Dạy học theo định hướng hoạt động cho môn thực hành trong đào tạo cử nhân điều dưỡng tại Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem tài liệu "Dạy học theo định hướng hoạt động cho môn thực hành trong đào tạo cử nhân điều dưỡng tại Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
day_hoc_theo_dinh_huong_hoat_dong_cho_mon_thuc_hanh_trong_da.pdf
Nội dung text: Dạy học theo định hướng hoạt động cho môn thực hành trong đào tạo cử nhân điều dưỡng tại Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh
- DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHO MÔN THỰC HÀNH TRONG ĐÀO TẠO CỬ NHÂN ĐIỀU DƯỠNG TẠI ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Lê Thi Cẩm Thu Học viên cao học Giáo dục học 11B Tóm tắt Giáo dục Y học là một ngành của Giáo dục học chuyên nghiên cứu các vấn đề giáo dục trong nhóm ngành khoa học sức khỏe. Nhóm ngành sức khỏe là những nghề cụ thể, có hệ thống kiến thức/ lý thuyết phức tạp, có kỹ năng tay nghề rõ ràng và những yêu cầu thái độ - y đức cao cả. Người học phải được học nghề cẩn thận vì sau này người học sẽ hành nghề trên tâm hồn và thể chất của con người. Khi học nghề, phải giữ vững truyền thống trong thực hành rất lâu đời và rất quan trọng. Ngoài ra, học làm người chăm sóc sức khỏe cũng là một mục tiêu rất là quan trọng trong giáo dục y học. Việc dạy người phải hướng vào việc hình thành nhân cách con người bao gồm cả y đức và tài năng. Giảng dạy Y học có thể xem là một quá trình thay đổi hành vi, hành vi ngành Y bao gồm việc tăng cường kiến thức để có thể quyết định công việc trong tương lai, xây dựng thái độ nghề nghiệp đúng đắn thể hiện qua giao tiếp và năng lực thực hành nghề nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự đổi mới của nền giáo dục, nhu cầu của con người trong cuộc sống cũng được tăng lên. Đặc biệt là về nhu cầu được chăm sóc sức khỏe. Nhu cầu sức khỏe của nhân dân có khác hơn trước, dân trí càng cao, xu thế yêu cầu công bằng trong chăm sóc sức khỏe càng lớn, kinh tế phát triển theo hướng thị trường, đòi hỏi chất lượng dịch vụ sức khỏe cao hơn. Hiện nay sự đổi mới trong Giáo dục Điều dưỡng là điều cần thiết để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của sinh viên điều dưỡng đặc biệt là học tập tại cơ sở y tế - môi trường làm việc tương lai của sinh viên. Khi học tập trong môi trường này hầu hết sinh viên điều dưỡng đều cảm thấy rất căng thẳng vì nhiều lý do như sợ làm tổn thương người bệnh, sợ lây bệnh, sợ sai sót Vì vậy để tạo một môi trường học tập tốt, thực sự hỗ trợ cho việc nâng cao năng lực thực hành của sinh viên luôn là mục tiêu hàng đầu của giảng viên điều dưỡng. Dạy học theo định hướng hoạt động (Action learning), một cách tiếp cận để phát triển con người đã trở nên phát triển rộng rãi trong lĩnh vực dạy học thực hành. Dạy học theo định hướng hoạt động giúp người học có khả năng học tập từ sự trải nghiệm nên còn gọi là dạy học theo học tập hoạt động, quan trọng hơn chính là 1
- những giá trị của sự phát triển con người ngay trong lúc họ thực hiện giải quyết công việc, những vấn đề tồn tại bằng sức mạnh của những người học trong nhóm, nhiều cái đầu vẫn hơn một cái đầu, họ sẽ học được cách học từ những hành động đó. Đây cũng chính là những thách thức của những người thầy trong thời đại hiện nay, thời đại của sự liên tục bùng nổ kiến thức và công nghệ thông tin, bản thân người thầy muốn thành công trong sự thay đổi của thế giới họ cũng cần hợp tác và phát triển cùng với người học. Sự phát triển này chính là giảng viên và sinh viên cùng làm việc, phát hiện cách tiếp cận mới trong dạy học và trong học tập để tạo được sự tiến bộ. 1. Khái niệm về dạy học theo định hướng hoạt động: 1.1. Định nghĩa1 Dạy học theo định hướng hoạt động là sự dạy học toàn diện và tích cực hóa người học, trong sự sắp đặt, chuẩn bị giữa GV và sinh viên. Sản phẩm hoạt động sẽ chỉ đạo sự phát thảo quá trình dạy học, vì rằng sự làm việc bằng đầu óc và làm việc bằng chân tay cùng lúc của sinh viên được hình thành trong một mối tương quan mật thiết. 1.2. Bản chất của dạy học theo định hướng hoạt động2 Bản chất của dạy học theo định hướng hoạt động là hướng sinh viên vào hoạt động giải quyết các ấn đề kỹ thuật hoặc các nhiệm vụ tình huống nghề nghiệp, nhằm chuẩn bị cho sinh viên tham gia vào giải quyết các nhiệm vụ nghề nghiệp. Trọng tâm kiểu dạy học theo định hướng hoạt động là tổ chức quá trình dạy học mà trong đó sinh viên hoạt động để tạo ra một sản phẩm. Thông qua đó phát triển được các năng lực hoạt động nghề nghiệp. các bản chất cụ thể như sau: - Dạy học ĐHHĐ là tổ chức sinh viên hoạt động mang tính trọn vẹn mà trong đó sinh viên độc lập thiết kế kế hoạch, quy định hoạt động, thực hiện hoạt động theo kế hoạch và kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động - Tổ chức quá trình dạy học, mà trong đó sinh viên thông qua hoạt động độc lập ít nhất là theo quy trình cách thức của họ - Học qua các hoạt động cụ thể mà kết quả của hoạt động đó không nhất thiết tuyệt đối mà có tính chất là mở (các kết quả hoạt động có thể khác nhau) - Tổ chức tiến hành giờ học hướng tới mục tiêu hình thành ở sinh viên kỹ năng giải quyết nhiệm vụ nghề nghiệp - Kết quả bài dạy học ĐHHĐ tạo ra được sản phẩm vật chất hay ý tưởng. 1.3. Quan điểm Dạy học theo định hướng hoạt động 1 MEYER, H: Didaktische Modelle, Berlin 1994, S 355 2 Nguyễn Văn Tuấn, tài liệu học tập về PPDH theo hướng tích hợp, chuyên đề bồi dưỡng sư phạm, Trường ĐH SPKT TP HCM, 2010, trang 20,21 2
- - “Sinh viên đóng vai trò chủ động” trong quá trình dạy và học - “Giảng viên đóng vai trò chỉ đạo” trong quá trình định hướng cho sinh viên thực hiện mục tiêu dạy học. Trọng tâm của kiểu dạy học HTHĐ là tổ chức quá trình dạy học mà trong đó sinh viên hoạt động để tạo ra một sản phẩm, thông qua đó sinh viên phát triển được các năng lực thực hiện 1.4. Đặc điểm của dạy học theo định hướng hoạt động 3 1.4.1. Thứ nhất: Dạy học ĐHHĐ là dạy học toàn diện, thể hiện ở nhiều mặt. - Về con người: Trong dạy học theo học tập hoạt động, sinh viên được thể hiện “toàn diện”. Sự thể hiện này diễn ra từ khối óc đến trái tim và đến cả hoạt động của đôi tay. Người học vận dụng tất cả các giác quan trong quá trình học một cách toàn diện. - Về nội dung: Dạy học theo ĐHHĐ không những chỉ sử dụng nền tảng khoa học của hệ thống chuyên môn mà còn lựa chọn vấn đề cơ bản và câu hỏi chất vấn, hiểu rõ tiêu chuẩn yêu cầu của sản phẩm hoạt động. Đương nhiên trong dạy học theo học tập hoạt động cũng có tiến độ giảng dạy, nội dung của từng giai đọan, nhờ vậy mà sinh viên được bổ sung kỹ năng để giải quyết vấn đề. Những nội dung học về chuyên ngành, tiêu chuẩn học tập dược phân chia theo đơn vị học trình, để tránh khả năng đi quá xa, quá rộng. - Về phương pháp: có ý nghĩa rất quan trọng vì người ta có thể học tốt hơn, khi họ được nhận biết với khối óc, con tim và cả đôi tay, sau đó họ phải lựa chọn phương pháp thực hiện như là: làm việc nhóm, làm việc với đồng nghiệp, dạy học theo kiểu dự án, tường thuật lịch sử, hình thức diễn kịch sân khấu, tạo biểu tượng, đóng vai, chơi trò chơi, thực nghiệm, thẩm vấn 1.4.2. Thứ hai: Dạy học ĐHHĐ là phương pháp dạy tích cực hóa người học Dạy học theo ĐHHĐ là phương pháp dạy học tích cực hóa người học, vì rằng giảng viên làm mẫu thì khả năng tiếp thu của sinh viên sẽ kém hơn là chúng tự khảo sát, thử nghiệm, khám phá, tranh luận, đồng tình, bác bỏ, lên kế họach để thực hiện được sản phẩm hoạt động và những khái niệm nhận thức cũng như khả năng sáng tạo được hình thành từ đó. 1.4.3. Thứ ba: Dạy học theo ĐHHĐ tạo ra sản phẩm hoạt động Điểm chính của dạy học theo ĐHHĐ là tạo ra sản phẩm hoạt động từ những công việc đã làm, đã chơi, đã học Sản phẩm hoạt động là những kết quả về vật 3 MEYER, H: Didaktische Modelle, Berlin 1994, S 356 - 359 3
- chất hoặc tinh thần được công bố như mục tiêu của quá trình dạy và học. - Với sản phẩm hoạt động sinh viên có thể nhận thức được về kỹ năng về chuyên môn, xã hội, phương pháp mà mình đạt được. Sản phẩm hoạt động phải phù hợp với năng lực của sinh viên, sinh viên có thể tự thực hiện được cũng như tự đánh giá và phê bình được. - Sản phẩm hoạt động có nhiều hình thức đặc trưng khác nhau: Có khả năng nó được trình diễn từ sinh viên dưới sự chỉ đạo của giảng viên ví dụ như: xây dựng biểu tượng, đóng vai, chơi trò chơi, bích chương, âm nhạc, nhảy đầm hoặc là tạo ra sản phẩm cụ thể như: Báo tường, nghệ thuật cắt giấy, mô hình, sách học, tạp chí lớp học, cuộc thử nghiệm - Sinh viên được phép thay đổi hình thức hoặc biện pháp thực hiện: làm nhỏ đi hoặc làm lớn lên, đơn giản hoặc phức tạp hóa những ý tưởng và dự tính ví dụ như: Trình bày một vấn đề có thể sử dụng phương pháp thuyết trình, thảo luận, diễn trình Hình thức thực hiện có thể chọn trong lớp hay ngoài lớp, ví dụ như vui chơi dã ngoại ngoài trời. Trong dạy học theo ĐHHĐ đầu tiên là dựa vào những nhận thức có trước (nhận thức cũ) để nhận biết rõ ràng sự việc, bao gồm nhiều vấn đề nhận thức. Sau đó hoạch định kế họach thực hiện và cuối cùng là sản phẩm hoạt động. 1.4.4. Thứ tư: Dạy học ĐHHĐ hướng người học tự đạt được sự hứng thú để đi đến điểm chính của mục tiêu giảng dạy - Dạy học theo ĐHHĐ chú trọng đến sở thích cá nhân của sinh viên, là điểm trọng tâm của việc dạy học theo học tập hoạt động để làm việc. Nó không những giới hạn mà còn tạo cơ hội cho sinh viên phát triển, thông qua hoạt động thực hiện đề tài thì vấn đề mới lại phát sinh, để tiếp tục phát triển những sở thích, quan tâm của cá nhân. - Sự hưng phấn không phải luôn luôn có mà phần lớn nó được tạo ra rồi mất đi trong quá trình học tập và nó gắn chặt với động cơ học tập tiếp theo. Đôi khi sinh viên là “người dẫn dắt” trong việc tạo ra những sở thích cá nhân, thông thường đó là những hưng phấn ngẫu nhiên và tồn tại ngắn ngủi. - Sở thích của sinh viên không phải chỉ là lĩnh vực của đề tài mà luôn hàm chứa trong nó nhiều lĩnh vực. Ví dụ như một nội dung trình bày bao giờ cũng bao gồm 4
- lĩnh vực con người và xã hội. Dạy học theo học tập hoạt động tạo ra không khí tự do, thoãi mái. Vì vậy sinh viên ở trong mối quan hệ của đề tài mới và nhiệm vụ mới đặt ra thì những sở thích của chúng sẽ được tái tạo. Những sở thích được tạo ra chưa chắc đã đúng cho nên cần có cuộc hội thảo để công nhận và phê phán những sở thích chủ quan đó. Nơi đây sinh viên có thể tự kiểm điểm những gì đúng đắn, những gì sai sót để bổ sung và sửa chữa. 1.4.5. Thứ năm: ĐHHĐ là kế hoạch trọn vẹn xuyên suốt từ lúc bắt đầu kế hoạch thực hiện đến hình thành sản phẩm hoạt động Dạy học theo ĐHHĐ phân loại sinh viên ngay từ lúc ban đầu của kế hoạch, thông qua việc đánh giá sinh viên quá trình học tập. Đó là yếu tố năng lực thực hiện và thời gian, bởi vì người thầy không cần dạy lại những kiến thức, kỹ năng trong nhiệm vụ kế hoạch giảng dạy đã qua, nhưng trong thảo lụân “mở” với sinh viên thì giảng viên phải giảng giải nội dung, lựa chọn mục tiêu, nội dung và phương pháp nào có ý nghĩa quyết định trong việc tạo ra sản phẩm hoạt động, điều này cũng cố và bảo vệ uy tín của giảng viên. 1.4.6. Thứ sáu: Dạy học theo ĐHHĐ thực hiện từ phương pháp “học mở” Dạy học theo ĐHHĐ dẫn đến hoạt động “học mở” đó là: - Sự tác động qua lại giữa giảng viên và sinh viên. - Sự thúc đẩy cách thức học tự chủ - Sự mở rộng cách dạy đan xen giữa các (kỹ năng chuyên môn, kỹ năng phương pháp, kỹ năng xã hội). - Nâng cao không khí HT sôi nổi trong lớp, kích thích sự hưng phấn của người học. - Xây dựng nơi học tập, học tập qua mạng Internet, trong đó sinh viên có thể khảo sát tỉ mỉ những gì mà nó cần phải nhận biết được từ ý định và dự án của nó qua thực nghiệm. 1.4.7. Thứ bảy: Trong dạy học ĐHHĐ, người học được kích thích do họat động trí óc kết hợp với hoạt động chân tay trong một mối quan hệ tương hỗ mang lại Trong dạy học theo ĐHHĐ được thực nghiệm, làm việc với khối óc và đôi tay trong mối quan hệ bình đẳng mang lại. - Làm việc với đôi tay là chúng ta thể hiện với sự hỗ trợ của trí óc thông qua việc thực hiện hoạt động vật chất. - Làm việc trí óc là thể hiện toàn bộ hoạt động ý thức như là: suy nghĩ, thảo luận, phê phán, mong muốn dự định, kế hoạch 5
- Dạy học theo ĐHHĐ được đưa ra từ tiên đề lí luận rằng sự nhận thức đi từ làm việc chân tay đến làm việc trí óc, nó không quan hệ tuyến tính mà tổng quát nó lệ thuộc vào nhiều yếu tố: quá trình học tập, vào động cơ, vào sở thích và sự tác động giữa các yếu tố hợp thành. 2. Tổ chức dạy học theo quan điểm định hướng hoạt động4 2.1. Giai đoạn thứ nhất: Đưa ra vấn đề và nhiệm vụ bài dạy Ở giai đoạn này, giảng viên đưa ra nhiệm vụ bài dạy để sinh viên ý thức được sản phẩm hoạt động cần thực hiện trong bài dạy và yêu cầu cần đạt được. hình thức trình bày rất phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào điều kiện và khả năng của giảng viên Nếu có điều kiện thì tổ chức tình huống học tập (THHT) ngay tại lớp học. Nếu tình huống quá phức tạp thì tổ chức cho lớp học tiếp cận ngay tại hiện trường (tham quan học tập), hoặc ghi hình hiện trường rồi trình chiếu lại trên lớp. Nếu không có điều kiện thì đơn giản chỉ kể lại, mô tả lại của giảng viên bằng lời, bằng hình vẽ hay tranh ảnh tượng trưng. Việc này không đơn giản chỉ để dẫn nhập mà còn có nhiều tác động xuyên suốt bài dạy 2.2. Giai đoạn thứ hai: tổ chức lập kế hoạch hoạt động giải quyết vấn đề: • Trong giai đoạn này, giảng viên tổ chức cho sinh viên thu thập thông tin qua THHT, những gì quan sát được, thâu lượm được, rồi đối chiếu với điều kiện hiện tại. Từ đó xác định cái gì mới chưa biết cần phải học, cái gì đã biết cần vận dụng, cái nào khó cần phải hỏi Như vậy ta thấy THHT đóng vai trò hết sức quan trọng, cho nên xây dựng THHT không phải đơn • Trên cơ sở phân tích THHT giảng viên tổ chức cho sinh viên lập kế hoạch hành động để giải quyết vấn đề đã xuất hiện trong THHT. • Sản phẩm thu được của giai đoạn này là bản kế hoạch thực hiện, mà bản thân nó đã được giảng viên chuẩn bị trước khi vào giờ giảng. Thông thường nó bao gồm danh sách các kỹ năng cần hình thành, quy trình thực hiện từng kỹ năng, định hướng thời gian làm việc cho từng kỹ năng và lượng kiến thức lý thuyết mới chen vào khi thực hiện các quy trình đó. Riêng giảng viên cần lưu ý thời điểm cần đưa phần lý thuyết vào giai đoạn của quá trình hoạt động sao cho khi sinh viên cần giảng viên đáp ứng đúng thời điểm mới có hiệu quả. • Với quan niệm hình thành kỹ năng nghề nghiệp là chính, nên phần hình thành kỹ năng phân tích THHT và lập kế hoạch không dành quá nhiều thời gian để 4 Nguyễn Văn Tuấn, tài liệu bài giảng môn Lý luận dạy học, Trường ĐH SPKT TP HCM, năm 2010 6
- thực hiện, giảng viên chỉ cần trình bày qua nội dung và đưa ra sản phẩm đã chuẩn bị. Việc này thực hiện nhiều lần sẽ dần dần hình thành cho sinh viên thói quen phân tích THHT và lập kế hoạch cho bản thân sau này, cũng như sinh viên biết tại sao giảng viên phải có những sản phẩm đó. 2.3. Giai đoạn thứ ba: tổ chức thực hiện theo kế hoạch, quy trình đã lập Trong giai đoạn có những việc phải làm là: - Thao tác mẫu của giảng viên - Trình bày tổng quát quy trình đã lập - Thao tác thử của sinh viên - Đánh giá thao tác thử của sinh viên - Lưu ý các lỗi thường gặp, nguyên nhân và biện pháp khắc phục. - Trang bị kiến thức cần thiết Tùy theo mức độ đơn giản hay phức tạp của vấn đề đặt ra mà các kỹ năng cần hình thành được tổ chức hợp lý 2.4. Giai đoạn thứ tư: tổ chức đánh giá Bước cuối cùng của dạy học ĐHHĐ là giảng viên tổ chức đáng giá quá trình giải quyết vấn đề. Nội dung đánh giá bao gồm: - Về kỹ năng: mức độ hình thành các kỹ năng bài học. thông qua quá trình theo dõi sinh viên luyện tập giảng viên đã nắm bắt thao tác của từng sinh viên, sản phẩm thu được của sinh viên so với sản phẩm mẫu. - Về kiến thức: mức độ lĩnh hội các kiến thức lý thuyết mới cũng như mức độ vận dụng kiến thức đã học vào quá trình luyện tập Về thái độ: giảng viên đã quan sát thái độ học tập của sinh viên từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối ra sao, diễn biến tâm lý có đúng như dự đoán của giảng viên không. Thái độ học tập của sinh viên biểu hiện qua tinh thần học tập hăng say, tích cực hay thụ động, miễn cưỡng muốn hỏi nhiều điều hay chỉ dừng lại ở thắc mắc trong đầu Ngoài ra giảng viên có thể đánh giá thêm về tiến độ thời gian, về độ khó của vấn đề trên tinh thần động viên sinh viên học tốt hơn sau này. Kết luận Quan điểm dạy học ĐHHĐ hình thành năng lực cho người học. Năng lực này là những yêu cầu, nhu cầu mà thực tiễn sản xuất đòi hỏi mỗi cá nhân đào tạo cần có được. Ở đây hoạt động học của sinh viên là chủ đạo, nhiệm vụ của giảng viên là tổ 7
- chức, điều khiển quá trình học tạo điều kiện cho sinh viên phát huy tính chủ động. Đây cũng là quan điểm của phương pháp dạy học hiện đại. Phương pháp dạy học định hướng hoạt động hướng đến kỹ năng dạy và học thực hành nghề một cách hiệu quả. Dạy học, phương pháp dạy học là một lĩnh vực khoa học. Đòi hỏi người giảng viên phải không ngừng phấn đấu, nâng cao trình độ, luôn sáng tạo, nhạy bén để đóng vai trò người khởi xướng, động viên, trợ giúp, hướng dẫn và cố vấn người học. Tài liệu tham khảo 1. Đỗ Ngọc Đạt, Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học, NXB Khoa học kỹ thuật 2. Trần Khánh Đức, Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI 3. Nguyễn Văn Tuấn, tài liệu bài giảng môn Lý luận dạy học, Trường ĐH SPKT TP HCM, năm 2010 4. Nguyễn Văn Tuấn, tài liệu học tập về PPDH theo hướng tích hợp, chuyên đề bồi dưỡng sư phạm, Trường ĐH SPKT TP HCM, 2010 5. Võ Thị Xuân (2012), Bài giảng lý luận dạy học hiện đại, lớp GDH 11B, Trường ĐH SPKT TP.HCM 6. Haith M P, Whittingham KA (2012) How to use action learning sets to support nurses, Nursing Times. 7. Heidari F. and Galvin K. (2003) Action learning groups: can they help students develop their knowledge and skills? Nurse Education in Practice 3, 49-55. PhD%20articles/Action%20learning%20groups.pdf 8. Hilbert Meyer: Didaktische Modelle, Berlin 1994. Ngày 17 tháng 10 năm 2013 Hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ DIỆU THẢO 8
- BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.



