Chuyên đề Sự hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Sự hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
chuyen_de_su_hinh_thanh_gia_ca_trong_nen_kinh_te_thi_truong.pdf
Nội dung text: Chuyên đề Sự hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường
- CHUYÊN ĐỀ SỰ HÌNH THÀNH GIÁ CẢ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VẤN ĐỀ 1: PHẠM TRÙ GIÁ CẢ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I/ Các khái niệm về giá cả 1. Khái niệm giá theo góc độ kinh tế Lý thuyết cổ điển - D.Ricardo: giá dựa trên số lượng lao động cần thiết để tạo ra hàng hoá bao gồm cả các khoản chi phí bổ sung như chi phí phân phối - Malthus: giá dựa trên giá trị của lao động biểu hiện bằng tiền mà người mua sẵn sàng bỏ ra để có được hàng hoá - Bentham: đối với người tiêu dùng, giá được xác định bởi mong muốn sở hữu hàng hoá; đối với người bán là khoản chi phí mà họ phải bỏ ra để sản xuất ra hàng hoá dó Lý thuyết ‘cận biên’ - Lý thuyết này nhấn mạnh các yếu tố chủ quan trong việc xác định giá cả hàng hoá - Menger: giá trị gắn liền với những đánh giá về sự ước muốn của người mua và vì vậy, không phải dựa trên chi phí sản xuất - Wieser & Jevon: chính tính hữu ích của hàng hoá giải thích chi phí sản xuất và giá trị có thể được đo lường trước khi sản xuất Lý thuyết tân cổ điển - Marshall: cần phân biệt việc xác định giá ở ngắn hạn và dài hạn - Giá cả mà người mua sẵn sàng trả để có được hàng hoá phụ thuộc đồng thời vào ước muốn sở hữu hàng hoá đó của họ và chi tiêu mà họ dành cho việc đó - Ở ngắn hạn, cầu thị trường có tác động rất mạnh đến giá trong khi ở dài hạn, giá cả được điều chỉnh chủ yếu dựa vào chi phí sản xuất với giả thiết về cạnh tranh
- - Để nghiên cứu giá cả, cần phải sử dụng một công cụ cơ bản là khái niệm về độ co giãn! Khiếm khuyết của các khái niệm về giá trên? - Lý thuyết cổ điển không tính đến sự thay đổi về qui mô DN, sự đa dạng hoá sản phẩm và sự xuất hiện của quảng cáo - Lý thuyết tân cổ điển có tính đến các yếu tố trên nhưng chỉ coi đó là những thay đổi đặc biệt - Chưa đề cập đến vai trò của cạnh tranh độc quyền Vai trò của cạnh tranh độc quyền - Làm biến mất nguyên tắc giá duy nhất (hay giá đồng nhất) và nguyên lý về tính đồng nhất của sản phẩm - Chấp nhận cho DN một cấp độ tự do trong việc hình thành giá và lựa chọn hình thức sản xuất Từ giá duy nhất đến nhiều giá - Lý thuyết của Chamberlin về Sự khác biệt hoá sản phẩm - Người mua và người bán gặp nhau không phải ngẫu nhiên mà theo ý thích của họ - Mỗi người bán có sự độc quyền tuyệt đối về sản phẩm của mình những không có độc quyền về cung vì có sản phẩm thay thế - Chỉ có cạnh tranh độc quyền mới giải thích được sự hình thành giá khi sản phẩm khác biệt Hiện tượng nhiều giá trên thị trường - Đó là chính sách bán cùng loại sản phẩm với các mức giá khác nhau tuỳ theo các đặc tính riêng gắn với cầu, như người mua là ai?, người tiêu dùng có ngần ngại khi mua? Cơ sở của phân biệt giá? - Sự khác nhau về độ co giãn của cầu trên các đoạn thị trường mà DN có thể bán sản phẩm - Sự khác biệt về chất lượng sản phẩm và tính hữu ích của chúng - Khác biệt về địa lý (lý thuyết Robinson)
- - Khái niệm Cầu bậc thang của Michel: cầu của một DN bao gồm nhiều mức cầu bộ phận đối với những mặt hàng khác nhau trong chủng loại sản phẩm (hay còn gọi là cầu thứ phát) 2. Các hình thức biểu hiện của giá theo góc độ marketing Giá cả mang nhiều tên gọi khác nhau (xem bảng 1). Bảng 1: Những tên gọi khác nhau của giá cả Các thuật ngữ thay thế Loại sản phẩm/ dịch vụ Giá cả Hầu hết các loại hàng hoá Học phí Các khoá học, giáo dục Tiền thuê Nhà ở hay sử dụng các phương tiện nào đó Lãi suất Giá sử dụng tiền Lệ phí Các dịch vụ chuyên nghiệp luật sư, bác sĩ Cước Các dịch vụ vận chuyển, thông tin Tiền lương/ tiền công Trả cho hàng hoá sức lao động Hoa hồng Cho việc thực hiện các chức năng thương mại Theo góc độ ứng dụng marketing vào thực tiễn kinh doanh, có thể định nghĩa giá cả như sau: * Với hoạt động trao đổi, giá cả được định nghĩa: "Giá là mối tương quan trao đổi trên thị trường." Định nghĩa này chỉ rõ: Giá là biểu tượng giá trị của sản phẩm, dịch vụ trong hoạt động trao đổi. Vì vậy, không thể thiếu vắng giá cả ở bất kỳ một hoạt động trao đổi nào. Trao đổi qua giá là trao đổi dựa trên giá trị của những thứ đem trao đổi. Vì vậy, khi thực hiện trao đổi qua giá, trước hết phải đánh giá được giá trị của các thứ đem trao đổi. Nếu tiêu chuẩn của giá trị là lợi ích kinh tế thì sự chấp nhận một mức giá phụ thuộc rất lớn vào sự xét đoán lợi ích mà các thành viên tham gia trao đổi đánh giá về mức giá đó. Một mức giá không được chấp nhận trong trao đổi thường xuất phát từ vấn đề cốt lõi là lợi ích của một hoặc cả hai bên tham gia trao đổi không được thỏa mãn. Cho dù giá mang những tên gọi khác nhau nhưng chúng đều chứa đựng một ý nghĩa kinh tế chung: lợi ích được xác định bằng tiền.
- * Với người mua: Người mua là một trong hai thành phần tất yếu của hoạt động trao đổi. Trong trao đổi, họ thường là người có tiếng nói cuối cùng về một mức giá được thực hiện. Người mua tham gia trao đổi nhằm tìm kiếm những lợi ích mà hàng hóa và dịch vụ có thể thoả mãn nhu cầu và ước muốn của họ. Với họ, hoạt động trao đổi nào cũng phải trả giá. Mức mà người mua phải trả cho hàng hóa và dịch vụ dưới hình thức tiền tệ chính là giá cả của hàng hóa và dịch vụ đó. Người mua định nghĩa giá cả như sau: "Giá cả của một sản phẩm hoặc dịch vụ là khoản tiền mà người mua phải trả cho người bán để được quyền sở hữu, sử dụng sản phẩm hay dịch vụ đó." Định nghĩa này thể hiện rõ quan niệm của người mua về giá: Giá là chi phí bằng tiền mà người mua phải bỏ ra để có được những lợi ích mà họ tìm kiếm ở hàng hóa và dịch vụ. Vì vậy, giá thường là chỉ số quan trọng được sử dụng trong quá trình lựa chọn và mua sắm sản phẩm của người mua. Nó vừa là "phanh hãm", vừa là công cụ kích cầu sản phẩm. Thích mua rẻ là xu hướng có tính quy luật trong ứng xử về giá của người mua. Khi mọi điều kiện khác như nhau (chất lượng sản phẩm, danh tiếng nhãn hiệu, dịch vụ hỗ trợ như nhau) người mua luôn tìm đến những ngưừoi cung ứng có giá bán thấp nhất. Giá chỉ là đại diện cho một bộ phận chi phí (được tính bằng tiền) mà người mua phải bỏ ra để sở hữu và sử dụng sản phẩm. Vì vậy, không thể coi là biến số duy nhất ảnh hưởng tới quyết định của người mua. Trong nhiều trường hợp, các yếu tố phi giá cả (lối sống, sự nhận thức, tâm lý, ) còn ảnh hưởng tới hành vi của người mua lớn hơn cả ảnh hưởng của giá cả. * Với người bán: Trong hoạt động trao đổi, người bán đóng vai trò cung ứng hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu và ước muốn của người mua và muốn nhận lại giá trị hành hóa, dịch vụ đó được biểu hiện dưới hình thức giá giá cả. Định nghĩa giá cả của người bán: "Giá cả của một hàng hóa, dịch vụ là khoản thu nhập người bán nhận được nhờ việc tiêu thụ sản phẩm đó." Với người bán, nhận thức về giá của sản phẩm được thể hiện qua đẳng thức sau đây: Giá của một đơn vị sản phẩm = Doanh thu/ đơn vị hàng hóa, dịch vụ Sau đây là một số nhận xét của người làm marketing khi đánh giá về tầm quan trọng của giá:
- Giá là biến số duy nhất của Marketing - mix tạo doanh thu cho doanh nghiệp. Các quyết định về giá luôn gắn với kết quả tài chính của doanh nghiệp. Trong hoạt động trao đổi, mong muốn bán được sản phẩm với giá cao là một trong những biểu hiện đặc trưng trong hành vi thoả thuận về giá của người bán. Thông tin về giá luôn giữ vị trí số 1 trong việc đề xuất các quyết định kinh doanh nói chung và các quyết định về giá nói riêng. Quản trị giá được coi là một trọng tâm của quản trị marketing.
- II/ Bản chất kinh tế của phạm trù giá cả (theo Học thuyết CMarx) 1. Giá cả và giá trị hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau Ở tất cả các giai đoạn phát triển của hình thái xã hội có sản xuất hàng hoá, giá cả luon biểu hiện băng ftiền của giá trị hàng hoá đã được sản xuất ra và tiêu thụ trên thị trường. Giá trị hàng hoá là giá trị thị trường, giá trị được thừa nhận của người mua. Giá trị luôn quyết định giá cả thị trường và là nội dung, bản chất của giá cả. Ngược lại, giá cả là hình thức, là hiện tượng của giá trị. Mức giá thị trường phụ thuộc rất lớn vào quan hệ cung-cầu về hàng hoá trên thị trường. Giá cả thị trường và quan hệ cung cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Phía sau cung cầu là giá trị trị trường. Giá cả thị trường hình thành ở điểm cân bằng cung cầu và tại điểm đó, giá cả thị trường ngang bằng với giá trị thị trường. Trên thị trường, khi cung nhỏ hơn cầu thị giá cao và ngược lại. Song mức cung thị trường lại phụ thuộc vào giá trị thị trường. Đối với từng loại hàng hoá thì giá cả thường xuyên tách rời giá trị của nó. Tuy nhiên, sự tách rời này phải là vô hạn độ mà nằm trong một giới hạn khách quan do qui luật giá trị qui định. 2.Giá cả và tiền tệ thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau Trong điều kiện bình thường của nền kinh tế, giá cả là yếu tố quyết định lượng tiền tệ trong lưu thông và có ảnh hưởng tới tốc độ lưu thông tiền tệ. Giá cả quyết định sức mua của tiền tệ và ngược lại tiền tệ cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá cả. Về mối quan hệ này có thể xảy ra một số trường hợp đáng chú ý sau: - Nếu số tiền giấy thực tế trong lưu thông thấp hơn so với yêu cầu cần thiết hoặc mức giá của tuyệt đại bộ phận quá cao so với khả năng thanh toán sẽ dẫn đến nhu cầu có khả năng thanh toán nhỏ hơn cung, việc tiêu thụ hàng hoá bị ngưng trệ ở mức độ khác nhau và làm giảm tốc độ của quá trình táI sản xuất. Tất cả những điều này dẫn đến khuynh hướng giảm xuống của giá cả. Sức mua triển vọng của tiền tệ tăng lên so với sức mua hiện tại trong mối quan hệ với giá cả hiện hành. - Nếu số tiền giấy thực tế trong lưu thông không vượt quá yêu cần cần thiết thì nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội tăng lên, giá cả tăng, sức mua thực tế của tiền tệ giảm sút dẫn đến lượng tiền trong lưu thông phảI
- nhiều hơn. Lượng tiền này làm làm cầu tăng lên và do đó, làm giá tăng. Quan hệ này tạo thành vòng xoáy giá-tiền, tiền-giá, giá-giá và tất yếu dẫn đến lạm phát. Lạm phát xét về nguồn gốc là hậu quả tất yếu của một nền kinh tế mất cân đối với tình trạng năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế luôn ở mức thấp. Chú ý đến mối quan hệ giữa giá cả và tiền tệ là một vấn đề có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đòi hỏi vốn hoạt động lớn, chu kỳ kinh doanh dài . Nghiên cứu mối quan hệ giá cả-tiền tệ có thể giúp cho doanh nghiệp dự báo chính xác hơn sự biến động của giá cả hàng hoá do mình sản xuất ra và những hàng hoá có liên quan. Nghiên cứu mối quan hệ này cũng rất cần thiết cho sự điều tiét vĩ mô sự phát triển của nền kinh tế cũng như điều tiết sự hình thành và vận động của giá cả hàng hoá. Quản lý giá vĩ mô đồi hỏi phải sử dụng đồng bộ cả 2 phạm trù giá cả và tiền tệ 3.Giá cả có mối quan hệ khăng khít với giá trị sử dụng hay tính hữu ích của hàng hoá Đã là hàng hoá nhất thiết phải có giá trị sử dụng. C.Max đã khẳng định: Giá trị sử dụng và giá trị có sự nhất trí với nhau và là 2 mặt thống nhất của hàng hoá. Giá cả không những biểu hiện bằng tiền giá trị mà còn phản ánh giá trị sử dụng của hàng hoá. Giá trị sử dụng là yếu tố quan trọng chi phối sự hình thành giá cả hàng hoá. Mối quan hệ giữa giá cả và giá trị sử dụng biểu hiện chủ yếu ở những điểm sau đây: - Trên thị trường, giá cả hình thành thống nhất theo một đơn vị giá trị sử dụng Biểu hiện quan trọng nhất của giá trị sử dụng là chất lượng hàng hoá. Vì vậy, giá cả hàng hoá hình thành theo chất lượng của nó. - Mức giá của hàng hoá gắn liền với chi phí sử dụng hàng hoá. - Giá cả phản ánh tính thay thế lẫn nhau trong sản xuất và trong tiêu dùng. Mối quan hệ giữa giá cả với giá trị sử dụng của hàng hoá chỉ ra rằng: sự thống nhất giữa giá trị và giá trị sử dụng là cơ sở cho sự hiện diện của mức giá trên thị trường. Giá cả và giá trị sử dụng của hàng hoá là hai phương tiện quan trọng đối với các doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Việc nghiên cứu mối quan hệ này cũng có ý nghĩa đối với quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thông squa việc tác động đến mối quan hệ giữa giá cả-giá trị-giá tị sử dụng, Nhà nước thúc đẩy quá trình tái sản xuất
- xã hội đi đôi với quá trình táI ản xuất sức lao động cả về mặt giá trị cũng như hiện vật, khuyến khích hình thành cơ cấu sản xuất-tiêu dùng tối ưu. 4.Giá cả và các quan hệ kinh tế - xã hội Trong nền kinh tế hàng hoá, giá cả xuất hiện trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Do đó, giá cả phản ánh tổng hợp và đồng bộ các quan hệ kinh tế- chính trị-xã hội. Giá cả cũng có tác động trở lại đến các mối quan hệ nói trên. Nhà nước có thể can thiệp vào sự hình thành và vận động của giá cả để điều tiết các mối quan chủ yếu: cung và cầu hàng hoá; tích luỹ và tiêu dùng; công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; thị trường trong nước và thị trường thế giới Tác động đến các mối quan hệ lớn của nền kinh tế quốc dân thông qua giá cả là một hướng quan trọng của công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các doanh nghiệp lại khai thác mối quan hệ giữa giá cả và các mối quan hệ kinh tế theo góc độ khác. Các quan hệ kinh tế, các chính sách của nhà nước về thuế, tài chính, tiền tệ, xuất nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu biết và thích nghi một cách tốt nhất những “lực lượng vĩ mô” này trong quá trình cạnh tranh và phát triển. Tóm lại, giá cả là một phạm trù kinh tế khách quan rất tổng hợp. Việc nghiên cứu giá cả bắt đầu từ nghiên cứu bản chất của nó là cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cho công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế.
- VẤN ĐỀ THỨ 2: CƠ CHẾ VẬN ĐỘNG CỦA GIÁ CẢ THỊ TRƯỜNG I/ Cơ chế vận động của giá cả thị trường Giá thị trường là hiện tượng kinh tế xuất hiện trong quá trình trao đổi do sự thoả thuận trực tiếp giữa người mua và người bán trên cơ sở nhận thức những điều kiện cụ thể của thị trường, hay nói một cách tồng quát, do các lực lượng cầu và cung quyết định. Giá thị trường nhằm thoả mãn lợi ích kinh tế của cả bên mua lẫn bên bán, là "bàn tay vô hình" điều tiết nền sản xuất xã hội. Giá thị trường có các đặc điểm chủ yếu sau: Một là: Sự hình thành và vận động của giá thị trường chịu sự chi phối mạnh mẽ các quy luật kinh tế của thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh). Các quy luật này tác động tới người mua và người bán như những lực lượng vô hình. Hai là; Mặt bằng giá cả không chỉ phản ánh các quan hệ kinh tế trên thị trường trong nước, mà nó còn phản ánh quan hệ giá cả trên thị trường quốc tế. 1. Các quy luật kinh tế của thị trường quyết định sự hình thành và vận động của giá cả thị trường. Các quy luật kinh tế của thị trường quyết định sự vận động của thị trường, do đó quyết định sự vận động của nền kinh tế thị trường. Các quy luật này có những đặc trưng chủ yếu sau: a. Các quy luật kinh tế của thị trường tạo ra động lực kinh tế, đó chính là lợi ích vật chất, mà những người tham gia thị trường có thể đạt tới. Động lực này có vai trò quyết định trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thứ nhất; trong nền kinh tế bao giờ cũng tồn tại đồng thời các loại lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Tiếp đến là lợi ích xã hội, lợi ích tập thể. Thực tế nước ta cho thấy nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp của Nhà nước do quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân, nên chúng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và được mọi người ủng hộ. Thứ hai; trong nền kinh tế có nhiều thành phần, thì kinh tế tư nhân thường rất nhạy cảm với các quy luật kinh tế của thị trường so với các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, đối với các nước dựa chủ yếu vào kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể thì khi chuyển sang kinh tế thị trường, nhiệm vụ đặt ra không chỉ là phải chuyển dịch các hình thức sở hữu, thực hiện cổ phần
- hoá và tư nhân hoá một phần, mà còn phải đặc biệt quan tâm tạo ra động lực kinh tế cho khu vực kinh tế Nhà nước và tập thể. b. Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế của thị trường là quy luật trung tâm, là cơ sở, là động lực của các quy luật kinh tế khác và chi phối các hiện tượng kinh tế, nhưng chúng lại hoạt động một cách tự phát, vì vậy trong quản lý vĩ mô nền kinh tế, trước hết phải nhận thức rõ để vận dụng các điều tiết chúng vì lợi ích của quốc kế dân sinh. c. Các quy luật kinh tế của thị trường phát sinh và phát triển gắn với sự phát sinh và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Quan hệ sản xuất không làm thay đổi được bản chất của các quy luật kinh tế đó. Sự phát triển của sức sản xuất rất khác nhau của các nền kinh tế ở các quốc gia chỉ làm cho hoạt động của các quy luật mang nhiều màu sắc khác nhau mà thôi. Các quy luật kinh tế của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó quy luật giá trị có vai trò quan trọng nhất. Các quy luật này tác động đến giá cả, đến các yếu tố thị trường theo những chiều hướng khác nhau, do đó, nó tạo ra sự đa dạng và phong phú của các hiện tượng giá trị thị trường. Quy luật giá trị, với tư cách là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá, đã tạo ra cho người mua và người bán những động lực cực kỳ quan trọng. Trên thị trường, người mua bao giờ cũng muốn tôi đa hoá lợi ích sử dụng. Vì vậy, người mua luôn luôn muốn ép giá thị trường với mức gia thấp. Ngược lại, người bán bao giờ cũng muốn tôi đá hoá lợi nhuận, và do đó, muốn bán với giá cao. Để tồn tại và phát triển, những người bán, một mặt phải phấn đấu giảm chi phí (đặc biệt là ở các giai đoạn trước khi đưa hàng hoá ra thị trường) để chi phí cá biệt bằng hoặc nhỏ hơn chi phí xã hội trung bình. Mặt khác, họ lại tranh thủ tối đa các điều kiện của thị trường để bán với giá cao. Họ cố gắng dùng mọi thủ đoạn và biện pháp để bán được hàng với giá cao nhất, nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Vì vậy, xét trên phương diện này, quy luật giá trị tác động tới người bán theo hướng thúc đẩy họ nâng giá thị trường lên cao. Tuy nhiên đó chỉ là xu hướng. Quy luật cạnh tranh: là quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là hoạt động phổ biến trên thị trường. Cạnh tranh thường diễn ra giữa những người bán với những người mua và giữa những người bán với nhau. Do có mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, nên những người bán và người mua cạnh tranh gay gắt với nhau. Tuy nhiên, sự cạnh tranh này lại được khắc phục bằng cơ chế thoả thuận trực tiếp giữa họ để đạt được mức giá mà hai bên
- cùng chấp nhận, hoặc là cùng chấp nhận mức giá thị trường mà mỗi cá nhân đều không có khả năng ảnh hưởng tới. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau thường là các thủ đoạn nhằm chiếm lĩnh thị trường, trong đó thủ đoạn giá cả là một công cụ cạnh tranh rất quan trọng và phổ biến. Người bán có thể áp dụng mức giá thấp để thu hút người mua. Như vậy, cạnh tranh tạo ra một xu thế ép giá thị trường sát với giá trị. Giữa những người mua cũng có sự cạnh tranh với nhau nhằm tối đá hoá lợi ích sử dụng. Quy luật cung cầu: quyết định trực tiếp mức giá thị trường thông qua sự vận động của quan hệ cung cầu. Mức giá thị trường thực hiện các chức năng: một là, cân đối cầu cung ở ngay thời điểm mua bán (và chỉ ở thời điểm đó mà thôi). Hai là, chỉ cho các nhà sản xuất biết cần phải giảm hay tăng khối lượng sản xuất, khối lượng hàng hoá cung ứng ra thị trường. Xét về mặt thời gian, giá thị trường là cái có trước quan hệ cung cầu. Đây là hiện tượng phổ biến của sự hình thành và vận động của giá cả trên thị trường. Thông qua sự vận động của giá thị trường, các nhà sản xuất có thể nhận biết tương đối chính xác cầu của thị trường và họ có thể chủ động đưa ra thị trường một khối lượng hàng hoá tương đối phù hợp với nhu cầu đó. Sự cân bằng cung cầu là cơ sở quan trọng để ổn định giá cả của từng loại hàng. Qua đó ta thấy rằng Nhà nước cần phải quản lý giá. Sự quản lý đó thể hiện sự nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế của thị trường, trong đó cần chú trọng các vấn đề sau: a. Không thể chỉ thừa nhận vai trò của quy luật giá trị và quy luật cung cầu đối với sự hình thành và vận động của giá thị trường, mà cò phải thấy vai trò cực kỳ quan trọng của quy luật cạnh tranh. Nếu quy luật cung cầu quyết định sự xuất hiện giá thị trường, thì quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh lại quyết định không những mức giá, mà cả xu thế vận động của giá cả. Quy luật cạnh tranh còn tạo ra cơ chế để khống chế chi phí, giảm chi phí và ổn định giá cả. Do chịu sự tác động đồng thời của các quy luật kinh tế của thị trường, giá cả là phạm trù kinh tế tổng hợp, phản ảnh các quan hệ kinh tế của thị trường, là công cụ quan trọng để thực hiện các yêu cầu của ba quy luật nói trên. Vì vậy, việc để cho các doanh nghiệp tự quyết định giá cả theo những điều kiện cụ thể của thị trường là một quyết định khách quan và đúng đắn của Nhà nước. Quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh tạo ra hai lực ngược chiều nhau đối với sự hình thành và vận động của giá cả. Cả hai lực cùng tồn tại song
- song trên thị trường. Để quản lý giá và phát huy tác dụng của các quy luật, Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp tự do cạnh tranh với nhau. Muốn thế, một mặt, Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống các đạo luật kinh tế và kinh doanh, tạo hành lang hoạt động cho các doanh nghiệp. Mặt khác, cần từng bước thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực kinh tế này. Ở các ngành và lĩnh vực Nhà nước cần nắm độc quyền, thì phải sớm có biện pháp hạn chế tính độc quyền và quyền lực của độc quyền, đồng thời phải có sự quản lý chi phí bằng nhiều biện pháp khác nhau. Đây cũng là một biện pháp cần thiết để Nhà nước quản lý giá. b. Tự do cạnh tranh đã buộc các doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ chi phí nhằm đưa giá sát với giá thị trường. Nếu mức lợi nhuận đạt được không cao, các doanh nghiệp buộc phải tính toán giữa lợi nhuận do giá cả đem lại với lãi suất tiền vay, giữa sự rủi ro và quỹ dự trữ lưu thông để ổn định giá thị trường. Với tư cách là người tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp không bao giờ chịu đứng ra lập quỹ dự trữ lưu thông để ổn định giá thị trường do những rủi ro lớn và vòng vay vốn chậm. Vì thế, đối với những mặt hàng tuỳ được tự do kinh doanh, nhưng nếu có vai trò quan trọng đối với quốc kế dân sinh, có khối lượng tiêu thụ lớn và có thể phải nhập khẩu, v.v thì Nhà nước vẫn cần phải có biện pháp can thiệp để ổn định giá thị trường trên các mặt hàng này. Nhà nước có thể giúp cho doanh nghiệp có được một lực lượng hàng hoá nhất định để lập quỹ dư trữ lưu thông. c. ổn định giá là yêu cầu tất yếu để ổn định nền kinh tế và đời sống nhân dân. Đối với một nền kinh tế thị trường mới phôi thai, đang trong quá trình hình thành và phát triển thì đương nhiên chưa thể có đầy đủ cơ sở vững chức để ổn định giá, song trong nền kinh tế nước ta hiện nay chúng ta có khả năng để quản lý giá có hiệu quả. Sự hình thành và vận động của giá thị trường phản ánh quan hệ cung cầu và sự cân bằng cung cầu. Trong một nền kinh tế có những sản phẩm mà quá trình sản xuất ra chúng chịu nhiều sự chi phối của điều kiện tự nhiên thì quan hệ cung cầu về những sản phẩm này cũng chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên và quy luật phát triển của sinh vật. Đối với loại sản phẩm này, cầu ít co giãn theo giá, nhưng cung chủ yếu xuất hiện ở thời điểm thu hoạch. Tại thời điểm đó, cung hầu như không thay đổi nhưng giá thì lại có thể biến động. Nếu được mùa, giá cả sản phẩm giảm xuống rất nhanh, lợi ích của
- người sản xuất giảm sút nghiêm trọng. Nếu mất mùa, giá cả tăng nhanh, lợi ích của người tiêu dùng bị ảnh hưởng lớn, nhưng lợi ích của người sản xuất cũng không tăng do không có sản phẩm để bán. Sản phẩm của ngành nông nghiệp là ví dụ điển hình của tình trạng trên. Vì vậy, Nhà nước cần có các biện pháp can thiệp hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, và tạo điều kiện thuận lợi để ngành kinh tế đó hoà nhập vào nền kinh tế thị trường. 2. Giá thị trường biểu hiện giá trị hàng hoá và giá cả tiền tệ. Kinh tế thị trường càng phát triển, thị trường càng sôi động, thì hai yếu tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau trong giá cả hàng hoá. Giá cả tiền tệ được thể hiện ngay trong mỗi yếu tố hình thành nên giá trị hàng hoá. Giả sử nhu cầu về tiền thực tế không thay đổi theo thời gian, một sự gia tăng mức cung tiền danh nghĩa nhất định phải dẫn đến một lượng tăng tương đương trong mức giá. Có thể nói, sự thay đổi trong mức cung tiền gây ra sự thay đổi về giá cả. Sự thay đổi giá cả này phụ thuộc vào hai yếu tố sau đây: Một là: sự tăng lượng cung tiền sẽ gây ra sự tăng giá. Hai là; nếu có điều gì khác làm cho mức giá tăng lên và Chính phủ điều tiết sự tăng giá này bằng cách in thêm tiền thì cả khối lượng tiền và giá cả sẽ lại tăng thêm. Trên thực tế, nếu như sự tăng lượng cung tiền danh nghĩa kéo theo sự thay đổi tương ứng của tiền lương và giá cả thì điều đó sẽ dẫn đến hậu quả nguy hiểm đối với nền kinh tế. Khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh, về cơ bản nó sẽ làm cho giá tăng lên nhanh để đảm bảo mức cung tiền thực tế chỉ thay đổi một cách chậm chạp tương ứng với những thay đổi về nhu cầu tiền tệ. Sự tác động của yếu tố tiền tệ đến sự hình thành và vận động của giá thị trường là hết sức sức phức tạp. Sự trình bày ở trên tuy đơn giản, song đã cho ta thấy được mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa tiền tệ và giá cả. Do vậy, quản lý giá cả không thể tách rời quản lý tiền tệ. Khi chưa có cơ chế quản lý đầy đủ để tiền tệ thực hiện đúng chức năng của mình, thì vẫn chưa thể có được hệ thống giá cả khách quan, đúng nghĩa với giá thị trường. Từ sự phân tích trên, ta có thể thấy rằng: a. Để quản lý giá thị trường thì không thể chỉ chú ý tới việc quản lý và điều tiết thị trường hàng hoá, mà còn cần chú ý cả việc quản lý và điều tiết
- thị trường tiền tệ. Trong thời gian tới, các chính sách, có chế và biện pháp để phát triển nhanh thị trường tiền tệ sẽ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Việc quản lý giá cả hàng hoá phải đặt trong mối quan hệ với việc quản lý giá cả của đồng tiền trong nước (nội tệ). Giá cả của đồng tiền được thể hiện ở lãi suất tiền gửi và tiền vay. Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao và siêu lạm phát, để thu hút tiền vào ngân hàng, Chính phủ thường quyết định lãi suất tiền gửi và tiền vay phải cao hơn tỷ lệ lạm phát (tốc độ tăng giá) và phải chấp nhận lãi suất tiền vay thấp hơn lãi suất tiền gửi. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường, hoặc tỷ lệ lạm phát thấp, lãi suất tín dụng phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu trên thị trường tiền tệ, song phải đảm bảo lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi và lớn hơn tốc độ tăng giá để doanh nghiệp vay tiền kinh doanh vẫn có lãi. Đó là biện pháp rất quan trọng để giữ giá đồng tiền và giá cả hàng hoá. Đồng thời để quản lý được giá hàng hoá, cần phải quản lý được giá của đồng ngoại tệ (nhất là ngoại tệ mạnh). Trong nền kinh tế mở, không chỉ có đồng nội tệ mà còn có đồng ngoại tệ. Ngoại tệ lưu thông vừa vớ tư cách là tiền tệ ( trong thanh toán quốc tế), vừa với tư cách là một loại hàng hoá (trong nền kinh tế mở, vàng và đá quý cũng có vai trò như ngoại tệ). Giá cả của vàng và ngoại tệ mạnh ảnh hưởng nhiều tới giá cả của các hàng hoá khác. Vì việc xuất, nhập khẩu đòi hỏi phải sử dụng trực tiếp ngoại tệ, nên giá cả của ngoại tệ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất, nhập khẩu và giá cả các hàng hoá xuất, nhập khẩu b. Lượng tiền trong lưu thông và tốc độ vòng quay của đồng tiền quyết định tổng cầu của toàn xã hội. Để quản lý được giá cả (kể cả giá cả tiền tệ), Chính phủ cần tạo ra sự cân đối giữa tổng cầu và tổng cung. Nếu tổng cung chưa thay đổi, thì sự sai lầm trong phát hành, đầu tư, v.v dẫn đến tổng cầu tăng đột ngột sẽ làm cho giá cả tăng đồng loạt và làm cho nền kinh tế lâm vào lạm phát. Mặc dù giá thị trường được quyết định trực tiếp bởi người mua và người bán, song bao giờ giá cả cũng phản ánh tổng hợp các quan hệ kinh tế, các lợi ích kinh tế. Quản lý giá cả là quản lý các quan hệ đó và góp phần giải quyết các quan hệ đó. Trong nền kinh tế mở, quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường thế giới là một trong những mối quan hệ quan trọng nhất của cả nước. Do thị trường trong nước và thị trường thế giới thâm nhập vào nhau,
- cho nên giá trên thị trường thế giới sẽ tác động đến giá thị trường trong nước.Các biện pháp can thiệp của Chính phủ để hạn chế bớt những tác động tiêu cực của giá thị trường thế giới đến giá thị trường trong nước là cần thiết, song chỉ nên coi đó là các biện pháp nhất thờ Trong nền kinh tế, mỗi loại hàng hoá đều có ý nghĩa kinh tế - xã hội khác nhau. Do đó, việc quản lý giá cần phải có sự phân biệt giữa các loại hàng (hay nhóm hàng).
- II/ Xu hướng vận động của giá cả thị trường và các nhân tố tác động Xu hướng vận động của giá thị trường được xét trên hai mặt: 1. Đối với tổng thể hàng hoá. Sự vận động của tổng thể giá cả trên thị trường phụ thuộc vào sự tác động của hai nhóm nhân tố cơ bản sau đây: a. Những nhân tố làm cho giá cả có xu hướng giảm xuống. Sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt làm cho các doanh nghiệp có công nghệ, thiết bị lạc hậu, quản lý yếu kém sẽ rơi vào tình trạng bị thua lỗ và phá sản. Để đứng vững được trên thị trường, các doanh nghiệp phải thường xuyên ứng dụng khoa học và kỹ thuật tiên tiến, đưa công nghệ và thiết bị mới, hiện đại vào kinh doanh, nhằm tăng năng suất lao động, giảm giá sản phẩm. Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp có chi phí quá cao (tính cho một đơn vị sản phẩm) sẽ bị loại ra khỏi lĩnh vực sản xuất, lưu thông. Các đơn vị còn lại muốn tồn tại được phải quản lý chi phí chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Đồng thời, do sử dụng công nghệ và thiết bị hiện đại hơn, nên hao phí vật chất và tiền công để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm cũng ít hơn. Các yếu tố trên đưa đến kết quả là chi phí cho một đơn vị sản phẩm ngày càng giảm xuống. Do yêu cầu của các quy luật kinh tế của thị trường, các doanh nghiệp phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường để kinh doanh và tìm mọi cách để bán được hàng của mình, cho nên nhìn chung, hàng hoá - dịch vụ sản xuất ra được tiêu thụ hút. Lượng hàng dự trữ trong từng gia đình cũng giảm đi. Việc vận dụng thường xuyên của các quy luất kinh tế của thị trường buộc các doanh nghiệp phải chú ý tới việc tăng tốc độ vòng quay của đồng vốn. Việc đầu tư được tính toán kỹ lưỡng và khoa học hơn, do đó hiệu quả kinh tế của đồng vốn ngày càng cao hơn, cơ cấu đầu tư cũng hợp lý hơn. b. Những nhân tố làm tăng giá cả. Thu nhập của người lao động và của toàn xã hội thường xuyên tăng lên. Thu nhập tăng làm cho cầu về hàng hoá - dịch vụ tăng lên, do đó tạo ra áp lực làm cho tăng giá cả (ở nhiều nước, tốc độ tăng giá thường thấp hơn tốc độ tăng của thu nhập).
- Yêu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng cao. Vì vậy để thoả mãn yêu cầu đó, các doanh nghiệp phải tăng thêm chi phí để tạo ra được một đơn vị giá sử dụng cung cấp cho xã hội. Tài nguyên ngày cạn cạn kiệt, việc khai thác các tài nguyên ngày càng khó khăn, chi phí khai thác ngày càng lớnm, do đó tài nguyên có xu hướng tăng lên. Sức mua của đồng tiền có xu hướng giảm, do Chính phủ duy trì lạm phát ở mức độ nhất định (lạm phát kích thích tăng trưởng). Các nhân tố nêu trên thường xuyên tác động tới giá cả. Giá cả chịu sức ép của cả hai nhân tố đó. Xu hướng của giá cả sẽ thiên về nhóm nhân tố nào tạo ra được sức ép mạnh hơn. Trong những năm qua, nhân tố thứ hai đã và đang có sức ép mạnh, làm cho mặt bằng giá cả vận động theo các xu hướng sau: + Giá cả không ổn định và có xu hướng tăng lên. Điều đó cũng có nghĩa là việc giảm giá không phải là hiện tượng phổ biến. + Giá cả ngày càng sát với giá trị hơn, và do đó cơ cấu của giá cả ngày càng hợp lý hơn. + Giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường trong nước xích gần hơn với giá cả trên thị trường thế giới. + Các quan hệ tỷ giá lớn trong nền kinh tế quốc dân sẽ thay đổi và kéo theo sự thay đổi phức tạp của mặt bằng giá cả. Quan hệ tỷ giá thay đổi theo hướng tỷ giá giữa công nghiệp phẩm và nông sản rộng theo hướng có lợi cho công nghiệp. Còn tỷ giá hàng hoá và dịch vụ thì mở rộng theo hướng có lợi cho dịch vụ. Điều đó có nghĩa là tuỳ mặt bằng giá cả có tăng lên, nhưng tốc độ tăng giá dịch vụ thường cao hơn tốc độ tăng giá nông sản. 2. Đối với từng loại hàng hoá. Quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định sự vận động của giá cả từng loại hàng hoá. Người ta có thể thấy rõ qua hệ giữa cung và cầu và giá cả. Xét trong khoảng thời gian ngắn (vài năm), gia cả thị trường của từng loại hàng hoá có thể tăng lên, hạ xuống và ổn định. Sự tăng giảm đó là do sự thay đổi thường xuyên của quan hệ cung cầu quyết định. Khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá tăng. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống. Tất nhiên, nếu trên thị trường, cung cầu luôn được duy trì ở mức cân bằng thì giá cả ổn định.
- Trên thị trường, quan hệ cung cầu thể hiện dưới các dạng chủ yếu sau đây: - Cung nhỏ hơn cầu - Cung bằng cầu. - Cung lớn hơn cầu. Vấn đề được đặt ra là: yếu tố nào quyết định quan hệ cung cầu? Đó chính là chu kỳ kinh doanh. Sự vận động của chu kỳ kinh doanh trên thị trường quyết định sự vận động của quan hệ cung cầu. Chu kỳ kinh doanh là hiện tượng tất yếu của kinh tế thị trường. Mỗi quốc gia có một nền kinh tế thị trường khác nhau. Chu kỳ kinh doanh trên mỗi nền kinh tế thị trường đó có những đặc thù của nó. Sự vận động của chu kỳ kinh doanh và các đặc thù của nó. Sự vận động của chu kỳ kinh doanh và các đặc thù của nó chịu sự chi phối rất lớn của các yếu tố phát sinh trên thị trường trong nước và trên thị trường thế giới. Sự vận động của chu kỳ kinh doanh trên các hình thái thị trường khác nhau sẽ có những đặc thù riêng. Bất kỳ một hàng hoá nào đã tồn tại trên thị trường, hay bất kỳ một nhà kinh doanh nào đã hoạt động trên thị trường đều bị chi phối bởi chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, các nhà độc quyền có khả năng hạn chế bớt sự tác động tự phát của chu kỳ kinh doanh tới quan hệ cung cầu và giá cả hàng hoá của mình. Một chu kỳ kinh doanh xuất hiện trên thị trường thường có một số thời kỳ chủ yếu sau: + Suy thoái, tức là giai đoạn mà kinh doanh giảm sút nghiêm trọng. Trong thời kỳ này có giai đoạn tiêu điều và giai đoạn ảm đạm. + Phát triển, tác là kinh doanh được hồi phục, có phát triển và tăng trưởng. + Ổn định (hưng thịnh) tức là kinh doanh phát triển và sau đó ổn định ở mức cao. Hiện tượng trên được lặp đi lặp lại trên thị trường. Khi kinh doanh bước vào thời kỳ suy thoái, nhu cầu tiêu dùng bị hạn chế, hàng hoá có ít người mua, sản xuất bị thu hẹp nghiêm trọng. Do sức ép của sản xuất và của tiêu dùng, các doanh nghiệp buộc phải đổi mới quản lý, cải tiến kỹ thuật, tiếp thu công nghệ và thiết bị mới. Các yếu tố trên lại là cơ sở, tiền đề cho sự phục hồi, tăng trưởng và phát triển. Trong nền kinh tế, nếu đồng thời diễn ra tình trạng nhiều hàng hoá, nhiều
- doanh nghiệp ở trong thời gian suy thoái, thì nền kinh tế kém ổn định, tốc độ tăng trưởng và phát triển thấp. Ở thời kỳ suy thoái, do những khuyết tật của sản phẩm, do sự yếu kém của quản lý hoặc do sự lạc hậu về công nghệ và thiết bị, nên sản phẩm có ít người mua, từ đó dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu và giá cả hàng hoá giảm xuống. Do sự "cộng hưởng" của các khối lượng hàng không bán được, nên tốc độ hạ giá ở cuối giai đoạn tiêu điều và đầu giai đoạn ảm đạm cao hơn nhiều so với tốc độ giảm giá ở đầu giai đoạn tiêu điều và cuối giai đoạn ảm đạm. Vì không bán được hàng nên các doanh nghiệp lại tiếp tục hạ giá cho đến khi không thể hạ hơn được nữa. ở mức giá đây đó, hàng hoá vẫn không được tiêu thụ nhiều và buộc doanh nghiệp phải cải tiến sản xuất và quản lý, để đưa ra thị trường những hàng hoá mới có nhiều ưu thế hơn (kể cả ưu thế về giá). Ở thời kỳ phát triển, các sản phẩm mới có nhiều ưu thế đã xuất hiện và được nhiều người biết đến, nên nhu cầu trên thị trường tăng lên rất nhanh. Nhu cầu tăng đã kéo theo sự tăng lên của sản xuất. Song trên thị trường vẫn tồn tại cung nhỏ hơn cầu. Do vậy, giá cả sẽ tăng lên ở giai đoạn đầu phát triển, và tốc độ tăng của cầu lớn hơn tốc độ tăng của cung. Tốc độ tăng giá trong từng giai đoạn cũng rất khác nhau. Do sức ép tăng nhanh của cầu, nên tốc độ tăng giá ở cuối giai đoạn phục hồi và đầu giai đoạn phát triển là cao nhất. Tốc độ tăng giá ở cuối giai đoạn phát triển thấp dần và đạt mức thấp nhất. Do tốc độ tăng giá ở cuối giai đoạn phục hồi và đầu giai đoạn phát triển là cao nhất, nên giá cả trở thành sức hút mạnh nhất đối với các doanh nghiệp và là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất để có nhiều hàng cung cấp cho thị trường. Trong thời kỳ ổn định, quan hệ cung cầu tương đối ổn định và về cơ bản là phù hợp với nhau (cả về quy mô và cơ cấu). Do quan hệ cung cầu phù hợp với nhau, nên giá cả ổn định và dao động ở điểm cân bằng cung cầu. ở thời kỳ này, các doanh nghiệp thường ít đổi mới công nghệ và thiết bị, ít cải tiến kỹ thuật v.v Do đó, ngay trong thời kỳ này đã chứa đựng các yếu tố dẫn tới suy thoái. Nếu các doanh nghiệp càng ít đổi mới quản lý, càng chậm cải tiến kỹ thuật, v.v thì thời kỳ suy thoái sẽ nhanh đến hơn. Trên đây là xu hướng vận động của giá cả hàng hoá - dịch vụ trên thị trường. Xu hướng này được thể hiện trên nhiều hình thái thị trường. Song,
- sự vận động như trên của giá cả cần phải được chú ý đối với thị trường độc quyền. Trên thị trường độc quyền (thị trường do sự chi phối của người bán), các nhà độc quyền có vai trò rất lớn đối với việc điều tiết quan hệ cung cầu. Thông thường các nhà độc quyền đưa một lượng hàng hoá ra thị trường (cung) nhỏ hơn nhu cầu, và do đó họ sẽ đạt được giá cả cao. Thời gian duy trì giá cao tương đối dài. ở thời kỳ phát triển, giá cũng tăng dần. Giá sẽ ổn định ở thời kỳ hưng thịnh. Do có sự độc quyền, nên có thể sẽ không xuất hiện tình trạng cung lớn hơn cầu và giá ca giảm xuống (ở thời kỳ suy thoái). Song, trong điều kiện suy thoái, mâu thuẫn giữa nhà kinh doanh và người tiêu dùng sẽ trở nên gay gắt, buộc các nhà kinh doanh phải đổi mới quản lý, cải tiến kỹ thuật v.v Như vậy đã xuất hiện các yếu tố của thời kỳ phục hồi và thời kỳ tăng giá mới. Từ sự phân tích ở trên có thể rút ra một số kết luận sau đây: Thứ nhất; trong nền kinh tế thị trường, giá cả thị trường là một hiện tượng kinh tế phức tạp, tổng hợp, là bàn tay vô hình điều tiết nền sản xuất xã hội, là tấm gương phản ánh thực trạng nền kinh tế. Thứ hai; Nhà nước cần phải quản lý giá. Việc quản lý giá phải được thực hiện đồng bộ từ tài chính đến tiền tệ, từ cầu đến cung, từ giá trong nước đến giá trên thị trường thế giới, từ cạnh tranh đến chống độc quyền và các biện pháp hạn chế tự do kinh doanh. Thứ ba; việc quản lý cần được thực hiện theo luật và các chính sách dưới luật. Trên cơ sở đó, cần mở rộng tối đa quyền tự định của các doanh nghiệp. Đồng thời cần tăng kiểm tra, kiểm soát để hạn chế nhiều nhất việc không thực hiện các luật đã ban hành.
- III/ Các nhân tố tác động đến quyết định hình thành giá của doanh nghiệp Để có những quyết định đúng đắn về giá đòi hỏi những người làm giá phải hiểu biết sâu sắc về các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến cấu thành và động thái của giá bao gồm: các nhân tố bên trong, bên ngoài (xem sơ đồ 8.1) Sơ đồ Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định về giá Các nhân tố bên trong Các nhân tố bên ngoài 1. Các mục tiêu marketing Các quyết định 1. Đặc điểm của thị trường và 2. Marketing - mix cầu về giá 3. Chi phí sản xuất 2. Bản chất và cơ cấu cạnh tranh 4. Các nhân tố khác 3. Các nhân tố khác 1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp + Các mục tiêu marketing Các mục tiêu marketing đóng vai trò định hướng trong việc xác định vai trò và nhiệm vụ của giá cả. Một doanh nghiệp thường theo đuổi một trong các mục tiêu cơ bản sau: Tối đa hoá lợi nhuận hiện hành ; Dẫn đầu về tỷ phần thị trường ; Dẫn đầu về chất lượng sản phẩm ; Đảm bảo sống sót Mỗi một mục tiêu đòi hỏi các quyết định về giá riêng + Giá và các biến số khác của marketing - mix Giá chỉ là một công cụ của marketing - mix mà doanh nghiệp sử dụng để đạt mục tiêu của mình. Điều đó có nghĩa là khi ra quyết định về giá, phải đặt nó trong một chính sách tổng thể và chịu sự chi phối của chiến lược định vị mà doanh nghiệp lựa chọn và sự phối hợp với các chữ P khác. + Chi phí sản xuất Sự hiểu biết chính xác về chi phí bỏ ra để sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ là rất quan trọng đối với các quyết định về giá, vì 3 lý do: - Khoảng cách giữa giá và giá thành là lợi nhuận. Khi mức giá bán đã được ấn định, một đồng chi phí tăng thêm là một đồng lợi nhuận giảm xuống. - Giá thành là yếu tố quyết định giới hạn thấp nhất của giá. Doanh nghiệp có thể tiêu thụ sản phẩm với mức giá thấp hơn giá thành song đó chỉ là giải pháp tạm thời. Các doanh nghiệp đều muốn tính một mức giá đủ để
- trang trải mọi chi phí bỏ ra trong sản xuất và phân phối và có lợi nhuận chính đáng cho những nỗ lực kinh doanh và gánh chịu rủi ro. Vì vậy, khi ấn định mức giá bán, giá thành thường được coi là căn cứ quan trọng, là bộ phận tất yếu cấu thành nên giá bán. - Khi doanh nghiệp có khả năng kiểm soát được giá và chi phí, họ sẽ giành được thế chủ động trong việc thay đổi giá giành được lợi thế cạnh tranh, tránh mạo hiểm. + Các nhân tố khác Ngoài những nhân tố cơ bản thuộc nội bộ doanh nghiệp như đã nêu trên, giá còn chịu ảnh hưởng của những nhân tố khác. Chẳng hạn, những đặc trưng của sản phẩm, hệ số co giãn của cung, thẩm quyền quyết định giá được xác lập trong mỗi doanh nghiệp 2. Những yếu tố bên ngoài + Đặc điểm của thị trường và cầu Trong trao đổi, giá là kết quả thoả thuận giữa hai bên mua và bán. Khách hàng thường là người có tiếng nói cuối cùng quyết định mức giá thực hiện. Chi phí chỉ ra giới hạn thấp - "sàn" của giá, còn cầu thị trường quyết định giới hạn cao - "trần" của giá. Vì vậy, trước khi ra các quyết định giá những người làm marketing phải nắm được những đặc trưng của thị trường và cầu sản phẩm. ảnh hưởng của thị trường và cầu đến giá chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề lớn: Thứ nhất, mối quan hệ tổng quát giữa giá và cầu Mỗi mức giá mà doanh nghiệp đưa ra để chào hàng sẽ dẫn đến một mức cầu khác nhau. Mối quan hệ giữa giá và cầu được biểu diễn dưới dạng đồ thị được gọi là đường cầu. Thông thường cầu và giá có quan hệ nghịch, nghĩa là giá càng cao, cầu càng thấp và ngược lại; giá tăng thì cầu giảm và ngược lại. Hiện tượng này làm cho đường cầu có độ dốc âm. Đồ thị : Mối quan hệ giữa cầu và giá
- Giá Giá bán D bán D P1 P1 Đường cầu Độ dốc âm Đường cầu P2 P2 Độ dốc dương Q1 Q2 Khối lượng Q1 Q2 Khối lượng (a) P1>P2 nên Q1 P2 nên Q1<Q2 b. Đường cầu trong trường hợp đặc biệt a. Đường cầu trong trường hợp bình thường Song, trên thực tế người ta cũng nhận thấy rằng, với một khoảng giá nhất định, ở một số sản phẩm, đường cầu có độ dốc dương (Đồ thị 8.1b). Các tình huống này ta có thể gặp trong thực tiễn như: một loại sản phẩm nào đó đang được ưa chuộng đặc biệt thì giá càng cao, người mua càng mua nhiều hơn. Hoặc ở một số sản phẩm đặc thù, cung không co giãn (ví dụ, đất) khi giá tăng thường tạo ra "kích thích" để tăng cầu. Hiện tượng này còn xuất hiện ở những sản phẩm mà với một số khách hàng, việc tiêu dùng chúng mang ý nghĩa phô trương, thời thượng; khi giá bán sản phẩm họ tìm cách mua bằng được. Cầu về sản phẩm này được kích thích tăng mạnh. Nhìn chung, với những sản phẩm mà khối lượng cung ứng trên thị trường khó điều chỉnh trong ngắn hạn, khi cầu gia tăng thường gây áp lực tăng giá. Giá tăng càng làm cho cầu tăng. Hiện tượng này sẽ chấm dứt khi cung hoặc cầu có sự thay đổi. Thứ hai, sự nhạy cảm về giá hay độ co giãn của cầu theo giá. Sự nhạy cảm về giá hay độ co giãn của cầu theo giá được sử dụng để mô tả mức độ phản ứng của cầu khi giá bán của những hàng hoá thay đổi. Như vậy, nếu biết được độ co giãn của cầu đối với giá, người làm giá sẽ lường trước được những gì sẽ xảy ra trong kết quả kinh doanh khi họ thay đổi giá bán. Và họ cũng nhận thấy rằng, không phải trong trường hợp nào giảm giá cũng lôi kéo thêm được khách hàng và có khả năng cạnh tranh. Nghiên cứu độ co giãn của cầu với giá, các nhà kinh tế học đã đưa ra một số kết luận thu hút sự chú ý của marketing như:
- - Sự nhạy cảm về giá của người mua không phải là như nhau trong mọi tình huống và ở mọi sản phẩm (Xem Đồ thị trên). Sản phẩm càng độc đáo, càng ít có khả năng bị sản phẩm khác thay thế, người mua càng ít nhạy cảm về giá. Michael Porter đưa ra nhận xét: "Những khách hàng ít nhạy cảm về giá hoặc những khách hàng sẵn sàng đánh đổi giá cả lấy đặc tính của sản phẩm thường là khách hàng tốt". Đồ thị : Độ co giãn của cầu khi giá thay đổi Giá Giá P1 D D P2 P1 P2 Q1 Q2 Q Q1 Q a. Cầu không co giãn b. Cầu co giãn Thứ ba, các yếu tố tâm lý của khách hàng khi chấp nhận mức giá. Nhận thức của khách hàng về giá trong nhiều trường hợp chịu ảnh hưởng của yếu tố tâm lý. Đặc điểm này thường rất phổ biến ở những hàng hoá phi vật chất (dịch vụ) hoặc những hàng hoá mà sự hiểu biết của khách hàng về sản phẩm, về nhãn hiệu, về giá của đối thủ cạnh tranh còn hạn chế. Có thể đưa ra một số xu hướng có tính phổ biến về sự ảnh hưởng của tâm lý tới nhận thức về giá của khách hàng như: - Khi hạn chế về sự hiểu biết đối với sản phẩm, nhãn hiệu và về giá của đối thủ cạnh tranh , khách hàng thường có sự hoài nghi về mức giá chào hàng. Nếu không tìm được lý do lý giải về sự hoài nghi này, họ thường không chấp nhận mức giá. - Khách hàng thường thừa nhận có một mối quan hệ giữa giá và chất lượng. Phần lớn khách hàng đều coi giá là chỉ số đầu tiên thông báo cho họ
- về chất lượng sản phẩm. Họ cho rằng mức giá bán cao có nghĩa là sản phẩm có chất lượng tốt. - Đứng trước một mức giá bán sản phẩm cụ thể, người mua thường so sánh với "mức giá tham khảo". "Giá tham khảo" được hình thành qua các nguồn thông tin thương mại hoặc trực tiếp từ những tình huống mua hàng cụ thể. Giá của sản phẩm cạnh tranh luôn được người mua cho là "giá tham khảo" quan trọng nhất. - Nhiều khách hàng có niềm tin, sở thích về giá khó giải thích bằng lập luận logíc. Ví dụ: thích giá lẻ; dễ có "ảo giác" khi người bán sử dụng nghệ thuật nói giá, đặt giá. Chẳng hạn, nếu giá bán sản phẩm là 2.990đ có nhiều người mua xếp vào khung giá 2.000đ chứ không phải 3.000 đ, và họ cảm thấy rẻ hơn. + Cấu trúc cạnh tranh Khi định mức giá, điều chỉnh và thay đổi giá bán sản phẩm của mình, các doanh nghiệp không thể bỏ qua các thông tin về giá thành, giá cả và các phản ứng về giá của đối thủ cạnh tranh. Bởi vì, với người mua, "giá tham khảo" mà họ sử dụng để đánh giá mức giá của doanh nghiệp trước hết là giá của sản phẩm và nhãn hiệu cạnh tranh. Thật khó có thể bán một sản phẩm với giá cao hơn một khi khách hàng biết rằng có một sản phẩm tương tự đang được bán với giá rẻ hơn. ảnh hưởng của cấu trúc cạnh tranh tới các quyết định về giá cần được phân tích trên các khía cạnh sau: Tương quan so sánh giữa giá thành sản phẩm của doanh nghiệp và của sản phẩm cạnh tranh. Khi chi phí sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp khó có thể thực hiện được sự cạnh tranh về giá. Ngược lại, chi phí sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp nhỏ hơn chi phí sản xuất sản phẩm của đối thủ, họ có thể đặt giá bán thấp hơn để gia tăng thị phần mà vẫn đảm bảo được mức lợi nhuận cao trên đơn vị sản phẩm. Mối tương quan giữa giá và chất lượng hàng hoá của đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là sự đánh giá của khách hàng về tương quan này. Nhờ sự phân tích này, doanh nghiệp có thể rút ra được những "điểm chuẩn" để định giá sản phẩm tương tự của mình. Phản ứng của đối thủ cạnh tranh về giá. Mức độ ảnh hưởng của giá và hàng hoá của đối thủ cạnh tranh tới các quyết định về giá của doanh nghiệp còn tuỳ thuộc vào đối thủ cạnh tranh sẽ phản ứng ra sao về chính sách giá mà
- doanh nghiệp áp dụng và quyền chi phối về giá thị trường của doanh nghiệp ở mức độ nào. Để trả lời được câu hỏi này, doanh nghiệp cần phải biết họ đang kinh doanh ở loại thị trường nào? Các nhà kinh tế học đưa ra khái niệm "hình thái thị trường" và chia cấu trúc cạnh tranh thành 4 nhóm cơ bản, tiêu biểu cho những thách đố khác nhau đối với việc định giá của doanh nghiệp (Hình thái thị trường cạnh tranh thuần tuý; Hình thái thị trường độc quyền thuần tuý; Hình thái thị trường cạnh tranh có độc quyền; Hình thái thị trường độc quyền nhóm) + Các yếu tố bên ngoài khác Khi quyết định một mức giá, các doanh nghiệp còn phải xem xét đến những yếu tố thuộc môi trường bên ngoài, bao gồm: Môi trường kinh tế; Thái độ (phản ứng) của chính phủ. Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế như lạm phát, tăng trưởng hay suy thoái, lãi suất, thất nghiệp đều ảnh hưởng đến các quyết định giá vì chúng ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua, chi phí sản xuất một sản phẩm và sự cảm nhận của khách hàng về giá trị và giá cả của sản phẩm đó. Phạm vi hàng hoá do Nhà nước định giá trực tiếp thường rất nhỏ, nhưng phạm vi hàng hoá có sự điều tiết từng phần về giá của Nhà nước lại rất lớn. Cách thức điều tiết giá của Nhà nước chủ yếu thông qua việc ban hành các luật lệ về giá. Những đạo luật về giá có tính phổ biến ở nhiều nước mà người làm giá cần quan tâm bao gồm: - Đạo luật liên quan đến thoả thuận về giá trong giao dịch (VD ở Mỹ: đạo luật chống sự dàn xếp giá cả giữa hai bên mua - bán, luật cấm cố định giá). - Đạo luật chống các thủ đoạn định giá lừa bịp, dối trá (Ví dụ: luật quảng cáo về giá). - Đạo luật chống các thủ đoạn cạnh tranh về giá không lành mạnh (luật phá giá; tăng giá của các tổ chức độc quyền). Những đạo luật về giá với mục đích hạn chế những tiêu cực trong việc định giá của các doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp khi ra các quyết định về giá đều phải tuân thủ những yêu cầu có tính pháp lý này.
- IV. Các vai trò chủ yếu của giá cả 1. Giá có vai trò quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế, của doanh nghiệp và của người tiêu dùng 2. Giá là biến số điều tiết của Nhà nước - Thể chế về giá, công cụ chống lạm phát - Thể chế về giá, côngcụ tự do cạnh tranh 3. Giá là biến số cơ bản của DN - Giá và khối lượng - Giá-công cụ cạnh tranh - Giá và hiệu quả - Giá- công cụ truyền tin 4. Giá là biến số lựa chọn của người tiêu dùng - Phân chia chi tiêu hợp lý - Vai trò thông tin VẤN ĐỀ THỨ 3: PHÂN LOẠI, CƠ CẤU GIÁ VÀ XÁC ĐỊNH CHI PHÍ I/ Phân loại 1.Các chỉ tiêu giá cả - Mức giá : biểu hiện bằng tiền giá trị của hàng hoá với một giá trị sử dụng nhất định, thực hiện ở một khâu lưu thông, một quan hệ trao đổi nhất định. - Chênh lệch giá (giá phân biệt): khoảng cách về mức giá của cùng một loại hàng hoá những khác nhau về chất lượng, thời gian và địa điểm tiêu thụ, về đối tượng và số lượng mua khác nhau. - Tỷ giá : mối quan hệ (tỷ lệ) so sánh giữa hai mức giá của hai loại hàng hoá khác nhau không đồng nhất về giá trị sử dụng và nếu đồng nhất thì chúng có hình thái vật chất káhc nhau. - Giá chuẩn: giá của các sản phẩm chuẩn. Nó thường không phải là giá thực tế và mang tính định hướng. - Giá tham khảo - Khung giá: khoảng chênh lệch của giá một loại hàng hoá cụ thể được tạo ra bởi giới hạn cao và giới hạn thấp
- - Giá giới hạn: giới hạn của một mức giá cụ thể, gồm giá giới hạn cao và giá giới hạn thấp. 2.Phân loại giá theo đối tượng tính giá - Giá hàng tiêu dùng: Tiêu dùng thường xuyên, Tiêu dùng lâu bền - Hàng công nghiệp (tư liệu sản xuất!) - Dịch vụ - Của những ngành đặc thù? 3/Phân loại giá theo các giai đoạn vận động của hàng hoá - Giá xuất xưởng - Giá bán buôn (cấp 1 và cấp 2) - Giá bán lẻ II/ Cơ cấu giá bán Chi phí trực tiếp 1. Nguyên vật liệu 2. Tiền lương trực tiếp 3. Chi phí marketing trực tiếp Lãi gộp Chi phí cố định 4. Tiền lương gián tiếp 5. Chi phí marketing gián tiếp 6. Chi phí chung 7. Lợi nhuận III/ Phân loại chi phí 1.Phân loại chi phí Chi phí có thể được phân loại và xác định theo nhiều cơ sở khác nhau chứa đựng những ý nghĩa khác nhau đối với việc quản lý hoạt động kinh doanh. ở góc độ xác định giá, các chỉ tiêu chi phí có ý nghĩa quan trọng nhất là: * Tổng chi phí cố định Tổng chi phí cố định là toàn bộ chi phí chi cho các đầu vào cố định. Nó không thay đổi theo mức độ sản xuất hay doanh số bán. Ví dụ: chi phí
- nhà xưởng, máy móc thiết bị, tiền trả lãi đi vay, tiền chi trả cho các hợp đồng đã được ký kết, tiền lương cán bộ quản lý * Tổng chi phí biến đổi Là toàn bộ các loại chi phí chi cho các đầu vào biến đổi. Nó thay đổi cùng với sản lượng sản xuất. Ví dụ: chi phí về nguyên, vật liệu, tiền lương cho công nhân sản xuất Nhưng nếu tính cho một đơn vị sản phẩm chi phí biến đổi lại là một hằng số. * Tổng chi phí Tổng chi phí = Tổng chi phí cố định + tổng chi phí biến đổi ý nghĩa quan trọng bậc nhất của các chỉ tiêu nói khi đưa ra các quyết định về giá thể hiện ở “phân tích hòa vốn” và lựa chọn mức giá thích hợp trong mối tương quan giữa giá, doanh thu và tổng lợi nhuận. 2. Tính toán chi phí + Chí phí trực tiếp + Chi phí gián tiếp Nguyên tắc phân bổ Cơ sở phân bổ IV/ Một số vấn đề liên quan 1. Phân tích mối quan hệ giữa giá thành, sản lượng và mức giá dự kiến Giá thành được tính theo công thức: Giá thành đơn vị sản phẩm = Tổng chi phí/ sản lượng Nếu chỉ dừng lại ở quan niệm kế toán, giá thành được coi là bộ phận tất yếu trong cơ cấu giá: Giá bán = giá thành + lãi Nhưng nếu ở một phạm vi rộng lớn hơn của việc định giá và quản trị giá thì việc phân tích mối tương quan giữa chi phí, sản lượng và giá bán dự kiến đem lại cho giá thành một ý nghĩa to lớn hơn nhiều. Việc định giá được coi là khôn khéo nếu ban lãnh đạo và những người làm giá biết được chính xác giá thành sản phẩm sẽ thay đổi như thế nào khi số lượng sản phẩm gia tăng. Quy luật về sự giảm dần của giá thành khi sản lượng tăng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đề xuất "chiến lược giá tấn công", chiến lược giá "xâm nhập thị trường", hoặc khai thác cơ hội bán hàng ở từng thương vụ, ngay cả khi người mua đặt mức giá thấp hơn giá chào hàng. 2. Tìm kiếm tiềm năng hạ thấp giá thành
- Người ta nhận thấy rằng, giá thành không chỉ giảm xuống theo sự gia tăng của số lượng sản phẩm, kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ ("đường cong kinh nghiệm") mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn vào những nỗ lực tìm kiếm các giải pháp hạ thấp chi phí (tiết kiệm vật tư, tăng năng suất lao động ) Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp tiến hành định giá theo đường cong kinh nghiệm và khả năng tiết kiệm chi phí để thu hút thêm khách hàng và loại bỏ đối thủ cạnh tranh khi tiên lượng cơ hội thị trường. Đó là trường hợp các doanh nghiệp xuất hiện đầu tiên trên thị trường. Do xuất hiện sớm trên thị trường nên so với các doanh nghiệp xuất hiện sau, họ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn dẫn đến chi phí sản xuất sản phẩm của họ thấp hơn. Họ có thể chủ động bán giá thấp so với sản phẩm cạnh tranh, giành thị phần trong khi các đối thủ đang có giá thành cao vì kinh nghiệm sản xuất tích luỹ được ít hơn. VẤN ĐỀ THỨ 4: CÁC HÌNH THÁI THỊ TRƯỜNG VÀ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ I/ Các hình thái thị trường 1. Độc quyền đơn phương: đường cầu của thị trường cũng là đường cầu của ngành. Người bán độc quyền luôn giành quyền quyết định về giá. Họ thường định giá bán để duy trì và bảo vệ vị thế độc quyền; không muốn thu hút sự xâm nhập thị trường của các đối thủ tiềm ẩn và có thể bán sản phẩm cho số đông các khách hàng. Với những nhà độc quyền, đề xuất một mức giá độc quyền luôn là vấn đề họ phải quan tâm. 2. Độc quyền đa phương bao gồm một số ít người bán. Từng người trong số họ luôn có thế mạnh để có thể gây ảnh hưởng tới giá thị trường. Họ rất nhạy cảm với những chiến lược marketing và định giá của đối thủ cạnh tranh. Sản phẩm của họ có khả năng thay thế cho nhau, nhưng là sự thay thế có giới hạn. Các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền nhóm đều phải cảnh giác trước những thay đổi đột ngột về giá của đối thủ. Vì họ có thể nhanh chóng mất đi khách hàng thuộc phần thị trường của mình khi đối thủ cạnh tranh dùng giá để lôi kéo. Nếu cạnh tranh qua giá cả trở nên
- quyết liệt, các doanh nghiệp hoạt động ở hình thái thị trường này sẽ rơi vào tình trạng tổn thất nặng nề về tài chính. Khuynh hướng giảm giá bán để cạnh tranh và hậu quả của nó đã đưa các doanh nghiệp độc quyền nhóm đến đến sự liên kết hay thoả thuận với nhau về thị trường và giá cả. Sự liên kết về giá bán của họ nếu gây thiệt hại đến người tiêu dùng, chính phủ thường can thiệp để ngăn chặn. Qua việc phân tích nói trên cho thấy, khi định giá sản phẩm của mình các doanh nghiệp luôn phải đặt mình trong thế tương quan về cạnh tranh để điều chỉnh giá so với đối thủ (đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh quan trọng) cho hợp lý. 3. Cạnh tranh độc quyền bao gồm nhiều người mua và bán giao dịch với nhau qua một "khung giá" chứ không phải một giá thị trường duy nhất. Những doanh nghiệp nào tạo được cho sản phẩm của mình một sự khác biệt về chất lượng, mẫu mã, hoặc những dịch vụ kèm theo và được khách hàng chấp nhận, họ có thể đặt một giá bán riêng biệt. Tuy nhiên khả năng này là có hạn vì những hàng được trao đổi trên thị trường có khả năng thay thế nhau rất lớn. Khi hoạt động trong hình thái thị trường này, doanh nghiệp luôn phải theo sát giá và những phản ứng về giá hoặc sẽ liên quan đến giá của các đối thủ cạnh tranh. 4. Cạnh tranh hoàn hảo: bao gồm nhiều người mua và người bán trao đổi với nhau về một thứ hàng hoá đồng nhất. Không có một người mua hay người bán cá biệt nào có thể gây được ảnh hưởng lớn đến giá sản phẩm do thị trường quyết định. Những quy định giá riêng của doanh nghiệp đều không có ý nghĩa. II/ Các phương pháp xác định giá của doanh nghiệp 1. Qui trình xác định giá Các doanh nghiệp đều phải tiến hành định giá bán lần đầu tiên cho sản phẩm của mình. Điều này xảy ra khi doanh nghiệp tung vào thị trường một loại sản phẩm mới; hoặc đưa một loại sản phẩm hiện có vào một kênh phân phối mới hay đem bán chúng ở một thị trường mới và khi họ tham gia đấu giá ở một vụ đấu thầu. Cần phải nói rằng có rất nhiều loại mô hình được nghiên cứu giúp cho việc xác định một mức giá. Các mô hình đó có khác nhau vì chúng thường
- dựa trên các căn cứ và nguyên tắc khác nhau, song đã có sự thống nhất khá cao về một tiến trình tính mức giá bán lần đầu, bao gồm 6 bước. Sơ đồ Tiến trình xác định mức giá bán lần đầu Xác Xác Xác Phân tích Lựa Lựa định định cầu định chi giá v sản chọn chọn nhiệm thị phí sản phẩm của phương mức giá vụ cho trường xuất đối thủ pháp cụ thể á 2. Xác định mục tiêu định giá Như đã phân tích giá chỉ là một biến số của marketing - mix, được sử dụng như là một công cụ để đạt mục tiêu của doanh nghiệp. Vì vậy, xác định mục tiêu định giá phải xuất phát từ mục tiêu marketing và chiến lược định vị sản phẩm mà doanh nghiệp đã lựa chọn. Mặt khác nó phải được đặt trong một thể thống nhất với các biến số khác của marketing - mix. Ở bước đầu tiên này, người làm giá phải thực hiện những nhiệm vụ chính sau đây: - Nghiên cứu kỹ mục tiêu kinh doanh, chiến lược định vị mà doanh nghiệp lựa chọn; - Nắm nội dung của các biến số marketing – mix khác; - Xác định mục tiêu và nhiệm vụ của giá gồm: phạm vi và vai trò của giá; Sự hỗ trợ của giá với các chữ P khác trong việc thực hiện chiến lược định vị và mục tiêu của doanh nghiệp.
- 3. Xác định cầu ở thị trường mục tiêu Việc xác định cầu ở thị trường mục tiêu phục vụ cho việc định giá tập trung vào hai vấn đề cơ bản: xác định tổng cầu; và xác định hệ số co giãn của cầu theo giá. - Xác định tổng cầu Mỗi mức giá đặt ra sẽ dẫn đến một mức cầu khác nhau và trực tiếp ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận và tỷ phần thị trường. Để dự báo được cầu ở thị trường mục tiêu, người làm giá cần phải thu thập được thông tin quan trọng bao gồm: - Số lượng người mua tiềm năng. - Mức tiêu thụ mong muốn của người mua tiềm năng. - Sức mua của người mua tiềm năng và việc phân bổ ngân sách cá nhân trong chi tiêu cuả họ cho các hàng hóa, dịch vụ. Công thức xác định cầu tổng quát: QD = nqp Trong đó, QD: Số lượng cầu (Tính bằng tiền); n: Số lượng khách hàng ở thị trường mục tiêu với những giả thiết nhất định; q: Số lượng hàng hoá trung bình mà một khách hàng mua; p: Mức giá bán dự kiến. - Xác định hệ số co giãn của cầu Về mặt lý thuyết hệ số co giãn của cầu đối với giá được xác định theo công thức: Độ co giãn của cầu theo giá = Tỷ lệ % biến đổi cầu/tỷ lệ % biến đổi giá hay Ed = (ΔQ/Q)/(ΔP/P) Trên thực tế, rất khó định lượng được hệ số Ed, vì sự biến đổi của cầu thị trường phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Các nhà nghiên cứu đưa ra 2 phương pháp để dự đoán Ed. a) Dựa vào kinh nghiệm và các số liệu lịch sử về mối quan hệ giữa giá và cầu đã thu thập được ở các thị trường khác nhau, qua các thời gian khác nhau. b) Qua điều tra chọn mẫu, tiến hành phỏng vấn các khách hàng ở thị trường mục tiêu. Tuy cả hai phương pháp không cho một câu trả lời chính xác về Ed, nhưng việc dự báo được xu hướng biến đổi của nó cũng là cần thiết đối với việc đề xuất các chính sách về giá.
- 4. Xác định chi phí phục vụ cho việc định giá Xác định các chỉ tiêu chi phí (xem phần trên) 5. Phân tích hàng hoá và giá cả của đối thủ cạnh tranh Những nhiệm vụ cơ bản cần được thực hiện ở bước này là: - Thu thập các thông tin về giá thành, giá bán, chất lượng và những đặc tính khác của sản phẩm cạnh tranh; thái độ của khách hàng về tương quan giá và sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. - Phân tích điểm mạnh, điểm yếu trong chính sách giá của đối thủ cạnh tranh - Xác định phạm vi, mức độ và tính chất phản ứng về giá của đối thủ cạnh tranh. Để thực hiện được các nhiệm vụ nêu trên, những người làm giá có thể áp dụng các phương pháp sau: - Cử người đi khảo sát giá, sưu tầm biểu giá hoặc mua sản phẩm của đối thủ và tiến hành phân tích mối tương quan giữa giá và sản phẩm - Tiến hành phỏng vấn người mua để nhận biết sự chấp nhận về giá và chất lượng hàng hoá của đối thủ của họ như thế nào? 6. Lựa chọn phương pháp định giá Những phương pháp định giá cơ bản mà marketing thường sử dụng bao gồm: định giá dựa vào chi phí; định giá theo giá trị cảm nhận của khách hàng; định giá cạnh tranh; đấu thầu. Phương pháp định giá dựa vào chi phí Với phương pháp này, căn cứ chính để xác định giá là chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sau đây là một số phương pháp cụ thể để định giá sản phẩm dựa vào chi phí: Định giá theo cách "cộng lãi vào giá thành" Công thức xác định giá cộng lãi và giá thành (chi phí) là: Giá dự kiến = Giá thành sản phẩm + lãi dự kiến Mức lãi dự kiến có thể tính theo giá thành đơn vị sản phẩm, cũng có thể tính theo giá bán. Để minh hoạ cho cách định giá này, chúng ta hãy xem xét ví dụ giả định sau:
- Giả sử doanh nghiệp có chi phí và dự kiến mức tiêu thụ như sau: Chi phí biến đổi :10.000 đ Chi phí cố định: 300.000.000 đ Số lượng dự kiến tiêu thụ : 50.000 sản phẩm Khi đó, chi phí đơn vị sản phẩm của người bán sẽ là: Chi phí cố định Chi phí đơn vị = Chi phí biến đổi + Số đơn vị sản phẩm 300.000.000 = 10.000 + = 16.000 đ 50.000 Giả thiết người sản xuất dự kiến mức lãi 25% trên chi phí trung bình hay giá thành. Mức giá dự kiến sẽ là: Giá dự kiến = Chi phí đơn vị sản phẩm x (1 + 0.25) = 16.000 * (1 + 0.25) = 20.000đ Họ cũng có thể dự kiến mức lãi trên giá bán, chẳng hạn 20% trên giá Chi phí đơn vị sản phẩm 16.000 Giá dự kiến = = = 20.000đ 1-tỷ lệ % lãi trên giá bán 1-0,2 bán. Mức Giá dự kiến sẽ là: Phương pháp định giá "cộng lãi vào chi phí" được áp dụng rất phổ biến vì những lí do sau: Thứ nhất, nó đơn giản, dễ tính, chi phí sản xuất là đại lượng mà người bán hoàn toàn kiểm soát được. Thứ hai, khi tất cả các doanh nghiệp trong một ngành hàng đều sử dụng phương pháp định giá này, thì giá của họ sẽ có xu hướng tương tự nhau. Vì thế có khả năng giảm thiểu sự cạnh tranh về giá. Thứ ba, cách định giá này nhiều người cảm nhận rằng, nó đảm bảo được sự công bằng cho cả người mua và người bán. Người bán sẽ không ép giá khi cầu hàng hoá trở lên căng thẳng vì vẫn tìm kiếm được phần lợi nhuận công bằng trên đồng vốn họ bỏ ra. Tuy có những ưu điểm rất căn bản như đã nêu trên, song phương pháp định giá này trong nhiều trường hợp cũng chưa thực sự hợp lý. Bởi vì: Thứ nhất, nó đã bỏ qua sự ảnh hưởng của cầu và sự nhận thức về giá của khách
- hàng. Thứ hai, khó có thể dung hoà được sự cạnh tranh trên thị trường về giá. Phương pháp định giá cộng lãi vào chi phí chỉ thích hợp khi mức giá dự kiến trên thực tế đảm bảo được mức tiêu thụ dự kiến, kinh doanh trong ngành ở trạng thái ổn định. Định giá theo lợi nhuận mục tiêu và phương pháp hòa vốn * Định giá theo tỷ suất lợi nhuận mục tiêu: Đây là một phương pháp khác của phương pháp định giá trên cơ sở chi phí. Theo phương pháp này doanh nghiệp xác định giá trên cơ sở đảm bảo tỷ suất lợi nhuận mục tiêu trên vốn đầu tư (ROI). Công thức xác định giá theo lợi nhuận mục tiêu Lợi nhuận mong muốn Giá (đảm bảo lợi = Chi phí đơn vị + tính trên vốn đầu tư nhuận mục tiêu) Số lượng tiêu thụ Công thức tính giá nói trên sẽ đảm bảo cho người sản xuất thực hiện tỷ suất lợi nhuận (ROI) mà họ mong muốn là 20%, nếu đảm bảo được mức giá thành và mức tiêu thụ ước tính là chính xác. * Phương pháp hòa vốn: Để có thể linh hoạt hơn trong việc đưa ra các mức giá bán, tương ứng với các khối lượng bán có thể có và để đạt quy mô (tổng) lợi nhuận mục tiêu mong muốn, người làm giá có thể sử dụng "phương pháp hoà vốn" hay "đồ thị hoà vốn". Đồ thị hoà vốn được xây dựng bởi đường tổng doanh thu (TR) và đường tổng chi phí (TC). Đường tổng doanh thu và đường tổng chi phí sẽ giao nhau ở mức tiêu thụ được gọi là "điểm hoà vốn". Khối lượng ho vốn = Σ Chi phí phí cố định Giá - Chi phí biến đổi đơn vị Khối lượng lợi nhuận mục tiêu (ROI x vốn đầu tư) được xác định bằng khoảng cách giữa đường tổng doanh thu và đường tổng chi phí. Nó được quyết định bởi khối lượng tiêu thụ đảm bảo lợi nhuận mục tiêu và mức giá dự kiến tương ứng. Khối lượng tiêu thụ đạt lợi nhuận mục tiêu được xác định theo công thức:
- Σ Chi phí cố định + Σ Lợi nhuận mục tiêu ố ượ đạ Kh i l ng bán t = lợi nhuận mục tiêu Giá - Chi phí biến đổi đơn vị Để nắm được "phương pháp hoà vốn" chúng ta hãy xem xét ví vụ minh hoạ sau đây. Giả sử chúng ta có số liệu của doanh nghiệp A, sản xuất sản phẩm X như sau: - Chi phí biến đổi/ đơn vị sản phẩm : 10.000 đ - Chi phí cố định : 300.000.000 đ - Lợi nhuận mục tiêu (ROI) = 20% - Vốn đầu tư : 1.000.000.000 đ - Tổng lợi nhuận mục tiêu: 20% x 1 tỷ = 200.000.000 đ Khi đó, doanh thu, chi phí và lợi nhuận ở các mức giá dự kiến khác nhau sẽ thể hiện trong bảng và sơ đồ dưới đây.
- Bảng : Tổng hợp doanh thu, chi phí, lợi nhuận Đơn vị tính: 1.000.000đ Giá dự Chi CP biến Q hoà Q đạt lợi Doanh Tổng chi Lợi nhuận kiến phí đổi vốn nhuận mục thu phí mục tiêu CĐ tiêu 0,018 300 0,01 37.500 62.500 1125 925 200 0,020 300 0,01 30.000 50.000 1000 800 200 0,022 300 0,01 25.000 41.666 916,6 716,66 200 Doanh Sthuơ đồ(R) : Đồ thị hoà vốn (Đơn vị: 1000 sản phẩm) Tổng doanh thu TR & chi phí (TC) TR (P=0,02) 1000 2 Tổng chi phí TC } 800 Lợi nhuận mục tiêu 600 300 Chi phí cố định 0 30 50 Sản lượng Q Nhìn vào bảng số và đồ thị, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, để có 200 triệu đồng lợi nhuận, có thể bán sản phẩm với các mức giá khác nhau. Bán sản phẩm với giá nào còn tuỳ thuộc vào việc tiên lượng số lượng sản phẩm có thể được tiêu thụ trên thị trường. Tóm lại, phương pháp hoà vốn được sử dụng rất có hiệu quả khi doanh nghiệp dự đoán chính xác khối lượng tiêu thụ. Ngoài ra nó còn cho phép người làm giá có thể xem xét tới các mức giá khác nhau và ước tính được những ảnh hưởng có thể có của chúng đến khối lượng tiêu thụ và lợi nhuận. Đặc biệt, dựa vào phương pháp này người sản xuất còn có thể dự báo
- được khoảng thời gian để có thể đạt được "điểm hoà vốn" và sau đó kinh doanh có lãi. Song phương pháp này vẫn được coi là có xu hướng xem nhẹ ảnh hưởng của giá sản phẩm cạnh tranh và tương đối mạo hiểm vì chưa tính đến độ co giãn của cầu đối với giá. Định giá theo giá trị cảm nhận Với phương pháp này, các doanh nghiệp định giá bán của mình căn cứ vào cảm nhận của người mua về giá trị chứ không phải chi phí mà họ bỏ ra để sản xuất sản phẩm. Khi định giá theo giá trị cảm nhận của khách hàng, người làm giá phải xây dựng được những biến tạo nên giá trị cảm nhận trong suy nghĩ của người mua; giá bán dự k iến được ấn định theo giá trị cảm nhận này. Để xác định giá “theo giá trị cảm nhận được”, người làm giá phải tiến hành các công việc sau đây: - Xây dựng khái niệm sản phẩm cho thị trường mục tiêu với chất lượng và giá cả dự kiến (định vị sản phẩm) cụ thể; - Dự kiến khối lượng bán mong muốn theo mức giá dự kiến; - Dự kiến công suất cần thiết của nhà máy, vốn đầu tư và xác định chi phí sản xuất sản phẩm; - Xác định lợi nhuận theo mức chi phí và giá dự kiến; Khi đã khẳng định rằng mức giá dự kiến đem lại cho doanh nghiệp lợi nhuận mục tiêu, người chào hàng sẽ thuyết phục khách hàng chấp nhận mức giá đó bằng cách chứng minh với khách hàng rằng lợi ích mà khách hàng nhận được từ việc tiêu dùng sản phẩm là thoả đáng. Vấn đề quan trọng nhất của phương pháp “đặt giá theo giá trị cảm nhận” của khách hàng là doanh nghiệp phải xác định chính xác nhận thức của thị trường về giá trị của hàng hoá. Các doanh nghiệp cần tránh khuynh hướng hoặc thổi phồng giá trị của sản phẩm dẫn đến định giá quá cao hoặc quá khắt khe trong đánh giá dẫn đến định giá thấp so với mức giá đáng ra họ có thể tính. Để áp dụng được phương pháp này công việc đầu tiên mà những ngươì làm giá của doanh nghiệp phải làm là nghiên cứu thật kỹ thị trường mục tiêu để đo lường được nhận thức của thị trường về giá trị sản phẩm. Định giá theo mức giá hiện hành hay định giá cạnh tranh
- Khi xác định giá theo mức giá hiện hành, các doanh nghiệp sẽ lấy giá của đối thủ cạnh tranh làm cơ sở. Họ ít quan tâm đến chi phí sản xuất sản phẩm và cầu thị trường. Giá bán sản phẩm của doanh nghiệp có thể định cao hơn, thấp hơn, hoặc ngang bằng với giá của đối thủ cạnh tranh. Dưới đây là những nguyên tắc có tính chỉ dẫn về cách đặt giá này: * Đặt giá ngang bằng với giá sản phẩm cạnh tranh Trường hợp này xảy ra khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong ngành thuộc hình thái thị trường độc quyền nhóm (ví dụ: các vật liệu cơ bản) hoặc doanh nghiệp tham gia vào thị trường với năng lực cạnh tranh nhỏ bé và được gọi là doanh nghiệp "theo sau" hoặc sản phẩm của doanh nghiệp về cơ bản là tương tự sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. * Đặt giá cao hơn giá của sản phẩm cạnh tranh Cách đặt giá này có thể áp dụng khi sản phẩm của doanh nghiệp có những sự khác biệt với sản phẩm cạnh tranh và được khách hàng chấp nhận (ví dụ: chất lượng cao hơn, mẫu mã và bao bì đẹp hơn ) Tuy nhiên, khoảng chênh lệch về giá không nên quá lớn để tránh ảnh hưởng tới những khách hàng nhạy cảm về giá. Nhất là sự khác biệt về sản phẩm trong tâm trí khách hàng không rõ ràng. * Đặt giá thấp hơn giá của sản phẩm cạnh tranh Trường hợp này được áp dụng cho những sản phẩm mà khách hàng vốn nhạy cảm về giá. Tuy nhiên, chênh lệch giữa hai mức giá không nên quá lớn để tránh khuynh hướng tạo ra sự cạnh tranh về giá mang tính chất quyết liệt và tránh sự vi phạm luật pháp quy định cho giá cả (luật phá giá). Phương pháp định giá theo giá hiện hành rất phổ biến nhất là trong các trường hợp như chi phí khó xác định được hay phản ứng cạnh tranh không chắc chắn. Các doanh nghiệp đều cho rằng phương pháp giá hiện hành là một giải pháp tốt. Nó phản ánh sự sáng suốt của tập thể ngành về vấn đề giá cả, đảm bảo đem lại lợi nhuận công bằng và sự hài hoà của ngành. Định giá đấu thầu Định giá đấu thầu xảy ra trong những trường hợp các doanh nghiệp đấu thầu công trình. Giá đấu thầu thuộc loại giá cạnh tranh. Các doanh nghiệp tham gia đấu thầu định giá dựa trên cơ sở dự đoán các đối thủ cạnh tranh sẽ định giá là bao nhiêu chứ không phải dựa trên chi phí. Doanh nghiệp muốn dành hợp đồng và muốn thắng thầu thường phải
- chấp nhận một mức giá thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh nếu họ cung ứng những sản phẩm tương tự sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Còn nếu chọn mức giá đấu thầu bằng mức giá của đối thủ, họ phải chứng minh được sản phẩm mà họ cung ứng tốt hơn hẳn sản phẩm của đối thủ. Ngày 18 tháng 1 năm 2005, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 06/QĐ-BTC về việc ban hành qui chế tính giá tài sản, hàng hoá, dịch vụ. Đây là một cố gắng lớn của ngành giá nhằm qui chuẩn hoá các phương pháp tính giá tài sản, hàng hoá và dịch vụ 7. Quyết định mức giá cơ bản Các phương pháp định giá nêu trên đã tạo ra các phương án khác nhau về mức giá cơ bản. Để thực thi, doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình một mức giá cụ thể tương đối hợp lý. Để có một mức giá cụ thể, những người có vai trò quyết định giá còn phải xem xét thêm những yếu tố khác nữa bao gồm: + Những yếu tố tâm lý của người mua khi cảm nhận giá (Xem phần Các nhân tố ảnh hưởng đến giá). + Tính đến ảnh hưởng của các biến số khác trong marketing-mix như: danh tiếng của doanh nghiệp và nhãn hiệu; mục tiêu của quảng cáo, việc áp dụng các chương trình khuyến mại + Phản ứng của các lực lượng trung gian và những lực lượng khác có liên quan: thái độ của các đại lý, những người bán buôn, bán lẻ, phản ứng của các đối thủ cạnh tranh, những đạo luật liên quan đến giá để đảm bảo chắc chắn rằng chính sách giá của doanh nghiệp là hợp pháp. VẤN ĐỀ THỨ 5: CƠ CHẾ QUẢN LÝ GIÁ Ở NƯỚC TA. Ở nước ta, việc chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là con đường tất yếu, đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là sự chuyển đổi mang tính đặc thù về cơ chế kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, từ năm 1989 nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Từ đó đến nay, vấn đề hoàn thiện và đổi mới hệ thống chính sách và cơ chế quản lý nền kinh tế nước ta, trong đó có vấn đề chính sách và cơ chế quản lý giá, luôn xuất hiện như là những thách
- thức đối với Đảng và Nhà nước ta. Để giải bài toán khó khăn này, một mặt, chúng ta phải rút những kinh nghiệm thành công và không thành công từ trong chính thực tiễn của nước ta; mặt khác, chúng ta không thể không tìm hiểu kinh nghiệm của nước ngoài, như đã trình bày ở trên. Trên lĩnh vực đổi mới và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý giá ở nước ta, để đề ra được những quan tâm xác đáng, việc vận dụng kinh nghiệm của nước ngoài cần chú ý tới những đặc điểm mang tính xuất phát của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta là: Thứ nhất; chúng ta bước vào nền kinh tế thị trường từ một trình độ thấp kém so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, lại trải qua gần 40 năm của hệ thống kinh tế tập trung quan liêu và bao cấp. Sự thấp kém ở đây không chỉ ở cơ sở vật chất - kỹ thuật, ở trình độ phát triển của nền kinh tế và mức thu nhập, mà cả ở năng lực quản lý nền kinh tế và kinh doanh, ở tri thức và vốn hiểu biết về kinh tế thị trường Vì vậy, chúng ta gần như phải xây dựng từ đầu những yếu tố và tiền đề của kinh tế thị trường. Mọi giải pháp về quản lý giá ở một nước bước vào kinh tế thị trường như vậy không thể là sự dập khuôn các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Mọi giải pháp kinh tế mới đều phải dứt khoát, kiên quyết, nhưng phải cơ bước đi thích hợp, không thể đem kinh nghiệm quản lý giá của một nước có tiềm lực tài chính mạnh áp dụng cho việc quản lý giá cả ở nước ta. Thứ hai; nước ta bước vào nền kinh tế thị trường với một sự thiếu và yếu kém quá mức về hệ thống luật và ý thức chấp hành pháp luật. Muốn đảm bảo cho kinh tế thị trường phát triển lành mạnh, tất yếu phải ban hành một hệ thống luật làm cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế. Từ năm 1989 đến nay, các cơ quan lập pháp đã ban hành nhiều bộ luật, song cho đến thời điểm này vẫn chưa đầy đủ, và đặc biệt là việc thi hành và chấp hành luật pháp còn hết sức tuỳ tiện và yếu kém. Thứ ba; nền kinh tế thị trường ở nước ta ra đời và phát triển trong điều kiện hệ thống DNNN còn khá cồng kềnh và yếu kém. Mặc dù đã có những văn bản nhằm đảm bảo sự độc lập, tự chủ của các doanh nghiệp này trong kinh doanh theo cơ chế thị trường, song trên thực tế, dư âm của thời bao cấp, sự thiếu rõ ràng trong mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, không những đã làm cho nhiều doanh nghiệp chưa phát huy được vai
- trò chủ đạo trong sự phát triển nền kinh tế quốc dân, mà trái lại đang còn cản trở quá trình đổi mới. Thứ tư; nền kinh tế thị trường ở nước ta ra đời và phát triển trong bối cảnh bộ máy quản lý hành chính kinh tế của Nhà nước còn yếu kém, chức năng, nhiệm vụ thiếu rõ ràng, năng lực và phẩm chất cán bộ và nhân viên yếu. Thứ năm; chúng ta nghiên cứu để đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý giá trong điều kiện đất nước chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường từ 1989 đến nay và đã có những thành công bước đầu rất cơ bản. Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta, việc đổi mới và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý giá hiện nay cần phải dựa trên các quan điểm cơ bản sau: 1. Thực hiện tự do hoá thị trường và giá cả. Đây là quan điểm mang tính tiền đề. Bởi vì, một mặt, không tự do hoá thị trường thì không có sản xuất hàng hoá thực sự, không phát huy đầy đủ mặt tích cực của kinh tế hàng hoá, không đảm bảo sự hoạt động khách quan của các quy luật vốn có của nó. Mặt khác, không tự do hoá thị trường thì cũng không làm bộc lộ đầy đủ những mâu thuẫn, những hạn chế nội tại của kinh tế thị trường, mà chính sách và cơ chế quản lý giá của Nhà nước lại phải hướng vào giải quyết những vấn đề đó. Suy cho cùng, mọi giải pháp nhằm hạn chế tự do hoá thị trường và giá cả đều đưa đến triệt tiêu động lực của kinh doanh, trói buộc sự phát triển của lực lượng sản xuất, và do đó việc phát triển kinh tế thị trường chỉ là hình thức. Rõ ràng là muốn cho kinh tế thị trường xuất hiện với đầy đủ ý nghĩa thực sự của nó, phát huy hết tính tích cực của nó trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, nâng cao hiệu quả của kinh doanh và sản xuất xã hội. Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác, ngoài việc đảm bảo tự do hoá thị trường và giá cả. Mặc dù kinh tế thị trường có mặt trái của nó, nhưng không vì thế mà ta cản trở quá trình hình thành kinh tế thị trường ở nước ta. Quan điểm này trước hết đòi hỏi phải thể chế hoá mọi điều kiện đảm bảo cho sự hoạt động khách quan của kinh tế thị trường, mà cốt lõi của nó là tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể sản xuất hàng hoá theo đúng luật định, đảm bảo luật chơi của kinh tế thị trường. Mặ khác, trong khi thừa nhận tự do hoá thị trường và giá cả, đồng thời cũng phải thừa nhận sự quản lý của Nhà nước đối với thị trường và giá cả. Vì chỉ có Nhà
- nước mới là yếu tố trung gian đảm bảo cho sự tự do hoá thị trường, tự do hoá giá cả. Như vậy, việc hiện thực hoá quan điểm này đòi hỏi một là, Nhà nước phải can thiệp vào những quan hệ mất tự do, mất bình đẳng của thị trường. Hai là, cần chống mọi sự can thiệp làm triệt tiêu tính tự do. Mọi hoạt động của Nhà nước, của các thủ thể kinh doanh, của quan hệ thị trường phải được thể chế hoá thành luật. Từ đó chính sách và cơ ch ế quản lý giá của Nhà nước phải đặt trong khôn khổ của việc nhận thức đúng đắn và tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường chi phối sự hình thành và vận động của giá cả thị trường và phải thông qua hệ thống luật, trong đó, có luật quản lý thị trường và giá cả, để điều hành giá thị trường. Bên cạnh đó, tự do hoá thị trường còn bao hàm cả việc sớm xoá bỏ sự bao cấp qua giá, qua vốn, xây dựng và triển khai các điều kiện để hình thành các thị trường vốn, lao động, tài nguyên, tạo mọi điều kiện để phát huy cạnh tranh lành mạnh, chống mọi xu thế độc quyền và liên minh độc quyền. Theo quan điểm này, Nghị quyết Hội nghị lần thứ II của Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VII) đã đề ra những biện pháp cần thiết, nhằm chuyển hệ thống giá sang giá thị trường. Đặc biệt, từ năm 2002, Nhà nước đã công bố Pháp lệnh Giá nhằm góp phần ổn định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình ổn giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân ssản xuất kinhdoanh, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.Nhưng thực tiễn còn nhiều vấn đề tồn tại như: - Việc triển khai và thực hiện triệt để quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước, còn chậm. - Tồn tại xu hướng tuỳ tiện trong việc chấp hành kỷ luật giá biến tướng dưới các hình thức khác nhau còn khá phổ biến. Hoặc có những luật liên quan đến viếc quản lý giá, nhưng không được chú trọng thực hiện, dẫn đến hậu quả gây rối thị trường và giá cả. - Đối với một số vật tư hàng hoá chưa thực hiện triệt để xoá bao cấp qua giá, chưa đảm bảo cho giá cả hình thành theo đúng quy luật của thị trường. Chẳng hạ, Nhà nước còn phải bù lỗ giá bán điện cho người tiêu dùng; tiền lương và thu nhập không tương xứng với thành quả; giá cả tài nguyên thấp không tương xứng với giá trị để duy trì, bảo vệ và tái tạo chúng. Tình hình đó đã gây ra sự tiếp tục phá hoại tài nguyên và môi trường của đất nước.
- 2. Chính sách và cơ chế quản lý giá của Nhà nước phải luôn hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đề ra trong từng thời kỳ. Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh. Bản chất của kinh tế thị trường bao hàm hai mặt, mặt tích cực và mặt tiêu cực như đã khẳng định ở trên. Chính sách và cơ chế quản lý giá cần phải hướng vào mặt tích cực như: thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, hiệu quả kinh tế cao, đồng thời phải khắc phục mặt tiêu cực như: phân hoá kẻ giàu người nghèo, phân hoá thành thị và nông thôn, đề cao lợi ích cục bộ. Quán triệt quan điểm này, trong thời gian trước mắt, chính sách và cơ chế quản lý giá phải hướng vào những nội dung cơ bản sau: bảo đảm ổn định về kinh tế - xã hội và chính trị, bảo đảm sự ổn định giá cả, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, từng bước xúc tiến sự hoà nhập của kinh tế và giá cả trong nước với kinh tế và giá cả trên thị trường thế giới, thực hiện chính bảo hộ sản xuất và tiêu dùng trong những trường hợp cần thiét. Đảm bảo được những nội dung trên là tiền đề đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta và sự hình thành một xã hội công bằng và văn minh. Quán triệt quan điểm này, trong những năm qua, Nhà nước đã làm được nhiều việc như: thực hiện trợ cấp, trợ giá cho các lĩnh vực có ý nghĩa văn hoá - xã hội, trợ cước vận chuyển đối với một số vật tư hàng hoá thiết yếu cung cấp cho đồng bào miền núi, triển khai và thực hiện quỹ bình ổn vật giá, mà trọng tâm trước hết là bình ổn giá mua lúa của nông dân. Đó là nhưng việc làm thiết thực và góp phần đáng kể vào sự ổn định tình hình kinh tế - xã hội nói chung. Song, xuất phát từ yêu cầu của việc ổn định giá nhằm góp phần ổn định sản xuất và đời sống, chính trị và xã hội ở nước ta, một số vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh là: - Thực hiện nghiêm ngặt chính sách quản lý thu nhập, nhằm xoá bỏ những thu nhập bất chính và bất hợp lý trong các bộ phận và tầng lớp dân cư. Tuy chúng ta không chuyến khích tư tưởng bình quân, nhưng rõ ràng là, trong một số năm gần đây do thiếu sự quan tâm và sơ hở trên lĩnh vực này nên tốc độ phân hoá trong xã hội ta diễn ra quá nhanh chóng, và chính điều đó lại là mầm mống gây ra sự xáo động về giá cả, đời sống, tâm tư, lối sống, nguyện vọng của nhiều tầng lớp dân cư.
- - Phối hợp hữu hiệu các công cụ khác nhau, nhằm đảm bảo cho sự hoà nhập từng bước kinh tế và giá cả trong nước với kinh tế và giá cả thuế giới, phòng ngừa mọi tác động tiêu cực của hệ thống giá cả trên thị trường thế giới vào hệ thống giá trong nước. - Nghiên cứu và áp dụng có hệ thống, đảm bảo hiệu quả những giải pháp của Nhà nước đối với nông thông và nông nghiệp nhằm góp phần duy trì sự ổn định của sản xuất và giá cả nông phẩm, vì đây là khu vực còn tập trung tới 75% dân số nước ta, là lực lượng sản xuất chủ yếu để phát triển kinh tế. -Kiên quyết thực hiện sự ổn định của giá trị đồng tiền. 3. Chính sách và cơ chế quản lý giá phải được đặt trong một tổng thể các giải pháp đồng bộ. Giá cả luôn là một hiện tượng kinh tế tổng hợp. Nó có mối liên hệ nhân quả với nhiều hiện tượng và giải pháp kinh tế khác. Do đó, giá cả có thể xem như là tín hiệu thị trường của một quá trình kinh tế hay của một tổng thể các giải pháp kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế và công cuộc cải ách gia cả của nước ta đủ để chứng minh rằng sẽ không có sự phát triển kinh tế lành mạnh, nếu không có sự ổn định về giá cả. Nhưng cũng sẽ không có được sự ổn định của giá cả, nếu không có một chính sách tiền tệ đúng đắn, mà mục tiêu của nó là đẩy mạnh phát triển sản xuất, chống lạm phát và củng cố sức mua của đồng tiền, nếu không có sự phấn đấu kiên quyết để đảm bảo có được một ngân sách lành mạnh, một tỷ giá hối đoái ổn định; nếu không có một chính sách thu nhập hợp lý, một hệ thống giải pháp hữu hiệu về chống độc quyền, chống đầu cơ buôn lậu v.v Vì vậy, trong quản lý kinh tế và quản lý giá cả, phải thông qua tín hiệu giá cả thị trường để giải quyết đồng bộ các giải pháp khác nhằm đạt mục tiêu của quản lý vĩ mô nói chung, và quản lý giá cả nói riêng. Quán triệt quan điểm này cũng có nghĩa là quản lý giá cả phải hướng vào việc quản lý các nhân tố hình thành giá cả. Giá cả chịu sự tác động chi phối của rất nhiều nhân tố kinh tế - xã hội. Mức độ tác động của từng nhân tố tới gá cả rất khác nhau. Không nên quan niệm rằng, quản lý giá chỉ là sự can thiệp trực tiếp vào mức giá, mà nó bao hàm cả sự quản lý gián tiếp thông qua các nhân tố tác động tới sự hình thành và vận động của giá cả tr, chẳng hạn như: lượng cung, lượng cầu; lượng tồn kho và lưu trữ hàng hoá, các yếu tố chi phí, lượng tiền mặt trong lưu thông, mức và biểu thuế, lương xuất nhập v.v Quan điểm đó cũng có thể đặt ra ngay cả với loại giá cần bảo hộ.
- Tất nhiên, trong điều hành cụ thể phải tuỳ từng thời kỳ, từng loại hàng, từng hình thái thị trường và quy luật hình thành giá cả để lựa chọn tác động và nhân tố nào nhằm thực hiện được mục tiêu quản lý giá. Từ bài học thực tiễn của những năm tháng tiến hành cải cách giá trong thập kỷ 80, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã từng bước quản lý nghiêm ngặt hơn việc lưu thông tiền tệ, thu chi của ngân sách Nhà nước, hoàn chỉnh dần chính sách thuế và chính sách kinh tế đối ngoại, điều hoà quan hệ cung - cầu của một số mặt hàng và nhóm hàng, thực hiện việc hỗ trợ và cán thiệp vào giá nông sản phẩm Tuy nhiên trong việc thực hiện các giải pháp đồng bộ, còn cần phải: - Tiếp tục hoàn chỉnh, nâng cao hiệu lực và kỷ cương trong việc thực hiện các chính sách vĩ mô gắn liền với mục tiêu bình ổn giá thị trường, phát triển và tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. ở đây bao hàm cả sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành các Bộ có liên quan, tránh "cắt khúc" và thiếu phối hợp đồng bộ giữa các ngành có liên quan. - Gia tăng sự chỉ đạo và chế độ trách nhiệm đối với việc điều hoà quan hệ cung cầu, bình ổn giá thị trường của các ngành hàng, nhóm hàng và mặt hàng thiết yếu đối với nề kinh tế, tránh những cơn sốt giá cục bộ. - Tăng cường hiệu lực của việc kiểm tra và thanh tra.



