Đề án Mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô vốn đầu tư vận dụng phân tích đánh giá tình hình đầu tư của Việt Nam giai đoạn 2000-2010

pdf 61 trang phuongnguyen 1800
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề án Mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô vốn đầu tư vận dụng phân tích đánh giá tình hình đầu tư của Việt Nam giai đoạn 2000-2010", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_an_moi_quan_he_giua_lai_suat_va_quy_mo_von_dau_tu_van_dun.pdf

Nội dung text: Đề án Mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô vốn đầu tư vận dụng phân tích đánh giá tình hình đầu tư của Việt Nam giai đoạn 2000-2010

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN    TÊN ĐỀ ÁN : MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ. VẬN DỤNG PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000- 2010 GVHD : Nguyễn Khánh Duy SVTH : Trịnh Thị Xuân Hiền NĂM 2012
  2. LỜI CẢM ƠN  ٭٭٭ Viết một chuyên đề tốt nghiệp là một trong những việc khó khăn mà chúng em phải hoàn thành từ trước đến nay. Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ. Nếu không có sự giúp đỡ và sự động viên của chân thành của nhiều người em khó có thể hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này. Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Nguyễn Khánh Duy, người đã trực tiếp hướng dẫn, tạo điều kiện cho em có cơ hội được tìm hiểu sâu sắc những kiến thức trong lĩnh vực K i n h t ế . Bằng kiến thức chuyên môn sâu rộng cùng sự nhiệt tình, cô đã giúp em sáng tỏ nhiều vấn đề và đặc biệt đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này và cho em nhiều ý kiến quý báu. Em xin chân thành cảm ơn đến các cô chú anh chị tại cơ quan đã chỉ dạy em trong quá trình thực tập. Trên con đường góp nhặt những kiến thức quý báu của ngày hôm nay, các Thầy Cô trường Đại học kinh tế TP. HCM là những người đã cho em những kiến thức quý báu như ngày hôm nay. Cuối cùng em xin chúc quý Thầy Cô, Anh Chị sức khỏe, công tác tốt. Em xin chân thành cảm
  3. GIỚI THIỆU CHUNG 1. Lý do chọn đề tài: Phát triển kinh tế bền vững là đích hướng tới của mọi quốc gia trên thế giới hiện nay, dù quốc gia đó theo những thể chế xã hội khác nhau. Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ, từ khi giải phóng đến nay Việt Nam luôn kiên định với mục tiêu phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước khác. Thế nhưng để làm được như vậy thì Việt Nam cần phải có một tiềm lực kinh tế vững mạnh. Đặc biệt trong nền kinh tế bất ổn như hiện nay, vấn đề vốn là yếu tố quan trọng được chính phủ và các nhà đầu tư quan tâm bởi nó tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế Việt Nam. Trong khi đó, bản thân vốn đầu tư chịu tác động của rất nhiều các nhân tố, trong đó lãi suất là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến quy mô vốn đầu tư. Vậy bản chất lý luận trên ra sao và thực trạng mối quan hệ trên ở Việt Nam như thế nào? Những vấn đề trên đòi hỏi việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lãi suất tiền và và qui mô vốn đầu tư dưới góc độ lý luận và thực tiễn là hết sức cần thiết. Thế nhưng hiện nay có rất ít đề tài nghiên cứu một cách sâu sắc vấn đề trên chủ yếu là các nghiên cứu đơn lẻ về thực trạng lãi suất hoặc thực trạng tình hình đầu tư tại Việt Nam. Chính vì vậy trong phạm vi đề tài này, với các kiến thức về tài chính kết hợp với kinh tế học nhằm đưa ra mối quan hệ của hai nhân tố trên để từ đó có thể đưa đến một cái nhìn tổng quát về thực trạng đầu tư Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010, đồng thời nhận định xu hướng phát triển Việt Nam trong những năm tiếp theo. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Khánh Duy đã giúp đỡ tôi trong thời gian qua để hoàn thiện bài nghiên cứu này. Do thời gian nghiên cứu và kiến thức là có hạn nên bài còn có những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
  4. 2. Câu hỏi nghiên cứu: Lãi suất tác động như thế nào tới quy mô đầu tư ? Mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô đầu tư ra sao ? Diễn biến đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010 ra sao ? Các biện pháp gì để ra nhằm thúc đẩy đầu tư tại Việt Nam ? 3. Phương pháp nghiên cứu. Sử dụng phương pháp định tính nhằm đưa ra mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô vốn đầu tư với nguồn tài liệu về Kinh Tế Học Sử dụng phương pháp thống kê mô tả và phương pháp OLS để nhận định tình hình đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010 với nguồn số liệu tại Tổng cục thống kê Việt Nam. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu quy mô đầu tư Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000-2010 dựa vào dữ liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam, ngân hàng nhà nước Việt Nam 5. Ý nghĩa thực tiễn : - Nghiên cứu này nhằm giúp cho mọi người thấy được mối quan hệ của lãi suất cho vay và quy mô vốn đầu tư đồng thời cho thấy tầm quan trọng của vốn đối với đầu tư ra sao. Và chính phủ muốn thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam thì phải có một hệ thống tài chính ổn định và một cơ chế hợp lý nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quy mô đầu tư cũng như thu hút một lượng lớn nguồn vốn nước ngoài.
  5. PHẦN 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN I) Lãi suất: 1) Khái niệm về lãi suất : - Theo quan điểm của Marx: Lãi suất là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản sản xuất phải trả cho nhà tư bản tiền tệ về việc đi vay vốn. Marx đã đồng nhất lãi suất với tỉ suất lợi tức. (Nguồn:Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội đồng Trung ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005) - Theo các nhà kinh tế học cổ điển coi lãi suất là một hiện tượng thực tế, được xác định bởi áp lực của năng suất - cầu về vốn cho mục đích đầu tư - và tiết kiệm. - Theo quan điểm của John Maynard Keynes lập luận rằng lãi suất là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền. Cung tiền được xác định một cách ngoại sinh, cầu tiền phản ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về tiền. (Nguồn: Sách lịch sử các học thuyết kinh tế- Nguyễn Văn Trình, Nguyễn Tín Dũng, Vũ Văn Nghinh, NXB Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2000) - Theo quan điểm của các nhà kinh tế học lượng cầu tài sản: Thế giới tiền mặt gồm hai loại: tiền mặt và cổ phiếu, trái phiếu. Theo họ lãi suất là chi phí của việc giữ tiền và các tài sản tài chính. - Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: Lãi suất là chi phí cho việc sử dụng vay vốn, sử dụng các dịch vụ tài chính. - Theo quan điểm của ngân hàng thế giới : Lãi suất là tỉ lệ phần trăm của tiển lãi và tiền vốn vay. - Nói chung lãi suất là giá của vốn, chi phí phải trả cho việc thuê vốn. Trong nền kinh tế luôn có chủ thể dư thừa vốn, cùng lúc đó có những người có cơ hội đầu tư sinh lời rất cần vốn nhưng lại thiếu vốn và thị trường tài chính ra đời làm thông suốt quá trình chuyển vốn từ người thừa vốn sang người cần vốn. Các chủ thể qua quan hệ vay mượn tín dụng hoặc mua bán các công cụ nợ đều đạt được mục đích của mình. Người thừa vốn
  6. vừa thu lại vốn vừa có khoản lợi tức sinh lợi trong khi người cần vốn có cơ hội đầu tư. Do vậy trong thị trường tài chính, lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hay nói cách khác lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu. - Lợi tức là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự vận động của tín dụng và do bản chất của tín dụng quyết định. Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được ở người đi vay trả cho việc sử dụng tiền vay. Thực chất, lãi suất được biểu hiện bằng quan hệ tỷ lệ giữa lợi tức tín dụng và tổng số tiền vay trong một thời gian nhất định. Cơ chế xác định lãi suất: Tài chính gián tiếp Ngân hàng trung (Ngân hàng thương mại) ương (Lãi suất) Chủ thể cho Chủ thể đi vay mượn Tài chính trực tiếp (Lãi suất)
  7. 2) Các đặc điểm lãi suất: Là một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của cả bên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây: - Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản: Qua nghiên cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng đầu tư, cho thuê tài chính hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy nhiên, lãi suất chủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng vay bên vay chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời hạn nhất định do đó phải có một tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng với thời hạn vay. Hơn nữa, nếu trong các hợp đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để tính lãi còn dựa trên nhiều yếu tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp còn trong hợp đồng vay thì cơ sở để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. - Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh do thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc. Bản chất của lãi suất là một tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền vay gốc trong một thời hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu như không tồn tại số tiền gốc mà các bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài sản. - Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian vay). Như đã phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do đó, tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp. 3) Các loại lãi suất cơ bản: Có nhiều cách phân chia lãi suất thành các dạng khác nhau tuỳ thuộc vào nguồn sử dụng, theo giá thực, theo phương pháp tính lãi, thời gian
  8. 3.1) Phân loại theo loại hình tín dụng: Lãi suất được chia thành các loại: - Lãi suất tín dụng thương mại : Áp dụng khi các doanh nghiệp cho vay dưới dạng mua bán chịu hàng hoá - Lãi suất tiền gửi : tức là tỉ lệ phần trăm lãi suất trên số tiền bạn gửi vào ngân hàng hay là các tổ chức tín dụng nào đó. Mức phần trăm này thường là áp dụng cho 1 năm còn nếu muốn tính ra 1 tháng thì lấy số % đó chia cho 12 tháng. - Lãi suất cho vay : là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người đi vay. Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, mức lãi suất cho vay khác nhau phụ thuộc tỷ suất lợi nhuận bình quân của đối tượng đi vay. Tuy nhiên với đối tượng là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, lãi suất phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như chính trị, xã hội, của một quốc gia trong từng thời kỳ. Đối với đầu tư phát triển, lãi suất cho vay rất quan trọng nhằm kích thích sự phát triển vốn đầu tư trên tất cả các lĩnh vực - Lãi suất chiết khấu : Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới dạng hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá trị chưa đến hạn thanh toán của ngân hàng. - Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng . - Lãi suất cơ bản : là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ổn định mức lãi suất kinh doanh của mình. - Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi nhà nước đi vay các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu. - Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người tiêu dùng vay phục vụ cho nhu cầu cá nhân. 3.2) Phân loại theo giá thực : - Lãi suất danh nghĩa: được xác định cho mỗi kỳ hạn gửi hoặc vay thể hiện trên giấy tờ. Nó là lãi suất chưa điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát hay nói cách khác đây là lãi suất đã bao gồm cả những tổn thất do lạm phát gây ra do sự gia tăng của mức giá chung.
  9. - Lãi suất thực: là lãi suất xác định giá trị thực của khoản lãi được trả và thu được.Lãi suất thực được đo lường bằng chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa với tỷ lệ lạm phát dự kiến hay tỷ lệ lạm phát kỳ vọng (expected inflation rate). Công thức đơn giản của cách tính lãi suất thực là: Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát kỳ vọng Còn công thức Fisher đầy đủ là: 1+i =(1+r)(1+E(I)) Với i là lãi suất danh nghĩa, r là lãi suất thực, và E(I) là lạm phát kỳ vọng hay lạm phát ước tính. Trên thực tế các ngân hàng, các quỹ tín dụng thường áp dụng công thức Fisher để tính lãi suất thực, lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát nhằm thẩm định các dự án cho vay đối với các doanh nghiệp. 3.3) Phân loại theo phương pháp tính lãi : - Lãi đơn : Phương thức tính lãi theo lãi đơn là phương thức tính toán mà tiền lãi sau mỗi kỳ không được nhập vào vốn để tính lãi cho kỳ sau. Tiền lãi của mỗi kỳ đều được tính theo vốn gốc ban đầu và đều bằng nhau. Lãi đơn = số tiền lãi / số tiền gốc * 100% Lãi đơn chủ yếu dùng trong đầu tư ngắn hạn. - Lãi kép: Phương thức tính theo lãi kép là phương thức tính toán mà tiền lãi sau mỗi kỳ được nhập vào vốn để đầu tư tiếp và sinh lãi cho kỳ sau. Thông thường, đối với các giao dịch tài chính, lãi suất được sử dụng là lãi kép. Công thức : I= (1+i)^1/t -1 I lãi suất tại thời điểm t. i : Lãi suất đơn hàng năm. t : chu kỳ tính lãi suất.
  10. 3.4) Phân theo loại tiền và vàng : - Lãi suất nội tệ : Là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ. Ví dụ như Việt Nam đồng nội tệ là Việt Nam Đồng ( VND) thì lãi suất tiền gửi là 14%/ năm. - Lãi suất ngoại tệ : Là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng ngoại tệ. Hiện nay lãi suất tiền gửi của Đola (USD) tại Việt Nam là : 5%/năm - Lãi suất vàng : Là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho gửi và vay vàng. Các ngân hàng Việt Nam hiện nay đang áp dụng 2%/ năm 3.5) Phân loại theo độ dài thời gian : - Lãi suất ngắn hạn : Là loại lãi suất áp dụng cho khoản huy động và khoản vay dưới 1 năm. - Lãi suất trung hạn: Là loại lãi suất áp dụng cho khoản huy động và khoản vay có thời hạn từ 1đến 5 năm. - Lãi suất dài hạn: Là loại lãi suất áp dụng cho khoản huy động và khoản vay có thời hạn trên 5 năm. 4) Vai trò của lãi suất : - Lý thuyết và thực tiễn cho thấy lãi suất rất quan trọng trong nền kinh tế vi vĩ mô của một quốc gia. Ở các nước tư bản phát triển phải mất gần trăm năm để tích lũy vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Còn đối với Việt Nam là một nước nhỏ đang trên đường tiến tới trở thành một nước công nghiệp hóa hiện đại hóa vào năm 2020 thì vấn đề vốn rất quan trọng. Vì vậy chính sách lãi suất rất quan trọng đối với việc huy động vốn nhàn rỗi để đầu tư sản xuất và phát triển. 4.1) Lãi suất tác động đến vi mô: lãi suất là cơ sở để các doanh nghiệp, cá nhân đưa ra quyết định của mình như chi tiêu hay gửi tiết kiệm, đầu tư vốn tích lũy vào các danh mục khác Khi lãi suất thấp thì quá trình đi vay được đẩy mạnh nhưng khi lãi suất cao lợi tức thu lại từ quá trình tiết kiệm được đầy mạnh hơn nên tiết kiệm tăng. 4.2) Lãi suất ảnh hưởng đến vĩ mô: - Lãi suất là công cụ tối ưu để điều tiết nên kinh tế. + Lãi suất thấp=> kích thích đầu tư, kích thích tiêu dùng=>tăng tổng cầu=>sản lượng tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm=> nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ.
  11. + Lãi suất cao=> hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng=> giảm tổng cầu=> sản lượng giảm, giảm giá, thất nghiệp tăng => nội tệ có xu hường tăng giá so với ngoại tệ. - Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế: + Trong giai đoạn đang phát triển cuản nền kinh tế lãi suất có xu hướng tăng do cng cầu quỹ cho vay tăng trong đó tốc độ tăng của cầu lớn hơn tốc độ tăng của cung. Ngược lại trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất có xu hướng giảm. - Do vậy, thông thường nhìn vào xu hướng biến động của lãi suất ta thấy được tình trạng của nền kinh tế. - Chính vì vậy với một mức lãi suất hợp lý, sẽ kích thích các nhà đầu tư vay vốn mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh cho xã hội, tăng thu nhập quốc dân, hạn chế thất nghiệp tăng mức sống của người đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.Và khi nền kinh tế phát triển, thu nhập quốc dân tăng, sẽ tác động trở lại kích thích đầu tư phát triển 5) Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất: 5.1) Ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ: - Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ: Khi ngân hàng trung ương muốn kiềm chế lạm phát, sẽ thực hiện một chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua công cụ của nó (thay đổi tăng mức dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất chíết khấu, giảm hạn mức tín dụng). Chính phủ thực hiện chính sách nói lỏng tiền tệ: Khi ngân hàng trung ương lo sợ sắp có suy thoái sẽ tăng mức cung tiền bằng cách bơm tiền vào lưu thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ, lãi suất có xu hướng giảm. 5.2) Ảnh hưởng của lạm phát dự tính: - Như ta đã biết chi phí thực của việc vay tiền được đo một cách chính xác hơn bằng lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Do đó ở một lãi suất cho trước, lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực hiện vay tiền giảm xuống dẫn tới cầu vay tiền tăng. Mặt khác lạm phát tăng lên thì lợi tức dự tính của khoản tiền giảm xuống, lập tức người cho vay chuyển lượng tiền vào một thị trường khác như ngoại hối, bất động sản dẫn đến cung tiền cho vay giảm. Chính vì thế để điều tiết nền kinh tế khi lạm phát dự tính tăng thì lãi suất cũng tăng theo.
  12. S Lãi suất 1 Cầu S Hình 1: Mối quan hệ lãi suất và tiền vay D1 cung D Tiền vay - Tóm lại khi lạm phát dự tính tăng, lãi suất tăng. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có lạm phát tăng. Trên cơ sở đó nhà nước phải có một chính sách hợp lý đối với lãi suất và kiềm chế lạm phát. 5.3) Hoạt động thu chi của nhà nước: - Ngân sách nhà nước vửa là nguồn cung tiền vừa là nguồn cầu tiền đối. Do đó sự thay đổi thu chi ngân sách nhà nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. - Ngân sách bội chi hay thu không kịp sẽ làm tăng lãi suất bằng cách phát hành trái phiếu nhằm thu hút lượng vốn dư thừa của người dân để đảm bảo quá trình hoạt động của nhà nước. Mặt khác bội chi ngân sách cũng ảnh hưởng đến tâm lý người dân về mức gia tăng lạm phát gây ra áp lực tăng lạm phát. - Trường hợp bội thu ngân sách sẽ dẫn đến lãi suất giảm do sự vận động ngược lại với bội chi ngân sách. 5.4) Ảnh hưởng của nền kinh tế: - Ảnh hưởng của cung tiền vay : Khi nền kinh tế ổn định và phát triển, của cải tăng lên, công chúng chỉ muốn giữ một số tiền nhất định đủ cho nhu cầu sử dụng, họ muốn đầu tư vào những tài sản có lợi tức cao hơn như đầu tư vào chứng khoán. Bởi khi nền kinh tế ồn định, thị trường chứng khoán trở nên ổn định hơn và chứng khoán trở thành tài sản hấp dẫn. Do vậy cung tiền vay tăng lên, lãi suất cho xu hướng giảm.
  13. - Ảnh hưởng của cầu tiền vay : Khi nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất là trong giao đoạn phát đạt của một chu kỳ kinh doanh, các công ty càng có ý định vay vốn và tăng nợ nhằm đầu tư cho các khoản sinh lời. Cầu tiền vay tăng lên khiến lãi suất có xu hướng tăng. Do vậy trong nền kinh tế ổn định và phát triển, nhà nước nên sử dụng các công cụ lãi suất đề tăng vốn đầu tư vào các lĩnh vực cần phát triển cho sự cân đối của nền kinh tế. 5.5) Ảnh hưởng bởi mức độ rủi ro của dự án. - Với những dự án có mức độ rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn thấp khi đó mức lãi suất cho vay của ngân hàng đối với các dự án này sẽ ở mức cao hơn mức lãi suất cho vay thông thường của các ngân hàng. Ngược lại với những dự án đầu tư có mức độ rủi ro thấp, khả năng thành công của dự án lớn, khả năng thu hồi vốn của các ngân hàng lớn khi đó lãi suất cho vay của ngân hàng với các dự án này sẽ thấp. 5.6) Ảnh hưởng bởi chính sách chính phủ: - Chính phủ các nước có thể thông qua mức lãi suất để điều chỉnh cơ cấu kinh tế của một vùng, miền, hay địa phương nào đó. Để phát triển một ngành kinh tế của một vùng miền nào đó chính phủ có thể dùng chính sách lãi suất ưu đãi, để hộ trợ địa phương hay vùng miền đó phát triển ngành nghề kinh tế mà chính phủ mong muốn. Chính phủ có thể áp dụng mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất trên thị trường rất nhiều đối với những ngành nghề, những vùng miền mà chính phủ mong muốn phát triển.Ví dụ trong năm 2008, chính phủ Việt Nam thực hiện gói kích cầu bằng hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức cá nhân vay vốn trung và dài hạn thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất- kinh doanh theo quyết định 443/QĐ-TTg ngày 4/4/2009 với mức lãi suất là 4%/ năm. - Nhưng thay đổi trong chính sách thuế của chính phủ cũng ảnh hưởng tới mức lãi suất. Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Nếu các hình thức thuế này tăng lên cũng có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng
  14. hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Thông thường ai cũng sẽ quan tâm đến thu nhập thực tế, lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do đó, để duy trì một mức lãi suất thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi về thuế. 5.7) Ảnh hưởng bởi đời sống xã hội: - Ngoài những yếu tố được trình bày ở trên, sự thay đổi của lãi suất còn phụ thuộc vào các yếu tố thuộc đời sống kinh tế xã hội khác. Đó có thể là sự phát triển của thị trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng phong phú, hay mức độ phát triển của các thể chế tài chính trung gian và gắn liền theo đó là sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ của các tổ chức tín dụng này. Hiệu suất sử dụng vốn hay tỉ suất đầu tư cận biên trong nền kinh tế trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ hay sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế cũng tác động đến sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa tình hình kinh tế chính trị cũng như nhưng biến động tài chính quốc tế như những cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế, các luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước .đều ít nhiều tác động tới sự thay đổi của lãi suất các nước khác . - Tất cả những vấn đề này gợi ý cho các nhà nghiên cứu, soạn thảo và điều hành chính sách lãi suất phải có sự nhìn nhận và đánh giá một cách tổng thể trước khi đưa ra bất kỳ một kết luận hoặc quyết định nào liên quan đến lãi suất. Đặc biệt là trong thời kỳ kinh tế bất ổn hiện tại, khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, lạm phát, sự mất giá của đồng nội tệ thì vấn đề lãi suất là một vấn đề nhạy cảm mà các nước trên thế giới cũng như Việt Nam cần phải quan tâm một cách sâu sắc và toàn diện. Một mức lãi suất hợp lý sẽ là động lực cho phát triển kinh tế- xã hội.
  15. II) Vốn và quy mô vốn đầu tư: 1) Khái niệm về vốn và quy mô vốn đầu tư : 1.1) Vốn đầu tư: - “Vốn” (capital) là khái nhiệm mang tính khối tích luỹ (stock) và có thể xác định tại một thời điểm, còn đầu tư (investment) mang tính dòng, lưu lượng (flow) trong một khoảng thời gian. - Theo Tổng cục Thống Kê, “Vốn đầu tư là toàn bộ những chi tiêu để làm tăng hay duy trì tài sản vật chất trong một thời kỷ nhất định. Vốn đầu tư thường được thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục đich chủ yếu là bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động”.( Nguồn: Tổng cục thống kê) - Định nghĩa này sát với định nghĩa của đầu tư (investment) trong kinh tế học vĩ mô, cũng như trong hệ thống tài khoản quốc gia(SNA) của Liên Hợp Quốc mà nước ta cũng dùng. - Theo luật đầu tư năm 2005, vón đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác thực hiện các hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp. - Xét về phương diện toàn xã hội thì vốn đầu tư là toàn bộ giá trị nhân lực, tài lực được bỏ thêm vào cho hoạt động của toàn xã hội trong thời gian nhất định thường là một năm. Căn cứ vào các hoạt động chia đầu tư thành các dạng: + Đầu tư cho sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường; + Đầu tư cho sức khoẻ con người và phát triển trí tuệ văn hoá xã hội; +Đầu tư khác như: đầu tư cho bộ máy quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, hợp tác quốc tế 1.2) Quy mô đầu tư: - Trong hoạt động kinh tế, quy mô vốn đầ tư vốn đầu tư là chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng trường và sức mạnh của từng doanh nghiệp và của nền kinh tế. Quy mô vốn có thể cho ta thấy được dự án đầu tư đó là lớn hay nhỏ, có ảnh hưởng rộng hay hẹp đến nền kinh tế. Quy mô vốn cũng thể hiện phần nào tầm quan trọng của một dự án đầu tư.
  16. - Quy mô vốn đầu tư trong một thời điểm nhất định được thể hiện bằng đơn vị thông qua lượng tiền đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh ( bao gồm tài sản cố định và lưu động). 2) Phân loại vốn đầu tư : 2.1) Vốn đầu tư trong nước: bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn đầu tư phát triển của nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, vốn khu vực kinh tế nhà nước khác và vốn của dân cư và tư nhân. - Vốn ngân sách nhà nước : Là vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và vốn đầu tư đầu tư khác của nhà nước. - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là nguồn vốn mà các đơn vị, tổ chức có thể đi vay với lãi suất ưu đãi hoặc không chịu lãi suất để đầu tư trong lĩnh vực nhà nước khuyển khích ưu tiên. - Vốn của các doanh nghiệp nhà nước: Là nguồn vốn được hình thành trong quá trình tích luỹ của chủ doanh nghiệp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp trích ra hàng năm, khấu hao tài sản cố định - Vốn khu vực nhà nước khác: là nguồn vốn huy động được ngoài nguồn vốn nói trên như biếu, tặng của các chính phủ khác, của các tổ chức cá nhân khác - Vốn của dân cư và tư nhân: Phần vốn lấy từ tiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp hợp tác xã. 2.2) Vốn đầu tư nước ngoài : Bao gồm ODA, FDI, vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế - Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài.Gói hỗ trợ ODA bao gồm có hai dạng: dạng viện trợ không hoàn lại, dạng thứ hai là cho vay với lãi suất cực kỳ thấp (0.75%/năm) và thời gian hoàn trả cực kỳ dài: 20 -40 năm.Vốn ODA là của các chính phủ các nước phát triển hay của tổ chức cho chính phủ có nền kinh tế đang phát triển, ODA của chính phủ viện trợ gọi là viện trợ song phương, nếu là tổ chức (Ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu Á, EU) là viện trợ đa phương.
  17. - FDI theo định nghĩa của IMF là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp. Ngày nay Việt Nam đang thúc đẩy huy động vốn đầu tư nước ngoài nhằm nâng cao đầu tư phát triển trên tất cả lĩnh vực kinh tế, xã hội. 3) Vai trò của vốn đầu tư: Vốn đầu tư rất quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia. Nó đều đưa tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Quy mô vốn đầu tư tác động đến tổng cầu - Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Xét trong ngắn hạn, khi tổng cầu chưa kịp thay đổi, việc tăng quy mô vốn đầu tư - tăng cầu đầu tư sẽ làm cho tổng cầu AD tăng (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi). Công thức xác định tổng cầu AD: AD=C + I + G + NX. Trong đó: C: Tiêu dùng. I: Đầu tư. G: Chi tiêu chính phủ. NX: Xuất khẩu ròng. - Xét theo hình 2: đường cầu AD dịch phải (AD→AD’), kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo (Q0→Q1), giá cả các yếu tố đầu vào của đầu tư tăng lên (P0→P1). Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1. Quy mô vốn đầu tư tác động đến tổng cung:
  18. - Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ .,thể hiện qua phương trình: Q = F (K, L, T, R .). Trong đó: K: Vốn đầu tư. L: Lao động. T: Công nghệ. R: Nguồn tài nguyên. Như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi). - Khi thành quả đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động làm cho tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng. Theo đồ thị ,tổng cung AS dịch chuyển sang phải ( AS→AS’), sản lượng tiềm năng tăng từ Q1→Q2, do đó giá cả sản lượng giảm xuống từ P1→P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng lại là nhân tố kéo, tiếp tục kích thích sản xuất phát triển, tăng quy mô đầu tư. Sản xuất phát triển là nguồn gốc tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
  19. P S E1 P 1 S' E 0 P0 P 2 D' D Q Q Q Q 0 1 2 Hình 2: Tác động của quy mô vốn đầu tư đến tổng cung, tổng cầu Nguồn: Economics, David Begg, 2008, NXB thống kê - Ngoài ra đầu tư vốn vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và hiệu quả của vốn đầu tư cho thấy nhanh hơn, rõ ràng hơn. Vốn đầu tư vào lĩnh vực này được xem là quan trọng nhất, đặc biệt với các nước đang phát triển. Người ta thường xem đây là đầu tư vào kinh tế và dùng để tính các chỉ tiêu phát triển kinh tế tầm vĩ mô. - Đầu tư vốn cho sức khoẻ con người, phát triển trí tuệ, văn hoá xã hội và đầu tư khác cũng có tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, dù gián tiếp qua nguồn nhân lực và các nhân tố về môi trường đầu tư; hơn nữa tác động của đầu tư ở các lĩnh vực này mang tính chiến lược - Vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường, hay còn gọi là vốn đầu tư trực tiếp vào kinh tế có vai trò hết sức quan trọng. Vốn đầu tư trực tiếp vào kinh tế có đặc điểm làm tăng thêm tài sản cho nền kinh tế, dù đầu tư vào tài sản lưu động hay tài sản cố định, thì khoản vốn đầu tư đó đều làm tăng thêm tài sản, mức tăng thêm đó hoặc để bù đắp phần tài sản cũ mất đi hoặc làm tăng tích luỹ tài sản trong sản xuất kinh doanh.
  20. - Chính vì vậy cần chú ý đến vấn đề quy mô vốn đầu tư. Bởi tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế .do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. - Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa quy mô vốn đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR. ICOR = (Tỷ lệ vốn đầu tư/ GDP) / Tốc độ tăng trưởng kinh tế Theo công thức trên, nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào mức tăng quy mô vốn đầu tư. - Quy mô đầu tư tác động đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, các vùng. - Quy mô vốn có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ví dụ, đối với cơ cấu ngành, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển những ngành mới .do đó, làm dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế. - Như Việt Nam đang có sự chuyển dịch kinh tế từ đầu tư các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp sang đầu tư các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp. 4) Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư: 4.1) Lãi suất: - Lãi suất không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn đầu tư - quyết định quy mô vốn đầu tư thông qua việc ổn định kinh tế vĩ mô - mà còn tác động đến dòng chảy các nguồn vốn đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định.
  21. Đối với lãi suất, về mặt lý thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ đó tiềm năng quy mô, số lượng các nguồn vốn càng cao. Bên cạnh đó, nếu mức lãi suất thị trường nội địa mà cao hơn tương đối so với mức lãi suất quốc tế thì còn đồng nghĩa với tiềm năng quy mô vốn nước ngoài tăng và là công cụ hữu hình để chính phủ bảo vệ được nguồn vốn nước mình, ngăn chặn được nạn đào thoát vốn ra nước ngoài. - Tuy nhiên, bản thân yếu tố lãi suất cũng có hai mặt, đó là khi tăng lãi suất cũng có nghĩa là chi phí sử dụng vốn trong đầu tư sẽ cao hơn. Điều này sẽ làm giảm phần lợi nhuận thực của nhà đầu tư. Dẫn đến quy mô vốn có xu hướng giảm xuống. Vì vậy, khi sử dụng công cụ lãi suất phải hết sức cẩn trọng để xác định mức lãi suất phù hợp, góp phần quan trọng trong việc tạo quy mô vốn phù hợp, quyết định hiệu quả huy động vốn. 4.2) Tỷ suất lợi nhuận. - Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận thuần thu được từ một đơn vị vốn đầu tư được thực hiện.Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng giúp nhà đầu tư quyết định quy mô vốn đầu tư phù hợp với từng dự án đầu tư - Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư càng tăng, càng có nhiều cơ hội đầu tư, các doanh nghiệp có nhiều ý định vay vốn để tăng vốn đầu tư.Nếu tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư trong một ngành , một lĩnh vực,một địa phương tăng cao sẽ dẫn đến tổng số hàng hoá và dich vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế đó tăng lên, thu nhập quốc dân tăng. Nhưng khi vốn đầu tư tăng dần, tỷ suất lợi nhuận biên sẽ giảm dần. Nhà đầu tư chỉ quyết định tiếp tục đầu tư (tăng quy mô vốn) khi tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất tiền vay 4.3) Sản lượng nền kinh tế. - Khi sản lượng nền kinh tế gia tăng sẽ là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư. Tuy nhiên tốc độ tăng của sản lượng và tốc độ tăng của vốn đầu tư không giống nhau. - Mỗi sự thay đổi sản lượng nền kinh tế đều dẫn tới sự thay đổi của quy mô vốn đầu tư cùng chiều. Nhưng sự biến động của vốn lớn hơn nhiều lần sự biến động của sản lượng.
  22. 4.4) Chu kỳ kinh doanh : - Quy mô vốn đầu tư phụ thuộc vào sản phẩm đầu ra. Nhiều nhà kinh tế cho rằng mức sản lượng này phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh. - Khi chu kỳ kinh doanh vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng, nhu cầu về quy mô vốn tăng và ngược lại. 4.5) Các yếu tố khác: - Cùng với lãi suất, các quy định về thuế của chính phủ (đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp) cũng ảnh hưởng lớn đến nhu cầu đầu tư, quyết định quy mô vốn đầu tư. Nếu chính phủ đánh thuế cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư, làm cho thu nhập của các nhà đầu tư giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư, quy mô vốn bị thu hẹp. Mặt khác chính phủ cũng có thể khuyến khích đầu tư bằng hình thức miễm giảm thuế với những khoản lợi nhuận dùng để tái đầu tư, do đó quy mô vốn đầu tư sẽ tăng. - Môi trường đầu tư cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư. Đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, như thực trạng cơ sở hạ tầng, những quy định của pháp luật đầu tư, nhất là những quy định có liên quan đến lợi ích tài chính (chế độ thuế, giá nhân công .); chế độ dất đai (quy chế thuê mướn chuyển nhượng, thế chấp, giá cả ), các loại thủ tục hành chính, tình hình chính trị - xã hội . Nếu những yếu tố trên thuận lợi sẽ khuyến khích được các nhà đầu tư và thu hút được nhiều vốn đầu tư - quy mô vốn tăng. Trong việc tạo lập môi trường đầu tư chính phủ giữ một vai trò quan trọng, chính phủ thường quan tâm đến những chính sách nhằm tăng được lòng tin trong đầu tư và kinh doanh.
  23. PHẦN II MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VỚI QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ I) Tác động của lãi suất đối với đầu tư: - Một trong những nhân tố quan trọng tác động đến đầu tư là lãi suất. Ở một mức lãi suất hợp lý thì mức độ đầu tư càng cao và ngược lại. - Đầu tư phụ thuộc nhiều vào lãi suất vì quyết định đầu tư dựa trên cơ sở tối đa hóa lợi nhuận trong tương lai. Các doanh nghiệp có cơ hội đầu tư khác nhau với mức kỳ vọng vào tương lai khác nhau và dựa vào lãi suất các doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư của minh. - Với mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) của các nước trên thế giới cũng như Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia. Lãi suất là công cụ quản lý của ngân hàng trung ương. Trên thực tế lãi suất được công bố tại các ngân hàng là lãi suất danh nghĩa trong khi đó triển vọng của lãi suất thực lại có ảnh hưởng đến các kỳ vọng và hoạt động chi tiêu và đầu tư bởi trong thời kỳ lạm phát, lãi suất danh nghĩa không phải thước đo chính xác việc vay tiền. - Do vậy các doanh nghiệp, cá nhân thường căn cứ vào lãi suất thực để đưa ra quyêt định đầu tư của mình. I=I(r) Trong đó r là lãi suất thực tế. Mô hình chỉ ra rằng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất. - Lãi suất có tác động ngược chiều với đầu tư. Khi lãi suất tăng , nhu cầu đầu tư càng thấp và ngược lại khi lãi suất giảm đầu tư lại tăng.
  24. - Đặc biệt tác động của lãi suất đến đầu tư của khu vực tư là nhạy hơn so với khu vực công bởi lẽ các doanh nghiệp nhà nước được nhiều chính sách hỗ trợ hơn do đó cũng ảnh hưởng nhiều đến sự phân chia khu vực công và khu vực tư. - Bên cạnh đó các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài thường so sánh mức lãi suất giữa các nước khác nhau để đầu tư. Đồng nghĩa với việc nếu lãi suất trên thị trường nội đia thấp hơn lãi suất các nước khác, đồng nghĩa với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài rất quan trọng đối với một quốc gia, nó giúp quốc gia đó phát triển , chính vì thế hình thành một môi trường kinh doanh ổn định trong đó điều tiết lãi suất hợp lý rất quan trọng vì nó là công cụ thu hút vốn đầu tư nước ngoài đồng thời ngăn chặn thất thoát vốn trong nước. - Lãi suất là giá cả của vốn đầu tư nên một sự thay đổi nhỏ của lãi suất sẽ tác động đến quy mô vốn đầu tư thông qua những tác động đến giá cả , hành vi người tiêu dùng. Tác động nay trên hai phương diện: 1) Tác động đến chi tiêu dùng và đầu tư: - Lãi suất tăng khiến cho lãi suất cho vay và lãi suất gửi tiền tăng chính vì thế làm giảm sự hấp dẫn trong việc chi tiêu dùng và đầu tư. - Thực tế cho thấy việc tăng lãi suất, đối với các hộ gia đình nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị lâu dài giảm và các hộ gia đình có xu hướng gửi tiết kiệm đề nhận một mức lợi tức cao hơn. Còn khi lãi suất giảm, thì họ sẽ có khuynh hướng rút tiền gửi tiết kiệm và đầu tư vào bất động sản hoặc chứng khoán để bảo vệ sức mua. Điều này sẽ tạo nên bong bóng trên thị trường bất động sản và ngay lập tức sẽ làm cho CPI có xu hướng gia tăng. - Đối với các doanh nghiệp, yếu tố quan trọng khi lãi suất tăng là lãi suất cho vay cũng tăng theo làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều đó khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô đầu tư. Các dự án có thể bị cắt giảm, đầu tư vào các tài sản cố định gặp nhiều khó khăn và đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chính
  25. sách điều hành hiệu quả để tận đụng tối đa nguồn vốn của mình. Mặt khác khi lãi suất giảm, các doanh nghiệp đầy mạnh quy mô đầu tư và mua sắm tài sản cố định. 2) Tác động đến phân phối lại thu nhập : - Lãi suất còn có tác dụng phân phối lại nguồn thu nhập từ nơi “ thừa vốn” đến nơi “ thiếu vốn”. Giúp cho những người đang có nhu cầu cần vốn để đầu tư đồng thởi mang lại một khoảng thu nhập cho người cho vay. - Trong tình hình kinh tế lạm phát như hiện nay, lãi suất là một vấn đề nhạy cảm khi mà ngân hàng nhà nước đang hạ mức lãi suất cho vay cũng lãi suất huy động. - Trong thời kỳ lạm phát, cầu tiền đầu tư tăng trong khi đó cung tiền đầu tư giảm khiến cho lãi suất cho vay và huy động tăng mạnh. Gây khó khăn trong việc huy động vốn cho đầu tư. Tiêu biểu tình hình Việt Nam năm 2008, lãi suất huy động luôn ở mức 18% / năm trong khi lãi suất cho vay là 22%-24%/năm. - Khi tình hình kinh tế ổn định hơn, tình hình trên không còn diễn ra, cung tiền và cầu tiền đều tăng kiến cho lãi suất tăng nhưng ở mức tăng vừa phải có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế. Trong giai đoạn này chính phủ nên đẩy mạnh đầu tư phát triển, mở rộng quy mô sản xuất. - Tóm lại lãi suất là một công cụ tài chính quan trọng của mỗi quốc gia trong việc điều hành chính sách tiền tệ, để thực hiện mục tiêu kinh tế của mỗi nước trong mỗi giai đoạn. - Quy mô vốn đầu tư phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố trong đó lãi suất là một trong những nhân tố quan trọng quyết định quy mô đầu tư. Các nhà đầu tư thường đi vay vốn để đầu tư, khi đó họ phải trả lãi suất cho các khoản vay đó, đó là giá cả của khoản tiền vay. Khi lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, nhà đầu tư không thu được lợi nhuận từ các dự án đầu tư. Khi đó sẽ có ít các nhà đầu tư vay vốn và quy mô vốn đầu tư theo đó cũng thu hẹp . Ngược lại khi lãi suất thấp khi đó sẽ kích thích các nhà đầu tư vay
  26. vốn, khi đó quy mô vốn đầu tư sẽ tăng. Vì vậy có thể thấy giữa lãi suất vốn vay và quy mô vốn đầu tư có quan hệ tỷ lệ nghịch. Ta có thể thấy rõ mối quan hệ đó qua phương trình sau: I = I0 – bi Trong đó : I : đầu tư dự kiến i : lãi suất trung bình/ năm Io : đầu tư tư đinh (đầu tư không phụ thuộc vào lãi suất ) b : độ nhạy cảm của đầu tư đối với lãi suất. - Ta thấy lãi suất và đầu tư có quan hệ tỷ lệ nghịch, khi lãi suất tăng thi đầu tư giảm và ngược lại. II) Tác động của quy mô đầu tư đến lãi suất: - Quy mô đầu tư thể hiện ảnh hưởng của mình đến lãi suất cho vay khi nó có nguồn gốc đù mạnh để tác động thị trường. Thông thường là qua một trung gian tài chính như ngân hàng thương mại hoặc các quỹ đầu tư tài chính. - Cung cầu của các quỹ cho vay gây ảnh hương đến mức dộ huy động vốn trên thị trường. Nếu giữa các quỹ này có sự chênh lệch về cung cầu thì gián tiếp ảnh hưởng đến cung cầu tiền trong nước. Khi đó ngân hàng nhà nước sẽ dùng lãi suất để can thiệp nhằm bình ổn thị trường. - Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, do chi phí cận biên tăng nên họ thường ít mở rộng sản xuất mà thường tập trung vào nâng cao chất lượng sản xuất. Vì vậy lãi suất cho vay ít ảnh hưởng hơn nhiều. Còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ có đặc điểm là ít vốn, lợi nhuận chưa cao nên phải mở rộng quy mô để phát triển, hay cần nhiều vốn. Lãi suất sẽ tác động mạnh tới việc mở rộng quy mô. Như vậy, lãi suất tiền vay ảnh hưởng nhiều đến doanh nghiệp vừa và nhỏ.
  27. PHẦN III VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VAY VỚI QUY MÔ ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2000-2010 I) Thực trạng và đánh giá lãi suất Việt Nam trong giai đoạn 2000 đến nay 1) Thực trạng: - Lãi suất là một biến số và nhạy cảm, nó tác động đến hành vi tiêu dùng của xã hội. Trong những năm qua Việt Nam cũng như các nước luôn có chính sách thay đổi lãi suất sao cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Trong những năm 2000-2010 là giai đoạn mà tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam có những biến động lớn, chính vì thế với mục tiêu bình ổn kinh tế mà ngân hàng nhà nước Việt Nam luôn phải điều chỉnh lãi suất liên tục nhằm kiềm chế lạm phát và giúp tăng trưởng kinh tế. - Các chỉ tiêu quan trọng khi nhắc đến lãi suất là lãi suất cơ bản, bởi theo lý thuyết đây là chỉ tiêu lãi suất cơ bản định hướng chung cho lãi suất trong nước và chúng tác động trực tiếp chi tiêu của các doanh nghiệp, người dân và đến nền kinh tế Việt Nam. - Lãi suất cơ bản ở Việt Nam xuất hiện lần đầu tiên trong Luật Ngân hàng nhà nước (1997), theo đó, “Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”i. Tuy nhiên, mãi đến năm 2000, Ngân hàng nhà nước mới có quy định cụ thể về việc áp dụng lãi suất cơ bản, cụ thể là: - Ngân hàng nhà nước (NHNN) công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo quyết định của Thống đốc NHNN trong từng thời kỳ - Lộ trình tự do hóa lãi suất và thực hiện chính sách lãi suất huy động vốn của Viêt Nam chia thành nhiều giai đoạn, mỗi sự thay đổi của chính sách lãi suất đều dẫn tới sự thay đổi của quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế. Xét quá trình ảnh hưởng của lãi suất tới đầu tư phát triển của Việt Nam từ năm 2000 -2010 tình hình lãi suất cơ bản nhìn
  28. chung thay đổi qua 3 giai đoạn theo chuyển biến của nền kinh tế. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất cho vay, lãi suất huy động. 1.1) Giai đoạn 1: Từ năm 2000 đến 5/2008: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1/2/2008 Lãi suất cơ bản 7.20 8 7.20 7.50 7.50 7.80 8.25 8.25 8.75 - Ngân hàng Nhà nước có những thay đổi mang tính bước ngoặt trong điều hành lãi suất. Cơ chế lãi suất thoả thuận từ ngày 01/6/2002 đã xoá bỏ biên độ khống chế lãi suất cho vay, cho phép các tổ chức tín dụng được tự do thoả thuận lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam dựa theo quan hệ cung – cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, song mức lãi suất cho vay cao nhất không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định. Sang những tháng đầu năm 2003, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất mà theo đó lãi suất tái cấp vốn đóng vai trò lãi suất trần, lãi suất tái chiết khấu là lãi suất sàn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở đóng vai trò là công cụ điều hành thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước còn áp dụng lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước làm phương tiện thường xuyên điều tiết lãi suất liên ngân hàng; tiếp tục công bố lãi suất cơ bản nhằm mục đích định hướng lãi suất thị trường. - Dựa vào bảng số liệu trên ta nhận thấy trong giai đoạn này, lãi suất cơ bản tăng dần qua các năm đặc biệt từ năm 2000 đến 1/5/2008 cùng với mức lãi suất cao nhất cho phép giao dịch tăng từ 50% lãi suất lãi suất cơ bản lên 150% lãi suất cơ bản. Chính vì thế các ngân hàng thương mại đua nhau tăng lãi suất cho vay gây khó dễ cho nhà đầu tư. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ nói họ buộc phải thu hẹp đầu tư, sản xuất cầm chừng, giảm tối đa vay mượn từ ngân hàng. 1.2) Giai đoạn 2: Từ tháng 5/2008 đến tháng 12/2008: Năm 5/2008 6/2008 10/2008 5/11/2008 21/11/2008 5/12/2008 22/12/2008 Lãi suất cơ bản 12% 14% 13% 12% 11% 10% 8.75% Lãi suất cao nhất cho phép cho giao dịch là 150% lãi suất cơ bản.
  29. - Sau tết, cùng với sự phát triển nóng của nền kinh tế dẫn đến lạm phát cao 25% vào tháng 5/2008 buộc ngân hàng nhà nước Việt Nam phải tăng lãi suất cơ bản để hạn chế tăng tín dụng . Vào ngày 18/5/2008 NHNN VN tăng lãi suất cơ bản từ 8,75% lên 12%/năm. Qua đó mức lãi suất trần cho vay tối đa là 18%. Đến tháng 6/2008, một lần nữa ngân hàng nhà nước Việt Nam tăng lãi suất cơ bản lên 14%/ năm nâng mức lãi suất trần cho vay tối đa là 21%/năm. - Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng (lãi suất cho vay tái cấp vốn) cũng tăng từ 18%-21% đối với các khoản cho vay ngắn hạn. Tình trạng giảm thanh khoản buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động lên tới 17%-19% - Nguyên nhân khiến cho lãi suất bị đẩy lên cao này là do vì thiếu tiền, vì ngân hàng thắt chặt tín dụng và tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng thêm 1%. Muốn có vốn ngân hàng phải huy động lãi suất cao, cho vay cao, từ đó tạo ra vòng luẩn quẩn không thoát ra được. Lãi suất gia tăng bắt nguồn từ cuộc đua huy động tiền gửi do các ngân hàng nhỏ khơi mào. Các ngân hàng này buộc phải dựa vào nguồn vốn từ thị trường tự do để tăng thanh khoản, họ đẩy lãi suất tiền gửi lên cao để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi của dân. - Đến chiều ngày 3/12/2008, NHNN Việt Nam đã họp và thông báo việc điều chỉnh lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam và Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam để quán triệt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và NHNN về mục đích của việc thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ là nhằm tạo điều kiện cho các TCTD và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đảm bảo khả năng huy động vốn và thanh toán, hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả, giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất. - Ngay sau khi ngân hàng nhà nước công bố các Quyết định điều chỉnh giảm các mức lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc nêu trên, các ngân hàng thương mại đã công bố điều chỉnh giảm lãi suất huy động và cho vay, thị trường phản ứng khá tích cực đối với các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước, cụ thể là:
  30. - Các ngân hàng thương mại ban hành các quyết định lãi suất cho vay bằng VND áp dụng từ ngày 5/12/2008 với mức lãi suất cho vay thấp nhất là 0,83%/tháng (10%/năm) và mức lãi suất cho vay phổ biến là 1,08%/tháng - 1,17%/tháng (13%-14%/năm), lãi suất cho vay cao nhất là 1,25%/tháng (15%/năm). Mức lãi suất này tương đương với mức lãi suất cuối năm 2007 và thấp nhất trong năm 2008 (giảm 6-11%/năm so với thời điểm cao nhất cuối tháng 6/2008) - Bên cạnh việc điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần điều chỉnh giảm lãi suất huy động bằng VND, với mức giảm khoảng 1-2%/năm; cụ thể là: Mức lãi suất huy động dưới 3 tháng giảm từ 10%/năm xuống 8-9%/năm, kỳ hạn từ 3 đến 12 tháng giảm từ 11%/năm xuống 9- 10%/năm, kỳ hạn 12 tháng giảm từ 12%/năm xuống 10-10,5%/năm và trên 12 tháng từ 10%/năm xuống 8-9%/năm. - Phản ứng bước đầu của thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng là khá tích cực đối với các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam: Ngày 5/12/2008, lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm và kỳ hạn dưới 1 tháng từ 9,5-10,5%/năm, giảm khoảng 1-1,5%/năm so với ngày 4/12/2008; Thị trường tiền tệ tiếp tục dư cung vốn khả dụng, ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại quản trị tốt vốn khả dụng. - Đến ngày 22/12/2008, một lần nữa ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp tục hạ lãi suất cơ bản xuống 8,5%/năm và không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. - Như vậy trong quý 4/2008, ngân hàng nhà nước đã ban hành các văn bản điều chỉnh lãi suất theo hướng nới lỏng đồng thời điều chỉnh giảm các tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Tính đến cuối quý 4, lãi suất cơ bản ở mức 8,5%/năm, lãi suất chiết khấu ở mức 7,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn 9,5%. Như vậy, trong quý 4/2008, ngân hàng nhà nước đã 5 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14% vào đầu tháng 10 xuống 8,5% vào ngày 22/12/2008.
  31. 1.3) Giai đoạn 3: Từ năm 2009-2010. Năm 1/2/2009 1/12/2009 5/11/2010 Lãi suất cơ bản 7.00% 8% 9.00% Mức lãi suất cao nhất cho phép giao dịch là 150% lãi suất cơ bản. - Trước thực trạng hoạt động ngân hàng thương mại trong 7 tháng đầu năm 2009, chính sách tiền tệ trong năm 2009 và đặc biệt là trước những chuyển động mới của các NHTM, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục tăng cường kiểm soát chất lượng và hoạt động tín dụng, đảm bảo an toàn hệ thống. Ngày 10/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký ban hành Thông tư số 15/2009/TT-NHNN quy định tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam, trừ quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Theo thông tư này tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn được quy định: với các ngân hàng thương mại là 30%; với các công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính là 30%; với quỹ tín dụng nhân dân trung ương là 20%. Theo quy định cũ, các tỷ lệ tối đa đối với các ngân hàng thương mại là 40%, với các tổ chức tín dụng khác là 30%. - Vào tháng 2/2010 , thực hiện cơ chế lãi suất thuận với lãi suất cho vay. Riêng đối với lãi suất huy động thực hiện theo trần lãi suất ngân hàng 14%/năm. NHNN vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản hàng tháng với mục đích định hướng thị trường và chống cho vay nặng lãi. Ngân hàng nhà nước vẫn tiếp tục sử dụng các công cụ : Dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thi trường mở để tác động gián tiếp tới lãi suất thị trường 2) Đánh giá: - Nhỉn chung tỉnh hỉnh lãi suất Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010, NHNN liên tục điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản đặc biệt là trong năm 2008 lãi suất cho vay quá cao khiến khách hàng không chịu nổi và ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được nợ. Tuy nhiên, đến nay với sự điều chỉnh của Ngân hàng nhà nước bắt đầu giảm lãi suất cho vay. - Một số nguyên nhân của vấn đề tăng lãi suất :
  32. + Sự biến động của giá dầu mỏ và giá vàng trên thế giới cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự biến động của lãi suất Việt Nam + Do sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các ngân hàng thương mại, ngân hàng cổ phần nên các ngân hàng phải diều chỉnh lãi suất để giữ thị phần khách hàng, ổn định nguồn vốn. + Việc tăng dự trữ bắt buộc của các ngân hàng tăng lên buộc các ngân hàng đẩy mạnh việc huy động vốn. + Sự chênh lệch tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Đồng nội tệ mất giá nhiều hơn so với đồng ngoại tệ. - Trước tình hình đó thì vào năm 2009, lãi suất bắt đầu hạn nhiệt do: + Ngân hàng nhà nước tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, nghiêm cấm việc thu thêm phía ngoài lãi suất cho vay dưới bất cứ hình thức nào và thường xuyên báo cáo lên ngân hàng nhà nước. + Chỉ số tiêu dùng CPI có xu hướng giảm, nhập siêu giảm mạnh, diễn biến kinh tế vĩ mô có chiều hướng tích cực, các biện pháp kiềm chế lạm phát đang bắt đầu có hiệu quả. Tình hình này tác động tới tâm lý của cả các ngân hàng thương mại trong cạnh tranh huy động vốn và tâm lý người gửi tiền theo chiều hướng tích cực + Thị trường ngoại tệ hạ nhiệt, giá USD có xu hướng giảm đã góp phần ngăn chặn tình trạng rút vốn tiền nội tệ mua ngoại tệ để cất trữ. + Tính thanh khoản của nền kinh tế chuyển biến tích cực hơn. II) Thực trạng và đánh giá quy mô vốn đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010 1) Quy mô vốn đầu tư trong nước: 1.1) Vốn nhà nước: - Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, trong những năm gần đây tổng vốn đầu tư trong xã hội cũng đã liên tục tăng cao. Xét về cơ cấu, khu vực kinh tế Nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng đầu tư xã hội, mặc dù tỷ trọng của khu vực này đã giảm từ 59,1% vào năm 2000 xuống còn 33,9% năm 2008, thấp hơn tỷ trọng của khu vực
  33. kinh tế ngoài quốc doanh, nhưng năm 2009 lại tăng trở lại mức 40,6% và trở về vị trí số một trong cơ cấu vốn đầu tư xã hội. Hình 1: Vốn đầu tư trong toàn xã hội (nghìn tỷ đồng, so sánh với năm 1994) Nguồn : Tổng cục thống kê niên giám 2009 - Tính theo giá so sánh năm 1994, vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước đã tăng từ 68,1 nghìn tỷ đồng năm 2000 lên 173,1 nghìn tỷ đồng năm 2009, bình quân mỗi năm tăng gần 11% - Do đầu tư công tăng nhanh nên vốn sản xuất và tài sản cố định có nguồn công tăng lên nhanh chóng trong nền kinh tế, với tốc độ tăng bình quân hàng năm vào khoảng 15%, mặc dù tỷ trọng tương đối đang có xu hướng giảm đi (từ mức 2/3 năm 2000, giảm xuống còn khoảng 50% năm 2006) và tiếp tục giảm thấp hơn trong các năm gần đây. - Trong khi lao động trong khu vực Nhà nước không thay đổi bao nhiêu, thì trình độ trang bị vốn của lao động khu vực Nhà nước đang tăng lên nhanh chóng. Tài sản cố định và vốn đầu tư dài hạn của một lao động khu vực DNNN năm 2004 có 160 triệu đồng;
  34. năm 2005 là 239 triệu đồng, năm 2006 tăng lên đến 418 triệu đồng và năm 2007 đạt 511 triệu đồng (trung ương 613 triệu đồng và địa phương 225 triệu đồng), tức là trong 4 năm mà trang bị vốn đã tăng hơn 3 lần cho lao động của khu vực kinh tế Nhà nước. 1.2) Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: - Cùng với quá trình đổi mới mở cửa, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2001_2005 nguồn vốn này chiếm 14% tổng vốn đầu tư phát triển. Trong những năm tiếp theo nguồn vốn này sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỷ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể. Ngày 19/9/2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị định số 106/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư ( miễm giảm chính sách ưu đãi tín dụng ) .Tuy nhiên, cũng phải nói rõ thêm là việc điều chỉnh lãi suất tín dụng nhà nước khác với việc điều chỉnh lãi suất của hệ thống ngân hàng thương mại. Lãi suất của hệ thống NHTM dựa vào cung - cầu vốn trên thị trường để đưa ra lãi suất cho vay, còn việc điều chỉnh lãi suất tín dụng nhà nước phải căn cứ vào lãi suất huy động thị phần cổ phiếu để xác định lãi suất cho vay phù hợp. Mức lãi suất tín dụng nhà nước hiện tại là phù hợp với mục tiêu chung, một mặt tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, mặt khác giảm bớt cấp bù của ngân sách. 1.3) Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: - Theo bộ kế hoạch và đầu tư, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư thường chiếm 14%-15% tổng vốn đầu tư xã hội, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.na 1.4) Nguồn vốn của dân cư và tư nhân: - Đây là nguồn vốn hiệu quả, linh hoạt, giải quyết công ăn việc làm đáng kể. Trong giai đoạn 2001 - 2005, nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Trong giai đoạn tiếp theo, nguồn vốn này sẽ tiếp tục tăng về cả quy mô và
  35. tỷ trọng. Khu vực tư nhân trong nước của Việt Nam đã phát triển rầm rộ kể từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp vào đầu năm 2000. Luật này đã góp phần tạo ra khoảng 62.300 doanh nghiệp với tổng số vốn đầu tư khoảng 7,4 tỷ USD. Năm 2001, khu vực này chiếm khoảng 25% tổng số vốn đầu tư ở Việt Nam so với 20% của khu vực đầu tư nước ngoài.Tính riêng năm 2007, vốn đầu tư trong nước của tư nhân và doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng và mức tăng trưởng cao nhất, đạt 106 ngàn tỷ đồng (tăng 19.5%). Trong năm 2006 - 2010, nguồn vốn này chiếm 28.6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên hiệu quả của đầu tư càng thấp và ngày càng giảm thể hiện qua chỉ số ICOR còn khá cao. Có bảng số liệu: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 ICOR 4,9 5,1 5,25 5,22 4,97 4,7 4,93 4,77 6,66 8 6,3 (Nguồn: Tổng cục thống kê niên giám 2010) Tính bình quân 3 giai đoạn: giai đoạn 1995-2000, 2000-2005, 2005-2010 hệ số này tăng lên một cách đáng kể lên. Nguồn:
  36. - Như vậy hệ số ICOR tăng nhanh trong ba giai đoạn, giai đoạn 1995-2000 hệ số này chỉ là 3,7 thế nhưng trong giai đoạn 2000-2005 hệ số này đã tăng lên là 5,01 và đến giai đoạn 2006-2010 là 6,13. Với mục đích duy trì tốc độ tăng trưởng cao, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã được nới lỏng. Tốc độ tăng trưởng phương diện thanh toán và tín dụng trong giai đoạn 2006-2010 tăng lên nhanh hơn giai đoạn 2000-2005 và giai đoạn 1999-2000; bội chi ngân sách cũng vượt lên trên 5% GDP. Hệ quả là nền kinh tế đã trở nên “nóng” ( tốc độ tăng trường sản lượng thực tế vượt quá sản lượng tiềm năng) và vì lạm phát gia tăng, các cân đối vĩ mô bị phá vỡ. Do vậy ICOR tăng nhanh đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư bị giảm sút này đang xảy ra với vốn đầu tư toàn xã hội. ICOR tăng là một xu hướng tất yếu do sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên ICOR tăng nhanh lại luôn là không bình thường và đáng lo ngại trong quá trình phát triển của mọi nền kinh tế. So với các nước khác trong khu vực ICOR Việt Nam cao hơn và các nhà kinh tế cho rằng, hệ số ICOR của nước ta hiện nay đã vượt qua ngưỡng an toàn. Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia châu Á Nguồn: World Development Indicators and Economics Interlligence unit 2010
  37. - Thực trạng này có thể giải thích do sự kết hợp của sức mạnh tài chính, hiệu quả chi tiêu của nhà nước và phạm vi cạnh tranh tín dụng sẽ tác động đến ICOR. Theo khía cạnh này thì Việt Nam có thể tụt hậu so với các nước cạnh tranh. Động thái tăng ICOR của toàn bộ nền kinh tế gắn với tốc độ tăng nhanh của đầu tư nhà nước và khu vực FDI. Nhưng nếu ICOR cao của khu vực FDI có thể biện minh được bằng suất đầu tư cao (vốn đắt, trình độ công nghệ - kỹ thuật cao) và năng suất lao động cao thì đối với nhà nước, vấn đề lại liên quan đến chất lượng đầu tư, năng lực quản lý ở cấp vĩ mô lẫn vi mô và năng suất lao động thấp. Hơn nữa trong thời gian qua đầu tư nhà nước lại tập trung nhiều vào một loạt các siêu dự án kéo dài và gặp vô số vấn đề chỉ giúp tăng GDP trong năm đầu tư, còn lại gây lãng phí và tổn thất cho xã hội. 2) Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam: Đây là nguồn đóng góp chính cho các hoạt động đầu tư vào Việt Nam hiện nay, chủ yếu là FDI và ODA. 2.1) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI - Hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài- FDI, là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển của các quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nhằm tạo ra một hành lang pháp lý để thu hút đầu tư nước ngoài, ngày Luật đầu tư nước trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam chính thức hoạt động. Nguồn:
  38. - Từ năm 2000, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi sau ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và tiền tệ châu á. Vốn đăng ký năm 2000 đạt 2,5 tỷ USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 tăng 6% so với năm 2002. Vốn FDI có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004, với tốc độ tăng 45,1% vào năm 2004 và 50,8% vào năm 2005. Tổng vốn đăng ký thời kỳ 2001-2005 đạt 20,8 tỷ USD vượt xa 73% so với mục tiêu tại Nghị Quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 2001-2005, Vốn đầu tư nước ngoài cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước( tỷ trọng trung bình 59,5%) , nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. - Kể từ năm 2006 đến 2008, dòng ĐTNN vào Việt Nam tăng đột biến, hàng năm luôn đạt kỷ lục so với các năm trước. Năm 2006 vốn FDI đăng ký đạt 12 tỷ USD, năm 2007 đạt 21,3 tỷ USD, năm 2008 con số này lên tới 71,7 tỷ USD, gấp hơn 3 lần so với năm 2007. Trong 2009 và 2010, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, cũng như những vấn đề hậu khủng hoảng, vốn FDI đăng ký vẫn đạt khoảng 23,1 tỷ vào năm 2009 và 18,6 tỷ vào năm 2010. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta tăng đáng kể với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong ngành công nghiệp( sản xuất thép, diện tử, sản phẩm công nghệ cao, ) và dịch vụ ( Cảng biển, du lịch, ) - Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỷ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỷ USD, năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều so với các năm trước. Trong năm 2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng vốn FDI thực hiện vẫn đạt 10 tỷ USD vào năm 2009 và khoảng 11 tỷ vào năm 2010, với tỷ trọng tương ứng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 25,6% và 25,8%. Nếu nhìn bình diện chung so với các nước đang phát triển trong thời kỳ này, Việt Nam là một trong 15 nước được tiếp nhận luồng FDI lớn nhất trên thế giới và các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt
  39. Nam đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng trong thời gian qua, mức tăng trưởng của khu vực này luôn tăng cao hơn so với mức tăng trưởng kinh tế so với các khu vực khác và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư doanh nghiệp. - Tuy nhiên bên cạnh những thành công, hoạt động thu hút FDI trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số vấn đề nghiêm trọng. Đây là những rủi ro rất đáng quan tâm đối với Việt Nam: + Nguy cơ “thổi phồng” về vốn và lợi nhuận, + Nguy cơ yêu cầu quá lớn về nguồn cung cấp năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, đất đai + Nguy cơ về ô nhiễm môi trường + Nguy cơ không phù hợp với quy hoạch phát triển gây mất cân đối về cơ cấu trong quá trình phát triển lâu dài của đất nước. + Nguy cơ sử dụng công nghệ lạc hậu. + Nguy cơ rút vốn của khu vực tư nhân trong nước + Nguy cơ ngoại tệ và tỷ giá trong tương lai 2.2) Vốn viện trợ nước ngoài (ODA) - ODA là khoản vay của chính phủ nước ngoài hay các tổ chức quốc tế nhằm mục tiêu phát triển kinh tế. Lãi suất cho vay ODA thường thấp và có những khoản không hoàn lại. Chính vì thế đây là nguồn vốn quan trọng nhằm giúp phát triển hạ tầng, các dự án phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 2000-2010, Việt Nam đã thu hút một lượng đáng kể nguồn vốn ODA. Việt Nam có hơn 51 nhà tài trợ. Một số nhà tài trợ song phương lớn của Việt Nam như Australia, Đức, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc .Một số nhà tài trợ đa phương lớn bao gồm: Các tổ chức tài chính quốc tế ( Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng phát triển châu Á(ADB) ), liên minh châu Âu - Vào ngày 29/12/2006 Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 290/2006/QĐ- TTg phê duyệt đề án thu hút và sử nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2005-2010 bao gồm:
  40. + Phát triển nông nghiệp và nông thôn( nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp , thuỷ sản) + Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại + Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển một số lĩnh vực khác) + Bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. + Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai. - Công tác thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trong giai đoạn 2000-2010 đã được thực hiện tích cực, theo chủ trương của Đảng và nhà nước Việt Nam, đó là “ Việt Nam sẵn sàng là một đối tác vững chắc trong cộng đồng quốc tế, nổi bật cho hoà bình, độc lập và phát triển”. Nguồn vốn ODA viện trợ cho Việt Nam luôn tăng qua các năm đạt cao nhất vào năm 2010 với số vốn lên tới 8,06 tỷ USD - Năm 2011 nguôn vốn ODA dành cho Việt Nam vẫn được cam kết ở mức cao khoảng 7,88 tỷ USD. Theo dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2011-2015, để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7-7,5% - Những khó khăn trong việc huy động ODA: + Những quy định còn rườm rà gây khó khăn cho hoạt động đầu tư + Vốn ODA chưa được sử dụng hợp lý + Việc giải ngân vốn còn chậm + Các nguồn vốn ODA cho Việt Nam ngày càng ít ưu đãi hơn III) Lãi suất tác động đến quy mô đầu tư Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010: 1) Mô hình hồi quy tuyến tính 3 biến. Hàm hồi quy tuyến tính 3 biến có dang: E(Y/ X2,X3)= β1+ β2 X2 + β3X3 Trong đó: Y là biến phụ thuộc (Biến được giải thích) X2 X3 là các biến độc lập( Biến được giải thích)
  41. Áp dụng vào mô hình hồi quy tuyến tính của 3 biến: Lãi suất cơ bản, vốn đầu tư và GDP Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010. Có I: Biến phụ thuộc (Biến được giải thích). R: Lãi suất cơ bản của các năm giai đoạn 2000-2010. GDP : Tổng sản phẩm quốc nội Việt Nam giai đoạn 2000-2010. Với nguồn số liệu từ Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và Tổng Cục Thống Kê. Ta có dữ liệu của các biến như sau: a) Dữ liệu lãi suất cơ bản giai đoạn 2000-2010: Dữ liệu được cung cấp dựa vào Ngân hàng nhà nước Việt Nam, ta có: Lãi suất cơ bản từ năm 2000-2007: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 7,2 8 7,2 7,5 7,5 7,8 8,25 8,25 Nguồn dữ liệu: Ngân hàng nhà nước Việt Nam Từ năm 2008- 2010, do lãi suất cơ bản thay đổi liên tục nên ta áp dụng công thức chỉ mức độ trung bình theo thời gian với khoảng cách giữa các thời điểm không bằng nhau và thời gian nghiên cứu là liên tục: = Trong đó : yi : mức độ thứ i trong dãy số. ti : độ dài thời gian tương ứng với mức độ thứ i Xét năm 2008: Ngày thực hiện Ngày kết thúc Số ngày áp dụng Lãi suất cơ bản 1/1/2008 31/1/2008 31 8,25%
  42. 1/2/2008 18/5/2008 107 8,75% 19/5/2008 10/6/2008 21 12% 11/6/2008 20/10/2008 132 14% 21/10/2008 4/11/2008 15 13% 5/11/2008 20/11/2008 16 12% 21/11/2008 4/12/2008 14 11% 5/12/2008 21/12/2008 17 10% 22/12/2008 31/12/2008 12 8.5% ( Nguồn : Ngân hàng nhà nước Việt Nam) Áp dụng công thức tính mức độ trung bình theo thời gian ta có =11,247%. Xét năm 2009: Ngày thực hiện Ngày kết thúc Số ngày áp dụng Lãi suất cơ bản 1/1/2009 31/1/2009 31 8,75% 1/2/2009 31/11/2009 303 7% 1/12/2009 31/12/2009 31 8% ( Nguồn : Ngân hàng nhà nước Việt Nam) Áp dụng công thức tính mức độ trung bình theo thời gian ta có =7,234%. Xét năm 2010: Ngày thực hiện Ngày kết thúc Số ngày áp dụng Lãi suất cơ bản 1/1/2010 4/11/2010 308 8% 5/11/2010 31/11/2010 303 9% ( Nguồn : Ngân hàng nhà nước Việt Nam) Áp dụng công thức tính mức độ trung bình theo thời gian ta có = 8,156%.
  43. b) Dữ liệu vốn đầu tư và GDP giai đoạn 2000-2010: Với nguồn từ Tổng Cục Thống Kê ta có bảng dữ liệu sau: Năm I GDP 2000 151183 442055,6 2001 170496 481627,1 2002 200145 538024,2 2003 239246 632925,9 2004 290927 753696,9 2005 343135 857837,5 2006 404712 1004248 2007 532093 1310574 2008 616735 1064437 2009 708826 1671759 2010 830278 1944445 ( Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam niên giám 2010) Mối quan hệ giữa lãi suất cơ bản, quy mô vốn đầu tư và GDP : Nhập biến I, GDP, R Sử dụng công thức: Genr lggdp = log(gdp) Genr lgi=log(i) Genr lgr =log(r) Nhằm tạo ra các biến lgr, lgi, lggdp. Kiểm định dừng các biến lgr, lgi, lggdp. Ta nhận thấy các biến lgr,lggdpvà R đều là những chuỗi dừng:
  44. Chọn Quick / Estimate Equation Nhập công thức : lgi C lggdp lgr Ta có bảng dữ liệu sau:
  45. Ta có kết quả hồi quy: lgi =-4,042222+ 1,102501 lggdp +0,833910 lgr Nhận xét: Ta xét ở đây là lãi suất cơ bản do vậy tác động của nó đến đầu tư không mạnh bằng lãi suất cho vay và lãi suất tiết kiệm bởi lẽ lãi suất cơ bản được ban bố bởi ngân hàng trung ương nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Do vậy nó tác động đối với nền kinh tế theo hai mặt khác nhau: Một là nhằm thúc đẩy nền kinh tế do vậy đầu tư sẽ được mở rộng nhưng đồng thời cũng gây khó khăn cho nền kinh tế bởi lãi suất cơ bản khi được ban bố, các ngân hàng thương mại sẽ dựa vào ra đưa ra mức lãi suất cho vay và lãi suất tiết kiệm. Nó sẽ tác động đến đầu tư theo hướng nghịch biến. Như vậy lãi suất cơ bản vừa tác động nghịch biến vừa tác động thuận chiều với đầu tư. Dựa vào mô hình trong giai đoạn 2000-2010, lãi suất cơ bản có tác động cùng chiều với đầu tư. - Dựa vào bảng kết quả trên kiểm định Durbin-Watson stat = 2,0788, do vậy 3 biến trên không có sự tự tương quan bậc nhất. - Hệ số R-squared =0,993092 rất cao
  46. - Hệ số P_value ứng lgGDP =0,0000 và lgR= 0,0004 rất nhỏ, cả hai đều bé hơn 0,5 do vậy cả 2 biến trên đều có ý nghĩa thống kê. Ta có đồ thị biểu diễn sự tự tương quan của các biến: 2) Đánh giá tác động của lãi suất đến quy mô vốn đầu tư chung trong giai đoạn 2000-2010. Nhằm đánh giá một cách toàn diện sự tác động của lãi suất đến quy mô vốn đầu tư chung trong giai đoạn 2000-2010. Ta chia ra làm hai giai đoạn : 2.1) Giai đoạn 2000-2007: - Bắt đầu từ tháng 8/2000 trần lãi suất bắt đầu bị phá bỏ thay thế trần lãi suất bằng một cơ chế mới trong đó lãi suất cho vay ngoại tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố. Từ lúc này các ngân hàng bắt đầu ấn định mức lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Chính sách này có nhiều tích cực nhưng đối tượng nông dân và doanh nghiệp các vùng nông thôn khó tiếp cận được với những khoản vốn vay của ngân hàng bỏi việc đến các vùng nông thôn đòi hỏi chi phí cao trong khi các tổ chức tín dụng lại bị khống chế bởi trần lãi suất cho vay. Do vậy các doanh nghiệp các hộ nông dân phải đi vay với lãi suất gấp 4 lần lãi suất ngân hàng. Chính vì thế quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế chưa thực sự được mở rộng. Đến tháng 6/2002 lãi suất được tự do hóa hoàn toàn trên cơ sở các ngân hàng tự thẩm định và
  47. thương lượng với khách hàng.Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố chỉ có tính chất tham khảo. Lãi suất tiền gửi tiếp tục gia tăng đồng thời lãi suất cho vay của các ngân hàng đã ngay lập tức nhích lên. Các ngân hàng thương mại tùy vào mức độ rủi ro của các dự án vay vốn mà ấn định các mức lãi suất khác nhau. Hoạt động lãi suất phản ánh cung cầu vốn vay trên thi trường. Các đối tượng vay như hộ gia đình, nông dân hay các doanh nghiệp nhỏ không còn bị loại ra khỏi cuộc chơi như trước đây. Trong nền kinh tế nhiều đối tượng hơn được tiếp cận với quy mô vốn của các ngân hàng, do đó quy mô vốn vay của nền kinh tế được mở rộng. Ta có bảng số liệu sau: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Lãi suất cơ bản 7.2 8 7.2 7.50 7.5 7.80 8.25 8.25 Tốc độ tăng trưởng(%) 6,7 6,9 7,08 7,24 7,79 8,4 8,17 8,5 Vốn đầu tư/GDP(%) 34,2 35,4 37,2 37,8 38,6 40 40,3 40,6 Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam và tổng cục tống kê niên giám 2007 - Trong giai đoạn 2000-2007, tốc độ tăng trưởng tăng mạnh từ 6,7% vào năm 2000 mà đến năm 2007, tốc độ tăng trưởng đã tăng 26,7% so với năm 2000. Lý do của sự tăng nhanh quá trình tăng trưởng này là do tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP tăng mạnh. Vốn đầu tư trong giai đoạn này đã đóng góp một phần lớn cho GDP Việt Nam. - Năm 2002, lãi suất cơ bản giảm 0.8% so với 2001 đây là một nguyên nhân kích thích tăng tỷ lệ đầu tư từ 35.4% năm 2001 đến 37.2% năm 2002. Vào năm 2002, ước đạt 180,4 nghìn tỷ đồng, bằng 104% kế hoạch năm và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước đạt 24,2 nghìn tỷ đồng, bằng 105,1% kế hoạch năm và chỉ bằng 93,1% năm 2001. Đầu tư nước ngoài từ đầu năm đến 21/12/2002 đã có 669 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 1333,2 triệu USD; So với cùng kỳ năm trước tăng 32,4% về số dự án, nhưng giảm 41,1% về vốn đăng ký. Do vậy qui mô vốn đăng ký bình quân một dự án được cấp giấy phép năm nay chỉ còn
  48. khoảng 2 triệu USD, thấp xa so với qui mô 4,5 triệu USD của năm 2001. ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 81,8% và số dự án và 80,8% về vố đăng ký. - Từ giữa năm 2004 đến nay cùng xu thế tăng lãi suất của các nền kinh tế lớn trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và xu thế kiềm chế lạm phát, lãi suất của các ngân hàng trong nước không ngừng tăng. Và đến năm 2005, lãi suất tiền gửi và huy động vốn nội tệ của các ngân hàng thương mại trong năm 2005 bình quân tăng 0,48%/năm - 0,63%/năm của mỗi kỳ hạn so với năm 2004. Lãi suất trung bình là 8,4%/năm và tăng đều qua các tháng trong năm 2005. Nguyên nhân chính buộc các ngân hàng phải lao vào cuộc đua, nếu không sẽ thành kẻ chậm chân. Tăng trưởng huy động vốn từ đầu năm tới nay trong toàn hệ thống ngân hàng, đặc biệt khối quốc doanh, luôn chậm hơn tăng dư nợ tín dụng. Tình hình càng khó khăn hơn khi theo quy luật, huy động vốn những tháng cuối năm tiếp tục tăng chậm trong khi nhu cầu tín dụng lại lên cao. - Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trong thời gian tới, các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại nước ta và sẽ cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng như các ngân hàng trong nước. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các tài chính tín dụng nước ngoài với các tài chính tín dụng trong nước. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại trong nước cần phải tổ chức cung ứng các dịch vụ tốt, cần hỗ trợ nhau - thực hiện tốt các cam kết: trước hết là cam kết đồng thuận, thực hiện các mức lãi suất là cách để chúng ta tự bảo vệ nhau trước các đối thủ nước ngoài.Thêm vào đó, phần lớn các ngân hàng tham gia trong cuộc chạy đua là những gương mặt mới trên thị trường, hoặc qui mô vốn và thương hiệu chưa thực sự mạnh. Theo đó, lãi suất tăng là một công cụ hữu hiệu cho các ngân hàng thu hút vốn về phía mình. - Đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì các mức lãi suất chủ đạo; áp lực tăng lãi suất trên thị trường thế giới cũng giảm bớt, đặc biệt là lãi suất USD.Nhưng lãi suất vẫn tăng, mở đầu năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh lãi suất huy động, tạo nên một áp lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Mở hàng lãi
  49. suất năm nay là Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) với quyết định tăng lãi suất “Tiết kiệm điện tử”, áp dụng ngay từ ngày đầu tiên của năm (1/1/2007). Lãi suất “Tiết kiệm điện tử” tiền VND của Techcombank tăng mạnh nhất ở kỳ hạn 12 tháng với mức tăng từ từ 0,12%/năm đến 0,17%/năm, lên 9,42%năm, 9,45%/năm và 9,48%/năm, tương ứng với các mức tiền gửi dưới 50 triệu VND, 50-200 triệu VND và từ 200 triệu VND. Nhưng cuộc đua tăng lãi suất mới chỉ thực sự khởi tranh trong vài ngày trở lại đây, với sự tham gia của một loạt ngân hàng cổ phần. Nhưng nhìn chung, lãi suất năm 2007 không có biến động nhiều giữa các tháng trong năm. Lãi suất vẫn duy trì ở mức 9.5%/năm.( Nguồn: vneconomy.vn) - Trong năm 2007, vốn đầu tư phát triển so với GDP đạt 40,6%, là tỷ lệ thuộc loại cao nhất từ trước tới nay, cũng thuộc loại cao nhất so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 44% của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - tỷ lệ góp phần làm cho kinh tế nước này liên tục trong nhiều năm tăng trưởng hai chữ số). Đáng lưu ý, trong khi tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng vốn đầu tư phát triển tiếp tục giảm xuống, thì tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng lên (đạt 38%); hiệu quả đầu tư của khu vực này lại cao gấp đôi khu vực kinh tế nhà nước. Vốn đầu tư nước ngoài đạt kỷ lục mới ở cả ba nguồn. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp đạt được sự vượt trội cả về tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung (20,3 tỉ); cả về quy mô bình quân một dự án (trên 14 triệu USD/dự án); cả về cơ cấu đầu tư vào nhóm ngành dịch vụ; cả về lượng vốn thực hiện (4,6 tỉ USD). Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức cuối năm 2006 (cam kết cho năm 2007) đạt mức kỷ lục (4,4 tỉ USD); cuối năm 2007 (cam kết cho năm 2008) còn đạt kỷ lục cao hơn (trên 5,4 tỉ USD). Lượng vốn giải ngân năm nay đạt 2 tỉ USD, vừa vượt kế hoạch, vừa đạt cao nhất từ trước tới nay. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp năm nay ước đạt 5,6 tỉ USD, cao gấp 4,3 lần năm trước. 2.2) Giai đoạn 2008-2010: - Giai đoạn 2008-2010 là giai đoạn mà Ngân hàng nhà nước Việt Nam có sự thay đổi mạnh mẽ về lãi suất. Ta có bảng số liệu sau:
  50. Năm 2008 2009 2010 Tốc độ tăng trưởng(%) 8,7 5,3 6,78 Vốn đầu tư/GDP(%) 57,4 42,4 42,7 (Nguồn: Niên giám thống kê 2010) Năm 2008: - Năm 2008 có thể được coi là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái chiều với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Diễn biến lãi suất trong năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: Cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng ngược lại, đua giảm lãi suất, dù mức độ quyết liệt kém hơn. Những sự kiện lớn đối với diễn biến lãi suất năm 2008 diễn ra như sau: + 6 tháng đầu năm 2008, lãi suất tăng mạnh: Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất, khởi đầu là các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh. Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008 là 18,5%. Hiện tượng người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân hàng có lãi suất cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp tốc điều chỉnh lãi suất. Có nhiều nguyên nhân khác nhau: Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường do lạm phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các ngân hàng không muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động. Chính vì thế người dân thích gửi tiết kiệm ngân hàng hơn là để tiền đầu tư. Trong khi các doanh nghiệp phải chịu một mức lãi suất cao gây khó khăn trong việc mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư. + 6 tháng cuối năm lãi suất giảm mạnh: Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, các ngân hàng lại bước vào cuộc đua lãi suất mới nhưng với xu hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm.
  51. Cuộc đua ban đầu chỉ mới nhích nhẹ từ 18,5% xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm mạnh từ tháng 10 năm 2008. Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do các ngân hàng đã giữ được tính thanh khoản của dòng tiền, đảm bảo được độ an toàn cao và tính rủi ro thấp. Mặt khác, sau 6 tháng đã huy động được một lượng tiền khổng lồ về thì nay các ngân hàng giảm lãi suất cho vay để kích thích người tiêu dùng trong hoạt động sản xuất cũng như cho các doanh nghiệp vay để đầu tư. Ngân hàng nào cũng chỉ muốn cho vay khách hàng tốt, nhưng khách hàng tốt thì chỉ vay khi lãi suất ở mức hợp lý (chỉ có khách hàng xấu là vay bằng mọi giá). Vì vậy để có vốn rẻ khuyến khích nhu cầu vay của doanh nghiệp tốt thì phải hạ lãi suất huy động. Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái lượng vốn đầu tư thấp hơn cùng kỳ năm 2007. - Trong năm 2008, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP. Với việc thực hiện nghiêm túc chủ trương cắt giảm đầu tư công, nhất là ở các dự án kém hiệu quả từ nửa cuối năm 2008, vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước trong năm qua đã dừng ở mức 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn và giảm 11,4%. Tuy nhiên, vốn từ khu vực ngoài Nhà nước đạt 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% tổng vốn và tăng 42,7%; từ khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,8% tổng vốn và tăng 46,9% so với năm 2007 nên đã kéo tổng vốn đầu tư năm 2008 so với năm 2007 tăng 22,2%. (Nguồn: Vneconomy) Năm 2009: - Ngày 12/3/2009 của các ngân hàng thương mại gây chú ý khi công bố áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất 8,7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất các kỳ hạn lần lượt được điều chỉnh tăng, lên mức 8%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng, 7,32%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, và các kỳ hạn 6 - 9 - 12 tháng lần lượt nhận được mức lãi xuất 7,44%/năm, 7,524%/năm và 8,004%/năm.
  52. - Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, làn sóng đua tăng lãi suất huy động Việt nam đồng (VND) ở các ngân hàng thương mại chưa có dấu hiệu dừng do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều ngân hàng thương mại chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi 2 đến 3 lần. Trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ. Ở khối ngân hàng thương mại Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối ngân hàng thương mại cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Đến tuần cuối của tháng 5, làn sóng tăng lãi suất huy động bằng VND tăng khá mạnh. - Chính vì sự tăng mạnh của lãi suất mà trong năm 2009, với mục tiêu ưu tiên là ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong năm qua Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 245 nghìn tỷ đồng, chiếm 34,8% tổng vốn và tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước 278 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% và tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7% và giảm 5,8%. So với cùng kỳ năm Nghìn tỷ đồng Cơ cấu (%) trước(%) Tổng số 704,2 100,0 115,3 Khu vực nhà nước 245 34,8 140,5 Khu vực ngoài nhà 278 39,5 113 nước Khu vực có vốn đầu 181,2 25,7 94,2 tư nước ngoài Nguồn dữ liệu : Tổng cục thống kê niên giám 2009.
  53. - Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2009 đạt thấp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày 15/12/2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 21,5 tỷ USD, giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm: Vốn đăng ký của 839 dự án được cấp phép mới đạt 16,3 tỷ USD (giảm 46,1% về số dự án và giảm 75,4% về vốn); vốn đăng ký bổ sung của 215 dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 5,1 tỷ USD, giảm 1,7%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2009 ước tính đạt 10 tỷ USD, giảm 13% so với năm 2008. - Trong năm 2009, lĩnh vực kinh doanh bất động sản thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 7,4 tỷ USD vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới, chiếm 45,1% tổng vốn đăng ký mới; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống 5 tỷ USD, chiếm 30,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo với 2,2 tỷ USD, chiếm 13,6%. - Năm 2009 cả nước có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Quảng Nam có vốn đăng ký dẫn đầu với 4,2 tỷ USD, chiếm 25,4% tổng vốn đăng ký mới; Bà Rịa-Vũng Tàu 2,9 tỷ USD, chiếm 17,5%; Đồng Nai 2,3 tỷ USD, chiếm 14,1%; Bình Dương 2,2 tỷ USD, chiếm 13,2%; Phú Yên 1,7 tỷ USD, chiếm 10,3%. Năm 2010: - Vào năm 2010, sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp nhằm ổn định và giảm mặt bằng lãi suất, lãi suất huy động và cho vay VND từ đầu tháng 4/2010 đã giảm, tuy mức giảm chưa mạnh vì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng dư nợ tín dụng. - Lãi suất cho vay VND bình quân thực tế của 4 ngân hàng thương mại nhà nước và 7 ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn khoảng 13,3%; Lãi suất cho vay ngắn hạn phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 12,5% - 13%/năm, cho vay trung và dài hạn khoảng 14%/năm (tương ứng với lãi suất cùng kỳ năm 2006, 2007). Lãi suất tiền gửi USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng giảm 1,3-3,5%/năm và duy
  54. trì ở mức 0,2-1%/năm; lãi suất tiền gửi USD của dân cư và lãi suất cho vay USD tăng nhẹ so với cuối năm 2009. - Vốn đầu tư xã hội thực hiện năm 2010 theo giá so sánh 1994 tăng 64,5% so với năm 2006, bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 vốn đầu tư tăng 13,3%. Vốn đầu tư khu vực Nhà nước thực hiện năm 2010 tăng 42% so với năm 2006, bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 tăng 9,3%. Vốn đầu tư khu vực ngoài Nhà nước thực hiện năm 2010 tăng 47,6% so với năm 2006, bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 tăng 11,4%. Vốn đầu tư khu vực FDI thực hiện năm 2010 tăng 157,5% so với năm 2006, bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 tăng 25,7%. (Nguồn:www. Economy.vn) - Đầu tư nước ngoài năm 2010 giảm 18 dự án và tăng 54,9% về vốn đăng ký so với năm 2006. Bình quân mỗi năm trong thời kỳ 2006-2010 có 1253 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với vốn đăng ký bình quân 29,4 tỷ USD 3) Các giải pháp đề xuất: 3.1) Các giải pháp kiến nghị liên quan đến lãi suất: 3.1.1) Điều chỉnh lãi suất hợp lý để thúc đẩy đầu tư. - Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân ngân hàng trung ương của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này. - Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của
  55. các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu. - Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất thực huy động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất. 3.1.2) Phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng: - Hiệu quả của các tổ chức tín dụng cũng là hiệu quả từ sản xuất kinh doanh của khách hàng, hiệu quả của nền kinh tế vì vậy cần: + Củng cố hoàn thiện và đổi mới hệ thống ngân hàng: Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng theo xu hướng tăng quy mô các ngân hàng quốc doanh ngang tầm với các ngân hàng trong khu vực. Xây dựng một cơ chế liên kết, phối kết hợp các chủ thể tham gia vào thị trường tài chính – tiền tệ. Tạo cho ngân hàng trung ương một vị thế độc lập tương đối để đủ sức kiểm soát sự biến động liên tục của thị trường. + Chú trọng bồi dưỡng đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng đủ sức thực hiện nhiệm vụ. + Tăng tỷ trọng cho vay kinh tế tư nhân, tăng tỷ trọng cho vay lĩnh vực ngành có các sản phẩm được đánh giá là có lợi thế so sánh và sức cạnh tranh cao + Quan tâm phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở những nơi có điều kiện, có khả năng, phát triển. + Trong quản trị và điều hành lãi suất cần đảm bảo tính khoa học và thống nhất trong toàn hệ thống. + Cần một ngân hàng trung ương đủ mạnh, với một quyết định thay đổi lãi suất của mình, Ngân hàng Trung ương Mỹ hay Châu Âu đã tác động đến cả nền kinh tế thế giới. Ngân hàng Trung ương Singapore, Thái Lan hay Malaysia tác động ngay lên nền kinh tế của họ, thậm chí có thể ảnh hưởng sang nước láng giềng. Mục tiêu quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại là lợi nhuận. Việc chạy đua lãi suất của họ là điều đương nhiên. Những cuộc đua như vậy không thể tránh được bằng thỏa thuận lãi suất. Hơn nữa,
  56. làm như vậy sẽ vi phạm luật cạnh tranh. Giải pháp hữu hiệu nhất là nâng cao năng lực và khả năng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sao cho mỗi khi họ đưa ra các quyết định của mình lập tức có tác động ngay đến nền kinh tế. Một ngân hàng trung ương mạnh có tính độc lập cao so với chính phủ là một trong những nền tảng cơ bản nhưng cũng là công cụ hữu hiệu để giảm thiểu những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. 3.1.3) Giải pháp về cơ chế điều hành lãi suất - Đối với Ngân hàng Nhà nước cần tập trung vào một số nhiệm vụ: Kịp thời cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng để tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, góp phần thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho việc phát triển ổn định của nền kinh tế trong giai đoạn 2011-2020. - Tiếp tục có những giải pháp hỗ trợ cụ thể, phù hợp, trước hết đối với các tổ chức tín dụng nhỏ, chưa đáp ứng đủ các quy định vay tái cấp vốn, tái chiết khấu bình thường, nhằm bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động hệ thống ngân hàng một cách an toàn và bền vững. Đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc tăng lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng này. - Chủ động điều hành tỷ giá hối đoái với biên độ và bước đi hợp lý, bảo đảm tạo được điều kiện cho thị trường ngoại tệ vận hành ổn định, ngăn ngừa hoạt động đầu cơ ngoại tệ; thường xuyên theo dõi và có những biện pháp quản lý phù hợp các giao dịch ngoại hối, các luồng vốn vào-ra, kịp thời hỗ trợ và chỉ đạo các ngân hàng thương mại đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu những vật tư, hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng. - Thực hiện cơ chế cạnh tranh hoàn hảo đối với các ngân hàng thương mại, trên nền tảng lãi suất định hướng của ngân hàng trung ương. Các ngân hàng thương mại căn cứ vào diễn biến thực tế của thị trường mà định mức lãi suất phù hợp cho mình. Việc tự do hóa cạnh tranh sẽ dẫn đến sự phân hóa giữa các ngân hàng thương mại song đó là quy
  57. luật tất yếu của cơ chế thị trường. Ngoài ra chúng ta cũng phải có biện pháp để hạn chế độc quyền và khuyến khích tạo dựng được vấn đề đạo đức kinh doanh. 3.2) Giải pháp tăng hiệu quả đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn: 3.2.1) Sử dụng vốn ngân sách nhà nước: - Về thu ngân sách Nhà nước, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi các chính sách thuế hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế, giảm mức huy động để khuyến khích phát triển sản xuất và dịch vụ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hoàn thiện quy trình, thủ tục thuế, hải quan phù hợp với quy định của WTO và yêu cầu đơn giản, minh bạch nhằm cải thiện môi trường đầu tư , kinh doanh. - Về chi ngân sách Nhà nước, tiếp tục cơ cấu lại chi ngân sách Nhà nước và tăng cường hiệu quả chi, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống đường sá, cầu cống; bên cạnh nguồn ngân sách Nhà nước, thực thi các giải pháp tài chính hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển hệ thống điện, nước, xử lý môi trường ; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đào tạo phổ cập tiểu học và trung học, đào tạo nghề; đầu tư cho nghiên cứu khoa học – công nghệ; đầu tư phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn. - Để quản lý nguồn nguồn ngân sách và tăng hiệu quả các dự án đầu tư từ vốn ngân sách cần thắt chặt việc cho vay tại khu vực nhà nước. Với những dự án đầu tư công cộng không thực sự cấp bách và hiệu quả đầu tư còn nghi ngờ, nên cắt bỏ, hoặc tạm hoãn thời hạn thực hiện. Loại bỏ các dự án đầu tư không hiệu quả, giãn tiến độ các dự án chưa khởi công hoặc mới khởi công. Giải pháp quan trọng là kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu công, bớt tối đa những khoản chi không hợp lý. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước ở các đơn vị sử dụng ngân sách. Công khai kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và kết quả xử lý của từng cấp, từng đơn vị, các quỹ tài chính. Thực hiện
  58. nghiêm túc việc kiểm toán bắt buộc đối với các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước. - Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tập trung cải cách thể chế, nâng cao chất lượng và hiệu lực của quá trình xây dựng và thực thi chính sách và pháp luật. Cải thiện môi trường kinh doanh, cơ cấu lại đầu tư của Nhà nước, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước theo hướng xoá bỏ bao cấp, kiểm soát hiệu quả sự lạm dụng vị thế độc quyền hoặc khống chế thị trường, thực hiện có hiệu lực và hiệu quả quyền chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước, quan tâm hỗ trợ các vùng kém phát triển nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các vùng. - Thắt chặt việc cho vay tại khu vực nhà nước. Nguồn vốn đầu tư từ ngân hàng nhà nước luôn có vai trò quan trọng và quyết định trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Vì vậy, nguồn vốn này cần được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Việc giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư từ vốn ngân sách là trách nhiệm của các cơ quan chức năng nhằm bảo đảm sự lành mạnh của nền tài chính quốc gia. 3.2.2) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA - Để thu hút nguồn vốn vay ODA đòi hỏi phải tăng cường tương ứng khả năng sử dụng vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Không bố trí hoặc hạn chế bố trí nguồn vốn vay ODA cho những ngành, lĩnh vực, địa phương giải ngân chậm, sử dụng vốn vay nước ngoài không hiệu quả, đồng thời, tăng mức phân bổ nguồn vốn vay ODA cho những ngành, lĩnh vực và địa phương sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và bảo đảm tiến độ thực hiện dự án. - Đồng bộ hoá khung pháp lý, nghiên cứu và chỉnh sửa các quy định và nghị định liên quan đến sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA. Tạo sự hài hoà và hoàn chỉnh các thủ tục hành chính giữa các nhà tài trợ và về phía chính phủ Việt Nam. - Phát triển nguồn nhân lực cho dự án sử dụng nguồn vốn ODA, xây dựng các quy chuẩn và hướng tới chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá các ban quản lý dự án.
  59. - Các ngành, các địa phương rà soát lại các công trình sử dụng vốn ODA do mình quản lý để trình chính phủ, thủ tướng chính phủ ban hành các cơ chế chính sách nhằm tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn ODA, đào tạo cán bộ quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp và bền vững. - Cần thực hiện triệt để việc chống tham nhũng. Bên cạnh Luật chống tham nhũng, Nhà nước vẫn cần phải xây dựng một cơ chế, một thể chế chặt chẽ. Chẳng hạn, để thực hiện cơ chế công khai minh bạch, Chính phủ cần phải quy định rõ thế nào là thông tin mật và không mật, để công khai cho người dân giám sát. Nếu không có quy định này thì con số nào cũng được cho là mật, sẽ là một ngáng trở lớn cho việc công khai minh bạch. 3.2.3) Thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vồn FDI - Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể xem đây là một kênh tạo lập vốn mới nhiều tiềm năng, được chi phối bởi Luật đầu tư nước ngoài, nguồn vốn này có tác động tích cực đến đầu tư phát triển thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do vậy, trước hết cần xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn này: - Xác định rõ lộ trình, bước đi, lĩnh vực đầu tư, cơ chế ưu đãi, quy định các lệ phí và phí dịch vụ, điều kiện cung ứng điện nước, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin đồng thời hoàn thiện các thể chế có liên quan trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, thương mại. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp nói chung và luật đầu tư nói riêng một cách đồng bộ nhằm tạo cơ chế thông thoáng và môi trường đầu tư hấp dẫn. - Rà soát thực trạng của các dự án trên từng địa bàn để phân loại và có chính sách hỗ trợ phù hợp. Các dự án trọng điểm, có tác động đến địa phương và khu vực sẽ được ưu tiên hỗ trợ trước. - Cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Nhưng không nên quy định cứng nhắc khiến cho các biện pháp ưu đãi có tác động ngược chiều trở thành các rào cản của đầu tư.
  60. - Từng bước hoàn thiện, chấn chỉnh lại bộ máy quản lý và các tổ chức xét duyệt nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đúng theo luật pháp của Việt Nam , vừa tạo điều kiện cho việc quản lý dự án một cách chặt chẽ, có hiệu quả kinh tế cao. - Chủ động chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lý kinh tế - tài chính trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động phát triển nhưng phải quản lý và kiểm soát chặt chẽ được các hoạt động này nhằm đảm bảo an toàn xã hội, an ninh kinh tế và chủ quyền quốc gia.
  61. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1) David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch;2008; economics; NXB Thống kê. 2) TS. Bùi Hữu Phước, Lê Thị Lanh, Lại tiến Dĩnh, Phan Thị Như Hiếu - Trường Đại học kinh tế TP.HCM. – (2008),”Tài chính doanh nghiệp”, NXB Lao Động Xã Hội. 3) Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005. 4) 5) 6) 7)