Chương trình ôn tập triết học Mác-Lênin

doc 31 trang phuongnguyen 1890
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chương trình ôn tập triết học Mác-Lênin", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docchuong_trinh_on_tap_triet_hoc_mac_lenin.doc

Nội dung text: Chương trình ôn tập triết học Mác-Lênin

  1. VẤN ĐỀ 1 VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC SỰ ĐỐI LẬP GIỮA QUAN ĐIỂM DUY VẬT VÀ DUY TÂM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC 1. Nội dung và ý nghĩa của vấn đề cơ bản của triết học Trong tác phẩm “L.Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của Triết học cổ điểm Đức” Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” (Toàn tập, t21,tr.403). Trong thế giới có vô vàn hiện tượng nhưng chung qui lại chúng ta chỉ phân làm hai loại, một là, những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là, những hiện tượng tinh thần (tư duy, ý thức). Do vậy, vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được goi là “vấn đề cơ bản lớn nhất” hay “vấn đề tối cao” của triết học. Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. + Tự nhiên – tinh thần + Tồn tại – tư duy + Vật chất – ý thức * Vấn đề cơ bản của triết học đó là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Bởi vì: - Vật chất và ý thức là hai hiện tượng rộng lớn nhất của đời sống con người - Đây là vấn đề xuyên suốt trong mọi hệ thống triết học. - Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nó là cơ sơ để phân định lập trường triết học của các trường phái, các khuynh hướng, các hình thức của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt: - Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra cái nào, cái nào quyết định cái nào? (Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì vị trí và vai trò của con người đối với giới tự nhiên như thế nào?) - Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả năng nhận thức thế giới chung quanh hay không? (Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì khả năng nhận thức của con người với giới tự nhiên ra sao?) Nhất nguyên  monism – monos (duy nhất ) CNDV Mặt thứ nhất Nhị nguyên  dualism – dualis (2 mặt) CNDT Đa nguyên  Pluralism – plulis (nhiều) Khả tri Nhận thức được thế giới Mặt thứ hai Bất khả tri Không nhận thức được thế giới 2. Sự đối lập giữa hai quan điểm duy vật và duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học 1
  2. - Chủ nghĩa duy vật là trào lưu triết học cho rằng tồn tại (tự nhiên, vật chất) có trước tư duy (tinh thần, ý thức), và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có những hình thức lịch sử cơ bản: chủ nghĩa duy vật ở phương Đông và Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa duy vật Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII và chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập. - Chủ nghĩa duy tâm là trào lưu triết học cho rằng tư duy, ý thức có trước vật chất, sinh ra và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức: Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng có một lực lượng siêu tự nhiên (ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, Trời, Thượng đế) có trước, sinh ra và quyết định thế giới vật chất. Những đại biểu của trào lưu này là Platôn, G.V.Hêghen, Thomas Aquinas (Tômát Đacanh), v.v Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào cảm giác, ý thức. Những đại biểu của trào lưu này là George Berkeley (Beccơli), David Hume (Đavít Hium). 2. Các hình thức phát triển của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử a. Chủ nghĩa duy vật chất phác Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của vũ trụ. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại đã có nhiều đóng góp cho lịch sử phát triển của tư tưởng nhân loại vì nó đã lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, nó không viện đến thần linh hay một đấng sáng tạo nào để giải thích thế giới. b. Chủ nghĩa duy vật siêu hình Chủ nghĩa duy vật siêu hình xuất hiện từ khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của cơ học vì vậy nó đã ảnh hưởng lớn tới quan điểm của các nhà triết học thời kỳ này. Chủ nghĩa duy vật trong giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc của cơ học cổ điển. Họ nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về số lượng và do những nguyên nhân bên ngoài gây nên. c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin và những người kế tục bảo vệ và phát triển. Kế thừa những tinh hoa trong lịch sử triết học của nhân loại và vận dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên đương thời C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên những quan điểm, nguyên lý, quy luật cơ bản nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. 2
  3. VẤN ĐỀ 2 QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC VỀ VẬT CHẤT. PHẠM TRÙ VẬT CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG 1. Quan niệm về vật chất trong triết học trước Mác Việc khám phá ra bản chất và cấu trúc tồn tại của thế giới xung quanh ta, mà trước hết là thế giới của những vật hữu hình là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học đều bằng cách này hay cách khác giải quyết vấn đề này. Và bởi vậy trong triết học phạm trù vật chất xuất hiện. Phạm trù là gì? Phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung cơ bản của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định gọi là phạm trù. * Khái quát quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất - Chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan. Cho rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sự kết hợp” những cảm giác của con người. - Chủ nghĩa duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất: + Talét (Thales): nước + Anaximen (Anaximenus): Không khí + Hê-ra-clít (Heraclitus): Lửa + Anaximanđrơ cho rằng, thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định được về mặt chất và vô tận về mặt lượng. + Lơ-xíp và Đê-mô-crít: Nguyên tử. Các ông coi đây phần tử cực kỳ nhỏ, cứng, truyệt đối không thâm nhập được, không quan sát được và nói chung không cảm giác được, chỉ có thể nhận biết nhờ tư duy. Đê-mô-crít hình dung nguyên tử có nhiều loại, sự kết hợp hoặc tách rời giữa chúng theo các trật tự khác nhau của không gian sẽ tạo nên toàn bộ thế giới. + Triết học Ấn Độ: Đất, nước, lửa, gió + Thuyết Âm dương - Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. - Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tử và khối lượng. Tóm lại, các nhà triết học trước Mác đại đều không trả lời được câu hỏi, bản chất của thế giới là gì? Mà họ lại đi vào nghiên cứu, tìm hiểu cấu tạo của vật chất. Do vậy, họ đã khẳng định, vật chất là cái bất biến, cái cụ thể nào đó. Quan niệm này đã tồn tại suốt nhiều thế kỷ trong lịch sử triết học. 2.ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT * Bối cảnh lịch sử khi V.I.Lênin đưa ra định nghĩa vật chất. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học như: + Năm 1895 W.Conrad Roentgen (1845 – 1923) phát hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có bước sóng từ 0,01 đến 100.10-8 cm + Năm 1896 Antoine Henri Becquerel (1852-1908) phát hiện ra hiện tượng phóng xạ trong chất uranium và sau đó Marie Curie (1867-1934) tiếp tục phát triển. Với phát hiện này, người ta hiểu ra rằng quan niệm về sự bất biến của nguyên tử là không chính xác. + Năm 1897 Sir Joseph Thomson (1856 – 1940) phát hiện ra điện tử và chứng minh được rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học sự tồn tại của nguyên tử được chứng minh. + Năm 1901 Kaufman, nhà bác học người Đức đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tĩnh mà nó sẽ thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử. + Năm 1905 Albert Eisntein (1879-1955) đã phát minh ra thuyết tương đối hẹp (E=mc2) là nền tảng cho sự phát triển năng lượng nguyên tử và là một trong những cơ sở khoa học của các lý thuyết hiện đại về vũ trụ. Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật lý: vật chất tiêu tan mất. Các nhà triết học duy tâm chủ quan đã 3
  4. lợi dụng quan điểm này để tấn công, phủ nhận vật chất và chủ nghĩa duy vật. Tình hình đó đòi hỏi Lênin phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật. * Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, vật chất là cái tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, ở đâu có vật chất là có vận động và vận động không ngừng. * Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất; nội dung và ý nghĩa. * Định nghĩa Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX về mặt triết học, trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác”. (Tập 18, tr.151) * Những nội dung cơ bản - Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan Phạm trù vật chất là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức. Do đó: + Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ triết học chứ không phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày. + Chúng ta không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về mặt nhận thức luận, theo V.I.Lênin, chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong mối quan hệ đối lập với nó, đó là phạm trù ý thức.  Khi định nghĩa phạm trù vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, V.I.Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của các sự vật, hiện tượng mà nêu bật đặc tính nhận thức luận cơ bản nhất, phổ biến nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó chính là “thực tại khách quan”. Thực tại khách quan đó chính là tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và không lệ thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Vật chất – cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.  Phạm trù vật chất trong định nghĩa của V.I.Lênin phải được hiểu là bao gồm tất cả những gì tồn tại và không lệ thuộc vào ý thức. Như vậy, vật chất với tư cách là phạm trù triết học, nó chỉ thực tại khách quan nói chung, nó là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. Còn vật chất với tư cách là một phạm trù khoa học cụ thể, đó là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, đều có giới hạn, sinh ra mất đi để chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy, không thể qui vật chất về vật thể, không thể đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của vật chất giống như quan niệm của các nhà triết học trước Mác. - “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác” Điều này khẳng định với chúng ta rằng, vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau, vật chất là cái đóng vai trò quyết định đến nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức. Bởi vì, thực tại khác quan (vật chất là thực tại khách quan) đưa lại cảm giác cho con người chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. - “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” 4
  5. Điều này đã khẳng định rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực khách quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I.Lênin tiếp tục giải quyết được mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Điều này chứng minh rằng: + Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực, được biểu hiện dưới các dạng sự vật, hiện tượng cụ thể mà giác quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp. Do đó, về nguyên tắc không có đối tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng vật chất chưa thể nhận thức được mà thôi. + Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới bên ngoài, khi sự vật tác động vào giác quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương pháp nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được. * Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I.Lênin - Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời đã khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác, chống lại chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết. - Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sở thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất, định hướng và cổ vũ họ ở khả năng nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu vào khám phá những thuộc tính mới của thế giới vật chất, tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới. - Định nghĩa còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử. *Vận động và đứng im - Khái niệm vận động: Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu Ph.Ăngghen viết: “Vận động, đem ứng dụng vào vật chất, thì có nghĩa là sự biến hóa nói chung”. (Tập 20, tr742). “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” (Tập 20, tr519). - Vận động là phương thức tồn tại của vật chất “Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động”. + Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể có vật chất không vận động, cũng như không thể có vận động ngoài vật chất. “Vật chất không có vận động, cũng như vận động không có vật chất, đều là điều không thể hình dung nổi” (Tập 20, tr89). + Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động. Ví dụ: Thuộc tính của kim loại là: dẫn điện, dẫn nhiệt, có khả năng dát mỏng, kéo thành sợi Nhưng những thuộc tính này chỉ được biểu hiện thông qua sự vận động của sự vật đó là: Thuộc tính dẫn 5
  6. điện của kim loại chỉ được bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong sự chênh lệch về điện áp. Thuộc tính dẫ nhiệt của sự vật chỉ được bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong sự chênh lệch về nhiệt độ. Tiền chỉ đẻ ra tiền khi chúng ta đưa nó vào trong quá trình sản xuất. (Bản thân tiền không tự đẻ ra tiền, ngay cả khi chúng ta đưa nó vào quá trình lưu thông). “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cả” (Ph.Ăngghen , Tập 20, tr743). - Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất + Vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất, không do ai sinh ra và không bao giờ bị tiêu diệt. + Vận động được bảo toàn cả về lượng và về chất. Ph.Ăngghen khẳng định: “Cần phải hiểu tính bất diệt của vận động không chỉ đơn thuần về mặt số lượng mà cần phải hiểu cả về mặt chất lượng nữa” (Tập 20, tr479). * Các hình thức vận động của vật chất Theo Ph.Ăngghen, có 5 hình thức vận động cơ bản: - Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. - Vận động vật lý (thay đổi trạng thái vật lý) là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh. - Vận động hóa học (thay đổi trạng thái hóa học) là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất. - Vận động sinh vật: vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa. - Vận động xã hội: mọi hoạt động xã hội của con người; sự thay thế các hình thái kinh tế -xã hội từ thấp đến cao. * Vận động và đứng im: Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối vì: - Đứng im chỉ xảy trong một quan hệ nhất định, chứ không phải trong tất cả mọi quan hệ. - Đứng im chỉ xảy trong một hình thức vận động nhất định (vận động cơ giới). - Đứng im là một trạng thái vận động (vận động trong thăng bằng). * Sự khác nhau giữa quan niệm duy vật biện chứng và quan niệm duy vật siêu hình về vận động. Quan niệm duy vật biện chứng về vận động Quan niệm duy vật siêu hình về vận động - Vận động gắn chặt và phụ thuộc vào vật - Vận động có thể tách rời và không phụ chất. thuộc vào vật chất. 6
  7. - Vận động là tự thân vận động do các mâu - Vận động do nguyên nhân bên ngoài thuẫn bên trong sự vật gây ra gây ra. - Đứng im là trường hợp đặt biệt của vận - Vận động và đứng im là những mặt đối động có tính chất tương đối và tạm thời. lập hoàn toàn tách biệt. - Vận động không chỉ bảo toàn về lượng mà - Vận động chỉ bảo toàn về lượng. còn bảo toàn về chất. - Không thấy sự khác nhau giữa các hình - Các hình thức của vận động khác nhau về thức vận động khác nhau. chất, đồng thời có quan hệ biện chứng với - Qui vận động cao về vận động thấp duy nhau. Không thể qui hình thức vận động nhất là vận động cơ giới. cao về thức vận động thấp. 7
  8. VẤN ĐỀ 3 QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ: NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC 1. Nguồn gốc của ý thức Vấn đề nguồn gốc, bản chất của ý thức là một vấn đề hết sức phức tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học. Trên cơ sở của những thành tựu triết học duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã hội triết học Mác-Lênin đã cho chúng ta nhận thức rõ được về nguồn gốc và bản chất của ý thức. * Quan điển triết học ngoài mácxít về ý thức - Quan điểm duy tâm khách quan: tìm nguồn gốc của ý thức từ một lực lượng siêu tự nhiên (ý niệm, Brahman, Thượng đế, Trời, v.v.). - Quan điểm duy tâm chủ quan: ý thức là cái vốn có của con người, không do thần thánh ban cho, cũng không phải là sự phản ánh thế giới bên ngoài. - Quan điểm duy vật tầm thường: ý thức là một dạng vật chất; “óc tiết ra ý thức cũng như gan tiết ra mật”. * Quan điểm duy vật biện chứng về ý thức Ý thức ra đời là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội. - Nguồn gốc tự nhiên: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc là cơ quan vật chất của ý thức. Nhưng tại sao bộ óc con người lại có thể sinh ra ý thức, là mối liên hệ vật chất với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật chất này đã hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc con người. + Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động, và vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. + Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.  Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là phản ánh vật lý, hoá học. Các hình thức này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng, chưa có sự lựa chọn.  Hình thức phản ánh sinh học đặc trưng cho cho giới tự nhiên sống, là sự phát triển mới về chất trong hình thức phản ánh của vật chất.  Hình thức phản ánh của cá thể sống đơn giản nhất là tính kích thích, là sự trả lời của cơ thể đối với những tác động của môi trường.  Hình thức phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh, là tính cảm ứng, tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường.  Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh là các phản xạ  Hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất hiện là tâm lý. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới chỉ là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.  Ý thức chỉ nảy sinh ở trong giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.  Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người.  Bộ óc của con người là cơ quan phản ánh, nhưng chỉ với riêng bộ óc thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên giác quan và qua đó lên bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra. 8
  9. Như vậy, bộ óc cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Nguồn gốc xã hội: Để cho ý thức ra đời, nguông gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, nhưng chưa đủ, điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, đó chính là lao động và ngôn ngữ. - Lao động: Các nhà nghiên cứu đã viết: “Lịch sử bắt đầu từ sản xuất, con người bắt đầu từ lao động”. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại, là hoạt động mang tính đặc thù của con người, làm cho con người khác với các động vật khác. + Trong lao động con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử dụng các công cụ đó để cải tạo của cải vật chất. + Lao động là hoạt động có tính mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Như vậy, không phải ngẫu nhiên mà thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để con người có ý thức, mà trái lại con người có ý thức chính là con người chủ động tác động vào thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Hay nói cách khác, lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình. Thông qua quá trình lao động, bộ óc của con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển. + Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hôi lại với nhau, làm nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển cùng với lao động. - Ngôn ngữ. Ph.Ăngghen đã viết: “Đem so sánh con người với loài vật, người ta sẽ thấy rõ ràng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng về ngôn ngữ”. + Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C.Mác, nó chính là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ con người không thể có ý thức. + Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền lại những tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó, không có phương tiện trao đổi về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người” (Tập 20, tr646). 2. Bản chất và kết cấu của ý thức * Bản chất của ý thức - Do chịu ảnh hưởng của quan điểm siêu hình nên nhiều nhà duy vật trước Mác đã coi ý thức là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc, mà không thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản ánh. - Trái lại, các nhà duy tâm lại cường điệu tính năng động, sáng tạo của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải sự phản ánh của vật chất. - Khác với những quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên quan điểm lý luận phản ánh, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động và sáng tạo. 9
  10. + Thứ nhất, để hiểu được bản chất của ý thức chúng ta phải thừa nhận cả vật chất và ý thức đều tồn tại, nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập:  Vật chất là cái được phản ánh, tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là ý thức.  Cái phản ánh là ý thức, là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan, bị sự vật khách quan quy định. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh (vật chất) với cái phản ánh (ý thức). + Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan thì đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. Ý thức là của con người, ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Theo C.Mác, ý thức, “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”. + Thứ ba, tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú và đó là sự thống nhất của ba mặt: Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết. Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn. Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. + Thứ tư, ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ, mà là hoạt động xã hội, do đó, ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại. 10
  11. VẤN ĐỀ 4 HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến a. Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến Thế giới là một chỉnh thể thống nhất, các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. - Khái niệm mối liên hệ: Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới. Liên hệ là sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng, quy định lẫn nhau, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt bên trong sự vật hoặc giữa các sự vật khác nhau. - Khái niệm mối liên hệ phổ biến: là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới mà ở đó các sự vật, hiện tượng hoặc các mặt bên trong sự vật có mối liên hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng, quy định lẫn nhau, tác động, chuyển hóa lẫn nhau b. Tính chất của các mối liên hệ Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người. Chẳng hạn, G.W.F. Hêghen đứng trên lập trường duy tâm khách quan đã cho rằng, “ý niệm tuyệt đối là nền tảng của mối liên hệ còn George Berkeley người theo lập trường duy tâm chủ quan cho rằng, “cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng”. Trái lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, tính chất của mối liên hệ phổ biến bao gồm: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng. - Tính khách quan của mối liên hệ Mối liên hệ mang tính khách quan. Bởi, các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới đa dạng, phong phú, khác nhau. Song chúng đều là những dạng vật thể của thế giới vật chất. Và chính tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ. Nhờ có tính thống nhất đó, các sự vật, hiện tượng, không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động của chúng với các sự vật, hiện tượng khác. - Tính phổ biến của các mối liên hệ: + Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nằm ngoài mối liên hệ. Mối liên hệ cũng có ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy. + Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, tuỳ theo điều kiện nhất định. Nhưng dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. - Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ Có rất nhiều loại liên hệ khác nhau: + Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài; + Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp; + Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; + Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản; + Mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung, mối liên hệ phổ biến Chính tính đa dạng trong quá trình vận động, tồn tại và phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy, trong sự vật có nhiều mối liên hệ, chứ không phải có một cặp mối liên hệ. Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật. 11
  12. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, mối liên hệ này nhìn chung không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật. Và nếu có nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mới thực hiện được. Ví dụ: Sự lĩnh hội tri thức của người học trước hết và chủ yếu được quyết định bởi chính người đó (nghệ thuật, truyền thụ tri thức ) dù có tốt, có đầy đủ mà người học không chịu học, không chịu tiếp nhận thì tri thức cũng không thể tự nó có được trong đầu óc người đó. Các cặp mối liên hệ khác nhau cũng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Đương nhiên mỗi cặp liên hệ có đặc trưng riêng. Tuy nhiên, vai trò quyết định của các mối liên hệ trong từng cặp phụ thuộc vào quan hệ hiện thực xác định. Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, vì mỗi loại liên hệ chỉ có một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ hổ biến. Mỗi loại liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có các tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình. d. Ý nghĩa phương pháp luận Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện. - Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng với tất cả các mặt, các mối liên hệ; đồng thời phải đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ; nắm được mối liên hệ chủ yếu có vai trò quyết định. - Quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ các mối liên hệ của sự vật, nắm được bản chất bên trong, trực tiếp, đồng thời phải nhận thức được không gian, thời gian, điều kiện cụ thể của sự tồn tại và xuất hiện các mối liên hệ, trên cơ sở đó mới nắm bắt được xu hướng biến đổi của các sự vật, hiện tượng. - Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiếm diện. Quan điểm phiếm diện là cách xem xét từng mặt, từng mối liên hệ tách rời nhau, không thấy được mối liên hệ nhiều vẻ, đa dạng của sự vật. 2. Nguyên lý về sự phát triển a. Khái niệm “Vận động” và “phát triển” * Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu. Nói cách khác, vận động là biến đổi nói chung, bao gồm hai khuynh hướng: - Sự vật, hiện tượng cụ thể đều có bước khởi đầu và sự diệt vong. - Xem xét trong tính hệ thống, thì đó là sự kế thừa ngày càng hoàn thiện hơn và có tính hệ thống hơn. * Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Như vậy, phát triển không phải là bản thân sự vận động, phát triển chỉ là khuynh hướng tất yếu của vận động, phát triển nó chỉ khái quát những sự vận động đi lên, đó là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ, về kết cấu phức tạo của sự vật và do đó làm nảy sinh tính quy định cao hơn về chất. Nói cách khách phát triển là quá trình làm xuất hiện cái mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc hậu. b. Nội dung của nguyên lý phát triển - Phép biện chứng duy vật khẳng định, đổi mới là quá trình diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. + Trong giới hữu sinh sự phát triển biểu hiện ở khả năng tăng cường thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng sản sinh và hoàn thiện chính mình, ở khả năng hoàn thiện về quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường. 12
  13. + Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức, cải biến tự nhiên và xã hội theo quy luật thông qua hoạt động thực tiễn của con người + Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn về tự nhiên, xã hội và nhận thức chính bản thân con người. - Phép biện chứng duy vật khẳng định, phát triển là khuynh hướng chung của các sự vật hiện tượng nhưng không diễn ra một cách trực tiếp mà nó quanh co, phức tạp theo hình “xoáy ốc”, trong đó có thể có những bước thụt lùi tương đối. - Ngược lại, quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi tương đối, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật. Những người theo quan điểm siêu hình còn coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên hoặc nếu có thay đổi nhất định về chất thì cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín. Họ cũng coi sự phát triển cũng chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Như vậy, sự phát triển được xem như một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước thụt lùi, quanh co, phức tạp. - Về nguồn gốc của sự phát triển, theo quan điểm duy tâm là từ những lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người. Hêghen cho rằng, sự phát tiển của giới tự nhiên, của xã hội đều đã được thiết định trước từ sự vận động của ý niệm tuyệt đối. - Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, từ cấu trúc của sự vật, do mâu thuẫn bên trong của sự vật quy định. Do đó, phát triển là tự thân phát triển, là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật. Phát triển là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, đồng thời kế thừa những giá trị của cái cũ, tạo ra vòng khâu liên hệ giữa cái cũ và cái mới, tạo ra khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc, nghĩa là, trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên mộ cơ sở cao hơn. c. Tính chất cơ bản của sự phát triển - Sự phát triển mang thính khách quan. Bởi vì, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Sự phát triển như vậy không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức của con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn luôn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất. - Sư phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến ở đây được hiểu là nó diễn ra trong mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy. Ở bất cứ sự vật và hiện tượng nào của thế giới khách quan. - Sự phát triển còn mang tính đa dạng, phong phú: khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển khác nhau, tồn tại ở không gian và thời gian khác nhau, sự phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của các điều kiện có thể thúc đẩy hoặc kìm hảm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm sự vật thụt lùi. d. Ý nghĩa phương pháp luận Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta rút ra được phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. - Giới tự nhiên, xã hội và tư duy đều trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Bản chất khách quan của các quá trình hiện thực đòi hỏi nhận thức muốn phản ánh đúng hiện thực khách quan thì cần phải có quan điểm phát triển. - Quan điểm phát triển yêu cầu khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng. - Quan điểm phát triển đối lập với quan điểm bảo thủ, trì truệ, việc tuyệt đối hoá tri thức là kết quả của sự nhận thức về sự vật trong một hoàn cảnh cụ thể và xem xét nó như là tri thức đúng cho cả quá trình phát triển của sự vật 13
  14. - Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nhận thức các sự vật, hiện tượng trong thực tế, và xem đó là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó, hoạt động thực tiễn là quá trình tìm ra mâu thuẫn, phân tích mâu tuẫn và tìm ra giải pháp để giải quyết mâu thuẫn. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển. - Quan điểm phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhìn thấy khuynh hướng biến đổi trong tương lai của chúng: cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẻ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Phải có thái độ lạc quan tin tưởng ở sự tất thắng của cái mới, cái tiến bộ. 14
  15. VẤN ĐỀ 5 CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó nói lên cách thức của sự phát triển. a. Khái niệm chất, lượng * Khái niệm “chất” Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó chứ không phải là cái khác. Chất là khái niệm triết học, là khái niệm rộng nhất, không đồng nhất với khái niệm chất của các ngành khoa học cụ thể. Chất xuất phát từ cấu trúc bên trong của sự vật và biểu hiện ra thông qua các thuộc tính của sự vật. Ví dụ: chất của nước do cấu trúc phân tử của nước là H2O, khác với cấu trúc phân tử của rượu là C2H5OH. Thuộc tính của nước và rượu khác nhau. * Mối quan hệ giữa chất và thuộc tính: - Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là những cái vốn có của sự vật đó: Ví dụ: Thuộc tính của Kim loại: Có ánh kim, dẫn điện, dẫn nhiệt, có khả năng dát mỏng, có khả năng kéo thành sợi. (Đây là thuộc tính chung của các loại kim loại). - Những tính chất (thuộc tính) của sự vật chỉ bộc lộ ra bên ngoài thông qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với sự vật khác. Ví dụ: Tính dẫn điện của kim loại chỉ bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong môi trường chênh lệch về điện áp. Tính dẫn điện của kim loại chỉ bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong môi trường có sự chênh lệch về nhiệt độ. - Do vậy, để nhận thức được thuộc tính của sự vật, chúng ta phải nhận thức mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác. Thuộc tính về chất là gì? Thuộc tính về chất là một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật, nó được bộc lộ ra trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác. - Chất là tổng hợp các thuộc tính, trong đó có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Chỉ có thuộc tính cơ bản mới phân biệt chất. Sự phân biệt thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản chỉ có tính tương đối. * Khái niệm “lượng” Lượng phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, biểu thị số lượng, quy mô, cường độ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của sự vật. Lượng có thể đo được bằng con số. Tuy nhiên, sự vật phức tạp thì thông số về lượng của nó cũng phức tạp; do đó để nhận thức được lượng của nó, phải sử dụng nhiều con số thống kê và phải thông qua sự phán đoán, đánh giá của tư duy. * Phân biệt chất và lượng - Sự vật sẽ không còn là nó khi chất thay đổi, ngược lại lượng có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định, sự vật chưa thành cái khác. Do đó, có thể thấy mức độ hữu cơ khác nhau trong sự gắn bó giữa chất và lượng với sự vật. Chất là cái tương đối ổn định, còn lượng là cái thường xuyên thay đổi. - Chất trước hết nói lên sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng, lượng là đặc trưng cho những mặt đồng nhất, giống nhau giữa các sự vật trong cùng một nhóm, một loại Chúng ta chỉ nhận thức được lượng của một nhóm, một loại khi tạm thời trừu tượng những sự khác biệt, chỉ giữ lại những cái giống nhau, đồng nhất giữa các sự vật trong nhóm đó. Ví dụ: Khi nói tới “5 người” ta không để ý tới trong đó có nam hay nữ, trẻ hay già các nhân tố của tập hợp “5 người” được xem là hoàn toàn đồng nhất. - Mỗi sự vật có nhiều chất do đó có nhiều lượng tương ứng. Hơn nữa, mỗi đặc trưng về chất có nhiều mức độ khác nhau về lượng. 15
  16.  Chúng ta cần chú ý rằng, sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có tính tương đối. b. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng * Lượng đổi chất đổi - Chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chất nào có lượng đó; lượng nào có chất đó. Khi sự vật còn tồn tại trong một chất xác định, nghĩa là sự vật còn tòn tại trong khuôn khổ của “độ”. - Độ là gì? Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. + Độ biểu hiện khuôn khổ ổn định tương đối của sự vật, độ của sự vật có thể thay đổi khi điều kiện thay đổi. + Trong khuôn khổ của độ, lượng biến đổi từ từ, tiện tiến, tăng dần hoặc giảm dần, khi lượng biến đổi đạt tới giới hạn, chất của sự vật sẽ thay đổi, giới hạn đó gọi là “điểm nút”. - Điểm nút là gì? Là giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. V Ý d ô : 0 0 C 1 0 0 0 C N ­ í c ® ¸ N ­ í c l á n g H ¬ i n ­ í c V « c ¬ H ÷ u c ¬ V ­ î n N g ­ ê i C § N T C H N L P K T B C N X H C N - Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới, sự chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới gọi là “bước nhảy”. - Bước nhảy là gì? Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra. Ví dụ: CH4 là chất khí. Cứ mỗi lần thêm một lượng CH2 thì ta có một chất khí mới. Nếu thêm mãi đến C16H34 thì ta được một chất rắn. Như vậy, quá trình phát triển bao gồm sự tiệm tiến về lượng và thông qua những bước nhảy vọt tạo ra sự chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới. Bước nhảy là giai đoạn kết thúc sự phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình phát triển liên tục của sự vật. Nói cách khác, danh giới giữa sự vật hiện tượng cũ và sự vật hiện tượng mới do chất quy định. Sự thay đổi của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Sự biến đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật có nhiều hình thức. Sau đây là ba hình thức cơ bản: + Sự tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng. + Sự dung hợp giữa các lực lượng cá biệt để tạo thành “hợp lực” mà về cơ bản “hợp lực” này khác về chất so với lực lượng cá biệt. + Sự thay đổi về tổ chức, về kết cấu, về quy mô (đặc biệt trong lĩnh vực xã hội). * Ảnh hưởng của chất mới đến lượng mới trong sự biến đổi - Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Khi chất mới ra đời nó sẽ tác động trở lại đối với sự biến đổi của lượng trong quá trình phát triển của sự vật. Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 3 hướng sau: + Ảnh hưởng đến quy mô biến đổi của lượng. + Ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của lượng + Ảnh hưởng đến tính chất biến đổi của lượng 16
  17. * Các hình thức của bước nhảy và các hình thức của bước nhảy Bước nhảy là một hình thức tất yếu của quá trình vận động và phát triển, nếu không có bước nhảy thì sẽ không có sự chuyển hoá chất cũ thành chất mới được. Các hình thức của bước nhảy diễn ra rất đa dạng phong phú tùy theo bản chất của sự vật và điều kiện tồn tại của sự vật: + Bước nhảy trong tự nhiên và bước nhảy diễn ra trong xã hội (tự phát đến tự giác) Bước nhảy đột biến và bước nhảy từ từ (Khác nhau về nhịp điệu) Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận (khác nhau về quy mô) Nội dung quy luật lượng chất Quy luật lượng chất là quy luật về tác động biện chứng giữa lượng và chất, từ những thay đổi về lượng dẫn tới những sự thay đổi về chất và ngược lại. Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt luôn biến đổi. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất mới được hình thành với lượng mới, lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến một giới hạn nhất định nó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hảm nó. Qúa trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt chất và lượng tạo nên con đường vận động liên tục, từ biến đổi dần dần tới nhảy vọt rồi lại biến đổi dần dần để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo, cứ thế làm cho sự vật không ngừng biến đổi và phát triển. c. Ý nghĩa phương pháp luận - Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi muốn thay đổi về chất thì phải không ngừng tích luỹ về lượng - Khi tích luỹ đủ về lượng phải thực hiện bước nhảy để chuyển sang chất mới. - Để chuyển sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất chúng ta phải linh hoạt trong việc thực hiện những bước nhảy. - Khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, phép biện chứng yêu cầu chúng ta trong quá trình nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cần tránh và chống 2 khuynh hướng sau đây: + Khuynh hướng “tả khuynh”: Không chú đến quá trình tích luỹ về lượng nhưng lại vội vàng, nôn nóng, chủ quan áp đặt những bước nhảy vọt khi chưa có đủ điều kiện (họ cho rằng sự phát triển chỉ toàn những bước nhảy vọt). + Khuynh hướng “hữu khuynh”: trần trừ, do dự không dám thực hiện những bước nhảy vọt khi đã có đủ những điều kiện cần thiết. 2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong, quá trình đấu tranh của các mặt đối lập hay là quá trình giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển. Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật duy vật. Nó nói lên nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng. a. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn * Khái niệm mâu thuẫn và mặt đối lập - Khái niệm mâu thuẫn: Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt của sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Quan điểm siêu hình thì ngược lại. Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là các mặt đối lập. - Khái niệm mặt đối lập: Mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau nhưng tồn tại gắn bó với nhau trong một thể thống nhất hợp thành mâu thuẫn. Ví dụ: Hưng phấn - ức chế; chân lý – sai lầm; điện tích âm - điện tích dương; 17
  18. * Tính chất chung của mâu thuẫn - Tính khách quan, phổ biến. - Tính đa dạng và phong phú. Phép biện chứng duy vật khẳng định, mâu thuẫn tồn tại khách quan phổ biến và đa dang, phong phú trong tự nhiên, xã hội và tư duy và không chịu sự chi phối của ý thức con người. Ví dụ: Trong tự nhiên, đó là mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm; giữa sức hút và sức đẩy; đồng hóa và dị hóa ; di truyền và biến dị; giống đực và giống cái; sống và chết. Trong xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột; giữa thiện và ác; giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa hòa bình và chiến tranh. Trong tư duy, đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; giữa biện chứng và siêu hình; vô thần và hữu thần; chân lý chân lý và sai lầm. b. Quá trình vận động của mâu thuẫn Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau - Khái niệm mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt có thuộc tính, khuynh hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau, nhưng tồn tại gắn bó với nhau trong một thể thống nhất hợp thành một mâu thuẫn. + Mặt đối lập có thể là bản thân những thuộc tính, khuynh hướng đối lập, cũng có thể là những yếu tố, bộ phận, sự vật trong đó chứa những thuộc tính, khuynh hướng đối lập. + Một mâu thuẫn bao gồm hai mặt đối lập có mối liên hệ với nhau. - Khái niệm thống nhất giữa các mặt đối lập: Thống nhất của các mặt đối lập là sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, quy định lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập. - Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập: Đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ, phủ định, chống đối nhau của các mặt đối lập. + Thống nhất của các mặt đối lập là tương đối. Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. + Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quá trình phát triển từ thấp đến cao.  Sự giải quyết mâu thuẫn không chỉ phụ thuộc vào bản chất và trình độ chín muồi của mâu thuẫn, mà còn phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể nhất định của sự tồn tại của nó. - Khái niệm chuyển hoá giữa các mặt đối lập: Chuyển hoá giữa các mặt đối lập không phải là sự thay đổi vị trí của các mặt đối lập một cách giản đơn. Chuyển hoá giữa các mặt đối lập ở đây là sự chuyển hoá về chất. * Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển - Đấu tranh giữa các mặt đối lập dẫn đến mâu thuẫn được giải quyết, khi mâu thuẫn được giải quyết sẽ làm cho sự vật không ngừng được đổi mới. Mâu thuẫn cơ bản của sự vật được giải quyết sẽ tạo ra bước nhảy của sự vật: sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. - Thông qua đấu tranh của các mặt đối lập, những gì lạc hậu, lỗi thời sẽ bị loại bỏ, cái mới, cái tiến bộ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Như vậy, mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn chính là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển. * Các loại mâu thuẫn - Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. - Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản - Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu - Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng Nội dung của quy luật mâu thuẫn 18
  19. Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới. c. Ý nghĩa phương pháp luận - Khẳng định tính khách quan của mâu thuẫn, PBCDV yêu cầu chúng ta muốn tìm hiểu mâu thuẫn thì phải tìm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng đó và muốn tìm bản chất của sự vật, hiện tượng thì phải phân đôi cái thống nhất và nhận thức từng bộ phận của nó. Muốn tìm bản chất của sự vật thì chúng ta phải xem xét các mặt đối lập bên trong bản thân mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. - Sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình sẽ có các mâu thuẫn khác nhau, do vậ, cần phải có những phương pháp cụ thể, phù hợp để giải quyết từng loại mâu thuẫn. - Cần phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn đó là phương pháp đâu tranh. - Cần phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn xã hội là phải đứng trên lập trường của giai cấp tiên tiến, phương pháp nhận thức là phương pháp duy vật biện chứng, chú ý đến mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. 19
  20. VẤN ĐỀ 6 LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG 1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn * Khái niệm thực tiễn - Các nhà duy vật trước C.Mác đã có công lao to lớn trong việc phát triển thế giới quan duy vật, và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm. Như C.Mác đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu, từ trước cho đến nay của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc) là không thấy được vai trò của thực tiễn” (t1, 252). + Phoi-ơ-bắc đã có đề cập đến thực tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là hoạt động vật chất cảm tính, có tính năng động của con người. Do đó, ông coi thường hoạt động thực tiễn, xem thực tiễn là cái gì đó có tính chất con buôn bẩn thỉu, ông không hiểu được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới. Phoi-ơ-bắc viết: “Con người có vừa đủ các giác quan cần thiết để có thể hiểu được toàn bộ thế giới một cách đại thể” hay như “chúng ta đọc cuốn sách của giới tự nhiên bằng giác quan nhưng chúng ta không dùng giác quan để hiểu nó được”. + Khi đề cập đến “ý niệm thực tiễn”, Hêghen đã có tư tưởng hợp lý, sâu sắc: bằng thực tiễn, chủ thể của tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Song, do quan niệm duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng, đối với ông thực tiễn là một “suy lý lôgíc”. - Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn C.Mác và Ph.Ăngghen đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luân của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. V.I.Lênin đã nhận xét, “quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Vậy thực tiễn là gì? Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân con người. * Các hình thức cơ bản của thực tiễn Nói đến thực tiễn, trước hết ta phải nói đến hoạt động vật chất (khách quan tồn tại), hoạt động thực tiễn có nhiều hình thức khác nhau, trong đó phải kể đến ba hình thức cơ bản sau đây: - Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn, có vai trò quyết định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn. - Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội: Đây là hình thức cao nhất của hoạt động thực tiễn. - Quan sát và thực nghiệm khoa học: Nó được xem là khâu tring gian giữa người nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào trong thực tế. Đây là khâu quan trọng nhất trong các khâu của hoạt động thực tiễn khoa học. * Hoạt động mang thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội: - Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử nó khác nhau về tính chất, khác nhau về hình thức biểu hiện, nó khác nhau về nội dung. - Thực tiễn là một hoạt động mang tính xã hội, nhưng không phải hoạt động cá nhân nào cũng mang tính thực tiễn. - Hoạt động thực tiễn bao giờ cũng mang tính cách mạng, đó là hoạt động cải tạo thế giới và cải tạo chính bản thân con người. Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế giới. 20
  21. b. Nhận thức, các giai đoạn và các cấp độ của nhận thức * Khái niệm nhận thức * Định nghĩa nhận thức: Nhận thức là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não người. Đó là sự phản ánh năng động, sáng tạo, dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong mối quan hệ với khách thể. * Bản chất của nhận thức - Thừa nhận đối tượng nhận thức là thế giới khách quan, tồn tại độc lập với ý thức con người. - Khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan. - Nhận thức là một quá trình biện chứng, từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều. - Thực tiễn là cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất hình thành nên quá trình nhận thức. * Các giai đoạn của quá trình nhận thức: Quá trình nhận thức của con người và loài người nói chung trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức thức lý tính. Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động, hiện thực khách quan vào các giác quan của con người. Nhận thức cảm tính bao gồm các hình thức là: cảm giác, tri giác và biểu tượng. - Cảm giác là gì? Cảm giác là hình thức đầu tiên của phản ánh hiện thực khách quan. Sự vật, hiện tượng tác động vào giác quan gây nên sự kích thích của tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác. Cảm giác là sự phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan của con người. - Tri giác là gì? Tri giác là sự phản ánh nhiều thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ giữa chúng với nhau. Tri giác được hình thành từ nhiều cảm giác kết hợp lại. Tri giác là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng thông qua giác quan của con người. - Biểu tượng là gì? Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu tượng là hình ảnh được lưu giữ trong chủ thể khi không còn sự vật, hiện tượng hiện diện trực tiếp trước chủ thể. Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng), đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình nhận thức, đây là giai đoạn phản ánh trình độ cao, nó không dừng lại ở cái bề ngoài, cái hiện tượng mà nó là sự phản ánh bên trong, mối liên hệ bản chất. Chính vì vậy mà nó phản ánh, vạch ra được quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính gồm ba giai đoạn cơ bản sau: Khái niệm, phán đoán và suy lý: - Khái niệm là gì? Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy phản ánh một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống về bản chất, quy luật của đối tượng và thường được biểu đạt bằng ngôn ngữ dưới dạng những thuật ngữ. - Phán đoán là gì? Là sự liên hệ giữa các khái niệm theo một quy tắc xác định mà chúng ta có thể xác định được trị số lôgíc của nó. - Suy lý là gì? Là một thao tác của tư duy để đi đến những tri thức mới từ những tri thức đã có. * Các cấp độ nhận thức: - Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội, hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. - Nhận thức lý luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau. + Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể; bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm chỉ dừng lại ở cấp độ mô tả, phân loại các sự kiện Do đó, nó chỉ mang lại những hiểu biết rời rạc, riêng lẻ, chưa phản ánh được cái bản chất, mối liên hệ của sự vật, hiện tượng. 21
  22. + Nhận thức lý luận không hình thành một các tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính đối lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống con người. Thông quan đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, cái phổ biến. - Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. - Nhận thức khoa học: là nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Nhận thức trừu tượng vừa có tính khách quan, vừa có tính trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: + Nhận thức thông thường là chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, cái không bản chất của đối tượng. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải có quá trình tổng kết, trừu tượng hoá, khái quát hoá đúng đắn của các nhà khoa học. + Khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó sẽ tác động trở lại đối với nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới. c. Vai trò của thực tiễn với nhận thức * Thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức - Loài vật cũng phản ánh thế giới khách quan, nhưng thông qua các giác quan, cho nên chỉ phản ánh được cái bề ngoài và thụ động. Con người cũng phản ánh thế giới khách qanh, nhưng thông qua lao động, tức là tác động vào thế giới khách quan, để nhận thức được cái bản chất của thế giới khách quan. Cho nên, thực tiễn giữ vai trò quyết định nhất để khẳng định rằng, chỉ có con người mới có khả năng nhận thức. - Đối tượng của nhận thức là thế giới khách quan, nhưng nó không tự bộc lộ các thuộc tính, nó chỉ bộc lộ khi con người tác động vào - hoạt động thực tiễn. Cho nên, thực tiễn là cơ sở trực tiếp nhất hình thành nên quá trình nhận thức. Ví dụ: Khoa học nói riêng và tri thức của con người nói chung nó bắt nguồn từ thực tiễn, thông qua quá trình sản xuất. Nhưng đến lượt nó những tri thức khoa học đó lại trở lại phục vụ cho thực tiễn, phục vụ sản xuất, phục vụ đấu tranh của xã hội. - Chúng ta nói thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức là vì, thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, những nhiệm vụ mới cho quá trình nhận thức. Thực tiễn cũng luôn luôn vận động, luôn biến đổi, do vậy, mỗi bước tiến, thay đổi của thực tiễn nó lại đặt ra cho nhận thức những vấn đề phải giải quyết. * Thực tiễn là mục đích của quá trình nhận thức Nhận thức đầy đủ hiện thực khách quan là để áp dụng vào hiện thực, cải tạo hiện thực. Sự áp dụng đó không còn cách nào khác là phải thông qua thực tiễn, đó là sự vật chất hoá những quy luật, tính tất yếu đã nhận thức được. Điều đó không chỉ là mục đích của con người, mà còn là mục đích nói chung của các ngành khoa học. Các quy luật, định luật của khoa học khái quát được nhờ hoạt động thực tiễn, mà còn là vì thực tiễn nó mới tồn tại. * Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính chân lý - Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở, động lực của nhận thức, hình thành nên quá trình nhận thức, cho nên việc kiểm tra tính đúng đắn của tri thức là phải dựa vào thực tiễn, chứ không phải theo lối lập luận chủ quan. Như C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn”. 22
  23. - Chính thông qua thực tiễn mà con người chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Như V.I.Lênin đã nói: “Chân lý không phải ở điểm bắt đầu mà là ở sự kết thúc, hay nói đúng hơn là ở sự tiếp tục”. Ví dụ: Thuyết tương đối hẹp của A.Anhxtanh chỉ được công nhận khi các thực nghiệm vật lý phát hiện ra sự phân rã hạt nhân tạo nên tia α và β. Lưu ý: Chúng ta nói rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý nhưng đây không phải là tiêu chuẩn duy nhất, điều này cho thấy chân lý còn có nhiều tiêu chuẩn khác nữa. 23
  24. VẤN ĐỀ 7 VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 1. Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất a. Khái niệm sản xuất vật chất và phương thức sản xuất * Khái niệm sản xuất vật chất - Sản xuất xã hội là gì? Sản xuất bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất ra tinh thần và sản xuất ra con người. Ba quá trình này không tách rời nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của tồn tại và phát triển xã hội, xét đến cùng nó quyết định toàn bộ tồn tại xã hội. - Sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động (tác động trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên, tạo ra của cải xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển, nhu cầu phong phú và vô tận của con người. * Khái niệm phương thức sản xuất Phương thức sản xuất, cách thức con người tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng trong một giai đoạn lịch sử nhất định Lực lượng SX Phương thức SX Quan hệ SX b. Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội - Tạo ra các tư liệu sinh hoạt thoả mãn các nhu cầu của con người. - Tạo ra các mặt của đời sống xã hội, tạo ra các quan hệ xã hội về Nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật. - Làm biến đổi tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người. - Sự phát triển của sản xuất quyết định sự phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định xã hội từ thấp đến cao. 2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất * Lực lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. (Là khái niệm để chỉ những phương thức kết hợp giữa người lao động với TLSX trong sản xuất vật chất) Với ý nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nói cách khác, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, bao gồm: 24
  25. Kỹ năng, kỹ xảo, thói quen Người LĐ Tri thức, kinh nghiệm Lực lượng SX Tự nhiên Đối tượng LĐ Nhân tạo Tư liệu SX Công cụ LĐ Tư liệu LĐ Tư liệu LĐ khác - Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quyết định, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”. - Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao động là yếu tố cơ bản đóng vai trò quyết định. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá”, nó có tác dụng “nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ” của con người trong quá trình lao động sản xuất. - Ngày nay, khoa học – công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học – công nghệ được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự xâm nhập ngày càng sâu của khoa học – công nghệ vào quá trình sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt. * Quan hệ sản xuất và ba mặt của quan hệ sản xuất Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có mối quan hệ cới tự nhiên mà con có mối quan hệ với nhau. Khái quát mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, triết học Mác-Lênin gọi đó là quan hệ sản xuất. Vậy, quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Đây không phải là quan hệ tình cảm, quan hệ tinh thần, mà đây là những quan hệ được hình thành một cách khách quan (quan hệ vật chất). Đây là quan hệ cơ bản nhất, nó quy định các quan hệ xã hội khác. - Quan hệ sản xuất bao gồm: Quan hệ về chiếm hữu TLSX Quan hệ SX Quan hệ về quản lý và phân công lao động Quan hệ về phân phối sản phẩm + Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. 25
  26. Có hai hình thức chiếm hữu cơ bản: Chiếm hữu xã hội (công hữu) Chiếm hữu tư nhân (tư hữu) + Quan hệ giữa người với người trong việc quản lý và phân công lao động. + Quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm. Trong lịch sử đã có những hình thức phân phối như: phân phối bình quân, phân phối theo tư liệu sản xuất, phân phối theo lao động, v.v - Các mặt hợp thành quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm được tư liệu sản xuất trong tay người đó sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm lao động. b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất * Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại khồn tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất. * Trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất - Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng của khoa hhọc vào quá trình sản xuất. Như vậy, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như thế nào nó sẽ phản ánh tính chất của lực lượng sảm xuất như thế ấy. - Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và sức lao động. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất ngày càng có tính chất xã hội hoá. * Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất - Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Do đó, trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. - Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Bởi vì, trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc, và đạt được năng xuất, hiệu quả cao hơn, con người luôn tìm cách không ngừng nâng cao trình độ của mình, cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới ngày càng tinh xảo hơn, vì thế, làm cho lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và phát triển. - Cùng với sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mới hình thành, biến đổi và phát triển theo: + Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và theo kịp, phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. + Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi nhưng nó không theo kịp, không phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hảm lực lượng sản xuất phát triển. Khi mâu thuẫn này đạt đến độ chín muồi thì quan hệ sản xuất cũ sẽ bị xoá bỏ và thay thế vào đó là một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay thế vào đó là một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn, cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương thức sản xuất cũ, lỗi thời và thay thế vào đó là một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Như vậy, lực lượng sản xuất là nguyên nhân, là nội dung sinh động đòi hỏi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển cho phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lượng sản xuất. * Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất 26
  27. Mặc dù quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất quy định, nhưng nó cũng có vai trò nhất định trong sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. - Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển; do đó, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Tác động đó diễn ra theo hai hướng: - Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. - Kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. C.Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội” (Tuyển tập.tII, 638-639). Tác dụng kìm hãm của lực lượng sản xuất không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu so với trình độ lực lượng sản xuất, mà cả trong trường hợp có những yếu tố của quan hệ sản xuất vượt trước trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Sở dĩ quan hệ sản xuất đóng vai trò tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất là vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối sản phẩm. Từ đó nó hình thành nên một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hảm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển chẳng những do yếu tố nội tại của nó, mà còn do sự tác động của quan hệ sản xuất. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động đến toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất khác nhau từ thấp đến cao. * Ý nghĩa phương pháp luận - Sự biến đổi, thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội có nguồn gốc trực tiếp từ mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, đây chính là cơ sở duy vật lịch sử để chúng ta nghiên cứu về sự vận động và biến đổi của các phương thức sản xuất. - Phát triển lực lượng sản xuất: công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng lực lượng sản xuất tiên tiến. Coi trọng yếu tố con người trong lực lượng sản xuất. - Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản xuất ở nước ta. - Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Nâng cao sự quản lý của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế; đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 27
  28. VẤN ĐỀ 8 BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng a. Khái niệm cơ sở hạ tầng * Khái niệm cơ sở hạ tầng Quan điểm duy tâm, siêu hình coi xã hội là con số cộng đơn giản giữa người với người, giữa người với vật; trái lại, triết học mácxít coi xã hội là tổng hợp những quan hệ giữa người với người, trong đó quan hệ kinh tế là nền tảng của xã hội và là cơ sở của tất cả các quan hệ xã hội khác. - Cơ sở hạ tầng là gì? Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. C.Mác đã viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy, hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”. * Kết cấu của cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng bao gồm nhiều kiểu quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất thống trị Cơ sở hạ tầng Quan hệ sản xuất tàn dư Quan hệ sản xuất mầm mống Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò quyết định. b. Khái niệm kiến trúc thượng tầng * Khái niệm kiến trúc thượng tầng Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v cùng với các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội hình thành trên một cơ sở xã hội nhất định. * Các yếu tố cơ bản hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội Những tư tưởng xã hội về chính trị, pháp quyền, triết học, khoa học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo Kiến trúc thượng tầng Những thiết chế tương ứng với những tư tưởng đó (nhà nước, các tổ chức chính trị, văn hóa, các tổ chức tôn giáo, v.v ) * Nhà nước – bộ máy tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội có đối kháng giai cấp Bộ phận có quyền lực đặc biệt nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp là Nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị xã hội về chính trị, pháp lý. Chính nhờ có Nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị được về mặt kinh tế và nắm giữ quyền lực nhà nước thì hệ tư tưởng cùng với những thiết chế xã hội của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị, nó quy định và tác 28
  29. động trực tiếp đến xu hướng phát triển của toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng của xã hội. 2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng - Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng nào thì nảy sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. - Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm vị trí thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về đời sống chính trị. - Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng nó sẽ quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng. - Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội. - Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp quyền nhưng cũng có những yếu tố thay đổi chậm hơn rất nhiều so với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng như tôn giáo, nghệ thuật, hoặc có những yếu tố tiếp tục tồn tại dai dẳng ngay cả khi cơ sở kinh tế nảy sinh ra nó không còn tồn tại và có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. b. Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng - Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động và phát triển của cơ sở hạ tầng. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể đứng vững được trong quan hệ thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng. - Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp thì nhà nước là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất đối với cơ sở hạ tầng, vì đó là bộ máy bạo lực, tập trung quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, nghệ thuật cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng những cách khác nhau. Thường những tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp quyền thì mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội. - Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai hướng: + Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. + Còn ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Nhưng sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với yêu cầu của cơ sở hạ tầng. - Trong bản thân kiến trúc thượng tầng cũng diễn ra quá trình biến đổi, phát triển có tính chất tương đối. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sơ hạ tầng càng có hiệu quả. 29
  30. VẤN ĐỀ 9 VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC 1. Con người và bản chất của con người trong triết học ngoài mácxít a. Quan niệm về con người trong Triết học Phương đông - Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần). Cuộc sống vĩnh cửu là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được giải thoát để trở thành bất diệt. - Khổng Tử (551 – 479 tr.CN): Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức “nhân” là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là con người quân tử. Khổng Tử chia con người trong xã hội thành “quân tử” và “tiểu nhân”. - Mạnh Tử (372 – 289 tr.CN): khẳng định, bản chất của con người là thiện còn trong xã hội có người làm điều ác thì đó là do dục vọng nhất thời mà thôi, chứ nhất quyết không phải là bản chất của con người. Bản tính thiện nó được biểu hiện ở “tứ đức” – “nhân – nghĩa - lễ - trí – tín”. - Tuân Tử (315 – 230 trCN): Ông cho rằng, bản chất của con người khi sinh ra là ác, nhưng có thể cải biến được, phải chống lại cái ác, con người mới tốt được. Tính ác của con người chính là do việc thoả mãn sinh lý, dục vọng là bản tính tự nhiên của con người, và hành động tuân theo nó tất yếu sinh ra tranh giành cướp bóc lãn nhau: do đó tính ác là do tính thiện làm ra. - Đổng Trọng Thư (179 – 104 trCN): Là người kế thừa Nho giáo theo xu hướng duy tâm cực đoan. Ông quan niệm Trời và Người có thể thông hiểu lẫn nhau (Thiên nhân cảm ứng). Cuộc đời con người bị quyết định bởi “thiên mệnh”. - Lão Tử: Con người được sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải sống “vô vi” theo lẽ tự nhiên, không trái với tự nhiên. Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức Nhìn chung con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. b. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước C.Mác. - Ky tô giáo: Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn. Thể xác thì mất đi nhưng linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc linh hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh của. - Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la. - Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế. Cuộc sống trần thế là tạm bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia. - Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ. - Triết học cổ điển Đức: G.V.Hêghen cho rằng, là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, còn L.Phoiơbắc lại cho rằng, con người là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời. Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước Mác, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đền không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là tuyệt đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người. 2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất con người. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác chỉ ra hạn chế của Phoiơbắc trong việc xem xét con người như là một cơ thể sinh vật có ý thức và tình cảm, như tình yêu, tình bạn, không thấy mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con người. C.Mác vạch rõ: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” (Toàn tập, tập 3, tr.11). a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hộ - Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người. - Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời sống tinh thần của con người. 30
  31. Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau: - Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể - Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức. - Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người. Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người. b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. - Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. - Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác-Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết học Mác-Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội. c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử - Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. - Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội. - Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người. 31