Tiêu dùng Phân phối Trao đổi Như vậy, phân phối là một trong bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, nó nằm ngay sau khâu sản xuất, và đóng vai trò quyết định trong việc phân chia các sản phẩm sản xuất được cho các chủ thể trong xã hội, hay nói cách khác là phân chia các nguồn lực tài chính cho xã hội, từ đó mới diễn ra việc buôn bán (trao đổi) và tiêu dùng. Có hai loại phân phối, đó là phân phối lần đầu và phân phối lại. ¾ Phân phối lần đầu là việc sử dụng một phần giá trị mới tạo ra để bù đắp cho những chi phí mà những người đã tham gia vào quá trình trực tiếp sản xuất ra sản phẩm đã phải bỏ ra, đó là chi phí tư bản (Vốn kinh doanh) mà người chủ tư bản đã phải bỏ ra để đầu tư vào việc thuê nhân công, mua máy móc thiết bị, vật tư. Đó cũng là khoản tiền lương mà người chủ tư bản đã phải bỏ ra để trả cho những công nhân trực tiếp sản xuất. Các quan hệ phân phối lần đầu này không được coi là các quan hệ tài chính mặc dù các mối quan hệ này đã mang bản chất của một quan hệ tài chính. ¾ Phân phối lại là việc sử dụng lượng giá trị thặng dư còn lại sau phân phối lần đầu để mở rộng quan hệ phân phối ra toàn xã hội. Chỉ có phân phối lại mới thuộc phạm vi nghiên cứu của tài chính. Sở dĩ như vậy bởi vì trong phân phối lần đầu các nguồn lực chỉ được phân bổ trong phạm vi hẹp thuộc nội bộ người sản xuất, do đó các thành viên khác trong xã hội sẽ không được phân bổ nguồn lực nếu như không tham gia vào quá trình sản xuất. Như vậy mối quan hệ phân phối sẽ không đủ lớn và không đủ quan trọng để nghiên cứu. Vì vậy trong phạm vi nghiên cứu của môn học, chỉ có những quan hệ phân phối phát sinh trong quá trình phân phối lại mới được coi là quan hệ tài chính. Đặc trưng thứ hai của tài chính là phân phối chủ yếu được thực hiện dưới dạng giá trị. Nếu như phân phối được thực hiện dưới dạng hiện vật thì nói chung quan hệ này sẽ không phải là quan hệ tài chính. Sở dĩ quan hệ phân phối muốn được coi là một quan hệ tài chính đòi hỏi nó phải được thực hiện dưới dạng giá trị bởi vì đây là một yêu cầu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển chung của quá trình lịch sử. Nếu như quan hệ phân phối được thực hiện dưới dạng hiện vật, ví dụ như việc một người cho vay bằng thóc lúa và đòi nợ bằng thóc lúa thì quan hệ vay-trả này sẽ rất phức tạp bởi vì nó còn liên quan đến nhiều vấn đề khác. Nhưng với việc vay và trả dưới dạng giá trị, tức là sử dụng tiền, lúc này quan hệ phân phối giữa người vay và người cho vay trở nên minh bạch hơn rất nhiều. Cũng chính vì thế nên một đặc trưng của tài chính là việc các quan hệ phân phối được thực hiện dưới dạng giá trị. Tuy vậy cũng có một số trường hợp đặc biệt, theo đó quan hệ phân phối được thực hiện dưới dạng hiện vật nhưng vẫn là một quan hệ tài chính, ví dụ như trường hợp quy định thuế nông nghiệp có thể nộp bằng thóc như ở nước ta hiện nay. mặc dù được thực hiện dưới dạng hiện vật nhưng đó chỉ là một mối quan hệ có tính cá biệt không phù hợp với quy luật chung và sẽ sớm bị loại bỏ. Sở dĩ có đòi hỏi như vậy vì trong một quan hệ tài chính, quan hệ về
- Introductory Finance tiền tệ luôn tách bạch so với quan hệ về hàng hóa. Giả sử như trong một quan hệ thương mại thông thường, tức là hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ thì nếu như bên mua trao tiền thì bên bán sẽ trao hàng. Nhưng quan hệ tài chính lại không diễn ra như vậy. Nếu có một quan hệ tài chính xảy ra giữa hai bên thì đó sẽ là một quan hệ tiền tệ thuần túy chứ không có sự tham gia của hiện vật, vì thế nên mới nói rằng quan hệ phân phối trong tài chính được thực hiện dưới dạng giá trị như ở trên Đặc trưng thứ ba của tài chính là có sự hình thành và sử dụng của quỹ tiền tệ. Dù cho một quan hệ phân phối có được thực hiện dưới dạng giá trị đi chăng nữa mà nó không có sự hình thành và sử dụng của một quỹ tiền tệ đi kèm theo nó thì đây sẽ không thể coi là một quan hệ tài chính được. Ví dụ điển hình của trường hợp này là quan hệ phân phối qua giá. Quỹ tiền tệ thực chất là nơi tập trung các nguồn vốn trong quan hệ tài chính, và từ đó vốn sẽ được tham gia vào quá trình phân phối lại trong xã hội. Trong quan hệ tài chính nhất thiết phải có một quỹ tiền tệ được hình thành và sử dụng nhằm tạo cơ sở cho các mối quan hệ giữa hai bên. Có thể điểm qua các loại quỹ tiền tệ trong các hoạt động tài chính, đó là: 9 Quỹ tín dụng 9 Quỹ bảo hiểm 9 Quỹ Ngân sách Nhà nước 9 Quỹ tài chính của các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình Dưới dạng ban đầu các quỹ tiền tệ này có thể là những quỹ thô sơ với đúng mục đích đơn giản là nhằm tạo điều kiện cho các quan hệ tài chính thực hiện được thuận lợi, tuy nhiên cùng với đà phát triển của xã hội, các quỹ tiền tệ hiện đại được quản lý bởi các công ty chuyên nghiệp và họ đứng ra kinh doanh nhằm bảo tồn và phát triển quỹ đó (trong trường hợp quỹ tín dụng và quỹ bảo hiểm), do vậy họ có quyền thu lợi từ việc kinh doanh này. Và cũng từ đó phát sinh ra những dịch vụ tài chính như dịch vụ bảo hiểm hay dịch vụ tín dụng, ngân hàng. Các hoạt động tài chính càng phát triển thì các quỹ tiền tệ càng được hiện đại hóa và mang nhiều đặc điểm mới. Các quỹ này cũng sẽ có quy mô lớn hơn nhằm phục vụ cho các quan hệ tài chính đang được phát triển. II.Chức năng và vai trò của tài chính Khi nói đến chức năng của tài chính tức là nói đến bản chất, nói đến thuộc tính tự nhiên vốn có của tài chính, không phải do con người tác động hoặc quy định ra mà có. Như vậy tài chính, với bản chất sẵn có của nó, sẽ có những chức năng riêng. Nếu nghiên cứu tìm ra những chức năng này thì có thể phân biệt tài chính với các phạm trù kinh tế khác. Muốn tìm ra một chức năng nào đó của tài chính thì chúng ta chỉ cần chỉ ra rằng đó là một tất yếu khách quan, nó xảy ra không phụ thuộc vào sự quyết định chủ quan của con người và con người không có khả năng điều khiển nó. 1.Chức năng của tài chính Tài chính có hai chức năng chủ yếu, đó là chức năng phân phối và chức năng giám sát a. Chức năng phân phối Bất kỳ lúc nào và ở đâu, hễ nhắc tới tài chính là nhắc tới chức năng phân phối của tài chính, bởi vì một đặc trưng rất quan trọng của tài chính là một quan hệ kinh tế phải là một quan hệ phân phối thì mới có thể là một quan hệ tài chính. Và như vậy có thể thấy rằng chức năng phân phối của tài chính là cực kỳ quan trọng. Chức năng này của tài chính được thể hiện trong từng bộ phận của hệ thống tài chính. Cũng có thể dựa vào chức năng phân phối của tài chính để phân biệt các khâu trong hệ thống tài chính như phân tích dưới đây.
- Fundamentals of Finance Trong khâu tín dụng: Chức năng phân phối trong khâu tín dụng được thể hiện thông qua quá trình phân phối vốn từ người có vốn tạm thời nhàn rỗi sang người đang cần vốn và ngược lại để sử dụng vào một mục đích nào đó, mà thông thường là để mở rộng sản xuất kinh doanh. Đây là một tất yếu khách quan, quan hệ tín dụng vẫn sẽ xảy ra không phụ thuộc vào việc con người có quy định rằng nó có được phép xảy ra hay không. Trong khâu bảo hiểm: Chức năng phân phối của quan hệ tài chính trong bảo hiểm được thể hiện trong việc vốn góp vào quỹ bảo hiểm được chuyển từ số đông người không gặp rủi ro sang số ít người gặp rủi ro. Đây cũng là một đòi hỏi khách quan bởi vì con người luôn phải đối mặt với rủi ro. Nếu như không thể dự đoán trước được lúc nào rủi ro xảy ra để phòng tránh thì con người lại có thể cùng nhau khắc phục những hậu quả mà rủi ro gây ra cho một số ít người. Chính vì lý do đó nên con người mới nảy sinh nhu cầu góp vốn vào một quỹ dự phòng tập trung nhằm hạn chế hậu quả của rủi ro xảy ra. Và đó chính là quỹ bảo hiểm. Trong ngân sách nhà nước: Với tư cách là một chủ thể kinh tế đặc biệt trong xã hội, nhà nước cần thực hiện những chức năng của mình để điều hòa và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đối với nhà nước, lúc này điều quan trọng là cần phải có tiền để thực hiện các chức năng đó. Chính vì vậy quỹ ngân sách ra đời nhằm phục vụ cho công việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, và đó là một đòi hỏi khách quan. Lượng vốn sau khi thu được vào ngân sách nhà nước sẽ lại được chi dùng vào các yêu cầu mà nhà nước cần phải thực hiện, ví dụ như để trả lương cho công nhân viên hưởng lương từ ngân sách, hay chi trả cho những dự án thuộc những lĩnh vực quan trọng nhưng lại có tỷ suất lợi nhuận thấp và lâu thu hồi vốn, do vậy khu vực tư nhân không tham gia vào đây. Như vậy chức năng phân phối trong hoạt động của quỹ ngân sách được thể hiện bằng việc phân phối các nguồn lực tài chính từ những người có nghĩa vụ phải đóng góp vào ngân sách nhà nước (chủ yếu là những người nộp thuế) sang những chủ thể được hưởng lợi từ ngân sách nhà nước. Trong hoạt động tài chính nội bộ của từng chủ thể kinh tế cụ thể, chức năng phân phối của tài chính được thể hiện bằng việc nguồn tài chính có hạn của mỗi chủ thể kinh tế phải được chia đều cho các nhu cầu khác nhau một cách hợp lý để thỏa mãn tối ưu toàn bộ mọi hoạt động của chủ thể. Ví dụ như một doanh nghiệp phải thỏa mãn được nhu cầu kinh doanh ngày càng phát triển và mở rộng nhưng cũng phải đáp ứng nhu cầu nâng cao đời sống của công nhân viên, hay nhu cầu khẳng định vị trí xã hội cho doanh nghiệp mình. Vì lý do này nên việc phân phối nguồn lực tài chính có hạn trở thành một nhu cầu khách quan và có tầm quan trọng lớn đối với doanh nghiệp. b. Chức năng giám sát Có thể nói chức năng giám sát ra đời là nhờ có chức năng phân phối của tài chính, bởi vì như đã phân tích ở trên, chức năng phân phối là chức năng cơ bản nhất của tài chính, nó quyết định các quan hệ tài chính sẽ hoạt động như thế nào, nguồn tài chính sẽ được di chuyển từ đâu đến đâu. Cũng từ những luồng di chuyển của tài chính mà đã hình thành nên một hệ thống các chỉ tiêu (gọi là chỉ số tài chính). Các chỉ số tài chính này là sự đo lường bằng tiền tệ của các hoạt động tài chính. Và nhờ có các chỉ số tài chính nên việc giám sát nền kinh tế đã đơn giản hơn thông qua việc kiểm soát các chỉ số này. Một số các chỉ số tài chính quan trọng thường được sử dụng ở tầm vĩ mô là: lãi suất, chỉ số lợi nhuận bình quân, chỉ số thị trường chứng khoán, tỷ giá hối đoái, lượng dư nợ tín dụng, Để biết rằng thị trường chứng khoán có hoạt động một cách lành mạnh hay không, thay bằng việc thực hiện nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu tốn kém, các nhà quản lý có thể nghiên cứu tình hình biến động chỉ số thị trường chứng khoán, tiến hành so sánh giữa các kỳ nghiên cứu và so sánh trong cùng kỳ giữa nhiều khu vực khác nhau. Một số chỉ số chứng khoán phổ biến
- Introductory Finance mà chúng ta hay gặp là chỉ số công nghiệp Dow Jones, chỉ số Nikkei, chỉ số NYSE, chỉ số Hangseng, chỉ số VNIndex Ở tầm vi mô, chủ yếu là trong phạm vi doanh nghiệp, một số chỉ số sau là tương đối quan trọng: tỷ suất lợi nhuận, tốc độ quay vòng vốn, giá thành sản phẩm, Ví dụ như tỷ suất lợi nhuận, đó chính là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá mức độ hiệu quả trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp có chỉ số lợi nhuận tuyệt đối cao nhưng tỷ suất lợi nhuận thấp thì vẫn có thể đánh giá rằng doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả. Còn nếu muốn đánh giá mức độ thành công nói chung của doanh nghiệp thì chúng ta không chỉ xem xét các chỉ số tài chính mà còn phải xem xét một số chỉ tiêu xã hội khác như mức độ hài lòng của nhân viên hay uy tín của doanh nghiệp, tuy nhiên trong khi tổng hợp các chỉ tiêu lại để xem xét thì các chỉ số tài chính vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất và giữ một vai trò chủ đạo trong việc quyết định xem doanh nghiệp có thành công hay không. 2.Vai trò của tài chính Nếu như chức năng của tài chính là thể hiện cái bản chất, tất yếu của tài chính thì vai trò của tài chính ở đây là sự thể hiện cụ thể của chức năng đối với sự phát triển của từng hoạt động tài chính nói riêng và đối với toàn xã hội nói chung. Tài chính có hai vai trò nổi bật, đó là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo nhu cầu vốn cho các chủ thể kinh tế. Có thể thấy ngay rằng nhờ có hoạt động tài chính mà chủ thể có khả năng đảm bảo được nhu cầu về vốn của mình, từ một chủ thể bình thường trong xã hội như doanh nghiệp (thông qua hoạt động tài chính doanh nghiệp) cho tới chủ thể đặc biệt như Nhà nước (thông qua hoạt động thu ngân sách Nhà nước). Sự đảm bảo nhu cầu về vốn được thực hiện thông qua các quan hệ thu vào. Trong vai trò này, xuất phát từ chức năng phân phối của tài chính mà các nguồn lực tài chính được di chuyển một cách hợp lý từ nơi thừa vốn sang nơi đang cần vốn. Vì được đảm bảo nhu cầu về vốn, tránh khỏi việc bị đe dọa bởi nguy cơ không ổn định về tài chính nên các chủ thể trong xã hội có thể phát huy tối đa tiềm năng của mình, hoạt động một cách hiệu quả và góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Xét trên góc độ tổng thể nền kinh tế, xuất phát từ chức năng phân phối của tài chính, chúng ta có thể thấy rằng tài chính làm cho các luồng vốn trong xã hội di chuyển một cách hợp lý, góp phần tạo ra hiệu quả trong việc sử dụng vốn của các chủ thể kinh tế, và như vậy làm cho xã hội góp phần phát triển một cách mạnh mẽ hơn. Các nguồn vốn nhàn rỗi sẽ được di chuyển từ nơi đang thừa sang nơi cần tới nó (tín dụng). Các doanh nghiệp sẽ không phải tính toán đến việc tách một số tiền trong nguồn lực tài chính có hạn để lập quỹ dự phòng nội bộ nhằm bảo đảm ổn định trước rủi ro mà có thể sử dụng lượng tiền đó vào mục đích khác mang lại hiệu quả cao (bảo hiểm). Vai trò này xuất phát từ cả chức năng phân phối và giám sát của tài chính. Xét trên góc độ nội bộ từng chủ thể, ví dụ như doanh nghiệp, tài chính còn có vai trò giúp đỡ doanh nghiệp kiểm soát được các luồng tiền để phân bổ nguồn tài chính có hạn một cách hợp lý vào các mục đích khác nhau. Thông qua chức năng giám sát tài chính còn có thể giúp doanh nghiệp kiểm tra tình hình hoạt động tài chính của mình, rút ra những mặt được và chưa được trong kỳ kinh doanh và có biện pháp đối ứng kịp thời, tránh khỏi nguy cơ thua lỗ. III.Điều kiện ra đời và lịch sử phát triển của tài chính Trong quá trình hình thành và phát triển, tài chính đòi hỏi một số điều kiện nhất định. những điều kiện này nối tiếp nhau để thoả mãn đầy đủ những đặc trưng của tài chính.
- Fundamentals of Finance 1.Điều kiện ra đời của tài chính a. Nền kinh tế hàng hoá- tiền tệ Để thoả mãn việc tài chính có thể ra đời, các đặc trưng của tài chính cần phải có đầy đủ điều kiện để thực hiện đầy đủ chức năng của mình. nếu xét theo tiến trình phát triển của kinh tế trong lịch sử có thể nhận thấy rõ điều này. Trong thời kỳ kinh tế săn bắt hái lượm nguyên thuỷ, không tồn tại sản xuất, số lượng vật phẩm mà con người kiếm được thậm chí chưa đủ để thoả mãn nhu cầu phân phối lần đầu, cho nên chưa thể thoả mãn đặc trưng phân phối lại của tài chính. Như vậy chưa thể có tài chính trong thời kỳ này. Đến khi nền kinh tế phát triển thêm một bước, tiến lên thời kỳ sản xuất tự cung tự cấp thì tài chính cũng chưa thể ra đời, lý do là lúc này chưa có sự tồn tại của hàng hóa, những gì sản xuất ra mới chỉ dừng lại ở mức độ sản phẩm, chưa có trao đổi mua bán. Khi nền kinh tế hàng hóa ra đời, đã bước đầu có sự trao đổi, mua bán trong xã hội, hàng hóa đã xuất hiện. Đặc trưng phân phối lại của tài chính đã được thỏa mãn bởi vì lúc này trong xã hội đã xuất hiện tích lũy và trao đổi, do vậy đã có phân phối lại. Tuy nhiên tài chính mới chỉ dừng lại ở mức độ manh nha có những dấu hiệu ra đời, bởi vì lúc này chưa xuất hiện tiền tệ, hoạt động phân phối mới chỉ được thực hiện dưới dạng hiện vật, và như vậy chưa thỏa mãn đặc trưng phân phối dưới dạng giá trị. Đến khi nền kinh tế hàng hóa phát triển tới một mức độ nhất định, trở thành nền kinh tế hàng hóa- tiền tệ, cùng với sự xuất hiện của tiền tệ là sự tăng tốc của các quan hệ kinh tế trong xã hội. Tiền tệ phát huy vai trò làm dầu bôi trơn cho các hoạt động kinh tế, đồng thời làm cho các quan hệ phân phối trở nên linh hoạt và dễ dàng hơn rất nhiều. Tổng lượng sản phẩm trong xã hội tăng lên đáng kể, nhu cầu phân phối đã trở nên rất lớn, và tiền đã đóng vai trò trung gian trong các quan hệ phân phối và trao đổi, làm cho chúng có thể được thực hiện dưới một dạng thức mới, đó là dưới dạng giá trị. Cho tới lúc này tất cả các đặc trưng của tài chính đều đã được thỏa mãn, và do đó tài chính được ra đời khi nền kinh tế hàng hóa- tiền tệ xuất hiện. b. Sự ra đời và phát triển các chức năng của nhà nước Dù cho không phải là điều kiện cần phải có để tài chính ra đời nhưng nhà nước lại đóng vai trò rất quan trọng trong sự ra đời của một bộ phận trong hệ thống tài chính, đó là tài chính Nhà nước, mà chủ yếu là ngân sách Nhà nước. Cũng cần phải nói thêm rằng từ khi có nhà nước ra đời, chủ thể đặc biệt này đã tham gia một cách tích cực vào hoạt động của hệ thống tài chính và làm cho ngân sách Nhà nước trở thành một khâu có vị trí quan trọng đối với tài chính. Nhà nước cũng đã sử dụng quyền lực của mình, tạo ra các tác động chủ quan làm cho hoạt động tài chính phát triển theo ý muốn của mình. 2.Sự phát triển của tài chính Sự phát triển của tài chính được thể hiện qua quá trình phát triển của từng bộ phận trong hệ thống tài chính và những nhân tố tác động đến sự phát triển của mỗi bộ phận đó. a. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của tài chính Trong số các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của tài chính thì quan trọng nhất là các điều kiện để tài chính ra đời, đó là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ và sự ra
- Introductory Finance đời và phát triển các chức năng của nhà nước, trong đó đóng vai trò then chốt là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ. Để dễ phân biệt có thể xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của tài chính theo hai giác độ, đó là những nhân tố có tính khách quan và những nhân tố có tính chủ quan. nếu xem xét những nhân tố có tính khách quan thì có thể xếp vào nhóm này những điều kiện để tài chính ra đời. Ngoài ra còn có những nhân tố khác như tình hình biến động của nền kinh tế, cả trong nước và thế giới nói chung, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Đối với các nhân tố có tính khách quan thì con người không thể điều khiển được mà chỉ có thể tuỳ theo tình hình diễn biến để có các biện pháp ứng phó thích hợp. Các nhân tố chủ quan bao gồm sự tác động từ phía nhà nước, sự tác động này có thể theo hướng tích cực nhưng cũng có thể theo hướng không có lợi đối với sự phát triển của tài chính. Cùng nhóm này còn có trình độ nhận thức của người dân đối với tài chính nói riêng và trình độ dân trí nói chung. Như vậy có thể chia nhóm nhân tố chủ quan thành nhóm nhân tố có tính pháp luật và nhóm nhân tố có tính văn hoá- lịch sử. Nhóm nhân tố chủ quan này có tính chất tương đối quan trọng để quyết định mức độ phát triển của tài chính ở từng quốc gia hoặc khu vực bởi vì đây là nhóm nhân tố phụ thuộc vào con người. Ví dụ như chính sách tài chính, hành lang pháp lý mà Nhà nước dựng ra để tài chính phát triển mà hợp lý thì sẽ làm cho hệ thống các quan hệ tài chính ở nước đó được thúc đẩy và trở nên mạnh hơn. Hoặc trong thời điểm kinh tế gặp khó khăn, nếu như các biện pháp đối phó của Nhà nước đưa ra hợp lý thì nền kinh tế sẽ có thể nhanh chóng phục hồi và tiếp tục phát triển. Sự kết hợp giữa các nhóm nhân tố khách quan và các nhóm nhân tố mang tính chủ quan sẽ tạo nên một cơ sở để các quan hệ tài chính tồn tại và phát triển. b. Sự phát triển của các quan hệ tài chính Ðối với quan hệ tín dụng: Trong thời kỳ đầu, tín dụng chủ yếu tồn tại dưới hình thức cho vay nặng lãi. Chỉ có những người giầu có mới đủ tiền cho vay, còn những người cần vay lại là những người nghèo khó. Vì vậy hình thức của quan hệ tín dụng thời kỳ này thường là quan hệ trực tiếp giữa người vay và người cho vay. Đến khi nền kinh tế phát triển đến chế độ tư bản thì lúc này hình thành quan hệ tín dụng giữa những ông chủ tư bản và hệ thống Ngân hàng. Vốn của hệ thống Ngân hàng lúc này là huy động từ những nguồn rải rác trong dân. Cùng với sự phát triển của sản xuất, một loại hình quan hệ tín dụng mới ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn ngày càng cao trong xã hội, đó là tín dụng thương mại giữa các nhà sản xuất. Và tại thời điểm hiện tại, những trung gian tài chính đang ngày càng góp phần tạo ra sự ổn định về nguồn vốn cho các chủ thể kinh tế, từ đó thúc đẩy sự phát triển chung của toàn xã hội. Hiện nay, cùng với sự ra đời của những phương thức tín dụng hiện đại, hoạt động tín dụng đã trở nên cực kỳ phổ biến và là một nhân tố không thể thiếu của hoạt động kinh tế- xã hội. Đối với hoạt động bảo hiểm: Bước đầu bảo hiểm chỉ tồn tại dưới dạng góp thóc lúa chung để phòng tránh mất mùa, nhưng kể từ khi bảo hiểm hàng hải ra đời, quan hệ bảo hiểm đã được đánh dấu một bước thay đổi về chất. Bảo hiểm hàng hải, bao gồm bảo hiểm thân tầu thuyền và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển đã tạo tiền đề cho hàng loạt các loại hình bảo hiểm sau này như bảo hiểm con người, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm trộm cướp Nói chung cho đến nay gần như tất cả những loại thiệt hại có thể xảy ra do gặp phải rủi ro đều được các công ty bảo hiểm nhận bồi thường. Đối với các hoạt động tài chính của Nhà nước: Để phục vụ cho cả một bộ máy hành chính, quân sự của mình, chế độ phong kiến đã phải đặt ra các thứ thuế nhằm bảo đảm đủ tiền cho Nhà nước có thể hoạt động, đặc biệt là trong những trường hợp chiến tranh hoặc khi vua chúa không có khả năng điều hành thì các sắc thuế mới liên tục ra đời và có rất nhiều sắc thuế vô lý. Cùng với sự thoái trào của chế độ phong kiến, nhà nước đã thuộc về tay giai cấp tư sản, mà đại biểu của nó là quốc hội, nghị viện. Chính đây là cơ quan quản lý việc chi, tiêu của nhà nước và ban hành các sắc thuế. Cùng với sự mở rộng của Nhà nước và sự phát triển của nền
- Fundamentals of Finance văn minh, nhu cầu ngày càng lớn về tài chính đòi hỏi nhà nước phải đi vay của dân dưới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ (ở nước ta gọi là công trái). Ngân sách nhà nước đã trở thành một quỹ tài chính để giúp đỡ nhà nước thực hiện chức năng của mình. Và cùng với việc sử dụng Ngân sách nhà nước để phân bổ các khoản tiền có được vào các mục đích khác nhau, nhà nước đã và đang góp phần vào sự phát triển chung của xã hội. Đối với hoạt động tài chính nội bộ của mỗi chủ thể kinh tế trong xã hội, sự phát triển của tài chính được thể hiện thông qua sự hiện đại hóa khả năng quản lý tài chính trong nội bộ doanh nghiệp. Thậm chí hiện nay còn có cả một ngành học chuyên nghiên cứu về quản lý tài chính trong doanh nghiệp. IV.Phân loại hệ thống tài chính Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại hệ thống tài chính, dưới đây là một số tiêu thức thông dụng nhất. 1.Dựa theo tính chất phân phối của tài chính Nếu căn cứ vào tính chất phân phối của tài chính thì chúng ta có thể chia tài chính thành 5 bộ phận như sau: 9 Tín dụng 9 Bảo hiểm 9 Tài chính Nhà nước 9 Tài chính doanh nghiệp 9 Tài chính hộ gia đình và tổ chức xã hội Các bộ phận này có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau trong tổng thể hệ thống tài chính. Mối quan hệ giữa các khâu trong hệ thống tài chính có thể được biểu diễn theo sơ đồ Tài chính Nhà nước Bảo hiểm Tín dụng Tài chính hộ gia đình Tài chính doanh và tổ chức xã hội nghiệp Có thể nói rằng khâu tài chính doanh nghiệp là cơ sở, nền tảng cho hệ thống tài chính bởi vì nguồn tài chính cho phân phối được hình thành từ đây. Doanh nghiệp là nơi tạo ra giá trị mới cho xã hội, và do đó cũng tạo ra nguồn tài chính cơ sở để từ đó phân phối lại cho các bộ phận khác như tài chính Nhà nước (nộp thuế), bảo hiểm (mua bảo hiểm) hoặc tín dụng (vay và cho vay). Ngoài ra, nguồn tiền lương mà doanh nghiệp trả cho công nhân viên cũng góp phần tạo nên nguồn tài chính trong bộ phận hộ gia đình và cá nhân. Trong hệ thống nói trên, khâu tài chính Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và có ảnh hưởng rất lớn đến các khâu còn lại. Việc Nhà nước ban hành các chính sách, pháp luật về tài chính sẽ
- Introductory Finance có thể tạo điều kiện thuận lợi để các khu vực khác phát triển nhưng nếu việc ban hành không tốt, không dựa trên cơ sở thực tế dẫn đến việc chồng chéo, lấn sân nhau giữa các khâu thì sẽ làm trì trệ sự phát triển của từng khâu nói riêng và của toàn bộ hệ thống nói chung. Hơn nữa, việc thu- chi của ngân sách Nhà nước- một bộ phận chủ yếu của tài chính Nhà nước- cũng là một nhân tố quan trọng có tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Việc phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu trong hệ thống tài chính có ý nghĩa quyết định đối với lợi ích chung. Ví dụ như trong khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng kém, tổng lượng đầu tư hạn chế, lúc này bộ phận tín dụng cần thực hiện việc hạ lãi suất tiền gửi để kích thích đầu tư cho sản xuất, đồng thời bộ phận tài chính Nhà nước cần phải có các chính sách phù hợp như giảm bớt các quy định và điều kiện để khuyến khích những người có vốn mạnh dạn bỏ ra đầu tư nhằm làm cho toàn bộ nền kinh tế hoạt động mạnh lên và có hiệu quả hơn. 2.Dựa theo phạm vi của quan hệ tài chính Nếu dựa theo phạm vi của quan hệ tài chính có tài chính trong nước và tài chính quốc tế. Tuy nhiên, trong hai loại quan hệ tài chính trên thì tài chính quốc tế rộng hơn và phức tạp hơn rất nhiều so với tài chính trong nước, hơn nữa tài chính quốc tế lại có tầm quan trọng hơn, do vậy mục đích phân chia theo phạm vi chỉ là nhằm nghiên cứu tài chính quốc tế. Tài chính quốc tế bao gồm quan hệ tài chính giữa chủ thể của vùng, quốc gia này với chủ thể kinh tế của vùng, quốc gia khác. Tài chính quốc tế phụ thuộc vào một số nhân tố như tỷ giá hối đoái, sự khác biệt trong chính sách tài chính của hai quốc gia, tính ưu đãi trong liên minh kinh tế khu vực Tuy nhiên nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tài chính quốc tế là tỷ giá hối đoái, và kéo theo nó là vấn đề cán cân thanh toán quốc tế. Chính vì vậy chính sách tỷ giá của một quốc gia là vấn đề hết sức nhạy cảm, nó không chỉ ảnh hưởng tới tình hình kinh tế của một nước mà còn có thể là cả khu vực hoặc toàn cầu, đặc biệt là đối với những quốc gia có đồng tiền mạnh. Ví dụ như tình hình khủng hoảng tài chính, kéo theo là khủng hoảng chính trị ở Argentina cuối năm 2001 bắt nguồn từ việc Argentina đã áp dụng chính sách tỷ giá cố định 1 đồng peso ngang giá với 1 dollar Mỹ trong suốt một thời gian dài. 3.Dựa theo hình thức sở hữu Ngoài ra có thể phân loại tài chính theo hình thức sở hữu của hoạt động tài chính, có thể có tài chính công (thuộc khu vực Nhà nước) và tài chính tư (thuộc khu vực doanh nghiệp và tư nhân). Trong tài chính công có tài chính Nhà nước và tài chính doanh nghiệp Nhà nước, đây là hai khái niệm khác nhau bởi vì tài chính Nhà nước phản ánh các hoạt động thu- chi của Nhà nước, chủ yếu thông qua ngân sách Nhà nước thì tài chính doanh nghiệp Nhà nước lại phản ánh các hoạt động tài chính của doanh nghiệp Nhà nước. Ví dụ như tiền lãi của doanh nghiệp Nhà nước không được tính vào khoản thu cho ngân sách Nhà nước nhưng khoản cổ tức được chia trong doanh nghiệp mà Nhà nước có cổ phần lại là một khoản thu thuộc ngân sách Nhà nước. Hiện tại đối với Việt nam, khu vực tài chính công và tư đều đang lộ ra nhiều điểm bất cập trong quản lý và tổ chức hoạt động. Tuy nhiên theo tiêu chí phân loại này, tài chính công được tách ra và nghiên cứu riêng để có những điều chỉnh phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
- Chương II: Tiền tệ và lưu thông tiền tệ I. Tiền tệ 1.Khái niệm tiền tệ rước khi tiến hành nghiên cứu sâu về tiền tệ, đầu tiên cần phải nắm được khái niệm về tiền tệ, để thấy được cái gì có thể gọi được là tiền tệ, và đâu là tiêu chí để phân biệt các Tlo ại tiền tệ với nhau. a. Định nghĩa tiền tệ Có nhiều định nghĩa về tiền tệ khác nhau tùy theo quan điểm của mỗi người nghiên cứu, tuy nhiên dưới giác độ kinh tế học thì các nhà kinh tế thống nhất đưa ra định nghĩa về tiền tệ như sau: Tiền tệ là bất cứ vật gì được chấp nhận chung để đổi lấy hàng hoá, dịch vụ hoặc để thanh toán các khoản nợ Như vậy có thể thấy ngay, tiền tệ trong định nghĩa này không chỉ đơn thuần là những loại tiền tệ thường được nhắc tới trong đời sống xã hội, mà ở đây bất cứ vật gì cũng có thể sử dụng làm tiền tệ nếu như vật đó được chấp nhận một cách rộng rãi trong trao đổi hàng hoá dịch vụ và thanh toán các khoản nợ.2 b. Thuộc tính của tiền tệ Phụ thuộc vào nhu cầu trao đổi của con người: Nếu như con người không còn nhu cầu trao đổi thì tiền tệ cũng chẳng còn ý nghĩa, do đó có thể thấy rõ tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó có thời điểm sinh ra và cũng có thời điểm mất đi. Thuộc tính này cũng quyết định các chức năng của tiền tệ. Sức mạnh của tiền tệ được thể hiện qua sức mua của nó: Một đồng tiền được đánh giá là mạnh hay không phụ thuộc vào việc có sử dụng được nó để mua được nhiều thứ hay không, những thứ đó ở đây bao gồm hàng hóa, dịch vụ, và kể cả những đồng tiền khác. Người ta gọi sức mạnh đó của tiền là sức mua (purchasing parity). Việc đo lường sức mua của tiền tệ được dựa trên việc đánh giá khả năng mua được một giỏ những hàng hoá và dịch vụ đã được chọn trước. Sức mua của đồng tiền được chia thành sức mua đối nội và sức mua đối ngoại, trong đó sức mua đối ngoại thể hiện khả năng sử dụng tiền để mua một hàng hóa của quốc gia khác. Điều này cũng có nghĩa sức mua đối ngoại bao hàm cả sức mua đối nội và tương quan so sánh giữa sức mua đối nội của hai đồng tiền (tỷ giá hối đoái). Vì vậy sức mua đối ngoại có tính phức tạp cao hơn so với sức mua đối nội. 2.Chức năng tiền tệ Khi nói đến chức năng của tiền tệ cũng có nghĩa là đề cập đến những yếu tố xuất phát từ bản chất của tiền tệ và tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người. a. Phương tiện trao đổi3 Xuất phát từ thuộc tính của tiền tệ, có thể thấy ngay tiền tệ ra đời từ nhu cầu trao đổi hàng hoá của con người nên hiển nhiên đây là chức năng xuất hiện sớm nhất của tiền tệ. Tiền tệ được sử dụng như là trung gian làm cho việc mua bán trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn. Theo công 2 Việc được coi là chấp nhận chung cũng có nghĩa là được chấp nhận chung ở một phạm vi nhất định nào đó, có thể là vùng, quốc gia và thậm chi là quốc tế. 3 Còn gọi là chức năng phương tiện lưu thông
- Introductory Finance thức trao đổi hàng hoá H-T-H’ của Marx, tiền tệ (T) chỉ xuất hiện như một đối tượng trung gian nhằm chuyển hoá H thành H’. Do đó trong nhiều trường hợp người ta không cần tới giá trị thực tế của tiền mà chỉ cần tồn tại dưới dạng dấu hiệu giá trị là đủ. b. Thước đo giá trị Đồng thời với việc thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, thì với tư cách là vật ngang giá được thừa nhận chung, tiền tệ còn thực hiện thêm chức năng thước đo giá trị, khi một hàng hoá được biểu hiện dưới dạng giá trị có nghĩa là giá trị của nó đã được quy đổi ra tiền. Với việc quy đổi ra tiền, giá trị của một hàng hoá sẽ dễ dàng được tính toán và so sánh với giá trị của các hàng hoá khác. Khi người ta sử dụng tiền để đo lường giá trị hàng hoá thì lúc này xuất hiện thuật ngữ giá cả hàng hoá. c. Phương tiện cất trữ Nói chung, hai chức năng nhắc tới ở trên là những chức năng ra đời đầu tiên của xã hội và cùng tồn tại song song với nhau, tuy nhiên trong quá trình phát triển thì tiền tệ lại hình thành nên những chức năng khác, một trong đó là chức năng phương tiện cất trữ. Khi nào tiền tệ không tham gia vào lưu thông nhưng nó vẫn còn được xã hội thừa nhận thì tiền tệ vẫn có thể thực hiện được chức năng cất trữ. d. Phương tiện thanh toán Khi nhu cầu xã hội phát triển lên một mức cao, tiền tệ xuất hiện với tư cách là một công cụ giúp trả nợ trong mua bán chịu. Thay vì sử dụng tiền như một dấu hiệu trung gian trong quá trình trao đổi H-T-H, lúc này người ta sử dụng tiền tệ với tư cách là một hàng hoá đặc biệt, được trao đổi trực tiếp để lấy hàng hoá khác. 3.Lịch sử phát triển của tiền tệ a. Sự ra đời của tiền tệ Sự ra đời của tiền tệ là kết quả tất yếu của một quá trình lịch sử xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hóa của các cá nhân trong xã hội. Để có được hình thái tiền tệ cần tới một quá trình lâu dài của các hình thái trao đổi trong xã hội. 9 Hình thái trao đổi giản đơn4: Trong hình thái trao đổi này người ta sử dụng trực tiếp một hàng hóa này để đo lường giá trị một hàng hóa khác. 9 Hình thái trao đổi mở rộng5 qua một hàng hóa làm vật môi giới trung gian: Để có thể thuận tiện hơn trong việc trao đổi hàng hóa, một hàng hóa được sử dụng như vật ngang giá chung để có thể làm cơ sở trao đổi các hàng hóa khác. 9 Hình thái tiền tệ: Tới khi vật ngang giá chung được chấp nhận ở một phạm vi rộng, lúc này vật ngang giá chung đó trở thành tiền tệ. b. Quá trình phát triển của tiền tệ Quá trình phát triển của tiền tệ trải qua nhiều hình thái khác nhau, tuy nhiên có thể tổng kết lại những hình thái tiền tệ chủ yếu bao gồm: 9 Tiền tệ hàng hoá6 (commodity money): Tiền cũng đồng thời là một loại hàng hoá. Điều này cũng có nghĩa là hàng hoá nào được chấp nhận rộng rãi để trở thành vật ngang giá chung sẽ được coi là tiền. Nhưng như thế cũng có nghĩa là bất cứ thứ gì cũng có thể coi được là tiền, hoá tệ có thể là vật phi kim như xương động vật, vỏ sò, thuốc lá nhưng hoá tệ phổ biến nhất là những kim loại quý, đặc biệt là vàng. 4 Hay hình thái ngẫu nhiên 5 Hay hình thái đầy đủ 6 Còn gọi là hoá tệ
- Monetary Study Lý do để vàng được chấp nhận rộng rãi trở thành tiền tệ là nó 9 Dễ chia nhỏ 9 Không bị tác động bởi sự thay đổi năng suất lao động xã hội 9 Có độ bền vật lý tốt và dễ nhận biết Tuy nhiên đối với hoá tệ có một điểm cần lưu ý, đó là hoá tệ vẫn có thể thực hiện được vai trò là một hàng hoá nên nó cũng phải sản xuất ra mới có được. Khi nhu cầu đối với hoá tệ quá lớn thì lượng tiền sản xuất ra sẽ không đủ đáp ứng nhu cầu xã hội, làm hạn chế quy mô của lưu thông. Vì vậy cần phải có một loại tiền mới đáp ứng được đòi hỏi của một nền kinh tế phát triển cao hơn. 9 Trước khi tiền tệ phát triển thêm một mức để được toàn bộ xã hội chấp nhận thành tiền giấy, nó còn phải trải qua một giai đoạn trung gian là tiền tượng trưng (token money). Ý nghĩa của sự tượng trưng ở đây là bản thân những loại tiền này có không đủ hoặc không có lượng giá trị mà nó đại biểu. Ví dụ như tiền đúc bằng bạc pha đồng của đế chế Roma chẳng hạn. Trong nhóm tiền tượng trưng này có hai đại biểu chính là tiền kim loại và sau đó mới là tiền giấy. ¾ Tiền kim loại: Mặc dù cũng sử dụng kim loại như vàng và bạc để đúc tiền, tuy nhiên lúc này giá trị của đồng tiền đúc không bằng 100% giá trị mà nó đại biểu. Với sự ra đời của tiền kim loại, con người bắt đầu biết đến cách sử dụng dấu hiệu của giá trị để đại biểu cho giá trị, tạo tiền đề cho sự ra đời của tiền giấy. ¾ Tiền giấy: Lúc này tiền giấy gần như không còn có giá trị nữa, nó chỉ còn đóng vai trò là một vật biểu hiện giá trị mà thôi. Nếu xét giá trị của một vật là lao động kết tinh trong việc tạo ra vật đó thì giá trị của đồng tiền giấy là quá nhỏ bé so với lượng giá trị mà nó đại biểu, do đó có thể coi tiền giấy hoàn toàn không có giá trị thực tế nữa. Thế nhưng tiền giấy được toàn bộ xã hội chấp nhận như là một đại biểu cho giá trị nên việc sở hữu tiền giấy cũng có nghĩa là đang sở hữu một lượng giá trị mà nó đại biểu. Có hai loại tiền giấy đặc trưng là tiền ngân hàng và tiền pháp định ¾ Tiền ngân hàng (bank note): Có thể đổi ra vàng, do các ngân hàng phát hành và được sử dụng một cách tự nguyện ¾ Tiền pháp định (fiat money): Không thể đổi ra vàng, do Nhà nước ấn hành và có tính chất bắt buộc lưu hành. 9 Tiền tín dụng: Không giống như tiền ngân hàng, tiền tín dụng không tồn tại trên thực tế mà chỉ tồn tại trên các tài khoản ngân hàng khi người dân đem tiền giấy gửi tại ngân hàng mà thôi. Tuy nhiên, tiền tín dụng vẫn được coi như là tiền đang thực sự hiện hữu và người sở hữu tiền tín dụng có quyền dùng nó như tiền giấy bất cứ khi nào mình muốn. Để có thể sử dụng loại tiền này có thể có hai cách, hoặc rút tiền giấy ra để dùng như bình thường hoặc dùng một công cụ đặc biệt do ngân hàng phát hành thay cho tiền giấy, công cụ đó là giấy chứng nhận nợ của ngân hàng đối với người gửi tiền. Đại biểu đặc trưng của nhóm công cụ này là séc. 9 Tiền điện tử: Tiền điện tử là dạng phát triển cao nhất của tiền tệ cho tới lúc này, thay vì việc phải mang theo trong người một cọc tiền hay một tập séc, lúc này người ta chỉ việc gửi tiền tại ngân hàng, khi đó lượng tiền trong tài khoản ngân hàng của người này sẽ được số hoá và trở thành tiền điện tử, tiền điện tử này hoàn toàn có thể sử dụng vào
- Introductory Finance các giao dịch như bình thường nếu cơ sở hạ tầng hỗ trợ được giao dịch sử dụng loại tiền này. II.Các chế độ tiền tệ Bên cạnh tiền tệ là vấn đề chủ yếu của chương, trong chương này cũng có một số vấn đề khác có liên quan đến tiền tệ đáng lưu tâm, lần lượt trong từng mục các vấn đề đó sẽ được đề cập, đầu tiên là các chế độ tiền tệ đã từng tồn tại trong lịch sử. Trước khi đi vào nghiên cứu các chế độ tiền tệ cần phải hiểu bản vị (Standard) là gì. Bản vị được hiểu là tiêu chuẩn để một quốc gia xây dựng chế độ tiền tệ 1.Chế độ hai bản vị (Bimetallic Standard) Chế độ hai bản vị là chế độ tiền tệ đầu tiên được thừa nhận chính thức trong lịch sử loài người. Nó bắt đầu hình thành vào đầu thế kỷ 18. Nguyên nhân hình thành chế độ hai bản vị là sự gia tăng của sản xuất xã hội làm cho khối lượng trao đổi ngày càng lớn, dẫn đến việc đồng tiền bạc được sử dụng trước đó trở nên không còn phù hợp nữa. Lúc này người ta bắt đầu sử dụng thêm vàng như là kim loại thứ hai để đúc tiền tệ. Vì vậy bạc và vàng đồng thời được coi là bản vị. Cả vàng và bạc đều được tự do đúc thành tiền và cùng có giá trị trong thanh toán và trao đổi. Trong chế độ hai bản vị này có hai cách quy đổi giữa giá trị đồng tiền vàng và giá trị đồng tiền bạc nên cũng có hai loại chế độ hai bản vị: a. Chế độ bản vị song song Trong chế độ bản vị song song, giá trị của đồng tiền bạc và giá trị của đồng tiền vàng được so sánh với nhau trên cơ sở so sánh thực tế giá trị của kim loại bạc và kim loại vàng vào cùng thời điểm. Như vậy có nghĩa là tỷ lệ giá trị mà đồng tiền bạc đại diện và giá trị mà đồng tiền vàng đại diện sẽ biến thiên cùng với sự thay đổi tương quan giá trị giữa kim loại vàng và kim loại bạc. Nhược điểm của chế độ này cũng bắt nguồn từ chính sự thay đổi tương quan liên tục này. Người nắm giữ tiền sẽ không thể quyết định được việc nắm giữ tiền nào là có lợi cho mình, do đó thường có tâm lý lựa chọn một loại tiền được sử dụng phổ biến hơn. b. Chế độ bản vị kép Khác với chế độ bản vị song song, chế độ bản vị kép lại quy định một tỷ lệ cố định giữa giá trị của đồng tiền vàng và đồng tiền bạc, không phụ thuộc vào giá trị thực tế của hai kim loại này. Điều này có nghĩa rằng nếu như một đồng Guinea được quy định bằng 10 đồng Shilling thì dù cho tỷ lệ giữa kim loại bạc và vàng có thay đổi thế nào đi chăng nữa thì tỷ lệ 1/10 này cũng không thay đổi. Mặc dù khắc phục được nhược điểm của chế độ bản vị song song nhưng chế độ này lại làm nảy sinh một vấn đề mới, đó là sự tương quan thực sự giữa hai đồng tiền. Nếu như tỷ lệ 1/10 được duy trì trên danh nghĩa và tỷ lệ thực sự chỉ là 1/8 (Nghĩa là lúc này giá trị của vàng để đúc một đồng vàng chỉ đổi được 8 đồng bạc) thì bạc sẽ trở nên bị kém đi về mặt giá trị tiền tệ, trong lúc đó giá trị nội tại của bạc vẫn giữ nguyên, vì vậy người dân sẽ rút bạc trong lưu thông để nấu chảy thành kim loại bạc có giá hơn. Người ta gọi đây là hiện tượng loại bỏ tiền tốt ra khỏi lưu thông. 2.Chế độ bản vị vàng (Gold Standard) Cho tới đầu thế kỷ 197, khi sản lượng vàng khai thác đủ lớn để phục vụ cho nhu cầu của xã hội, chế độ hai bản vị thực sự chấm dứt và thay vào đó là chế độ bản vị đơn nhất, gọi là chế độ bản vị vàng. Đồng tiền bằng bạc không còn được đưa vào lưu hành, nhờ đó chấm dứt được những vướng mắc của chế độ hai bản vị. Theo như chế độ bản vị vàng, kim loại vàng 7 Thời gian từ 1880-1914
- Monetary Study là kim loại duy nhất được sử dụng để đúc tiền. Chế độ này có sự phát triển theo ba giai đoạn khác nhau. a. Chế độ bản vị tiền vàng Đây là chế độ tiền tệ thông thoáng và ổn định nhất trong lịch sử, vì theo như quy định của chế độ này vàng được tự do đúc thành tiền, các loại tiền phụ, tiền ngân hàng cũng như tiền tín dụng được tự do đổi thành vàng nếu muốn, và bên cạnh đó pháp luật cũng cho phép tự do xuất nhập khẩu vàng. Theo như cách quy định này, vàng luôn được phản ánh trung thực giá trị của mình, do đó sẽ khó có khả năng xảy ra hiện tượng lạm phát. Tuy nhiên, nhược điểm của chế độ tiền tệ này là đồng tiền vàng vẫn là hàng hoá, do đó nó không thể sản xuất đủ nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Thêm vào đó giá trị thực sự của đồng tiền trong lưu thông càng ngày càng kém đi so với lượng giá trị mà nó đại biểu vì nhiều nguyên nhân. b. Chế độ bản vị vàng thỏi Người ta gọi là chế độ bản vị vàng thỏi vì vàng không còn tồn tại dưới dạng tiền nữa mà được đúc thành thỏi. Trong chế độ bản vị vàng thỏi, vàng không còn được tự do đúc thành tiền để đưa vào lưu thông nữa, lúc này tiền trong lưu thông phải được quy định chặt chẽ về hàm lượng vàng. Bên cạnh đó, các loại tiền ngân hàng không được đổi ra vàng một cách tự do mà phải đạt một tiêu chuẩn nhất định do Nhà nước đề ra thì mới có thể đổi ra vàng. Hoạt động xuất nhập khẩu vàng cũng bị kiểm soát chặt chẽ và cũng có lúc bị cấm. c. Chế độ bản vị hối đoái vàng Chế độ bản vị hối đoái vàng cùng được áp dụng trong một quãng thời gian tương tự như chế độ bản vị vàng thỏi. Cũng có những quy định tương tự như chế độ bản vị vàng thỏi, nhưng khác đi một chút là các loại tiền ngân hàng trong chế độ này sẽ không được chuyển ra vàng mà chuyển ra ngoại tệ của nước thực hiện chế độ bản vị vàng thỏi. Việc chuyển đổi này cũng không được thực hiện tự do mà phải thực hiện với một số lượng đủ lớn. 3.Chế độ lưu thông tiền giấy Trong chế độ này, tiền giấy thay thế cho vàng thực hiện chức năng của tiền tệ, nhưng như đã phân tích, tiền giấy gần như không có giá trị mà nó chỉ là loại tiền mang dấu hiệu giá trị mà thôi. Sở dĩ tiền giấy được thừa nhận chung là do nó được Nhà nước công nhận, bảo đảm và bắt buộc mọi người phải tuân thủ. Một lý do khác không kém phần quan trọng, đó là lòng tin của người dân đối với đồng tiền giấy. Một khi lòng tin này mất đi thì người dân sẽ lựa chọn không nắm giữ đồng tiền giấy nữa và thay vào đó nắm giữ vàng hoặc những vật dụng có giá khác. III.Cung cầu tiền tệ Sự ra đời của tiền giấy, kèm theo đặc trưng của nó chỉ là đại biểu cho giá trị, đã dẫn đến một sự thay đổi lớn trong lưu thông hàng hoá và trao đổi. Trong thời kỳ vàng còn được coi là tiền tệ thì bản thân vàng đã có thể tự điều chỉnh các mối quan hệ cung cầu trong xã hội, làm cho lượng tiền trong lưu thông luôn giữ được tính ổn định, từ đó dẫn đến việc luôn có được một lưọng tiền hợp lý trong lưu thông thì với tiền giấy vấn đề lại khác. Tiền giấy, xét trên một khía cạnh, chỉ là đại biểu của tiền vàng mà thôi. Nhưng tiền giấy lại không đổi được ra vàng nên bản thân tiền giấy không thể điều hoà được trong lưu thông. Nếu như lượng tiền giấy tung vào lưu thông quá cao sẽ dẫn đến lạm phát và ngược lại. Vì vậy việc nghiên cứu các quy luật cung và cầu tiền tệ chính là nhằm để có được một lượng tiền giấy trong lưu thông tối ưu. Tuy nhiên trước khi đi vào nghiên cứu cung và cầu tiền tệ, cần phải nắm được khái niệm về khối tiền tệ.
- Introductory Finance 1.Khối tiền tệ Trong lưu thông tiền tệ, người ta đã hình thành nên những phép đo khối lượng tiền tệ trong lưu thông khác nhau tuỳ thuộc vào tính lỏng của tiền tệ, với những khối tiền tệ khác nhau thì tính lỏng chung trong khối cũng khác nhau. Cho đến nay có những khối tiền sau: M0: ¾ Bao gồm tổng lượng tiền mặt có trong lưu thông M1: ¾ M0 ¾ Tiền gửi không kỳ hạn có thể phát séc M2: ¾ M1 ¾ Tiền gửi tiết kiệm không thể phát séc ¾ Tiền gửi có kỳ hạn M3: ¾ M2 ¾ Tiền gửi ở các định chế tài chính ngoài ngân hàng L: ¾ M3 ¾ Tín phiếu kho bạc ¾ Trái phiếu kho bạc ¾ Chấp phiếu ngân hàng ¾ Thương phiếu 2.Cung tiền và cầu tiền Có thể hình dung về cung và cầu tiền tệ như sau: 9 Mức cung tiền là mức tiền được cung ứng cho nền kinh tế 9 Mức cầu tiền là số lượng tiền mà các cá nhân muốn nắm giữ a. Cung tiền Nhìn chung, hiện nay trong xã hội có hai nguồn chính để phát hành tiền ra thị trường, đó là NHTW và NHTM, trong đó NHTW phát hành tiền pháp định còn NHTM phát hành tiền tín dụng. Vì vậy đầu tiên có thể nhận định về mức cung của hai loại tiền này và các nhân tố ảnh hưởng như sau 9 Tiền giấy: Đây là tiền pháp định do NHTW phát hành, còn được gọi là cơ số tiền (MB)8. Lượng tiền giấy trong lưu thông tồn tại dưới hai dạng, dạng thứ nhất được nắm giữ bởi các chủ thể kinh tế, và được ký hiệu là C.9 Dạng thứ hai tồn tại trong các ngân hàng dưới dạng dự trữ, ký hiệu là R.10 Như vậy MB=C+R 9 Tiền tín dụng 8 MB= Monetary Base, còn gọi là lượng tiền cơ sở 9 Viết tắt của Cash (Tiền mặt) 10 Viết tắt của Reserve (Dự trữ)
- Monetary Study Bên cạnh tiền pháp định do NHTW phát hành, còn có loại tiền tín dụng do các NHTM phát hành, lượng tiền này dựa trên cơ sở số tiền dự trữ R mà các NHTM nắm giữ, được ký hiệu là D.11 Trên cơ sở của những phân tích trên, cộng với nhận xét lượng tiền dự trữ R không được đưa vào lưu thông (nếu đưa vào lưu thông thì sẽ không còn là dự trữ nữa), chúng ta sẽ có được công thức tính tổng lượng cung tiền MS.12 MS=C+D Trên thực tế, với việc sử dụng tiền tín dụng của các NHTM, lượng tiền cung ứng ra lưu thông đã lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở, để so sánh sự gia tăng của lượng cung tiền với cơ số tiền người ta sử dụng đại lượng số nhân tiền tệ m 13 m=MS/MB Từ công thức này có thể thấy MS = MB x m, hay nói cách khác, lượng cung tiền phụ thuộc vào lượng tiền cơ sở và số nhân tiền tệ. Thay MS = C + D14 và MB = R + C có m = (1 + C/D)/(R/D +C/D) C/D được gọi là c15 : Tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi tiết kiệm R/D được gọi là r16 : Tỷ lệ dự trữ của ngân hàng thương mại Khi đó sẽ có công thức tính m: m = (1 + c) / (r + c) Từ đây cũng có thể rút ra kết luận rằng số nhân tiền phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ của các ngân hàng thương mại và tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi tiết kiệm. b. Cầu tiền Tuy nhiên vấn đề cần nghiên cứu trong mục này là lượng tiền trong lưu thông như thế nào là vừa đủ. Câu hỏi đặt ra là mối tương quan giữa cung tiền và cầu tiền như thế nào sẽ làm cho nhu cầu đối với tiền tệ trở nên cân bằng. Để trả lời câu hỏi này đã có rất nhiều nhà kinh tế học xây dựng những học thuyết tiền tệ khác nhau, dưới đây là một số quan điểm tiêu biểu. Tuy nhiên tất cả các học thuyết này đều có một điểm chung, đó là dựa trên phương trình tương quan giữa tổng giá cả sản phẩm xã hội và lượng tiền trong lưu thông. Phương trình này có dạng chung như sau: M.V=P.Q17 Trong công thức này: +M: Lượng tiền trong lưu thông, hay nói cách khác là lượng cung tiền. +V: Số lần quay vòng của tiền tệ trong đơn vị thời gian +P: Giá cả sản phẩm xã hội +Q: Lượng sản phẩm xã hội 9 Quan điểm của K. Marx18 11 Viết tắt của Deposit (tiền gửi tiết kiệm) 12MS= Money Supply 13 m= money multiplier 14 Giả sử phép đo cung tiền là phép đo M1, gồm có tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn 15 c = Currency Ratio 16 r = Reserve Ratio 17 Đại lượng Q còn có thể được ký hiệu là Y- Yield
- Introductory Finance Theo quan điểm của Marx thì tổng số tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông chia cho tốc độ luân chuyển của tiền tệ. Công thức ban đầu của Marx đơn giản chỉ là: P.Q M= V Theo lý luận của Marx, M được xây dựng theo công thức này chính là khối lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông, vì thế nên nếu như lượng cung tiền trong xã hội đạt bằng M thì sẽ làm cho thị trường ổn định. Còn nếu như lượng tiền thực tế trong lưu thông lớn hơn M sẽ dẫn tới lạm phát vì cung tiền đã vượt cầu tiền. Còn ngược lại thì sẽ có thể dẫn đến thiểu phát (giảm phát). Như vậy Marx là người đã đặt nền móng cho những lý luận về tiền tệ, những học thuyết được đề cập tiếp theo đây đã đi sâu hơn vào các biến số trong công thức trên để xác định khối lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông. 9 Quan điểm của I. Fisher19 Quan điểm của Fisher được thể hiện trong học thuyết số lượng tiền tệ20 của ông. Cũng dựa trên phương trình M.V=P.Q, Fisher đã đặt ra giả thiết đối với đại lượng V (số vòng quay của tiền tệ) trong ngắn hạn. Theo ông, trong ngắn hạn V là một đại lượng bất biến vì tốc độ quay vòng tiền phụ thuộc vào thói quen thanh toán, mà thói quen này rất khó thay đổi. Fisher đặt 1/V=k21, từ đó dẫn đến công thức Md= k.P.Q Với k không đổi nên lúc này Md (số lượng tiền do các chủ thể nắm giữ- cầu tiền tệ) hoàn toàn phụ thuộc vào P.Q, với P.Q là tổng chi tiêu của xã hội (cũng có thể hình dung như tổng thu nhập). Do đó, Fisher kết luận là cầu tiền là một hàm số thuần tuý của thu nhập. Đồng thời lúc đó, với việc cho rằng các chủ thể kinh tế giữ tiền chỉ nhằm mục đích giao dịch nên ông đưa ra thêm một kết luận khác là lãi suất hoàn toàn không có tác động gì tới cầu tiền. 9 Quan điểm của trường phái Cambridge Cũng dựa trên phương trình tương tự như của Fisher, nhưng các nhà kinh tế học theo trường phái Cambridge lại xuất phát từ động cơ nắm giữ tiền của các cá nhân để nghiên cúu, theo đó các cá nhân có thể nắm giữ tiền xuất phát từ động cơ giao dịch (giống như Fisher), nhưng bên cạnh đó họ cũng có thể giữ tiền vì mục đích cất trữ của cải. Các nhà kinh tế học theo trường phái Cambridge cũng không loại bỏ yếu tố lãi suất khi tính toán M. Tuy nhiên, họ cũng xây dựng công thức giống như của Fisher, với k là một hằng số không đổi, cũng có nghĩa là cầu tiền vẫn là một hàm số phụ thuộc vào thu nhập danh nghĩa. Và mặc dù không gạt bỏ lãi suất nhưng trong công thức của họ lãi suất không được đề cập tới. Trên thực tế, bằng những khảo sát người ta đã phát hiện ra rằng, trái ngược với những gì hai học thuyết trên giả định, V không hề bất biến. Do đó, những lý thuyết này không thể giải quyết được vấn đề cầu tiền vì đã không có sự hiện diện yếu tố biến động của V. 9 Quan điểm của J.M. Keynes22 18 Karl Marx, 1818-1883, nhà kinh tế chính trị học Đức 19 Irving Fisher, 1887-1947, nhà kinh tế học Mỹ 20 Quantity theory of Money 21 k được gọi là hệ số ưa thích tiền 22 John Maynard Keynes, 1883-1946, nhà kinh tế học Anh
- Monetary Study Vốn là một nhà kinh tế theo trường phái cổ điển Cambridge, Keynes cũng có cách tiếp cận vấn đề tương đối giống so với những gì trường phái này theo đuổi, đó là bắt đầu từ việc nghiên cứu nhu cầu của các cá nhân trong việc nắm giữ tiền. Tuy nhiên, ở Keynes đã có những thay đổi phản ánh được sự hiện diện của những yếu tố khác bên cạnh thu nhập. Quan điểm của ông được thể hiện trong lý thuyết ưa thích tiền mặt23, trong đó đề cập tới ba động cơ chính để con người nắm giữ tiền 9 Động cơ giao dịch: Tiền được sử dụng cho các giao dịch hàng ngày 9 Động cơ dự phòng: Tiền được cất trữ để dự phòng cho các sự kiện bất ngờ 9 Động cơ đầu cơ: Tiền được sử dụng cho mục đích mang tính đầu cơ Ở động cơ giao dịch và động cơ dự phòng, theo phân tích của Keynes thì cầu tiền vẫn tỷ lệ với thu nhập, như vậy chưa có sự thay đổi nào so với trường phái Cambridge, sự tiến bộ của Keynes chỉ thể hiện ở động cơ thứ ba, đó là động cơ đầu cơ. Trong động cơ này, con người nắm giữ tiền trên cơ sở so sánh với việc nắm giữ những tài sản tài chính có tính sinh lợi khác24. Nếu như việc nắm giữ tiền có lợi hơn so với việc nắm giữ trái phiếu thì các cá nhân sẽ giữ tiền, điển hình của trường hợp này là lãi suất giảm xuống. Như vậy theo Keynes cầu tiền tệ cho nhu cầu đầu cơ có liên hệ âm với lãi suất. Do đó, ông xây dựng một công thức tính cầu tiền tệ như sau: Md = f(i,Q).P Với i là lãi suất Tuy nhiên, điểm cần lưu ý trong công thức này là M liên hệ nghịch với i và liên hệ thuận với Q, vì vậy có thể biểu diễn dưới dạng sau. M d = f( i,Q) P - + Dấu trừ thể hiện mối liên hệ nghịch còn dấu cộng thể hiện mối liên hệ thuận. Trong điều kiện cân bằng Md bằng M, vì vậy chúng ta có công thức xác định V như sau: QQ VV == f(f(ii,,QQ)) - - ++ 9 Quan điểm thời kỳ hậu Keynes và học thuyết tiền tệ hiện đại của M. Friedman Sau thời kỳ của Keynes, đã có nhiều nhà kinh tế học tiếp tục phát triển học thuyết của ông như James Tobin, William Baumol. Đặc biệt nhà kinh tế học người mỹ M. Friedman đã cho ra đời học thuyết tiền tệ hiện đại nổi tiếng với quan điểm cho rằng cầu tiền tệ cũng là một loại cầu đối với tài sản, vì vậy nó cũng sẽ chịu bất kỳ tác động nào mà cầu đối với các loại tài sản khác gặp phải. IV.Lạm phát Trong những mục trước của chương khái niệm lạm phát đã được nhắc tới nhiều lần, tuy nhiên để nghiên cứu tiền tệ thì cần phải có cái nhìn cụ thể hơn về khái niệm này. 23 Liquidity Preference Theory 24 Trong học thuyết của Keynes là trái phiếu
- Introductory Finance 1.Khái niệm lạm phát Trước thời kỳ tiền tượng trưng ra đời, với sự tồn tại của tiền hàng hoá, bản thân đồng tiền cũng đã có giá trị nội tại của nó nên quan hệ cung cầu tiền tệ có thể tự cân bằng. Nhưng kể từ khi tiền tượng trưng, đặc biệt là tiền giấy ra đời thì số lượng giá trị mà đồng tiền đại biểu không tương xứng với giá trị nội tại của bản thân đồng tiền. Lúc này người ta chỉ quan tâm đến giá trị danh nghĩa của đồng tiền mà thôi25. Do đó bắt đầu dẫn đến hiện tượng số lượng tiền tệ trong lưu thông không tương xứng với nhu cầu thực tế, và thông thường hiện tượng xảy ra là lượng tiền trong lưu thông lớn hơn so với nhu cầu. Khi lượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu thực tế thì sức mua thực tế của đồng tiền thấp hơn so với số lượng giá trị mà nó đại biểu. Đó là nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Có thể có định nghĩa về lạm phát như sau: Lạm phát là sự mất giá tương đối lâu dài và liên tục của tiền giấy so với hàng hóa, ngoại tệ và vàng. Như vậy, để được coi là lạm phát thì sự mất giá phải kéo dài và có tính liên tục chứ không chỉ là trong một thời gian ngắn hoặc có tính ngắt quãng. Cũng cần lưu ý rằng trong giai đoạn đầu, tiền giấy chỉ mất giá so với hàng hoá, nhưng khi lạm phát tăng mạnh, lúc này do nhu cầu chuyển sang sử dụng các đồng tiền thay thế tiền giấy nên lạm phát mất giá cả so với vàng và ngoại tệ. 2.Đo lường lạm phát a. Tính toán lạm phát Để đo lường lạm phát, trước tiên cần phải có khái niệm về các chỉ số giá cả làm cơ sở tính toán mức độ lạm phát: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)26: Được xây dựng dựa trên một “giỏ hàng”, bao gồm một số loại hàng tiêu dùng tiêu biểu và giá cả của những loại hàng này, trong khi tính toán CPI thì mức độ quan trọng của hàng hoá cũng được tính tới. n I P = ∑ i pj × d j j=1 Trong đó Ip: Chỉ số giá tiêu dùng ipj : Chỉ số giá cả của nhóm hàng hóa (dịch vụ) thứ j 27 dj: Tỷ trọng mức tiêu dùng của nhóm thứ j Dựa vào chỉ số CPI chúng ta có công thức tính toán lạm phát như sau: ⎛ I ⎞ ⎜ P ⎟ G P = ⎜ − 1⎟ × 100% ⎝ I P −1 ⎠ Trong đó GP là tỷ lệ lạm phát IP là chỉ số giá cả hiện tại IP-1 là chỉ số giá cả một năm trước b. Các loại lạm phát: 25 Giá trị danh nghĩa của đồng tiền là số lượng giá trị mà nó đại biểu được thể hiện trên bề mặt đồng tiền. 26 Consumer Price Index 27 Σdj = 1
- Monetary Study Có ba mức độ lạm phát được nhắc tới nhiều: 9 Lạm phát thông thường (Normal inflation): tốc độ lạm phát khoảng 10% 9 Lạm phát phi mã (High inflation): tốc độ lạm phát được đo lường bằng 2,3 con số 9 Siêu lạm phát (Hyper Inflation): tốc độ lạm phát lớn hơn 3 con số Trong trường hợp lạm phát thông thường thì lạm phát không gây ra hậu quả lớn, thậm chí trong nhiều trường hợp lạm phát thông thường còn có tác dụng kích thích sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên nếu đã xảy ra lạm phát phi mã hay siêu lạm phát thì hậu quả mà chúng mang lại cho nền kinh tế là không thể lường hết được. Tuy nhiên người ta cũng có một cách khác nữa để phân loại lạm phát, đó là lạm phát có thể lường trước được và lạm phát không thể lường trước được. Nếu lạm phát là lường trước được, tức là nó diễn ra ổn định theo quy luật, và thông thường là với một tỷ lệ thấp, thì các tác động đến nền kinh tế là không lớn vì xã hội đã tính đến khoản lạm phát này khi lập các kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh Bên cạnh đó là loại lạm phát không lường trước được, những lạm phát này xảy ra đột ngột và không được báo trước cho nên các thành phần kinh tế trong xã hội không có những dự báo và phải ứng phó một cách đột ngột. Những lạm phát kiểu này thường nguy hiểm và dễ bị đẩy lên thành lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát, gây ra những hậu quả rất xấu cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội. 3.Nguyên nhân của lạm phát Trong mục này, những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát sẽ được đề cập tới, từ đó có thể giúp tìm hiểu thấu đáo hơn về bản chất cũng như cách ngăn ngừa lạm phát và những ảnh hưởng tiêu cực của nó tới đời sống kinh tế xã hội. a. Sự mất cân đối nghiêm trọng giữa quan hệ cung cầu28 Nguyên nhân đầu tiên có thể dẫn tới lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa quan hệ cung và cầu trên thị trường, đó có thể là sự mất cân đối cung cầu thể hiện trên những lĩnh vực sau: 9 Sự mất cân đối cung cầu trong ngân sách Nhà nước: Như trong chương ngân sách Nhà nước đã đề cập, ngân sách Nhà nước được xây dựng dựa trên cơ sở thu (cung) và chi (cầu). Nếu như xảy ra bội chi ngân sách Nhà nước (tức là cầu vượt quá cung), Nhà nước sẽ phải tìm biện pháp khắc phục, và một trong số những biện pháp khắc phục là phát hành thêm tiền để bù đắp lượng thiếu hụt, đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng cầu tiền tăng lêm làm xảy ra lạm phát. Tuy nhiên, cũng như những phân tích trong chương ngân sách Nhà nước đã chỉ ra, Nhà nước chỉ sử dụng biện pháp này trong trường hợp gặp phải những vấn đề nghiêm trọng, còn thông thường biện pháp được sử dụng để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước sẽ là vay nợ. 9 Sự mất cân đối cung cầu trong tiêu dùng của xã hội: Đây là nguyên nhân thường xuyên và chủ yếu dẫn đến lạm phát, do nhu cầu tiêu dùng của xã hội vượt quá khả năng cung ứng, cũng có thể do khả năng cung ứng gặp phải vấn đề nên bị suy giảm không đáp ứng được nhu cầu. Khi cầu vượt cung thì tất yếu dẫn đến sự gia tăng về giá cả, từ đó dẫn đến lạm phát. 9 Sự mất cân đối cung cầu trong kinh tế đối ngoại: Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của hoạt động kinh tế đối ngoại, cộng với việc tăng cường thu hút các nguồn lực tài chính vào trong nước, nền kinh tế trong nước sẽ tăng trưởng về nhu cầu, tuy 28 Còn gọi là lạm phát do cầu kéo- demand-pull inflation
- Introductory Finance nhiên nếu như lượng cung không tăng kịp tốc độ để đáp ứng sự gia tăng nhu cầu thì tất yếu sẽ dẫn đến việc giá cả leo thang, từ đó tạo ra lạm phát. Như vậy, tựu trung lại, nhóm nguyên nhân dẫn đến lạm phát này đều do hiện tượng cầu vượt quá cung gây ra, vì vậy xuất hiện thuật ngữ lạm phát do cầu kéo. b. Sự gia tăng chi phí sản xuất trong nền kinh tế phát triển theo chiều hướng thị trường29 Bên cạnh lạm phát xuất phát từ việc cầu vượt quá cung, người ta còn thấy phổ biến loại lạm phát xuất phát từ nguyên nhân gia tăng chi phí sản xuất với mức độ vượt quá mức gia tăng của năng suất lao động, những yếu tố đó có thể là: Tiền lương Lợi nhuận ròng Giá nội địa của hàng nhập khẩu Tăng thuế hoặc các nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước c. Sự khủng hoảng cơ cấu kinh tế xã hội Ở những nước đang có sự thay đổi về cơ cấu xã hội, thông thường tỷ trọng vốn dành cho hàng hoá dịch vụ tiêu dùng sẽ kém hơn so với tỷ trọng vốn dành cho phát triển cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng. Điều đó có thể làm dẫn đến sự thiếu thốn tạm thời hàng tiêu dùng, nhưng sự thiếu thốn này lại tác động vào tâm lý người tiêu dùng, dẫn đến việc giá cả tăng lên, từ đó làm nảy sinh nguy cơ lạm phát 4.Các ảnh hưởng của lạm phát Bên cạnh việc nghiên cứu nguyên nhân của lạm phát, một vấn đề nữa cũng cần được đề cập đến là các ảnh hưởng mà lạm phát gây ra cho đời sống kinh tế xã hội. a. Gây ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập thực tế của con người Dưới tác động của lạm phát, sức mua của đồng tiền bị giảm đi, dẫn đến việc người dân sẽ mua được ít hàng hoá hơn với cùng một số tiền lương mình nhận được. Bên cạnh đó, lạm phát thường đi kèm với thất nghiệp, cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc nguồn thu nhập của các cá nhân bị đe doạ nghiêm trọng. b. Làm ảnh hưởng tới quyền lợi của những người có tiền đầu tư trung và dài hạn Khi đầu tư trung và dài hạn, nhà đầu tư đã tính lãi suất từ trước, nhưng trong điều kiện lạm phát mức lãi suất này không bù đắp được sự mất giá của tiền, từ đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. c. Ảnh hưởng tới sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong điều kiện lạm phát, các quyết định tài chính, các quyết định đầu tư đều bị biến dạng, vốn thường tập trung trong ngắn hạn và chảy về những nơi nào có tính sinh lợi chứ không được tập trung vào đầu tư nhiều cho sản xuất, vì vậy làm ảnh hưởng tới sản xuất và sự phát triển chung của nền kinh tế. d. Ảnh hưởng tới chế độ tiền tệ và tín dụng Ảnh hưởng này của lạm phát làm cho tín dụng thương mại và hoạt động thu hút vốn nhàn rỗi của ngân hàng bị đe doạ, từ đó làm rối loạn hoạt động của các tổ chức tín dụng. 5.Một số vấn đề khác khi nghiên cứu lạm phát a. Sự sụt giá của tiền giấy trong điều kiện lạm phát Sự sụt giá của tiền giấy trong điều kiện lạm phát được thể hiện trên ba khía cạnh: 29 Còn gọi là lạm phát do phí đẩy- cost-push inflation
- Monetary Study Sụt giá đối với vàng Sụt giá đối với hàng hoá Sụt giá đối với ngoại tệ Những sự sụt giá này là không đồng nhất và thay đổi tuỳ theo từng loại hình lạm phát. b. Sự ổn định tiền tệ Muốn đạt được sự ổn định tiền tệ trong điều kiện lạm phát diễn ra cần có những điều kiện sau: Khôi phục lại được sản xuất bình thường Đảm bảo cân bằng trong thu chi tài chính Có đủ lượng vàng dự trữ c. Nhà nước sử dụng lạm phát như một công cụ cho những mục đích của mình Lạm phát không hẳn là một hiện tượng khách quan đối với nền kinh tế, đôi khi lạm phát là một công cụ được Nhà nước sử dụng có chủ đích nhằm phục vụ cho những mục đích của mình. Nếu xảy ra lạm phát mà Nhà nước có lợi thì Nhà nước vẫn sử dụng lạm phát để làm lợi cho mình, điển hình là việc Nhà nước sử dụng lạm phát để bù đắp bội chi ngân sách. Nói chung, Nhà nước sử dụng lạm phát như một công cụ đặc biệt để tăng thu tài chính và phân phối lại thu nhập quốc dân. V.Chính sách tiền tệ Vấn đề cần được nghiên cứu tiếp theo là các chính sách tiền tệ của Nhà nước, mặc dù chỉ là một bộ phận trong hệ thống chính sách kinh tế, tài chính của Nhà nước nhằm điều chỉnh nền kinh tế xã hội nhưng đây là một trong những nhóm chính sách quan trọng nhất tác động tới sự phát triển của nền kinh tế một quốc gia. 1.Chính sách hoạt động công khai trên thị trường Là một trong những biện pháp tác động gián tiếp tới nền kinh tế của Nhà nước, theo đó Nhà nước thông qua NHTW để tác động tới các loại thị trường nhằm tạo ra những sự thay đổi theo mong muốn của Nhà nước. Thị trường mà Nhà nước ở đây có thể là thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn), thị trường hối đoái hoặc thị trường chứng khoán (thị trường vốn trung và dài hạn)30. Tại thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường mở31, với đặc điểm là chỉ mua bán những loại chứng khoán ngắn hạn và có tính lỏng cao, Nhà nước có thể sử dụng những biện pháp như đóng băng tiền tệ hay mua bán các loại tài sản tài chính có tính lỏng cao để làm thay đổi lượng tiền mặt có trong lưu thông. Tại thị trường hối đoái, với những chính sách quản lý ngoại hối khác nhau trong từng thời điểm, Nhà nước có thể điều chỉnh tỷ giá hối đoái để đảm bảo một sức mua đối ngoại hợp lý nhất của đồng nội tệ. Tại thị trường chứng khoán, NHTW có thể mua và bán các chứng khoán trung và dài hạn nhằm làm thay đổi mức cung tiền tệ theo chiều hướng mong muốn. Nhóm biện pháp tác động vào thị trường mở32 thuộc nhóm chính sách hoạt động công khai trên thị trường được Nhà nước sử dụng nhiều nhất khi muốn tác động để điều chỉnh hoạt động cung cầu tiền tệ theo ý muốn của mình vì nhóm chính sách này có nhiều ưu điểm mà các nhóm chính sách khác không có được. Trong nhóm này, đối tượng được điều chỉnh mua bán thường là các loại tín phiếu kho bạc. Do đặc điểm ngắn hạn của tín phiếu nên khi được tung ra mua bán trên thị trường nó sẽ gây tác động ngay lập tức đến cung và cầu tiền tệ, vì vậy phục vụ tốt hơn mục tiêu của chính sách tiền tệ. 30 Các loại thị trường vốn sẽ được đề cập kỹ trong chương thị trường vốn 31 Open Market- là loại thị trường tiền tệ có cả sự tham gia của các chủ thể phi ngân hàng 32 Còn gọi là nghiệp vụ thị trường mở- open market operations
- Introductory Finance Trong nhóm nghiệp vụ thị trường mở có hai phương thức, đó là phương thức chủ động và phương thức thụ động. Trong đó nghiệp vụ thị trường mở chủ động (Dynamic) nhằm thay đổi cơ số tiền MB còn nghiệp vụ thị trường mở thụ động (Defensive) nhằm phản ứng trước những thay đổi của cơ cấu tiền tệ trọng lưu thông. Một số ưu điểm nổi bật của nghiệp vụ thị trường mở 9 Có thể tiến hành một cách linh hoạt và nhanh chóng 9 Điều chỉnh được quan hệ cung cầu tiền tệ một cách chính xác 9 Do NHTW chủ động tiến hành nên có thể kiểm soát dễ dàng 2.Chính sách tái chiết khấu (discount policy) Là chính sách thể hiện sự cho vay của NHTW đối với các NHTM. Trong nghiệp vụ của mình, các NHTM có những lúc thiếu hụt tạm thời tiền mặt để giải quyết các yêu cầu thanh toán hoặc bù đắp lượng dự trữ bắt buộc. Khi đó, NHTM phải tìm đến NHTW để vay tiền, thường dưới dạng chiết khấu lại các chứng khoán có giá (tái chiết khấu). Khi NHTW thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tái chiết khấu hay điều kiện tái chiết khấu đối với các NHTM thì các NHTM sẽ tự động phải thay đổi lượng cung tiền ra thị trường, dẫn đến sự thay đổi trong thị trường tiền tệ. Ví dụ như khi NHTW tăng mức lãi suất tái chiết khấu lên, có nghĩa là các NHTM sẽ đứng trước sự thu hẹp về khả năng hoàn trả vốn cho khách hàng, do đó NHTM bắt buộc phải tự động thu hẹp hoạt động tín dụng của mình, dẫn đến sự thu hẹp hoạt động lưu thông tiền tệ của toàn bộ nền kinh tế.33 3.Chính sách quỹ dự trữ bắt buộc (Reserve requirements) Quỹ dự trữ bắt buộc là một số tiền mà các NHTM bắt buộc phải có tính theo phần trăm tổng số dư tiền gửi tại một thời điểm nào đó. Tỷ lệ này ở Việt nam hiện nay là từ 0% trở lên đến 20% tổng số vốn huy động của NHTM. Quỹ dự trữ bắt buộc này sẽ được các NHTM lập tại NHTW, không được hưởng lãi suất và được quy định cụ thể trong từng thời kỳ. Như vậy trong cơ cấu tiền mặt của NHTM sẽ có dự trữ bắt buộc và dự trữ dư thừa. Việc thực hiện dự trữ bắt buộc là một chính sách nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho các NHTM, nhưng bên cạnh đó đây cũng là một chính sách có thể được sử dụng nhằm thay đổi cơ cấu tiền mặt trong lưu thông. Giả sử NHTW quyết định thay đổi mức dự trữ bắt buộc của các NHTM theo chiều hướng tăng lên, như vậy các NHTM sẽ phải chuyển bớt một phần dự trữ dư thừa thành dự trữ bắt buộc, dẫn đến việc làm suy giảm khả năng cho vay của các NHTM. Chính sách tái chiết khấu có một lợi thế là khả năng điều tiết công bằng vì việc thay đổi tỷ lệ dự trữ sẽ tác động tới toàn bộ các ngân hàng một cách bình đẳng. Và nó cũng là một biện pháp có sức tác động rất lớn tới nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này lại dẫn tới một nhược điểm chủ yếu của chính sách tái chiết khấu, đó là không thể tiến hành những điều chỉnh linh hoạt với mức độ không lớn. Do vậy, nói chung chính sách này không phải là lựa chọn hàng đầu của Nhà nước khi muốn tạo ra những thay đổi có mức độ vừa phải trong nền kinh tế. 4.Chính sách quản lý ngoại hối Chính sách quản lý ngoại hối thể hiện sự quản lý của Nhà nước đối với ngoại hối. Mục đích chính của chính sách này là việc kiểm soát các luồng ra vào của ngoại hối, đặc biệt là với các nước đang phát triển, nơi tình hình thiếu hụt cán cân thanh toán vãng lai đã trở nên phổ biến. Nói chung, nguyên tắc của chính sách quản lý ngoại hối là thu hút càng nhiều ngoại hối càng tốt, kiểm soát chặt chẽ và hạn chế ở mức hợp lý nhất các luồng ngoại hối ra khỏi biên giới quốc gia, cùng đó là việc quản lý nghiêm ngặt dự trữ ngoại hối quốc gia. 33 Chương ngân hàng và các nghiệp vụ ngân hàng sẽ đề cập kỹ hơn đến chính sách này.
- Monetary Study 5.Chính sách quản lý tỷ giá hối đoái (foreign exchange policy) Sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái để điều tiết nền kinh tế cũng là một giải pháp thường được sử dụng. Chính sách này được thể hiện chủ yếu ở việc bán ra và mua vào ngoại tệ của NHTW trên thị trường ngoại hối. Trong chính sách tỷ giá hối đoái, yếu tố rất quan trọng quyết định hình thái can thiệp của Nhà nước vào thị trường ngoại hối là chế độ tỷ giá hối đoái của quốc gia. Cho đến nay có ba loại chế độ tỷ giá hối đoái được áp dụng: 9 Chế độ tỷ giá thả nổi Trong chế độ này, hoàn toàn không có bất cứ một sự can thiệp nào của Nhà nước, cụ thể là NHTW vào thị trường hối đoái, tỷ giá hối đoái được xác định dựa trên cơ sở của các quan hệ cung cầu. 9 Chế độ tỷ giá cố định Trong chế độ này, NHTW luôn tham gia vào thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá hối đoái dao động quanh một mức tỷ giá hối đoái cố định. Như vậy, luôn phải có sự can thiệp của NHTW bằng cách mua vào hoặc bán ra đồng nội tệ nhằm đảm bảo tỷ giá không dao động quá xa mức cho phép. 9 Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết Là sự dung hoà của hai chế độ trên, trong chế độ này mặc dù NHTW vẫn can thiệp vào thị trường để điều chỉnh tỷ giá, tuy nhiên lúc này tỷ giá hối đoái không còn bị bắt buộc phải được giữ ở một mức cố định hay dao động với biên độ hẹp quanh mức trung tâm nữa, vì vậy chế độ này vẫn có sự điều tiết nhất định nhưng vẫn dựa trên cơ sở thả nổi. VI.Hệ thống tiền tệ quốc tế (SGK)
- Chương III: Ngân sách Nhà nước34 VII.Khái niệm ngân sách Nhà nước gân sách Nhà nước là bộ phận cấu thành của hoạt động tài chính Nhà nước, vì vậy khi nghiên cứu về tài chính của Nhà nước người ta thường tập trung vào nghiên cứu ngân N sách Nhà nước. Có nhiều quan điểm về ngân sách Nhà nước khi nhìn từ các góc độ nghiên cứu khác nhau. Bên cạnh đó, tại những nước có các chính thể khác nhau thì cơ cấu và quản lý ngân sách Nhà nước cũng rất khác nhau. Nhưng với góc độ nghiên cứu ngân sách Nhà nước tại Việt Nam thì ngân sách Nhà nước cần phải có được định nghĩa một cách tổng thể nhất dưới dạng một quan hệ tài chính. Vì vậy phần sau sẽ xây dựng một định nghĩa ngân sách Nhà nước thống nhất. 1.Định nghĩa ngân sách Nhà nước Theo luật ngân sách Nhà nước35 của Việt nam thì ngân sách Nhà nước được định nghĩa như sau: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Như vậy, theo định nghĩa của pháp luật Việt nam có thể thấy rằng ngân sách Nhà nước là một tập hợp các khoản thu, chi trong vòng một năm, gọi là năm ngân sách36, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền37 quyết định và có tác dụng đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động của Nhà nước. Nói chung năm ngân sách thường trùng với năm dương lịch, như ở Việt nam. Nhưng có một số nước lại quy định năm ngân sách có lịch biểu khác38. Sự quy định này có tính lịch sử và truyền thống tùy thuộc vào từng quốc gia và khu vực. Ngân sách Nhà nước được phân cấp thành ngân sách Trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương. Ngân sách trung ương ở cấp cao nhất, có vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế của một nước, còn ngân sách chính quyền địa phương có ý nghĩa đối với sự phát triển của địa phương.39 Ngân sách địa phương phụ thuộc vào ngân sách Trung ương, còn ngân sách cấp dưới lại phụ thuộc vào ngân sách cấp trên. Từ những phân tích trên có thể rút ra được một định nghĩa về ngân sách Nhà nước dưới góc độ tài chính như sau: 34 Lưu ý rằng vì cơ cấu ngân sách Nhà nước là rất khác nhau ở mỗi nước nên trong chương này, các lý thuyết và nội dung nghiên cứu đều có liên quan chặt chẽ đến thực tiễn của Việt nam 35 Được quốc hội thông qua ngày 20-3-1996 36 Năm ngân sách (tài khoá hoặc tài chính)- fiscal year, là một giai đoạn trong đó dự toán thu-chi đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành. 37 Ở Việt nam là Quốc hội 38 Ví dụ như bắt đầu vào 1/4 năm trước và kết thúc vào 31/3 năm sau ở Anh và Nhật hoặc bắt đầu vào 1/10 năm trước và kết thúc vào 30/9 năm sau ở Mỹ 39 Ngân sách địa phương gồm có ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; ngân sách cấp huyện, thị xã; ngân sách cấp phường.
- Government Finance Ngân sách Nhà nước là một hệ thống các quan hệ phân phối không hoàn lại giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế khác trong xã hội nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Phần dưới đây sẽ xem xét mối quan hệ phân phối trong ngân sách Nhà nước để thấy rằng liệu quan hệ này có phải là một quan hệ tài chính hay không, muốn là một quan hệ tài chính thì ngân sách Nhà nước phải thỏa mãn các điều kiện của một quan hệ tài chính, đó là: Phải là một quan hệ phân phối: Mặc dù sự thể hiện trên bề mặt của quan hệ kinh tế trong ngân sách Nhà nước là quan hệ này được thực hiện giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế khác trong xã hội nhưng thực sự quan hệ phân phối trong ngân sách Nhà nước được thực hiện từ người nộp ngân sách Nhà nước sang người hưởng từ chi tiêu ngân sách Nhà nước. Dù cho đây là một mối quan hệ không trực tiếp nhưng đó là một mối quan hệ hiển nhiên thông qua một đối tượng trung gian là Nhà nước. Sau khi tiền được thu vào, nó sẽ không ở lại mà sẽ tiếp tục được chi ra theo các nhu cầu của Nhà nước, và mọi quan hệ chi tiêu của ngân sách Nhà nước đều có những người được hưởng lợi nhờ sự chi tiêu đó. Do vậy thực chất của quan hệ phân phối trong ngân sách Nhà nước là từ người nộp ngân sách Nhà nước sang người hưởng từ chi tiêu ngân sách Nhà nước. Phải có một quỹ tiền tệ được thành lập và sử dụng: Quỹ tiền tệ được nhắc tới ở đây chính là quỹ ngân sách Nhà nước. Quỹ ngân sách Nhà nước được quản lý bởi Nhà nước, mà cụ thể là Quốc hội và Chính phủ bởi vì ngân sách Nhà nước là một bản dự toán thu chi hàng năm được Chính phủ lập và trình lên để Quốc hội phê duyệt vào phiên họp cuối cùng của năm ngân sách. Dạng thức tồn tại của quỹ ngân sách Nhà nước ở Việt nam hiện nay là Kho bạc Nhà nước. Hệ thống kho bạc Nhà nước được quy định như sau40: ¾ Cấp trung ương: Cục kho bạc Nhà nước ¾ Cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương: Chi cục kho bạc Nhà nước ¾ Cấp quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh và tương đương: Chi nhánh kho bạc Nhà nước Chủ yếu được thực hiện dưới dạng tiền tệ: Việc nộp ngân sách Nhà nước cũng như việc cấp phát ngân sách Nhà nước chủ yếu được thực hiện dưới dạng tiền tệ vì đây là một hình thức đơn giản và tiện lợi nhất đối với cả bên nộp hoặc cấp phát lẫn bên nhận. Tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết thì quan hệ trong ngân sách Nhà nước cũng có thể được thực hiện dưới dạng hiện vật, ví dụ như việc nộp thuế nông nghiệp bằng thóc. Thế nhưng đây chỉ là trường hợp cá biệt không có tính chất phổ biến, diễn ra một cách lẻ tẻ và trong tương lai chắc chắn sẽ bị đào thải. 2.Đặc điểm ngân sách Nhà nước a. Quan hệ phân phối trong ngân sách Nhà nước là không hoàn trả41 Tính chất phân phối không hoàn trả của quan hệ ngân sách Nhà nước thể hiện ở chỗ một khi đã nộp ngân sách Nhà nước thì người nộp sẽ không nhận lại khoản tiền mà mình đã nộp, cũng như khi ngân sách Nhà nước đã được cấp phát rồi thì sẽ không đòi lại. Như trong chương đầu đã phân tích, đây là tiêu chí để phân biệt ngân sách Nhà nước với các loại quan hệ tài chính khác bởi vì mỗi loại quan hệ tài chính có một đặc điểm phân phối riêng biệt, nếu như quan hệ 40 Theo quyết định số 87-TC/TCCB ngày 21 tháng 3 năm 1991 41 Hay còn gọi là không hoàn trả trực tiếp
- Introductory Finance tín dụng là có hoàn trả, bảo hiểm là hoàn trả có điều kiện thì ngân sách Nhà nước là quan hệ phân phối không hoàn trả. b. Sự ra đời của ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào sự ra đời và phát triển các chức năng của Nhà nước. Có thể nói rằng sự ra đời của ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào sự ra đời và phát triển các chức năng của Nhà nước bởi vì ngân sách Nhà nước là một hệ quả tất yếu đi kèm theo sự ra đời của Nhà nước, nếu như không có sự ra đời của Nhà nước thì chẳng bao giờ tồn tại khái niệm ngân sách Nhà nước. Và như vậy phạm trù ngân sách Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Xuất phát từ quyền lực chính trị đặc biệt của mình, Nhà nước giữ vai trò điều phối mọi hoạt động trong xã hội, quy định hướng phát triển cho xã hội và đảm bảo điều hòa các mối quan hệ trong xã hội theo hướng có lợi nhất cho mình và cho toàn xã hội. Để thực hiện được việc đó Nhà nước cần phải có những sự can thiệp nhất định vào xã hội bằng nhiều biện pháp, đó có thể là biện pháp hành chính hoặc các biện pháp kinh tế. Trong số các biện pháp kinh tế thì các công cụ tài chính đóng vai trò then chốt. Mà với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong xã hội, Nhà nước không thể đứng ra kinh doanh thu lợi như các chủ thể kinh tế khác, thay vào đó bằng quyền lực đặc biệt của mình, Nhà nước định ra các khoản thu và yêu cầu các thành phần trong xã hội phải thực hiện nếu không sẽ phải chịu các chế tài do Nhà nước áp đặt. Và từ các khoản thu này Nhà nước sẽ có thể thực hiện được các khoản chi cần thiết để điều hòa nền kinh tế xã hội. Trong lịch sử vai trò của Nhà nước phát triển theo xu hướng ngày càng quan trọng, lúc đầu chỉ là một chính thể không ổn định, ngân sách Nhà nước lúc này chủ yếu phục vụ bộ máy chiến tranh, việc thu thuế hoàn toàn không dựa trên một cơ sở nào mà chủ yếu là để bóc lột, vơ vét nên có nhiều thứ thuế rất khó hiểu, nó hoàn toàn không dựa trên cơ sở động viên một phần thu nhập nên làm cho người nộp thuế tiến tới tình trạng khó khăn, dẫn họ đến tâm lý bất mãn. Nhưng cùng với sự phát triển của Nhà nước, hoạt động thu chi ngân sách Nhà nước đã hợp lý hơn, đảm bảo đúng tinh thần của mình, và như vậy vừa làm cho người dân yên tâm hơn đồng thời vẫn đảm bảo được sự hoạt động tốt của bộ máy Nhà nước cũng như các yêu cầu kinh tế, xã hội khác. VIII.Vai trò của ngân sách Nhà nước Vai trò của ngân sách Nhà nước là rất quan trọng đối với chính bản thân Nhà nước, mà Nhà nước chính là thực thể lãnh đạo và điều hành hoạt động của một quốc gia, của một nền kinh tế nên từ đó ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Trong mục dưới đây, các vai trò của ngân sách Nhà nước đối với Nhà nước và đối với toàn bộ nền kinh tế sẽ được phân tích để làm rõ: 1.Đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước Ngân sách Nhà nước có thể đảm bảo được chi tiêu cho Nhà nước bằng việc thu vào thông qua một số quan hệ tài chính, chủ yếu từ thuế Như đã phân tích ở mục trước, sau sự ra đời của Nhà nước, ngân sách Nhà nước bắt đầu phát huy vai trò của mình, mà đầu tiên là nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Lúc đầu chỉ là đảm bảo cho sự tồn tại của Nhà nước, có nghĩa là nuôi sống bộ máy hành chính, quân sự của Nhà nước, nhưng về sau ngân sách Nhà nước càng lúc càng tỏ ra quan trọng đối với sự tồn tại của Nhà nước bởi vì với tư cách là thực thể đặc biệt của mình, Nhà nước phải dựa vào hoạt động thu ngân sách để tồn tại. Và cũng xuất phát từ điểm này mà mọi hoạt
- Government Finance động thu chi của Nhà nước đều được đưa vào quỹ ngân sách Nhà nước để có thể dễ dàng quản lý. Và như vậy có thể thấy rằng đây là vai trò xuất hiện đầu tiên của ngân sách Nhà nước. Muốn đảm bảo cho chi tiêu thì ngân sách Nhà nước cần phải có các nguồn thu vào. Nhờ có các quan hệ thu vào thì ngân sách Nhà nước mới có nguồn tài chính để chi ra. Các quan hệ thu vào của ngân sách Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động của Nhà nước tương đối nhiều, nhưng đóng vai trò quan trọng nhất trong số các nguồn thu đó là nguồn thu từ thuế. Ở một quốc gia thông thường thì thuế chiếm khoảng từ 80-90% cho ngân sách Nhà nước, và do vậy các khoản thuế thu được luôn là mối quan tâm của mọi loại hình Nhà nước ở mọi chế độ xã hội. Cũng chính vì tầm quan trọng này nên trong chương này sẽ có một mục riêng để nghiên cứu về thuế cũng như về hệ thống thuế hiện hành ở Việt nam. 2.Điều tiết kinh tế, xã hội Nhà nước đứng ra điều tiết nền kinh tế, xã hội bằng nhiều công cụ nhưng chủ yếu là các công cụ tài chính. Nhà nước ra đời là để phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị tại mỗi chế độ kinh tế xã hội nhất định. Cùng với sự phát triển của kinh tế, ngày càng có nhiều vấn đề đòi hỏi phải có bàn tay can thiệp của Nhà nước. Ví dụ như khi chế độ tư bản đã phát triển tới một mức độ nhất định thì các khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường bắt đầu phát sinh và không thể chỉ dùng bàn tay vô hình để kiểm soát nữa. Tình hình này đòi hỏi phải có sự kết hợp của bàn tay hữu hình (tức là Nhà nước) để có thể khống chế những tiêu cực của nền kinh tế thị trường, đồng thời lái nền kinh tế-xã hội đi đúng quỹ đạo. Nhà nước có thể sử dụng các chế tài (công cụ pháp luật), có thể dùng biện pháp xử phạt hành chính (công cụ hành chính) nhưng phổ biến nhất và có hiệu quả nhất vẫn là các công cụ kinh tế, mà chiếm tỷ trọng chủ yếu là các công cụ tài chính. Trong số các công cụ tài chính này thì hai công cụ được dùng thường xuyên nhất là thuế và chi ngân sách Nhà nước. Ngoài ra Nhà nước cũng cần phải can thiệp vào nền kinh tế-xã hội để đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững trong tương lai mặc dù có thể không hề phát sinh một biến cố nào trong nền kinh tế. Như vậy có thể thấy được Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm một số mục đích chính như sau: a. Ổn định nền kinh tế Nhờ sự can thiệp của Nhà nước khi có dấu hiệu bất ổn định của nền kinh tế mà tính bền vững mới có thể được duy trì. Một nền kinh tế nếu chỉ dựa theo quy luật hoạt động của thị trường thì sẽ không thể tránh khỏi những biến động và những chu kỳ suy thoái hoặc những khiếm khuyết của nền kinh tế. Tất cả những biến động đó đều ảnh hưởng xấu đến tính ổn định của nền kinh tế, từ đó gián tiếp có tác động đến tính bền vững của một Nhà nước. Chính vì vậy, vừa để bảo đảm cho sự tồn tại của mình và để bảo đảm cho nền kinh tế có thể phát triển bền vững thì Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để sửa chữa những khiếm khuyết đó. Và công cụ chủ yếu để Nhà nước thực hiện công việc này, như đã nói trong phần trước, chính là các công cụ tài chính mà chủ yếu là thuế và chi ngân sách Nhà nước. Ví dụ như khi có dấu hiệu đầu cơ lũng đoạn trong thị trường ngoại hối làm cho tỷ giá hối đoái thay đổi đột biến, Nhà nước sẽ phải can thiệp bằng cách mua ngoại tệ vào để tăng tỷ giá hoặc phát hành các chứng khoán có giá nhằm rút bớt lượng nội tệ trong lưu thông, từ đó làm thay
- Introductory Finance đổi cơ cấu tỷ giá. Và nguồn tài chính để thực hiện công việc này chính là từ quỹ dự trữ quốc gia, vốn là một bộ phận của quỹ ngân sách Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm tạo ra sự phát triển bền vững được thực hiện theo ba dạng chủ yếu: 9 Đưa về tình trạng ổn định khi nền kinh tế có dấu hiệu tiêu cực 9 Giữ tình trạng ổn định bền vững 9 Tăng trưởng dựa trên nền tảng phát triển bền vững b. Kích thích các ngành nghề, lĩnh vực cần ưu tiên phát triển Trong chính sách của Nhà nước luôn có sự ưu đãi nhất định dành cho một số khu vực kinh tế được Nhà nước quan tâm Trong quá trình thực hiện vai trò đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, Nhà nước cần phải cân đối lợi ích giữa các vùng và ngành kinh tế. Có những vùng, ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước hơn so với những khu vực kinh tế, thế nhưng không phải những ngành, vùng tăng trưởng nhanh là nơi được ưu tiên bởi vì để đảm bảo tính bền vững của phát triển kinh tế, những ngành, vùng gặp khó khăn thường là nơi cần được sự quan tâm nhiều hơn. Sự ưu đãi của Nhà nước dành cho những khu vực này được thể hiện thông qua những ưu đãi thuế và những khoản chi ngân sách Nhà nước ưu tiên hơn. Ví dụ như trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp sản xuất sẽ được Nhà nước miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu và giảm thuế 50% trong 2 năm tiếp theo42. c. Đảm bảo công bằng xã hội Nhờ có sự can thiệp của Nhà nước mà sự chênh lệch trong xã hội giảm đi đáng kể. Nhà nước cũng tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội có những điều kiện giống nhau trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe và sự phát triển đều trong kinh tế vùng, ngành. Công bằng xã hội cũng là một yếu tố quan trọng nằm trong sự quan tâm của Nhà nước, đặc biệt là đối với kinh tế vùng và phúc lợi xã hội. Nếu như không có sự can thiệp của Nhà nước thì sự chênh lệch trong xã hội sẽ càng ngày càng lớn và dẫn đến sự khốn cùng của tầng lớp dưới. Đối với một xã hội phát triển thì điều này là nguyên nhân chính dẫn đến sự bất ổn định, và từ đó ảnh hưởng tới Nhà nước. Vì lý do này nên Nhà nước luôn phải quan tâm đến công bằng xã hội, làm cho mọi người được hưởng những quyền lợi tương đối đồng nhất. Ví dụ như chính sách thuế luôn có những quy định nhằm đảm bảo sự công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân khác nhau với thu nhập khác nhau. Người có thu nhập thấp sẽ không phải nộp thuế thu nhập cá nhân mà chỉ người có thu nhập cao đến mức nhất định mới phải nộp. Ở Việt nam mức quy định này là 3 triệu đồng. Và người có thu nhập càng cao thì càng phải nộp nhiều theo nguyên tắc lũy tiến của thuế thu nhập43. IX.Thu ngân sách Nhà nước Hoạt động thu ngân sách Nhà nước chính là bộ phận có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự tồn tại của Nhà nước. Bởi vì nếu như không có nguồn thu thì Nhà nước sẽ không có nguồn chi, từ đó cũng sẽ không thể tồn tại. Việc nghiên cứu hoạt động thu ngân sách Nhà nước sẽ giúp cho 42 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ngày 10/5/1997 43 Pháp lệnh số 35/2001ngày 19/5/2001 về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
- Government Finance việc xem xét phân loại và quản lý hoạt động thu ngân sách Nhà nước được thực hiện dễ dàng hơn. 1.Các nguồn thu của ngân sách Nhà nước Sau đây là các nguồn thu của ngân sách Nhà nước, qua sự phân loại các nguồn thu có thể thấy được các nguồn thu này khác nhau ở điểm nào và mỗi loại nguồn thu có ý nghĩa như thế nào đối với ngân sách Nhà nước. Từ đó cũng có thể thấy hoạt động thu ngân sách Nhà nước có hợp lý hay không thông qua việc nghiên cứu tỷ lệ giữa các nguồn thu. a. Thuế Là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của cá nhân, doanh nghiệp cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đây là khoản thu quan trọng nhất trong số các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, bởi vì chỉ riêng nguồn thu từ thuế đã chiếm tới 80 hoặc 90% tổng số nguồn thu ngân sách Nhà nước. Chính vì tính quan trọng này nên sẽ có một mục riêng dành cho việc nghiên cứu về thuế và hệ thống thuế hiện hành. Ở đây thuế chỉ được đề cập một cách sơ lược nhằm nghiên cứu những đặc điểm giúp phân biệt thuế với các nguồn thu khác của ngân sách Nhà nước. - Thuế là hình thức động viên một phần thu nhập của người chịu thuế cho Nhà nước. Như vậy một điều kiện rất quan trọng để thu thuế là người chịu thuế phải có thu nhập và khoản thuế nộp phải trích ra từ phần thu nhập đó. Chính bởi vì các sắc thuế dưới các chính quyền trước đây không tôn trọng nguyên tắc này nên thuế đã lạm vào phần thu nhập tối thiểu của người dân, dẫn đến tình trạng bất mãn. Nếu như đánh thuế dựa trên thu nhập của người chịu thuế thì việc đánh thuế đó đảm bảo được tính hợp lý bởi vì người có thu nhập đã hưởng lợi từ hoạt động chi ngân sách Nhà nước và họ có nghĩa vụ trích lại một phần thu nhập đã hưởng để nộp vào ngân sách Nhà nước. Việc trích nộp này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. - Thuế là hình thức động viên có tính chất bắt buộc. Nếu người nào không tự giác, cố tình trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế thì sẽ phải chịu sự xử lý, có thể là dưới hình thức hành chính hoặc hình thức pháp luật. b. Lệ phí Là một khoản thu của Nhà nước, nhằm bù đắp chi phí trong việc cung cấp các dịch vụ mang tính chất quản lý của Nhà nước và trong một số trường hợp đóng góp một phần cho ngân sách Nhà nước. Đặc điểm của lệ phí là để bù đắp các khoản chi phí phát sinh khi giải quyết công việc của các bộ phận quản lý hành chính. Các bộ phận này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Trực tiếp có nghĩa là nộp lệ phí để đảm bảo hoạt động của đơn vị đứng ra thu lệ phí còn gián tiếp là để đảm bảo hoạt động của các đơn vị không trực tiếp làm dịch vụ nhưng có liên quan trong việc cung cấp dịch vụ cho người nộp lệ phí. Từ hoạt động quản lý này của Nhà nước nên người nộp lệ phí được hưởng lợi. Bên cạnh đó người nộp lệ phí cũng là những người có khả năng tài chính đủ để chi trả các khoản lệ phí nên những người này có nghĩa vụ nộp một khoản lệ phí để bù đắp chi phí hoạt động của cơ quan cung cấp dịch vụ, từ đó góp phần giảm chi cho quỹ ngân sách Nhà nước. Có một số khoản lệ phí không chỉ nhằm mục đích bù đắp chi phí đã bỏ ra trong việc cung cấp dịch vụ mà còn nhằm tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Những khoản lệ phí đó sẽ được gọi là
- Introductory Finance thuế mặc dù trên thực tế thì nó vẫn mang tính chất của một loại lệ phí. có thể thấy ví dụ tiêu biểu của trường hợp này qua hiện tượng lệ phí trước bạ. Thuế này còn được gọi là thuế mang tính chất lệ phí. Có một số loại lệ phí lại mang tính bắt buộc như lệ phí trước bạ. Bởi vì trong một số lĩnh vực và có một số sản phẩm, dịch vụ Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ vì một số lý do như an ninh, xã hội nhưng những người đang sở hữu các loại sản phẩm và hưởng quyền lợi đối với các dịch vụ này lại không hề muốn bị quản lý như vậy. Điển hình là trường hợp trước bạ44 nhà đất và xe ô tô, xe gắn máy. Chính vì vậy nên bắt buộc Nhà nước phải quy định rằng việc trước bạ tài sản là bắt buộc và nếu như người nào không chấp hành thì sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ vi phạm. Vì vậy cho nên nếu có người đi xe ô tô hoặc xe máy không có biển kiểm soát (tức là chưa hoàn thành thủ tục trước bạ) hoặc sử dụng biển kiểm soát giả thì sẽ bị xử lý theo luật. Số tiền phạt vì không nộp lệ phí trước bạ có thể từ một lên tới ba lần số tiền lệ phí trước bạ ban đầu, bên cạnh đó vẫn phải làm thủ tục trước bạ cho tài sản đó. Đặc điểm của lệ phí: 9 Tất cả các loại lệ phí đều là những khoản thu của ngân sách Nhà nước. Chỉ có những cơ quan được Nhà nước cho phép thực hiện những công việc mang tính chất quản lý Nhà nước mới được phép thu lệ phí. 9 Huy động vào ngân sách Nhà nước nhằm bù đắp chi phí cho việc cung cấp dịch vụ quản lý Nhà nước, và trong một số trường hợp còn nộp thêm vào ngân sách Nhà nước, trong trường hợp đó lệ phí sẽ được gọi là thuế. 9 Lệ phí được quy định trước mức thu với từng công việc, trừ trường hợp lệ phí trước bạ45 9 Nói chung là không mang tính chất bắt buộc, trừ một số trường hợp đã được quy định trong các văn bản pháp luật. 9 Không mang tính chất động viên một phần thu nhập mà được coi như là nghĩa vụ phải đóng góp sau khi hưởng lợi từ chi tiêu của ngân sách Nhà nước. c. Phí thuộc ngân sách Nhà nước46 Là một khoản mà các cá nhân phải nộp khi sử dụng dịch vụ do các cơ quan Nhà nước cung cấp. Phí47 có một điểm khác biệt cơ bản so với lệ phí, đó là trong khi lệ phí là khoản nộp sau khi các cá nhân sử dụng những dịch vụ mang tính chất quản lý Nhà nước thì phí lại là khoản nộp sau khi sử dụng những dịch vụ mang tính chất phổ thông hơn. Nhưng cũng vì đặc điểm phổ thông của những loại hình dịch vụ này nên nhu cầu sử dụng của người dân sẽ lớn hơn. Do vậy, sẽ có những người không đủ khả năng sử dụng các loại dịch vụ đó. Vì vậy, thông thường mức phí thu được sẽ tuỳ theo từng ngành nghề để nhận được những sự hỗ trợ khác nhau từ phía ngân sách Nhà nước, nhưng có thể kết luận chung rằng phí là loại hình nhận được nhiều hỗ trợ nhất từ ngân sách Nhà nước. Những đơn vị hoạt động thu phí thường là những đơn vị hành chính sự nghiệp dưới dạng dự toán ngân sách. Vì mục đích phục vụ công cộng nên các đơn vị này thường phải sử dụng nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp để hoạt động, bên cạnh đó những khoản phí do các đơn vị này thu lại phải nộp toàn bộ vào ngân sách Nhà nước. Còn những đơn vị nào không được Nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động hàng năm có thể để 44 Trước bạ một tài sản là yêu cầu bắt buộc trước khi cá nhân sở hữu tài sản đó đăng ký sử dụng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, bao gồm nhà đất, phương tiện vận tải và súng săn, súng thể thao. 45 Lệ phí trước bạ được thu theo phần trăm giá trị của tài sản nộp lệ phí 46 Chi tiết về phí và lệ phí được đề cập trong pháp lệnh phí và lệ phí số 38/2001-PL ngày 28/8/2001 47 Không phải mọi loại phí đều là khoản thu của ngân sách Nhà nước nên trong mục này, thuật ngữ “phí” sẽ được hiểu là phí thuộc ngân sách Nhà nước.
- Government Finance lại một phần phí thu được để bù đắp các chi phí trong việc thu phí, phần còn lại vẫn phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Đặc điểm của phí : 9 Do cơ quan sự nghiệp, công cộng thu, thường chỉ nhằm bù đắp một phần chi phí đã bỏ ra. Phần còn lại do Nhà nước hỗ trợ. 9 Mức phí thu tùy thuộc vào khả năng đóng góp của người nộp cũng như mức độ ưu tiên của Nhà nước. 9 Là loại hình nhận được nhiều hỗ trợ nhất từ phía ngân sách Nhà nước. Phí và lệ phí thuộc ngân sách Nhà nước không bao gồm những loại sau: 9 Các loại phí có tính chất phúc lợi xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế 9 Các loại phí của các tổ chức xã hội, còn được gọi là nguyệt liễm, niên liễm vì đóng đều theo kỳ hạn. 9 Các loại phí trong hoạt động kinh doanh (i.e. giá và phụ thu qua giá) d. Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước Bao gồm thu từ lãi cổ phần, lãi liên doanh từ vốn ngân sách Nhà nước, thu hồi vốn từ các doanh nghiệp Nhà nước bị phá sản và từ tiền cho thuê đất. Nhà nước cũng tiến hành nhiều hoạt động kinh tế, từ những hoạt động kinh tế này mà ngân sách Nhà nước cũng có thêm khoản thu, có thể liệt kê các hoạt động đó ra như sau: 9 Lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, góp vốn cổ phần của Nhà nước vào các đơn vị kinh tế. 9 Thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo tỷ lệ so với số vốn đã cấp. Khoản thu này sẽ được trích từ lợi nhuận và chiếm từ 0,2 đến 0,5% lượng ngân sách đã cấp. 9 Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các đơn vị kinh tế, ví dụ như tiền bán cổ phần từ các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa hoặc tiền thu được từ hoạt động thanh lý doanh nghiệp Nhà nước giải thể. e. Thu từ vay nợ Gồm có thu từ cho vay nợ trong nước và nước ngoài. Nhà nước cũng tiến hành vay nợ, cả trong nước và nước ngoài để tăng thêm nguồn thu và bù đắp khoản bội chi của Nhà nước. Các khoản vay nợ đó có thể liệt kê dưới đây như sau: - Vay nợ trong nước48: + Trái phiếu chính phủ, gồm có tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình. + Trái phiếu chính quyền địa phương + Công trái: Có lãi suất thấp, thời hạn vay dài và chủ yếu nhằm mục đích huy động sự đóng góp của nhân dân trong giai đoạn khó khăn. - Vay nợ nước ngoài: + Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) , vay của các tổ chức tài chính quốc tế. + Phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế. + Vay của các tổ chức tín dụng, các thương nhân nước ngoài. 48 Về các chứng khoán vay nợ của Nhà nước, chương thị trường tài chính sẽ đề cập chi tiết hơn
- Introductory Finance f. Các khoản thu khác Gồm có thu từ các khoản viện trợ không hoàn lại, các khoản đóng góp tự nguyện và một số khoản thu khác. Nhà nước cũng có các khoản thu từ nhiều nguồn khác như những nguồn sau: - Thu từ hoạt động sự nghiệp của Nhà nước: 9 Các khoản thu do bán sản phẩm được các đơn vị sự nghiệp sản xuất. 9 Khoản chênh lệch giữa thu và chi của các đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu: Là khoản thu của các đơn vị cung cấp dịch vụ công cộng theo giá Nhà nước quy định, nhưng thu nhập không có liên quan nhiều đến chi phí phát sinh. Để khuyến khích các đơn vị này làm ăn có hiệu quả Nhà nước áp dụng cơ chế lấy thu bù chi. - Tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. - Tiền bán hàng, vật tư dự trữ trong quỹ dự trữ quốc gia. - Các khoản đóng góp tự nguyện và các khoản huy động từ các cá nhân, tập thể. Hình thức này thường được gọi là Nhà nước và nhân dân cùng làm. - Các khoản viện trợ không hoàn lại 2.Phân loại và quản lý nguồn thu Để có thể quản lý tốt nguồn thu cần phải đi phân loại các nguồn thu để biết được những nguồn thu này xuất phát từ đâu, và mỗi cách phân loại có đặc điểm gì. a. Căn cứ vào tính chất thuế Căn cứ vào tính chất này có hai loại nguồn thu, đó là thu từ thuế và thu ngoài thuế. Có hai loại nguồn thu rất dễ nhận thấy, đó là nguồn từ thuế và nguồn ngoài thuế, bao gồm tất cả các nguồn thu khác còn lại. Ý nghĩa của việc phân loại này là giúp xác định được tỷ lệ động viên thuế cho tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ này được xác định theo công thức: Tỷ suất thuế= Số thuế thu được/GDP % 49 Nói chung tỷ lệ động viên thuế đạt tới 20% GDP50 tại Việt nam trong thời gian qua. Đây cũng là tỷ lệ để xác định mức độ thành công trong việc xác định chính sách thu thuế tại mỗi quốc gia. Căn cứ của việc lấy thuế thu được để so sánh với GDP là vì để xem xét khả năng đóng góp của thuế cho GDP là bao nhiêu. Với 100 đồng GDP thì số thuế đóng góp là bao nhiêu thì hợp lý. Nếu tỷ lệ này là quá cao thì sẽ tổn hại đến lợi ích của người nộp thuế nhưng ngược lại nếu quá thấp thì lại ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước, cho nên ở đây nguyên tắc chung vẫn là xác định được một tỷ lệ tối ưu. b. Căn cứ vào tính chất thường xuyên của khoản thu Căn cứ tính chất này, ngân sách Nhà nước có thu thường xuyên và thu không thường xuyên. Thu thường xuyên là những khoản thu phổ biến nhất cho ngân sách Nhà nước. Những khoản thu này chủ yếu bao gồm thuế, phí và lệ phí. 49 Còn gọi là tỷ suất thuế vĩ mô 50 Tổng sản phẩm quốc nội - GDP- Gross Domestic Products