Chuyên đề Tâm lý học nhận thức - Nguyễn Văn Tường

pdf 35 trang phuongnguyen 3250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Tâm lý học nhận thức - Nguyễn Văn Tường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfchuyen_de_tam_ly_hoc_nhan_thuc_nguyen_van_tuong.pdf

Nội dung text: Chuyên đề Tâm lý học nhận thức - Nguyễn Văn Tường

  1. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Chuyên đề: TÂM LÝ HỌC NHẬN THỨC Nguyễn Văn Tường Trung tâm Nghiên cứu tâm lý trẻ em (Trung tâm N-T Nguyễn Khắc Viện) Tài liệu tham khảo: 1. Tâm lý học đại cương (Nguyễn Xuân Thức – NXB ĐHSP – 2008) 2. Phát triển Nhận thức, học tập và giảng dậy (NXBGD – 1998) 3. Trí tuệ và đo lường trí tuệ (Trần Kiều – NXB Chính trị QG – 2005) 4. Các lý thuyết phát triển tâm lý người (NXB ĐHSP – 2003 – Phan Trọng Ngọ) 5. Một số công trình Tâm lý học (A.N.Leonchiép – 2003) CHƯƠNG I: NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC NHẬN THỨC I. NHẬN THỨC LÀ GÌ VÀ VAI TRÒ CỦA NHẬN THỨC 1. Nhận thức là gì? Do yêu cầu của lao động, của cuộc sống, con người thường xuyên tiếp xúc với các sự vật hiện tượng xung quanh, qua đó con người nhận thức được các nét cơ bản của sự vật hiện tượng (Ví dụ con người gò đá thấy lửa) Cứ như vậy, nhận thức của con người ngày càng được mở rộng. Theo từ điển triết học: Nhận thức là quá trình tái tạo lại hiện thực ở trong tư duy của con người, được quyết định bởi quy luật phát triển xã hội và gắn liền cũng như không thể tách rời khỏi thực tiễn, nó phải là mục đích của thực tiễn, phải hướng tới chân lý khách quan. Theo Cuốn “Giải thích thuật ngữ Tâm lý – Giáo dục học”: “Nhận thức là toàn bộ những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc được chuyển hoá, được mã hoá, được lưu giữ và sử dụng. Hiểu Nhận thức là một quy trình, nghĩa là nhờ có quy trình đó mà cảm xúc của con người không mất đi, nó được chuyển hoá vào đầu óc con người, được con người lưu giữ và mã hoá, Theo Từ điển Giáo dục học: “Nhận thức là quá trình hay là kết quả phản ánh và tái tạo hiện thực vào trong tư duy của con người”. Như vậy, Nhận thức babyhvq@gmail.com 1 Nguyễn Văn Tường - 2010
  2. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. được hiểu là một quá trình, là kết quả phản ánh. Nhận thức là quá trình con người nhận biết về thế giới, hay là kết quả của quá trình nhận thức đó (Nhận biết là mức độ thấp, hiểu biết là mức độ cao hơn, hiểu được các thuộc tính bản chất). Các quan niệm khác về nhận thức: “Nhận thức là hành động bằng trí tuệ, để hiểu biết các sự vật hiện tượng”. Như vậy, Nhận thức và trí tuệ được đồng nhất như nhau. Nhờ hoạt động trí tuệ này mà con người mới hiểu biết được sự vật hiện tượng. Nhà Tâm lý học người Đức cho rằng: “Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong ý thức của con người, nhận thức bao gồm; Nhận thức cảm tính và Nhận thức lý tính, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau và cơ sở, mục đích và tiêu chuẩn của Nhận thức là thực tiễn xã hội”.Khái niệm của nhà Tâm lý học người Đức đã phản ánh tương đối đầy đủ nội hàm của Nhận thức và chúng ta sử dụng khái niệm này. 2. Vai trò của Nhận thức Con người hơn con vật là trước khi làm việc đã có nhận thức, đã xác định được mục đích hoạt động. Như vậy, Nhận thức có vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống và hoạt động của con người, Nhận thức là thành phần không thể thiếu trong sự phát triển của con người. Nhận thức là cơ sở để con người nhận biết thế giới và hiểu biết thế giới đó, từ đó con người có thể tác động vào thế giới đó một cách phù hợp nhất, để đem lại hiệu quả cao nhất cho con người. Xem xét quá trình phát triển một cá thể của con người, thì một đứa trẻ khi được sinh ra, nếu nó không nhận biết được thế giới khách quan, thì đứa trẻ đó sẽ không có hiểu biết và không có nhận thức. Nhận biết đi từ đơn giản, nhận biết đi từ từng thuộc tính đơn lẻ bề ngoài của sự vật hiện tượng đến những cái phức tạp, những thuộc tính bản chất bên trong. babyhvq@gmail.com 2 Nguyễn Văn Tường - 2010
  3. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Khi đã quen thuộc con người tiếp tục nhận biết thêm về sự vật hiện tượng qua mỗi lần tiếp xúc. Càng tiếp xúc với nhiều sự vật hiện tượng thì càng nhận biết được nhiều các thuộc tính khác nhau. Sau đó, con người biết hợp nhất các thuộc tính đơn lẻ lại với nhau, thành một tổng thuộc tính chung của sự vật hiện tượng, xếp chúng vào thành một nhóm, tìm ra cái chung bản chất của một nhóm sự vật hiện tượng. Khi đó, Nhận thức của con người được mở rộng hơn, tiến lên một bước cao hơn và đã tạo ra những cấu tạo tâm lý mới. Cũng khi đó, Nhận thức của con người đã đi đến tư duy trừu tượng, tư duy khái quát. Như vậy, có thể khẳng định tâm lý người có bản chất xã hội – lịch sử. Tóm lại, Nhận thức là cơ sở, là nền tảng cho mọi sự hiểu biết của con người, nếu không có Nhận thức thì con người sẽ mãi mãi ở trạng thái của một đứa trẻ sơ sinh. Nhờ có Nhận thức mà con người mới có thể cải tạo được thế giới xung quanh và cao hơn nữa là con người có thể cải tại được chính bản thân mình, phục vụ được nhu cầu của chính mình. II. TÂM LÝ HỌC NHẬN THỨC 1. Vài nét về sự hình thành và phát triển của Tâm lý học nhận thức. Ngay từ thời xa xưa, vấn đề Nhận thức, vấn đề học tập đã được quan tâm, nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện của loài người. Đến thế kỷ 17, lý luận về Nhận thức mới dần dần được hình thành, một số tác giả như Đ. Các, Căng đã thấy được tầm quan trọng của nhận thức, từ đó từng bước hình thành nên lý luận Nhận thức. Đến thế kỷ 19 (1879), khi Wunt thành lập Phòng thực nghiệm Tâm lý đầu tiên trên thế giới, Ông đã có nghiên cứu, đo đạc trí nhớ, tư duy của con người, vì thế mà công trình nghiên cứu của ông là những công trình nghiên cứu đầu tiên về Tâm lý học nhận thức. babyhvq@gmail.com 3 Nguyễn Văn Tường - 2010
  4. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tuy nhiên, việc định danh phân ngành này được diễn ra cùng vớịư xuất hiện cuốn sách “Tâm lý học nhận thức” đầu tiên của U. Neisser (1967), Tạp chí tâm lý học nhận thức cũng ra đời vào năm 1970. Đến những năm 60 của thế kỷ XX, khái niệm Nhận thức được sử dụng như một khái niệm chung để chỉ hầu hết các quá trình tâm lý học bao gồm; tri giác, tư duy, động cơ, Tâm lý học nhận thức chỉ là một phân ngành mới để nghiên cứu sâu hơn bản chất của hoạt động nhận thức với tư cách là chức năng tâm lý của con người. Từ đó, có các tác giả cho ra đời các tác phẩm như “Luật nhận thức” của Gestar và xây dựng nên các lý thuyết nhận thức. Cho đến nay, chuyên ngành Tâm lý học nhận thức đã được giảng dạy trong các trường Đại học như một chuyên ngành độc lập. 2. Vị trí của Tâm lý học nhận thức. Tâm lý học nhận thức là một bộ phận của khoa học nhận thức (Khoa học nhận thức là một xu hướng nghiên cứu được phát triển từ nhiều phân ngành khác nhau trong đó có Tâm lý học nhận thức). Nó có quan hệ chặt chẽ với Khoa học Thần kinh và Khoa học Máy tính. Con người nhận thức được là nhờ hoạt động thần kinh, hệ thần kinh lại được cấu tạo từ các Nơ ron (Nơ ron bao gồm thân và các tua, tua ngắn, tua dài, làm nhiệm vụ dẫn truyền các xung động thần kinh, đưa về trung ương thần kinh). Việc chế tạo máy tính dựa trên cơ sở nghiên cứu các nơ ron thần kinh. Tóm lại, Tâm lý học nhận thức là một phân ngành của tâm lý học. 3. Các cách tiếp cận của Tâm lý học nhận thức.  Cách tiếp cận bằng thực nghiệm  Cách tiếp cận ở góc độ tâm lý học thần kinh  Cách tiếp cận bằng thông tin babyhvq@gmail.com 4 Nguyễn Văn Tường - 2010
  5. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only.  Cách tiếp cận khoa học thần kinh về nhận thức (Nghiên cứu bản chất của Nhận thức, NT do đâu mà có?) 4. Tâm lý học nhận thức là gì? 4.1 Khái niệm về tâm lý học nhận thức. Có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về tâm lý học nhận thức: *Tâm lý học nhận thức khác với Tâm lý học đại cương là nó phân chia các hiện tượng tâm lý thành tư duy, tình cảm, mong muốn, là một phân ngành nghiên cứu quá trình nhận ra và hiểu biết (Vd: tri giác, tư duy, trí thông minh). → Đây là quan niệm hẹp, thu hẹp phạm vi của Tâm lý học nhận thức, mục đích là để chống lại chủ nghĩa hành vi cũ và mới cho rằng có nhận thức trung gian bị chi phối bởi các kỳ vọng chứ không phải bởi sự củng cố trực tiếp. Hiện nay, Tâm lý học nhận thức đang cố gắng giải thích quá trình xử lý thông tin và điều chỉnh hoạt động của con người dưới cơ sở của sự đánh giá và hiểu biết. *TLH NT nghiên cứu các lĩnh vực giao thoa của tri giác, học tập và tư duy, nghiên cứu việc con người thu thập, biến đổi, tích luỹ và tái hiện tri thức, đồng thời đưa ra khái niệm về TLH NT, xác định đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của TLH NT. *TLH NT là khoa học nghiên cứu trí thông minh của con người và quan hệ của nó với; (1) việc chú ý và thu thập thông tin về thế giới như thế nào? (2) việc thông tin đó được lưu giữ trong trí nhớ bởi não bộ ra sao? (3) việc sử dụng các hiểu biết đó như thế nào? để giải quyết vấn đề tư duy và diễn đạt ngôn ngữ, chỉ rõ đối tượng nghiên cứu là trí thông minh, quan hệ giữa trí thông minh với việc tư duy và diễn đạt ngôn ngữ, tất cả đã góp phần chỉ ra bản chất của hoạt động nhận thức. *TLH NT bao gồm một loạt những lĩnh vực của các quá trình tâm lý, từ cảm giác đến tri giác, thần kinh học, nhận biết các hình mẫu, chú ý, ý thức, học tập, cảm xúc và các quá trình phát triển. babyhvq@gmail.com 5 Nguyễn Văn Tường - 2010
  6. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. → Quan niệm này quá mở rộng phạm vi nghiên cứu của nhận thức, phạm vi của nhận thức lúc này đã vượt ra khỏi hành vi. *Nói tóm lại, TLH NT là môn khoa học nghiên cứu về các quá trình nhận thức và các cấu trúc của nhận thức để tìm ra bản chất quá trình nhận thức của con người.(1) TLH NT trả lời cho câu hỏi: Nhận thức của con người là gì? bản chất, sản phẩm của nó? (2) TLH NT chỉ rõ thành phần cấu trúc của nhận thức, bản chất của các thành phần cấu trúc và chỉ ra cái chung giữa chúng (3) TLH NT chỉ rõ đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của mình. 4.2 Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học nhận thức. Chính vì xuất phát từ nhiều cách hiểu về tâm lý học nhận thức như trên nên cũng có nhiều tranh cãi trong việc xác định đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học nhận thức. * Đối tượng nghiên cứu của TLH NT bao gồm: 1) Thần kinh học nhận thức 7) Trí nhớ 2) Hình tượng 8) Sự thể hiện kiến thức 3) Chú ý 9) Ngôn ngữ 4) Tư duy và sự hình thành KN 10) Tâm lý học phát triển 5) Tri giác 11) Trí thông minh của con người 6) Nhận biết các hình mẫu 12) Trí thông minh nhân tạo → Trên đây là những mặt nghiên cứu cơ bản của tâm lý học nhận thức. * Nhiệm vụ của Tâm lý học nhận thức hiện nay: 1) Nghiên cứu các quá trình nhận thức nói chung (cảm giác, tri giác, trí nhớ và tư duy, ) 2) Nghiên cứu các quy luật đặc trưng của sự tiếp thu, xử lý và sử dụng thông tin. 3) Nghiên cứu xem con người đã thu thập, tích luỹ và tái tạo những thông tin như thế nào? Quá trình lưu giữ các thông tin trong trí nhớ diễn ra như thế nào? babyhvq@gmail.com 6 Nguyễn Văn Tường - 2010
  7. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 4) Nghiên cứu trí thông minh và quan hệ của nó với các hiện tượng tâm lý khác. Như vậy, ta thấy nhiệm vụ nghiên cứu của TLH NT được hiểu như trên vẫn chưa thực sự rõ ràng. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I 1. Nhận thức là gì? Vai trò của nhận thức đối với hoạt động của con người (đặc biệt là đối với quá trình học tập của học sinh)? 2. Phân tích các mức độ của quá trình nhận thức của con người? Mối quan hệ giữa chúng? (Chú ý xem lại phần Tâm lý học đại cương) CHƯƠNG II: CƠ SỞ SINH LÝ THẦN KINH CỦA NHẬN THỨC Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não ngwoif thông qua chủ thể, là hiện tượng tinh thần được nảy sinh từ một cơ sở vật chất là Não nói riêng và hoạt động của hệ thần kinh nói chung. Như vậy, hệ thần kinh hay còn gọi là não bộ là bộ máy nhận thức của con người. I. CẤU TẠO CỦA HỆ THẦN KINH HTK bao gồm hai phần: HTK Trung ương và HTK ngoại biên và được bảo vệ bởi hộp sọ và tuỷ sống. + HTK TW bao gồm: tuỷ sống, hành tuỷ, tiểu não, não giữa, não trung gian, đại não, vỏ não. + HTK ngoại biên bao gồm: hệ thống các dây thần kinh, các hạch thần kinh, các đám rối thần kinh nằm ngoài cột sống và hộp sọ. Thần kinh ngoại biên làm nhiệm vụ tiếp nhận các kích thích dẫn truyền các xung động thần kinh về trung ương (não bộ và tuỷ sống), rồi từ trung ương đưa đến các cơ quan, các bộ phận để trực tiếp thực hiện các quá trình sống của cơ thể. babyhvq@gmail.com 7 Nguyễn Văn Tường - 2010
  8. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. HTK là bộ máy nhận thức để giúp chúng ta tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin, trả lời thông tin, đảm bảo sự thống nhất trong nội bộ cơ thể và thống nhất giữa cơ thể với môi trường. II. CHỨC NĂNG VAI TRÒ CỦA HỆ THẦN KINH ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI.(Trả lời cho câu hỏi HTK có vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa như thế nào đối với nhận thức của con người?) 1. Vai trò của hệ thần kinh ngoại biên đối với nhận thức (chủ yếu xem xét các dây thần kinh – giác quan) 1.1 Các giác quan và vai trò của nó đối với việc tiếp nhận thông tin. Con người co 5 giác quan (thi giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác) ngoài ra còn có giác quan thứ 6 – linh cảm. Trong quá trình tiến hoá của các giác quan thì lúc đầu dường như không có sự thay đổi nhưng sau đó đã có sự tiến hoá (TK mạng → TK hạch → TK ống → Phân hoá) và dần dần có sự chuyển hoá thành các chức năng. Mỗi giác quan đã được phát triển theo hướng chuyên môn hoá, để tiếp nhận các loại kích thích phù hợp (ví dụ như mắt tiếp nhận ánh sáng, tai tiếp nhận âm thanh, ). Nhờ đó mà sự phản ánh được chính xác hơn, đem lại hiệu quả cao hơn. Mỗi giác quan được cấu tạo thành 3 bộ phận: *Bộ phận nhận cảm: Tiếp nhận các kích thích từ môi trường, nó chỉ tiếp nhận các loại kích thích thích hợp, thường gọi là bộ phận ngoại biên. *Bộ phận dẫn truyền: gồm các dây thần kinh làm nhiệm vụ dẫn truyền thông tin từ tế bào cảm giác về trung ương thần kinh, thường gọi là bộ phận dẫn truyền hướng tâm. *Bộ phận trung ương: có cấu trúc tương ứng trong hệ thần kinh, làm nhiệm vụ tích hợp các thông tin rồi xử lý nó và lại phát ra các thông tin để truyền đến cơ quan tương ứng, đáp lại các kích thích vừa nhận được. babyhvq@gmail.com 8 Nguyễn Văn Tường - 2010
  9. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Các giác quan được coi là cửa ngõ để tiếp nhận các thông tin, nếu các giác quan bị tổn thương thì việc tiếp nhận thông tin sẽ thiếu chính xác, dẫn đến các phản ứng không kịp thời và ảnh hưởng đến cơ thể. Như vậy, muốn nhận thức tốt thì phải bảo vệ các giác quan. 1.1.1 Cơ quan xúc giác (cơ quan không chuyên trách) Là hệ thống cảm giác không có cơ quan chuyên trách, các tế bào xúc giác nằm rải rác ở trên bề mặt da. Xúc giác là cơ quan đầu tiên chúng ta có được và cũng là cơ quan cuối cùng tồn tại khi chúng ta mất đi. Tiếp nhận thông tin bằng: (1) cảm giác cơ học như cầm, nắm, sờ, mó sẽ xuất hiện cảm giác đau (thông báo kích thích có hại), (2) cảm giác nhiệt độ, (3)cảm giác xúc giác tinh vi có ý thức, nhờ nó mà ta có thể nhận biết được, phân biệt được các cảm giác, xúc giác vô cùng tinh vi, (4) cảm giác nội tạng, đó là các thụ quan tiếp nhận các kích thích về ma sát, áp lực, tác động đến việc tự điều chỉnh và điều hoà hoạt động của các nội quan, (5) cảm giác bản thể, nó nằm xen kẽ trong các sợi cơ ở trong các bắp cơ, ở phần xương bám với cơ và khớp, khi kích thích các thụ quan bản thể này đem lại 2 cảm giác: sâu không ý thức và sâu có ý thức, giúp cơ thể tự điều chỉnh các hành động một cách chính xác, tiết kiệm lực. Các cảm giác xúc giác mang tính chủ thể, nó có tác động giúp cho cơ thể thích ứng với các hoạt động ở trong mỗi một thời điểm, nó giống như một “ăng ten” để tiếp nhận sóng. 1.1.2 Hệ thống cảm giác có cơ quan chuyên trách. *Cơ quan thị giác: 90 % thông tin từ bên ngoài vào con người là thông qua thị giác, thị giác tiếp nhận kích thích ánh sáng từ các sự vật hiện tượng, nó giống như một “máy ảnh” tinh xảo gồm các tế bào que (đêm) và nón (ngày). → Như vậy, cơ quan thị giác đóng vai trò đặc biệt quan trọng. *Cơ quan khứu giác: chuyên tiếp nhận các kích thích về mùi (mùi dễ chịu 20% và mùi không dễ chịu là 80%) do các tế bào cảm giác nằm ở màng nhày của khoang mũi truyền đến cho chúng ta thông tin về trạng thái của sự vật hiện tượng babyhvq@gmail.com 9 Nguyễn Văn Tường - 2010
  10. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. xung quanh, từ đó ảnh hưởng đến thái độ tình cảm của mỗi người và quy định nên những hành động của con người đối với đối sự vật hiện tượng đó. *Cơ quan vị giác: Trên bề mặt lưỡi có nhiều trồi vị giác để tiếp nhận các kích thích vị: ngọt, chua, mặn, đắng. Khứu giác và vị giác có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vị giác giúp chúng ta nhận thức vị của thức ăn, có nghĩa là giúp chúng ta hiểu biết hơn về đối tượng. *Cơ quan thính giác là cơ quan cảm giác chuyên nhận các kích thích của âm thanh. Cơ chế diễn ra của nó là sự tiếp nhận và truyền âm. Cơ quan thính giác có thể kết hợp với vị giác để bổ sung, hỗ trợ, bù trừ cho nhau. ▬► Tóm lại, các giác quan được ví như “ăng ten” để thu nhận các thông tin từ thế giới bên ngoài, các giác quan này là khởi điểm, là bước đầu của quá trình nhận thức của con người. Hoạt động chủ đạo của con người và hoạt động nghề nghiệp về thực chất nó là một quá trình nhận thức, vì thế không thể thiếu đi vai trò của các giác quan. Muốn vậy, phải bảo vệ các giác quan và phát huy cao độ vai trò của nó, huy động tất cả các giác quan tham gia vào quá trình nhận thức nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình nhận thức. 1.1.3 Nơron và vai trò của nó đối với nhận thức. Nơ ron gồm hai bộ phận; Thân và các tua (xem lại phần Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao) Chức năng cơ bản của Nơ ron là tiếp nhận thông tin, truyền tải thông tin, tham gia cấu tạo nên hệ thần kinh trung ương, xử lý, chọn lọc và lưu giữ thông tin. 2. Vai trò của Hệ thần kinh trung ương đối với quá trình nhận thức của con người. Não gồm 3 phần và xếp chồng lên nhau: Phần dưới cùng là não nguyên thuỷ, phần trên là não cổ, phần trên cùng là vỏ não mới. 2.1 Não Nguyên thuỷ; là trung khu của sự sống còn của con người, nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người, nhưng lại không có đóng góp gì cho quá trình nhận thức, chỉ có ảnh hưởng gián tiếp. babyhvq@gmail.com 10 Nguyễn Văn Tường - 2010
  11. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 2.2 Não cổ; nằm giữa não nguyên thuỷ và vỏ não mới, có hình dáng như con cá ngựa, là trung khu của cảm xúc và hứng thú của con người. Mọi thông tin do các giác quan tiếp nhận, muốn được truyền vào não phải đi qua não cổ (vùng hải mã, vùng limpích), nó được coi như là rào cản đầu tiên để truyền thông tin vào não, nó lựa chọn thông tin để đưa lên não, nó tham gia tích cực vào trong quá trình nhận thức của con người. Sự phát triển trí tuệ của con người phụ thuộc vào hứng thú, nghĩa là phụ thuộc vào não cổ (vùng limpích), vì vậy muốn đạt được hiệu quả cao trong quá trình nhận thức thì pahỉ có hứng thú nhận thức, đồng nghĩa với việc phải có sự hoạt động của vùng não cổ. KLSP: Trong dạy học, phải thường xuyên củng cố hứng thú cho học sinh, tạo ra một không khí học tập thoải mái, tạo lòng tin cho học sinh khi tiếp nhận tri thức. 2.3 Vỏ não mới: Là phần vật chất phức tạp nhất, tinh vi nhất trong hệ thần kinh của con người, đây là vùng đại não, có vỏ bán cầu đại não. Vỏ não mới có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nhận thức và thực hiện các giai đoạn trí tuệ của con người. Việc tiếp nhận và xử lý các thông tin về não được thực hiện nhờ hoạt động của Bán cầu não phải và Bán cầu não trái: Bán cầu não phải có vai trò tiếp nhận và lưu giữ tất cả các thông tin mà con người đã tri giác được, nhưng nó không đọc được các thông tin này, thông tin vẫn ở trong tình trang “không nhãn mác”, nó chỉ là một chuỗi các sự kiện được sắp xếp một cách đơn giản không theo trật tự nào. Bán cầu não trái làm nhiệm vụ phân loại và xử lý thông tin dưới hình thức các khái niệm, kí hiệu để nhận ra các thông tin đó và điều chỉnh chúng. Nó là trung khu của những gì mang tính ổn định, trật tự. Như vậy, Bán cầu não trái mang tính tổng hợp, phân tích. Mặc dù, mỗi bán cầu đại não có một chức năng, nhiệm vụ riêng, nhưng hai bán cầu đại não luôn thống nhất với nhau trong quá trình nhận thức của con người babyhvq@gmail.com 11 Nguyễn Văn Tường - 2010
  12. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. giúp con người có thêm những kiến thức mới. Sự thống nhất của hai bán cầu được thể hiện ở tính bổ sung cho nhau giữa chúng, đó chính là thao tác được đưa ra ở giai đoạn cuối cùng để cập nhật các giữ liệu và tổng hợp các thông tin thành các khái niệm, kí hiệu, * Tiến trình của quá trình nhận thức: Bán cầu não trái truyền lệnh cho bán cầu não phải, ở bán cầu não phải lưu giữ hàng loạt các thông tin không đồng nhất, được nối với mục đích của bán cầu não trái, nếu bán cầu não trái chưa thấy phù hopự lại tiếp thục tạo ra các yếu tố mới. Khi đó tính bổ sung của hai bán cầu đại não sẽ thực hiện nhiệm vụ cuối cùng để giúp con người đưa ra những tri thức mới. → Tóm lại, nhờ hoạt động bình thường của hệ thần kinh mà con người mới có khả năng nhận thức thế giới từ những cái đơn giản đến nhận thức được cái bản chất, phức tạp và khái quát được những đặc điểm chung của sự vật hiện tượng, hình thành nên những tri thức mới cho con người. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II Ý nghĩa - tầm quan trọng – vai trò của hệ thần kinh trong quá trình nhận thức của con người? (Trình bày vai trò của các giác quan, vai trò của nơ ron, vai trò của não bộ và hai bán cầu đại não) CHƯƠNG III: CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC Hoạt động nhận thức là một hoạt động quan trọng của đời sống con người, nó là khởi nguồn của mọi sự hiểu biết, nhận thức là khởi nguồn của mọi hoạt động trong đời sống con người. Nhận thức đúng dẫn tới hành động đúng và ngược lại. Nhận thức chỉ đạo hành động. I. QUÁ TRÌNH TRI GIÁC babyhvq@gmail.com 12 Nguyễn Văn Tường - 2010
  13. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tri giác là quá trình phản ánh đầu tiên, đơn giản nhất, là những viên gạch nền móng đầu tiên để xây dựng nên toà lâu đài tri thức của con người. 1.1 Khái niệm tri giác: Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của con người. (Nghiên cứu thực nghiệm về tri giác của con người đặt trong phạm vi nhận thức) 1.2 Bản chất của tri giác (Chú ý phần trọng tâm) Bản chất của tri giác là sự nhận biết các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng, từ đó liên kết các thuộc tính đó, đặt chúng trong mối quan hệ giữa không gian, thời gian, kích thước, mùi vị, sau đó đưa ra những đặc điểm chung của sự vật hiện tượng và kết quả là đem lại một hình ảnh trọn vẹn về sự vật hiện tượng. Trong tri giác của con người, sự nhận biết được thể hiện ở sự nhận dạng rồi phân loại dựa trên cơ sở của sự so sánh. Tri giác là sự lựa chọn và cái được lựa chọn sẽ trở thành đối tượng của tri giác, khi đó đối tượng sẽ được phản ánh đầy đủ hơn, chi tiết hơn. Các quan niệm lựa chọn: Có thể lựa chọn một cách có chủ định hoặc không chủ định; có thể lựa chọn theo nội dung hoặc lựa chọn theo nguồn thông tin. (Các hình thức lựa chọn diễn ra trong một quá trình, lựa chọn theo những quan niệm, những điều kiện khác nhau. Về mặt lý luận có thể hiểu: + Thông tin được lựa chọn mới chỉ là dạng đầu tiên của thông tin kích thích, chứ chưa phải là sản phẩm của sự tương tác giữa thông tin kích thích và thông tin trí nhớ. + Cơ sở của sự lựa chọn đã là sản phẩm của sự tương tác đầu tiên giữa hai loại thông tin trên. + Việc lựa chọn dựa trên thông tin đã được xử lý và chức năng của nó là tìm kiếm những gì cần có cho sự điều chỉnh hành động. + Việc lựa chọn của tri giác luôn có liên quan mật thiết với chú ý. babyhvq@gmail.com 13 Nguyễn Văn Tường - 2010
  14. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 1.3 Quan hệ giữa tri giác và chú ý 1.3.1 Định nghĩa về chú ý Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm các sự vật hiện tượng để phản ánh chúng một cách tốt nhất. * Chức năng, vai trò của chú ý: Chú ý là cái phông, cái nền để cho các quá trình tâm lý diễn ra. Chú ý là một quá trình tâm lý luôn luôn đi kèm với quá trình nhận thức để giúp cho các quá trình đó diễn ra tốt hơn. Chú ý là cánh cửa mà qua đó tất cả các sự vật hiện tượng của thế giới bên ngoài đi vào con người. Nhờ chú ý mà con người mới có thể phản ánh chính xác các sự vật hiện tượng. Các thuộc tính của chú ý; sức tập trung, tính bền vững, sự phân phối chú ý, sự di chuyển chú ý. 1.3.2 Mối quan hệ giữa tri giác và chú ý Quan hệ giữa tri giác và chú ý thường được nghiên cứu ở rất nhiều mặt: + Nghiên cứu chú ý và hành vi định hướng + Nghiên cứu sự chuyển chú ý như là một quá trình lựa chọn nội tâm. + Nghiên cứu sự tự vệ khi tri giác Nhờ có chú ý mà tri giác mang tính tích cực, chủ động hơn, sự vật hiện tượng được phản ánh đầy đủ hơn, chính xác hơn, chi tiết hơn. Nhờ có chú ý mà tính mục đích, tính ý nghĩa của tri giác được rõ ràng hơn, đầy đủ hơn. 1.4 Tri giác và điều chỉnh hành động Tri giác là sự điều chỉnh hành động của con người, là một lĩnh vực nghiên cứu của tâm lý học nhận thức để làm rõ bản chất của tri giác. Việc điều chỉnh hành động của tri giác được thể hiện như sau: babyhvq@gmail.com 14 Nguyễn Văn Tường - 2010
  15. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. - Theo lý luận, hành động về tri giác coi việc tìm kiếm, tiếp nhận và xử lý thông tin là điều kiện, tiền đề, phương tiện của hoạt động có kết quả của con người. Tâm lý học đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ này. - Cơ sở của sự nhận biết và lựa chọn của tri giác chính là việc điều chỉnh, điều khiển, định hướng hành động của con người vào đối tượng xác định. - Để nhận biết được bản chất của tri giác như trên thì các nhà TLH đã tiến hành rất nhiều các nghiên cứu như: + Mô tả hiện tượng (chú ý vào nội dung tri giác) + Nghiên cứu tri giác ở gọc độ mô tả hành vi (hướng tri giác vào hành động, hành động tri giác được điều chỉnh bởi biểu tượng) + Nghiên cứu tri giác ở góc độ sinh lý học thần kinh (nghiên cứu tập trung hưng phấn ở trong não bộ, nhờ có sự “môi giới” của các quá trình hưng phấn, của các giác quan ở bên ngoài, để tiếp nhận các kích thích từ bên ngoài tác động vào con người). + Nghiên cứu tri giác bằng thực nghiệm; nghiên cứu thực nghiệm trên con người được tiến hành trên lĩnh vực Tâm - vật lý, nghiên cứu các quan hệ giữa các đặc tính cơ bản của các kích thích vật lý như cường độ, thời gian, độ dài, sau đó tiếp tục nghiên cứu các cảm giác chủ quan đơn giản dần dần nghiên cứu càng phức tạp như ảnh hưởng của môi trường kích thích đến tri giác. Đến những năm 50 của thế kỉ XX xuất hiện hướng nghiên cứu đi sâu vào năng lực tri giác như con đường một chiều từ cơ quan nhận cảm đến não, từ ngoại biên đến trung tâm, từ đó đã chỉ ra rằng các quá trình tri giác ngoại biên cũng chịu tác động của kinh nghiệm và hứng thú. Cuối cùng đã đi đến kết luận: Tri giác là cơ sở của hành vi, là cơ sở của sự thích ứng của con người. * Đặc biệt phát hiện ra nhận thức của con người được tiến hành bằng hai con đường khác biệt nhau, đó là xử lý từ trên xuống và xử lý từ dưới lên: ● Xử lý từ trên xuống; nhận thức được hướng dẫn bởi kinh nghiệm, hiểu biết, kỳ vọng, động cơ, vỏ não tham gia tích cực về mặt sinh lý nhằm tái tạo vốn babyhvq@gmail.com 15 Nguyễn Văn Tường - 2010
  16. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. kinh nghiệm. Vai trò của xử lý từ trên xuống là giúp ta xử lý để nhận ra các đặc điểm của kích thích. ● Xử lý từ dưới lên bao gồm việc nhận biết và xử lý các thông tin về các thành phần cá biệt để cấu thành nên kích thích đó. Vai trò của xử lý từ dưới lên là giúp ta đem kinh nghiệm cũ của mình phục vụ cho nhận thức hiện tại. Cả hai cách xử lý trên đều diễn ra đồng thời và có sự tác động lẫn nhau trong quá trình nhận thức, để giúp cho chúng ta nhận thức được sự vật hiện tượng. + Ngoài việc tri giác các sự vật hiện tượng như trên còn có tri giác con người bởi con người (mắt, mũi, miệng) khi đó sẽ có sự so sánh giữa biểu tượng được lưu giữ ở trong trí nhớ với biểu tượng gần nhất đang tác động. + Việc nghiên cứu tri giác còn được diễn ra trong lĩnh vực chuyên ngành như: TLH Phát triển đã nghiên cứu tri giác và nêu lên một số mốc phát triển tri giác qua những nhận định chung như: sự phát triển các khả năng tri giác đơn giản của trẻ sơ sinh; Từ 10 – 12 tri giác của trẻ đã đạt đến trình độ tri giác của người trưởng thành; Sự phát triển của các giai đoạn nhận thức trong tri giác kế tiếp nhau qua đó thấy được sự phát triển của tri giác không tách rời sự phát triển của nhận thức. TLH Nhân cách nghiên cứu về tri giác thông qua các nhận định như: Quá trình tri giác diễn ra ở mỗi một con người là khác nhau. Sự khác nhau đó thể hiện ở các mặt sau: ●Khả năng hoạt động ở các giác quan ●Sự nhạy cảm đối với những ảo giác ●Tốc độ và sự chính xác của việc nhận biết đối tượng ●Khả năng đánh giá một đối tượng không phụ thuộc vào môi trường xung quanh. ●Xu hướng nhấn mạnh những sự khác nhau trong quá trình tri giác hoặc loại bỏ sự khác biệt. Tâm lý học xã hội thường nghiên cứu tri giác với những vấn đề như sau: babyhvq@gmail.com 16 Nguyễn Văn Tường - 2010
  17. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. ●Tương tác xã hội và sự tri giác cá nhân, tri giác nhóm. ●Sự hiểu biết, sự giao tiếp giữa các chủ thể như là một khía cạnh của tri giác ●Sự tri giác các sự vật hiện tượng ở trong hiện thực khách quan cũng như trong bản thân sự tương tác xã hội, đã tạo ra những nội dung tương tác xã hội. ●Sự hình thành thái độ xã hội và hoạt động xã hội dựa trên cơ sở những tri giác chung. II. QUÁ TRÌNH TRÍ NHỚ 2.1 Khái niệm: Trí nhớ là quá trình nhận thức phản ánh vốn kinh nghiệm của con người dưới hình thức biểu tượng. Các đặc điểm của trí nhớ: Kinh nghiệm là những cái đã qua của con người. Trí nhớ phản ánh cái chung bề ngoài. Nhận thức lý tính phản ánh cái chung bản chất Trí nhớ mang tính trực quan của nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, vì thế mà trí nhớ là vật trung gian, chuyển tiếp của nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính. Chất lượng ghi nhớ phụ thuộc vào đối tượng nhớ, nội dung, tính chất nhớ. Chủ thể nhớ được thể hiện thông qua nhu cầu, nguyện vọng, phương thức nhớ. Có hai loại ghi nhớ: ghi nhớ có chủ định và ghi nhớ không chủ định và chúng khác nhau ở mục đích ghi nhớ. 2.2 Cơ sở sinh lý của trí nhớ. Cơ sở sinh lý của trí nhớ là quá trình hình thành, củng cố và khôi phục lại những đường liên hệ thần kinh tạm thời trên vỏ não. Đó là sự để lại dấu vết trong tế bào thần kinh của vỏ não khi cơ thể nhận được các kích thích từ môi trường. Thực chất của đường liên hệ thần kinh tạm thời là gì, thì Paplôp trong quá trình nghiên cứu vẫn chưa lý giải được. babyhvq@gmail.com 17 Nguyễn Văn Tường - 2010
  18. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Cách đây hơn 300 năm, Đề Các đã giải thích, sau này Lanslây đã nhận định: Đặt vấn đề như Đề Các là đã có dáng dấp hiện đại, chỉ cần thay cụm từ “tinh khí động vật” bằng “xung động thần kinh”, thay “lỗ thủng” bằng Xuynap” (Tâm lý hoá điện - phản xạ và trí nhớ - Tg Lê Quang Long) Sau nhiều lần thực nghiệm trên động vật các nhà khoa học đã đi đến kết luận: Dấu vết để lại trên tế bào thần kinh mỗi khi cơ thể bị kích thích là một loại prôtít mới. Loại prôtít này được tổng hợp trong tế bào do axít ripônnuclêich thông tin điều khiển (ARN – tt). Mỗi khi có kích thích tác động đến các giác quan thì các tin điện sẽ được phát sinh trên tế bào cảm giác, nó lan truyền trên sợi trục, sau đó tin hoá vượt qua xynap. Khi dòng điện đi qua tế bào thần kinh diễn ra một quá trình phân hoá phức tạp phân tử AND để tạo thành ARN và từ ARN lại tạo thành một loại prôtít mới mà người ta gọi là prôtít trí khôn. Năm 1964, HaiĐen – nhà sinh lý học người Anh qua các công trình nghiên cứu đã chứng minh nếu tiêm men guanin (men này có khả năng cố định ARN) cho con chuột trước khi học chạy trên đường mêlộ để cho ARN không biến đổi được, sau đó có dạy cho con chuột bao nhiêu lần, chuột cũng không thuộc bài. Ngược lại nếu tiêm men này cho con chuột sau khi nó đã thuộc bài. Khi đó, ARN mới được hình thành sẽ không biến đổi nữa giúp chuột nhớ lâu hơn bài học. Như vậy, dưới tác động của một tác nhân kích thích bên ngoài bất thường thì ARN – tt có thể bị sao chép sai, kéo theo sự lắp giáp sai của một vài axítamin ở trên chuỗi prôtít (xưởng chế tạo prôtít của tế bào). Chính sự nhầm lẫn đó đã phát sinh ra một loại prôtít mới vốn không có trong di sản của bố mẹ để lại. Đây chính là chìa khoá của cơ chế hình thành các ẩn tích của trí nhớ mà con người mong chờ. Khi một kích thích tương tự truyền đến thì tin điện lại phát sinh và làm sống lại các phản ứng hoá học trên tế bào thần kinh mà nó mà nó đã đi qua và làm cho con người nhớ lại được các sự việc trong quá khứ. Nếu không có trí nhớ thì con người mãi mãi ở trong trạng thái của một đứa trẻ sơ sinh. babyhvq@gmail.com 18 Nguyễn Văn Tường - 2010
  19. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 2.3 Các hướng nghiên cứu về trí nhớ. 2.3.1 Nghiên cứu về trí nhớ đã có một lịch sử lâu đời và quan trọng trong tâm lý học. Trong số những tác giả nghiên cứu đầu tiên về trí nhớ phải kể đến một nhà tâm lý học nội quan Herman Ebbung Hous, ông đã hình thành một phương pháp luận và cách tiếp cận có ảnh hưởng cho đến tận hiện nay. Năm 1885, ông cho xuất bản cuốn sách về trí nhớ, trong đó mô tả các phương pháp nghiên cứu trí nhớ, mà trong đó quan tâm đến việc kiểm soát càng nhiều các khía cạnh tâm lý khác nhau càng tốt và đặc biệt quan tâm đến việc hình thành trí nhớ. Để nghiên cứu những lĩnh vực trên ông đã xây dựng phương pháp sử dụng âm tiết vô nghĩa. Nội dung bao gồm một phụ âm, kế tiếp với nó là một nguyên âm, rồi lại đến một phụ âm Những âm tiết vô nghĩa này giống như từ nhưng lại không có nghĩa cụ thể và không thể liên kết với bất kỳ điều gì đã có ở trong suy nghĩ của con người. Sau đó ông dùng phương pháp này để thử nghiệm trên chính bản thân mình và người trợ lý của mình. Để kiểm tra kết quả nghiên cứu của phương pháp trên, ông lại đưa ra một phương pháp mới, phương pháp dự đoán. Nội dung, các âm tiết vô nghĩa được viết trên các phiếu, trước khi sang phiếu khác ông sẽ cố gắng đoán xem âm tiết tiếp theo là âm tiết gì? Khi cố gắng nhớ toàn bộ danh sách các âm tiết vô nghĩa bằng sự dự đoán, thì ông nhận thấy đã thành công. Sau đó, ông đã bổ sung, hoàn thiện lại phương pháp này, để cố tìm ra các yếu tố đã ảnh hưởng, cản trở đến việc học các âm tiết. Sau này, thuyết nội quan bị thuyết hành vi phủ nhận. Tuy nhiên, nghiên cứu của ông vẫn có những thành công nhất định. 2.3.2 Từ năm 1932, hướng nghiên cứu khác về trí nhớ cũng ra đời, được bắt đầu bằng công trình nghiên cứu của một nhà quyền quý – công tước Fređerick Bartlett. babyhvq@gmail.com 19 Nguyễn Văn Tường - 2010
  20. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tác giả đã nghiên cứu cách con người tìm hiểu ý nghĩa thông tin mà họ tiếp nhận, giá trị và quan điểm của cá nhân ảnh hưởng như thế nào đến những điều mà họ nhớ? Ông đã xây dựng phương pháp kiểm tra trí nhớ của con người đối với các sự kiện, đó là phương pháp tái tạo theo chuỗi. Nội dung bao gồm việc đọc hay nghe một sự kiện hay một câu chuyện nào đó, lặp lại ở mức càng nhiều càng tốt. Ông đã làm thực nghiệm “Thầm thì Trung Hoa”; người một nói thầm với người hai, rồi người hai lại nói thầm với người ba, cứ thế đến người thứ n. Kết quả sau một thời gian truyền tin, thông tin đã bị biến dạng đi rất nhiều. Sử dụng phương pháp này, tác giả đã nhận dạng được nhiều dạng thay đổi của con người khi xử lý các thông tin và từ đó ông lập ra bảng “Thay đổi diễn ra với việc nhớ theo chuỗi” STT Các loại dị bản Nội dung 1 Thay đổi tầm quan Xu hướng tập trung vào một khía cạnh hay một bộ trọng phận nào đó, làm cho khía cạnh đó trở thành một bộ phận quan trọng nhất, cho dù nó không phải là quan trọng trong nguyên bản. 2 Bóp méo tác động Cảm nghĩ và phản ứng của riêng mỗi người là khác nhau. 3 Tiến triển Ý nghĩa của thông tin được thay đổi dần dần, từ một tái tạo này sang một tái tạo khác. 4 Rút ngắn Ý nghĩa của thông tin càng ngày càng được rút ngắn trong các phiên bản kế tiếp, các chi tiết bị bỏ bớt hoặc thêm bớt, hoặc không phù hợp với thông tin ban đầu. 5 Tính cố kết Thay đổi làm cho thông tin có nghĩa, bao gồm việc đưa ra các thông tin mới hoặc thay đổi chuỗi sự kiện. babyhvq@gmail.com 20 Nguyễn Văn Tường - 2010
  21. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 6 Tính quy ước Là nơi mà chủ đề hay lời nói dập khuôn thường dùng thay thế câu văn ban đầu đến mức thông tin ngày càng mang tính quy ước nhiều hơn, phù hợp với văn hoá và bối cảnh xã hội. 7 Bỏ tên và con số Các con số và tên riêng có khuynh hướng bị bỏ đi khi người ta thầm thì với nhau hoặc thay đổi thành những phiên bản quen thuộc hơn. Đánh giá: Cả hai tác giả trên đều có những đóng góp rất nhiều cho những hiểu biết về trí nhớ của con người bằng những cách khác nhau. Thể hiện ở chỗ: Êbingao cho rằng bản chất của trí nhớ là “thuần tuý” nghĩa là trí nhớ không chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm, quan điểm hay suy nghĩ của cá nhân, ông còn tập trung nghiên cứu vào quá trình nhận thức trí nhớ được mã hoá, được lưu giữ và truy cập bằng cách nào. Balét thì quan tâm nghiên cứu sử dụng trí nhớ trong đời sống hàng ngày và kinh nghiệm, quan điểm tập trung suy nghĩ, tham gia ra sao trong việc định hình trí nhớ. Sau này đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu hiện đại về trí nhớ được thể hiện bởi các nhà khoa học như Atkinson, Loftus 2.3.3 Một số quan điểm của các nhà tâm lý học về sự hình thành trí nhớ. - Thuyết liên tưởng về trí nhớ: Coi hoạt động trí nhớ là nguyên tắc quan trọng nhất của sự hình thành trí nhớ nói riêng và sự hình thành tất cả các hiện tượng tâm lý nói chung. Theo quan điểm này thì sự xuất hiện của các hình ảnh tâm lý trên vỏ não bao giờ cũng xuất hiện đồng thời hoặc là kế tiếp với một hiện tượng tâm lý khác theo quy luật liên tưởng (Liên tưởng là nhớ một sự vật hiện tượng này lại nhớ đến một sự vật hiện tượng khác có liên quan đến sự vật hiện tươngj ban đầu). Sự liên babyhvq@gmail.com 21 Nguyễn Văn Tường - 2010
  22. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. tưởng có thể gần nhau về mặt không gian, thời gian, hoặc tương tự về mặt nội dung hay hình thức. Có sự liên tưởng đối lập nhau. Nhận xét: Thuyết liên tưởng về trí nhớ mới dừng lại ở việc mô tả bề ngoài của sự vật hiện tượng, mới chỉ nhìn thấy các sự kiện, hiện tượng, chứ chưa giải thích được sự hình thành trí nhớ một cách khoa học. Trong tâm lý học, việc mô tả một sự kiện hiện tượng cũng là quan trọng, nhưng sẽ là sai lầm khi cho đó là mối quan hệ nhân quả. - Thuyết cấu trúc về trí nhớ (TLH Gestas): Các nhà tâm lý học cấu trúc cho rằng, môi một sự kiện đều có một cấu trúc thống nhất, ở đó có sự thống nhất giữa các yếu tố cấu thành nên đối tượng, chứ không phải là một phép cộng tất cả các hiện tượng đơn lẻ tạo nên sự vật hiện tượng như các nhà liên tưởng quan niệm. Các nhà tâm lý học cấu trúc coi tính trọn vẹn của đối tượng là một nguyên tắc để xây dựng nên quy luật Gestas. Cấu trúc vật chất của sự vật hiện tượng là cơ sở nền tàng cho việc ghi nhớ của con người. Tuy nhiên, cấu trúc này chỉ được phát hiện và phát huy tác dụng khi mà cá nhân đó tích cực hoạt động. Nếu tách tính trọn vẹn của sự vật hiện tượng ra khỏi hoạt động thì sẽ rơi vào sai lầm như thuyết liên tưởng. 2.3.4 Những nghiên cứu của tâm lý học hiện đại về trí nhớ. Coi hoạt động của cá nhân là yếu tố quyết định trong việc hình thành trí nhớ của con người nói riêng và tâm lý người nói chung. Theo quan điểm này, hoạt động trí nhớ bao gồm 3 quá trình và được quy định bởi vai trò, đặc điểm của thông tin đối với hoạt động của cá nhân. Ba quá trình trí nhớ chỉ đạt hiệu quả cao nhất khi mà các tài liệu nhớ trở thành mục đích của hoạt động, của hành động của con người. Chú ý vận dụng vào quá trình học tập trả lời câu hỏi; xây dựng mục đích học tập để làm gì? III. TƯ DUY VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC babyhvq@gmail.com 22 Nguyễn Văn Tường - 2010
  23. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. (Từ 3.1 đến 3.4 xem giáo trình TLH ĐC GS.TS Nguyễn Quang Uẩn từ tr 91 đến 97) 3.1 Khái niệm tư duy? 3.2 Đặc điểm của tư duy? 3.3 Các giai đoạn của quá trình tư duy? (Tư duy là một quá trình, có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc) 3.4 Các thao tác tư duy hay hành động của tư duy? (Tư duy là một hành động) 3.5 Tư duy là một hoạt động (xét trong cấu trúc của hoạt đông – Leonchiep) Nói tư duy là một hoạt động, điều đó có nghĩa là hoạt động tư duy có đầy đủ các đặc điểm của một hoạt động. 3.5.1 Tính đối tượng của hoạt động: Hoạt động tư duy là hoạt động có đối tượng, đó là những tri thức mà con người phải chiếm lĩnh. 3.5.2 Hoạt động tư duy mang tính chủ thể; nó do con người tiến hành vì thế mà ở mỗi một người khác nhau thì hoạt động tư duy là khác nhau. 3.5.3 Hoạt động tư duy vận hành theo nguyên tắc gián tiếp; thông qua các công cụ tâm lý, tri thức, khái niệm, phán đoán, ngôn ngữ, 3.5.4 Hoạt động tư duy có tính mục đích, giải quyết được vấn đề, đi đến được kết quả. Sơ đồ cấu trúc vĩ mô của hoạt động (GT TLH ĐC tr 53) Khi nói, tư duy là một hoạt động, người ta muốn nhấn mạnh, muốn đặt tư duy vào mối quan hệ với nhân cách, muốn nhấn mạnh mặt động cơ của tư duy, xem xét các yếu tố như động cơ, mối quan hệ liên nhân cách, xúc cảm, can thiệp như thế nào vào quá trình tư duy, vàp quá trình tiến hành các thao tác tư duy. Xét cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn, thì tốc độ của quá trình tư duy hay việc tiến hành các thao tác tư duy diễn ra như thế nào còn phụ thuộc nhiều vào phẩm chất của nhân cách như; nhu cầu, hứng thú, động cơ, tâm thế, vốn kinh nghiệm, babyhvq@gmail.com 23 Nguyễn Văn Tường - 2010
  24. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Chính vì thế, khi nói tư duy là một hoạt động, thì đó cũng chính là một biểu hiện của nhân cách của chủ thể. Và vì thế, muốn phát triển tư duy cho cá nhân phải đưa cá nhân vào hoạt động tích cực. Tóm lại, tư duy là một quá trình, một hành động có nhiều thao tác, một hoạt động liên nhân cách, tất cả nhằm tạo ra sản phẩm của tư duy là các khái niệm, các phán đoán, các suy lý, 3.6 Chứng minh tư duy mang bản chất xã hội - lịch sử. (Chú ý phần trọng tâm) Để chứng minh bản chất xã hội – lich sử của tư duy con người, trước hết chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu hoạt động tư duy của động vật và của Rôbốt. 3.6.1 Tư duy của động vật. Tư duy của động vật là tư duy trực quan, cụ thể - tư duy bằng tay. Đây là loại tư duy chủ yếu của động vật. Khi động vật tiến hành tư duy, nó sử dụng 3 kiểu phương thức hành vi cơ bản sau: - Hành vi bản năng (là hành vi bẩm sinh mang tính di truyền), cơ sở sinh lý của hành vi bản năng là các phản xạ không điều kiện. Nó xuất phát trực tiếp từ cơ thể, trực tiếp thoả mãn các nhu cầu của cơ thể. Nó là những hành vi không cần qua rèn luyện, nó giống như những hành vi được truyền lại từ tổ tiên của loài. - Hành vi kĩ xảo: là hành vi , hành động tự động hoá của động vật nhờ luyện tập. - Hành vi trí tuệ của động vật chính là tư duy cụ thể bằng tay. VD: Con khỉ lấy nải chuối treo trên trần nhà. Đây là hình thức tư duy cao nhất có ở động vật. Vì nó phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của tư duy, nó cũng phải tiến hành các thao tác tư duy bằng tay chân và nó cũng thu được một kết quả cụ thể. Đặc điểm của hành vi trí tuệ của động vật: babyhvq@gmail.com 24 Nguyễn Văn Tường - 2010
  25. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. + Thiết lập được mối quan hệ về mặt không gian cụ thể giữa các sự vật hiện tượng + Nó mang nội dung sinh học, gắn liền với nhu cầu sinh vật (nhu cầu cơ thể) + Nó sử dụng các thao tác chân tay và có sự giúp đỡ của các phương tiện hỗ trợ. + Nó không có tính mục đích và được tiến hành không dựa trên sự hiểu biết mà chỉ theo nguyên tắc “thử và sai”. Vì thế, mà những kinh nghiệm nó có được không thể truyền lại cho thế hệ sau hay các con vật khác cùng thế hệ. + Hoạt động tư duy trí tuệ của động vật không xảy ra thường xuyên, nó chỉ xảy ra khi mà hành vi bản năng và hành vi kĩ xảo không giải quyết được khó khăn trước mắt. 3.6.2 Tư duy của máy (Rôbốt) - Tư duy của máy khác tư duy của người ở chỗ; tư duy của máy theo kiểu angorit, theo một chương trình đã định sẵn, vì thế tư duy của máy rất máy móc. Máy cùng chương trình của máy là sản phẩm tư duy của con người, máy muốn hoạt động phải do con người điều khiển, máy không có tính chủ động. - Máy là vật vô tri, vô giác, không có tâm lý, tình cảm và máy không thể sinh ra máy. - Tư duy của máy không có sự sáng tạo trong khi cuộc sống thì luôn luôn biến động, vì thế tư duy của máy không thể đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống 3.6.3 Tư duy của con người mang bản chất xã hội - lịch sử. - Ngược lại hoàn toàn với tư duy của máy hay động vật, tư duy của con người có sự linh hoạt sáng tạo, tiềm năng tư duy của con người là vô hạn. - Không những thế, thông qua tư duy con người còn bộc lộ tiềm năng, cảm xúc, tình cảm, nhu cầu, phẩm chất nhân cách, babyhvq@gmail.com 25 Nguyễn Văn Tường - 2010
  26. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. - Con người sử dụng các loại ngôn ngữ khác nhau trong quá trình tư duy con máy móc thì không thể có. - Con người trong quá trình tư duy còn sử dụng các kinh nghiệm của các thế hệ trước được đúc kết lại thông qua ngôn ngữ. - Tư duy của con người không tự nhiên nảy sinh mà do nhu cầu của cuộc sống. - Tư duy của con người có khả năng hướng tới quá khứ, hiện tại và tương lai. - Tư duy của con người xuất phát từ nhận thức cảm tính, nó phản ánh mối quan hệ xã hội lịch sử. - Tư duy của con người mang tính kế thừa giữa các thế hệ. 3.7 Một số nghiên cứu về tư duy. Xuất phát từ tầm quan trọng của tư duy, đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về tư duy: - Các nhà tâm lý học cấu trúc - Các nhà tâm lý học hành vi - Mộ số tác giả như: Dance, Makinxki, . Từ đó họ đã phát hiện ra các quy luật cũng như các mối quan hệ của tư duy. IV. NGÔN NGỮ VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI (Phần 4.1, 4.2, 4.3, 4.4 GT TLH ĐC tr 108 – 116) 4.1 Định nghĩa - Ngữ ngôn là một hệ thống các dấu hiệu có chức năng như phương tiện của sự tiếp xúc, là phương tiện của tư duy. Ngữ ngôn đặc trưng cho từng dân tộc. - Ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngữ ngôn nhất định để giao lưu tư tưởng, tình cảm. Ngôn ngữ là sự giao tiếp bằng tiếng nói. Ngôn ngữ mang tính cá nhân. babyhvq@gmail.com 26 Nguyễn Văn Tường - 2010
  27. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 4.2 Chức năng của ngôn ngữ - Chức năng chỉ nghĩa - Chức năng khái quát hoá - Chức năng giao tế 4.3 Các loại ngôn ngữ - Ngôn ngữ bên ngoài + Ngôn ngữ nói + Ngôn ngữ viết - Ngôn ngữ bên trong 4.4 Hoạt động ngôn ngữ - Hoạt động biểu đạt - Hoạt động hiểu biểu đạt 4.5 Bản chất của ngôn ngữ và hoạt động lời nói. (Chú ý phần trọng tâm) 4.5.1 Bản chất của ngôn ngữ (lời nói) Xét về bản chất của ngôn ngữ thì có nhiều quan điểm khác nhau như; quan điểm tự nhiên về ngôn ngữ và quan điểm xã hội - lịch sử. 4.5.1.1 Quan điểm tự nhiên cho rằng: - Ngôn ngữ là bản năng của con người, sinh ra đã có - Ngôn ngữ là một hiện tượng tự nhiên, nó quá trình sinh ra, quá trình diễn tiến, quá trình biến đổi và tiêu vong như một cơ thể sống. - Ngôn ngữ đống nhất với dấu hiệu của một chủng tộc như; đặc điểm cơ thể, màu da, tiếng nói, phát âmm, - Ngôn ngữ mang tính di truyền và có tính chất sinh vật. 4.5.1.2 Quan điểm xã hội - lịch sử cho rằng: - Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên “con người” cũng như hình thành cả xã hội loài người. babyhvq@gmail.com 27 Nguyễn Văn Tường - 2010
  28. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. - Ănghen đã nói “Trước hết là lao động, sau lao động là ngôn ngữ, đó là hai yếu tố đã biến não vượn thành não người”. - Ngôn ngữ là công cụ, là phương tiện của loài người, nó đặc trưng cho mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người, để tạo điều kiện cho con người có thể gia nhập vào xã hội loài người, cóp thể tham gia vào hoạt động để giao tiếp với nhau, để nhận thức và cải tạo thế giới, đồng thời cai tạo chính bản thân mình. - Ngôn ngữ là công cụ để hình thành ý thức và tự ý thức của con người. - Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội, là công cụ xã hội, mang bản chất xã hội - lịch sử; thông qua ngôn ngữ con người lĩnh hội, học hỏi những kinh nghiệm của thế hệ đi trước, biến nó thành cái riêng của bản thân, tạo ra sự phát triển nhân cách, tâm lý cho bản thân. - Ngôn ngữ là phương tiện, là công cụ để sản xuất ra tư tưởng, tình cảm của con người, sau đó khái quát lại thành những nét tính cách, tâm lý riêng. Hay nói cách khác, ngôn ngữ giúp con người trao đổi tình cảm, tư tưởng và tư duy. Như vậy, xuất phát từ nguồn gốc xã hội nên ngôn ngữ mang bản chất xã hội - lịch sử. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là tiêu chí để xã hội tồn tại, là tiêu chí để phát triển xã hội, xây dựng các quan hệ xã hội, xây dựng nên nền kinh tế tri thức. Nhận xét: Với tầm quan trọng của mình, ngôn ngữ trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như TLH, dân tộc học, Chủ nghĩa tự nhiên coi ngôn ngữ là một hiện tượng tự nhiên, đồng nghĩa với việc đã phủ nhận bản chất xã hội - lịch sử của ngôn ngữ. 4.5.2 Bản chất của hoạt động lời nói. a. Hoạt động lời nói là hoạt động của cá nhân được hình thành trong đời sống xã hội của con người. Trong đó, con người tiếp thu và sử dụng tiếng nói của dân tộc, của cộng đồng vào quá trình nhận thức, giáo tiếp để lĩnh hội nền văn hoá xã hội - lịch sử, hình thành và phát triển nhân cách con người. b. Hoạt động lời nói gồm có: babyhvq@gmail.com 28 Nguyễn Văn Tường - 2010
  29. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. - Viết là sử dụng các âm tự, con chữ để mà viết ra. - Nói là sử dụng âm thanh, âm vị, hoạt động của cơ quan phát âm để thu nhận và phát ra âm thanh. - Các cử chỉ điệu bộ c. Hoạt động lời nói là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó có chức năng chỉ nghĩa và thông báo. d. Hoạt động lời nói là hoạt động mang tính cá nhân, trong đó cá nhân sử dụng hoạt động lời nói để nhận thức lẫn nhau, để tiếp thu thông tin, để cùng nhau giao tiếp và hoàn thiện bản thân. e. Hoạt động lời nói bao gồm hai mặt: mặt biểu đạt và mặt hiểu biểu đạt. ☻Mặt biểu đạt: là mặt sản sinh ra lời nói (hay nó chính là quá trình xuất tâm). Đó là quá trình mà ngôn ngữ được hình thành do ý chủ quan của cá nhân về nội dung cần nói ra hoặc viết ra và chuyển các ý chủ quan này thành lời nói. Về thực chất đó là quá trình chuyển ý thành lời. - Đặc điểm của mặt biểu đạt: Đây là một hoạt động tâm lý có cấu trúc chung như một một hoạt động bình thường: Hoạt động lời nói ↔ Động cơ (ý muốn chủ quan) ↕ ↕ Hành động lời nói ↔ Mục đích lời nói ↕ ↕ Thao tác lời nói ↔ Lời nói, âm thanh, chữ, kí hiệu Hoạt động lời nói không phải là hoạt động đơn phương, tự thân. Trái lại, nó luôn gắn với các hoạt động khác như hoạt động giao tiếp, hoạt động nhận thức và sử dụng các phương tiện đặc biệt là lời nói, kí hiệu, cử chỉ điệu bộ. - Các giai đoạn sản sinh lời nói (quá trình xuất tâm). Đã có nhiều nhà tâm lý học khác nhau đưa ra các giai đoạn khác nhau về quá trình sản sinh lời nói: babyhvq@gmail.com 29 Nguyễn Văn Tường - 2010
  30. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. + Quan điểm của nhà tâm lý học người Mỹ D.H.Good, ông đã đưa ra quá trình sản sinh lời nói bao gồm 6 giai đoạn: 1) Giai đoạn 1: Hình thành động cơ sản sinh lời nói (hình thành các ý tưởng, ý định mang tính chủ quan) 2) Giai đoạn 2: Kế hoạch hoá ý thành lời 3) Giai đoạn 3: Tìm kiếm các lời, các chữ, các cử chỉ, hành vi chứa đựng trong một ý nghĩa phù hợp. 4) Giai đoạn 4: Lập chương trình chuyển ý vào lời theo một cấu trúc cú pháp biểu đạt các chương trình phát ngôn. 5) Giai đoạn 5: Hiện thực hoá các chương trình ngôn ngữ và phát ngôn (xuất tâm) 6) Giai đoạn 6: Kiểm tra, theo dõi kết quả. + Theo quan điểm của các nhà tâm lý học ngôn ngữ người Nga, quan niệm rằng việc sản sinh ra lời nói gồm 5 giai đoạn: Các nhà TLH Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Giai đoạn 4 Giai đoạn 5 L.X.Vưgotxki Hình thành Ý cá nhân Các từ ngữ, Nghĩa kết Phát ngôn động cơ sản tín hiệu, cử quả biểu đạt sinh lời nói chỉ, điệu bộ ý A.A.Leonchiev Hình thành Có các ý cơ Chương Đưa vào cấu Phát ngôn động cơ sản bản trình ngôn trúc cú pháp sinh lời nói ngữ A.R.Luria Hình thành Ý chủ quan Từ ngữ và Cấu trúc Phát ngôn động cơ sản có tính cơ ngữ nghĩa ngữ pháp sinh lời nói bản A.V.Petropxki Hình thành Ý và mã Lập chương Già soát Phát ngôn động cơ sản hoá ý trình ngôn chương sinh lời nói ngữ trình chuẩn bị phát ngôn babyhvq@gmail.com 30 Nguyễn Văn Tường - 2010
  31. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. + Quan điểm chung cho rằng hoạt động lời nói chỉ bao gồm 4 giai đoạn:  Giai đoạn 1: Hình thành động cơ tạo ra các ý chủ quan sẽ nói ra, viết ra, biểu đạt ra từ đó nảy sinh nhu cầu cần nói ra, viết ra nhằm mục đích gì?, bằng cách nào?, nói trực tiếp hay viết ra giấy?  Giai đoạn 2: Lập chương trình phát ngôn, từ ý chủ quan của chủ thể tìm những từ ngữ, những kí hiệu, tín hiệu để biểu đạt mang tính khách quan, để bộc lộ ra các ý rồi chuyển ý vào cấu trúc ngữ pháp, vào trong câu, trong đoạn văn, trong bài viết.  Giai đoạn 3: Phát ngôn, tức là viết ra bằng bài giảng, sơ đồ, cử chỉ điệu bộ, chuyển từ ý bên trong thành lời ở bên ngoài. Gọi là giai đoạn khách quan hoá.  Giai đoạn 4: Theo dõi các tác dụng, tín hiệu phản hồi để điều chỉnh hành vi cho phù hợp. - Cơ chế hình thành hoạt động sản sinh lời nói (gồm 6 cơ chế nhỏ) + Cơ chế hình thành động cơ, đấu tranh động cơ trên cơ sở của nhu cầu, mục đích. + Cơ chế lựa chọn ngữ âm, chữ viết, ngữ pháp ở trong đầu dẫn đến ngôn ngữ thầm ở trong đầu. + Cơ chế tạo ra cấu trúc ngữ pháp, xác định được chue ngữ - vị ngữ - bổ ngữ. + Cơ chế chuyển ý thành lời theo cấu trúc ngữ pháp đã lựa chọn. + Cơ chế phát ngôn – chương trình phát ngôn. + Cơ chế hiện thực hoá chương trình phát ngôn ra ngoài. ☻Mặt hiểu biểu đạt: Đây chính là hoạt động tiếp nhận lời nói, tức là nghe và hiểu, đồng thời chuyển ý khách quan thành ý chủ quan, chuyển từ ngoài vào trong. (Nhập tâm) Xung quanh vấn đề này có rất nhiều quan điểm khác nhau: babyhvq@gmail.com 31 Nguyễn Văn Tường - 2010
  32. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. - Quan điểm của tâm lý học liên tưởng: Cho rằng khi có lời nói, chữ viết tác động đến chúng ta, ta nghe được, đọc được nó sẽ làm sống lại những ý nghĩ liên tưởng liên quan đến lời nói và chữ viết để nhận thức nó. - Quan điểm của lý thuyết thông tin: Cho rằng quá trình truyền và phát tin từ người nói đến người nghe có sự mã hoá thông tin, người nhận tin pahỉ giải mã, người phát tin phải mã hoá. Con người được ví như cái máy phát, máy nhận thuần tuý các thông tin xuôi ngược. Theo quan điểm của thuyết thông tin thì khi nói ra ý phải chuyển thành lời, có nghĩa khi sang nguồn tin thì nguồn phát ra nó chứa đựng trong chữ, trong hành vi. Khi đó người nhận phải có cơ chế tri giác ngôn ngữ (nghe, nhìn), tri giác chữ viết, hình ảnh, sau đó là thông hiểu ngôn ngữ. Còn việc nhận tin là quá trình chuyển từ ngoài vào trong, chuyển lời thành ý (quá trình nhập tâm), còn quá trình chuyển từ ý thành lời gọi là quá trình xuất tâm. Do tác động của lời nói mà con người có thể làm sống lại các mối liên tưởng đã có. + Quan điểm của các nhà tâm lý học ngôn ngữ cho rằng mặt hiểu biểu đạt là quá trình chuyển từ nghĩa khách quan chứa đựng trong lời sang nghĩa chủ quan, nó diễn ra qua hai khâu tri giác ngôn ngữ (nghe và đọc), từ đó xuất hiện tri giác con người, hình ảnh, âm thanh hay con chữ, Tri giác ngôn ngữ là quá trình đọc và nghe các kí hiệu ngôn ngữ bằng các giác quan, kết quả phụ thuộc vào việc quan sát tinh tế, nhạy cảm, phụ thuộc vào tâm thế của chủ thể, động cơ hành động. Thông hiểu ngôn ngữ theo Xêchinốp là hiểu cái gì đó. Câu hỏi thảo luận: Phân tích các mức độ của quá trình nhận thức? Mối quan hệ giữa chúng? 1. Định nghĩa về nhận thức: Nhận thức là quá trình phản ánh các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan và cả bản thân ta nữa, phản ánh những thuộc tính bề ngoài và cả những thuộc tính bản chất bên trong của sự vật hiện babyhvq@gmail.com 32 Nguyễn Văn Tường - 2010
  33. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. tượng, phản ánh những cái hiện có, những cái đã qua và cả những cái sẽ có trong tương lai. (Con người sinh ra không có một chiếc gương trên tay, phải qua giao tiếp với người khác để nhận ra ta) 2. Các mức độ của nhận thức bao gồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. 3. Phân tích các mức độ của quá trình nhận thức 3.1 Nhận thức cảm tính: 3.1.1 Định nghĩa: Nhận thức cảm tính là quá trình nhận thức phản ánh các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng, khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. 3.1.2 Các quá trình của nhận thức cảm tính: Nhận thức cảm tính bao gồm hai quá trình là cảm giác và tri giác. - Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. Sản phẩm của cảm giác là những cảm giác riêng lẻ. - Tri giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. Sản phẩm của tri giác là các hình tượng. 3.1.3 Đặc điểm chung của nhận thức cảm tính: - Nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng với các mức độ khác nhau từ thấp đến cao. - Nhận thức cảm tính phản ánh trực tiếp các sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. - Sản phẩm của nhận thức cảm tính là các cảm giác riêng lẻ, là các hình tượng. babyhvq@gmail.com 33 Nguyễn Văn Tường - 2010
  34. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 3.2 Nhận thức lý tính: 3.2.1 Định nghĩa: Nhận thức lý tính là quá trình nhận thức phản ánh các thuộc tính bản chất bên trong của sự vật hiện tượng, khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. 3.2.2 Các quá trình của nhận thức lý tính: bao gồm có tư duy và tưởng tượng. - Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết. Sản phẩm của tư duy là các tri thức mới như các khái niệm, công thức, định luật, - Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có. Sản phẩm của tưởng tượng là những hình ảnh, biểu tượng mới trên cơ sở của những biểu tượng đã có trước đó. 3.2.3 Mối quan hệ giữa tư duy và tưởng tượng - Cùng nằm trong nấc thang nhận thức lý tính, tư duy và tưởng tượng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau khi giải quyết một tình huống có vấn đề. - Tưởng tượng tìm ra lối thoát trong hoàn cảnh có vấn đề khi tư duy bế tắc, tưởng tượng cho phép ta “nhảy cóc” qua một vài giai đoạn nào đó của tư duy mà vẫn cứ hình dung được kết quả cuối cùng. - Nhờ có tư duy mà tưởng tượng của con người mang tính khách quan, hiện thực hơn, giảm bớt sự bất hợp lý, thiếu chính xác, thiếu chặt chẽ vốn là điểm yếu của quá trình tưởng tượng. babyhvq@gmail.com 34 Nguyễn Văn Tường - 2010
  35. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 3.3 Trí nhớ Trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã có của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo lại ở trong óc cái mà con người đã cảm giác, tri giác, xúc cảm, hành động hay suy nghĩ trước đây. Sản phẩm của trí nhớ là những hình ảnh, biểu tượng. Trí nhớ là giai đoạn trung gian của nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. 4. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính - Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là các mức độ nhận thức khác nhau của con người, chúng có quan hệ biện chứng với nhau để nhận thức của con người trở nên hoàn chỉnh, điều này được thể hiện như sau: + Nhận thức cảm tính là cơ sở, là nguồn nhiên liệu cho nhận thức lý tính Vd: Khi quan sát trời sắp đổ mưa + Nhận thức lý tính tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nhận thức cảm tính đầy đủ hơn, chính xác hơn, tinh vi hơn. Vd: Có sự hướng dẫn của ngôn ngữ hay tư duy thì cảm giác, tri giác trở nên chính xác hơn, tinh vi hơn. - Mối quan hệ ấy được kiểm nghiệm trong thực tiễn, thực tiễn là cơ sở, là động lực của nhận thức. Vd: Hoạt động học tập phải thường xuyên gắn liền với thực hành. babyhvq@gmail.com 35 Nguyễn Văn Tường - 2010