Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội (Phần 2)

pdf 43 trang phuongnguyen 4350
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfche_do_dan_chu_nha_nuoc_va_xa_hoi_phan_2.pdf

Nội dung text: Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội (Phần 2)

  1. Chương 4: Nhà nước và chính quyền 1. Hệ thống chính trị và nhà nước. Các hình thức quản lí nhà nước và chế độ chính trị Chính trị là lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người. Nhà chính trị phải làm việc với quần chúng, với các tổ chức quần chúng lớn nhỏ khác nhau về tính chất và quyền lợi. Hoạt động chính trị đòi hỏi một số công cụ và thể chế nhất định. Những công cụ như thế đã được xây dựng trong quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại: đấy là hệ thống chính trị và nhà nước. Vậy hệ thống chính trị là gì? Hệ thống chính trị là các tổ chức xã hội, tổ chức chính trị, cơ quan nhà nước nhằm thực thi quyền lực trong xã hội. Đặc trưng chủ yếu của hệ thống chính trị là: thứ nhất, đảm bảo cho các công dân được tham gia (hay không được tham gia) vào việc quản lí các công việc, nghĩa là hoạt động chính trị của các công dân, của các tổ chức, quyền và quyền tự do công dân được thực hiện trong khuôn khổ của hệ thống chính trị; thứ hai, hệ thống chính trị cho phép (hoặc không cho) thực hiện quyền và quyền tự do của công dân. Hệ thống chính trị bao gồm: các quan hệ chính trị, các tổ chức chính trị, các tiêu chuẩn chính trị, các quan điểm và truyền thống chính trị. Thành tố quan trọng nhất của hệ thống chính trị là nhà nước. Nhà nước là thiết chế chủ yếu của hệ thống chính trị, thực hiện việc quản lí, bảo vệ và bảo trợ các cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội. Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm qua đã hình thành nhiều quan điểm về nhà nước, từ ca ngợi cho đến phủ nhận hoàn toàn. Chúng ta sẽ xem xét một vài quan điểm như thế. Triết gia Hi Lạp cổ đại, Democritus (460-370 trước công nguyên) cho rằng nhà nước có trách nhiệm bảo vệ sự công bằng và lợi ích chung: “ Một nhà nước được cai trị tốt là một thành lũy vĩ đại: trong đó có tất cả, khi nó còn thì tất cả đều còn, khi nó chết thì tất cả sẽ đều chết theo”. Cicero, diễn giả và nhà tư tưởng La Mã cổ đại (106-43 trước công nguyên) lại coi nhà nước là “tài sản của nhân dân, còn nhân dân thì không phải là một nhóm người tập hợp lại với nhau một cách vô tình mà sự gắn bó của nhiều người liên kết với nhau bằng sự đồng thuận trong các vấn đề quyền và cộng đồng quyền lợi. Niccolo Machiavelli (1469-1527), nhà tư tưởng, nhà sử học và nhà hoạt động xã hội thời Phục hưng thì nhấn mạnh rằng “tất cả các nhà nước, các quốc gia đã và đang có quyền lực đối với dân chúng về thực chất đều hoặc là nước cộng hòa hoặc là nhà nước độc tài”. Những người vô chính phủ lại phủ nhận nhà nước bởi vì nó đàn áp con người. Tại sao lại có sự khác biệt lớn đến như thế? Theo chúng tôi thì điều đó liên quan đến hai phương diện sau đây: thứ nhất, chính sách của nhà nước; thứ hai, hình thức nhà nước trong quốc gia đó. Ở đây trước hết ta cần nhận thức rõ các chức năng chủ yếu của nhà nước. Theo chúng tôi không ai có thể trả lời câu hỏi này rõ ràng hơn là Adam Smith cách đây hai trăm năm: “Chiếu theo các quyền tự do mà tạo hóa đã ban cho con người, nhà nước chỉ nên thực hiện ba chức năng, đấy là ba chức năng cực kì quan trọng, nhưng rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi lí trí thông thường: thứ nhất, bảo vệ xã hội khỏi sự áp chế và can thiệp của các xã hội khác; thứ hai, hết sức bảo vệ mọi thành viên của xã hội khỏi sự áp bức và bất công của các thành viên khác của xã hội hay là trách nhiệm thiết lập một nền tư pháp nghiêm minh và công bằng; và thứ ba, tạo lập và duy trì một số thiết chế xã hội, việc tạo lập và duy trì các thiết chế này không phải vì quyền lợi của của các cá nhân hay các nhóm cá nhân riêng biệt các nhóm nhỏ nào đó vì lợi nhuận của nó không thể bù đắp được chi phí của các nhân hay các nhóm đó nhưng đối với
  2. cả xã hội thì lại hoàn toàn có thể được”. Nói một cách khác, hai chức năng đầu của nhà nước là: bảo vệ các thành viên của xã hội khỏi sự cưỡng bức từ chính những đồng bào của họ hoặc cưỡng bức từ bên ngoài. Chức năng thứ ba của nhà nước, cũng là trách nhiệm của mọi chính phủ là thực thi các biện pháp nhằm bảo vệ và củng cố xã hội tự do (tạo ra các cơ chế nhằm thực thi quyền công dân) Để thực hiện các chức năng nêu trên, nhà nước cần có: các cơ quan quyền lực, các cơ quan quản lí, các cơ quan chuyên chính, tòa án. Đặc trưng của nhà nước là chủ quyền, nghĩa là nhà nước có quyền đại diện cho toàn thể xã hội; có quyền ban hành luật pháp và các văn bản pháp qui có tính chất cưỡng bách đối với tất cả các thành viên của xã hội. Chính quyền nhà nước có bộ máy quản lí chuyên nghiệp cũng như bộ máy chuyên chính như là quân đội và cảnh sát. Bây giờ ta sẽ chuyển sang xem xét việc phân loại các hình thức quản lí nhà nước. Cách phân loại đơn giản nhất là theo số lượng người cầm quyền. Nếu đất nước chỉ do một người cai trị và quyền lực được chuyển giao theo lối cha truyền con nối thì nhà nước đó có thể được gọi là nhà nước quân chủ. Nếu đất nước do một nhóm người cai trị thì được gọi là chế độ quí tộc. Và cuối cùng là chế độ dân chủ tức chính quyền của nhân dân. Hình thức nào cũng có thể tốt nếu nó nhắm đến lợi ích chung. Điều được thể hiện trong luật pháp, trong việc tuân theo truyền thống, tín ngưỡng của dân chúng nước sở tại. Thí dụ khi ta nói rằng đất nước do một nhà độc tài cai trị thì trong đầu ta không xuất hiện hình ảnh một đức vua anh minh (dù cả hai trường hợp đều do một người cai trị). Chúng ta có thái độ tốt hơn với chế độ quân chủ vì quân chủ củng cố quyền lực của một người bằng con đường chính đáng. Sự khác nhau ở đây là người cầm quyền giành được quyền cai trị bằng các thủ tục được dân chúng công nhận hay chiếm đoạt được quyền hành bằng vũ lực hay sự lừa dối. Thí dụ năm 1613, M. F. Romanov được Hội đồng tự quản bầu làm vua nước Nga. Đấy chính là khởi đầu của đế chế Romanov, cầm quyền ở Nga cho đến Cách mạng tháng Mười năm 1917. Chúng ta coi việc cai trị của hoàng đế hay nhà vua là hợp hiến mặc dù hiến pháp, theo cách hiểu của chúng ta hiện nay, có thể chưa tồn tại, còn việc cai trị của một kẻ độc tài hay độc tài quân sự là bất hợp hiến và phi pháp. Cũng phải nói thêm rằng chế độ có thể còn là chế độ quân chủ hạn chế vì bị hạn chế bởi các thủ tục chuyển giao quyền lực và hạn chế do luật pháp hoặc hiến pháp nữa. Cần phải phân biệt chế độ quân chủ lập hiến và chế độ quân chủ đại nghị. Hai hình thức cai trị này có một số khác biệt quan trọng vì có hai chủ thể nắm quyền khác nhau, đấy là nhà vua (hoàng đế) hay quốc hội, cho nên cách sọan thảo hiến pháp cũng khác nhau. Hiến pháp là gì? Hiến pháp (Bộ luật chủ yếu) thường được coi là bộ luật quan trọng nhất, xác định cơ cấu quyền lực, quyền của chính phủ, các bảo đảm về quyền con người. Các luật này thường được tập hợp vào một văn kiện và được gọi là Luật cơ bản ; nhưng, thí dụ như tại nước Anh, thì đây lại là tập hợp những bộ luật do quốc hội ban hành, các án lệ, các thỏa ước và tập tục hình thành trong hàng trăm năm qua. Từ bản Hiến pháp bất thành văn như thế, nước Anh là nước quân chủ đại nghị: người đứng đầu nhà nước hiện là nữ hoàng và ngôi vua được truyền cho những người kế vị trong hoàng tộc. Thí dụ điển hình về chế độ quân chủ vô giới hạn (còn gọi là quân chủ chuyên chế) là nước Nga trước cách mạng (trước năm 1905). Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục thảo luận về các hình thức quản lí nhà nước. Ba hình thức quản lí nhà nước nói đến bên trên, nếu không bị pháp luật kiềm chế, nếu chỉ để mưu cầu lợi ích cá nhân thì có thể sẽ thoái hóa từ hợp hiến thành bất hợp hiến. Cũng có thể xảy ra quá trình ngược lại.
  3. Các hình thức quản lí nhà nước Hình thức hợp hiến Hình thức bất hợp hiến Quân chủ Bạo quyền Quí tộc Tập đoàn thống trị (hoạt đầu / quả đầu / đầu sỏ) Dân chủ Đám đông (quyền lực của đám đông) Một trong những phương pháp phân biệt các hình thức nhà nước là câu hỏi: chính phủ có hợp pháp hay không? Nếu chính phủ là hợp pháp và được đa số dân chúng công nhận thì đấy là chính phủ chính thống, nghĩa là được toàn dân coi là hợp pháp. Cũng cần phải nói rằng cùng với thời gian, hiến pháp của phần lớn các nước dân chủ đều được sửa đổi, hoặc được đưa thêm vào những điều khoản gọi là tu chính. Thí dụ Hiến pháp Hoa Kì gồm 7 điều khoản quan trọng nhất được thông qua ngày 17 tháng 9 năm 1787 và 26 tu chính (10 tu chính đầu tiên gọi Bill of Rights được thông qua năm 1791, tu chính cuối cùng được thông qua năm 1971). Hiến pháp các nước khác cũng có những thay đổi tương tự. Nhưng quá trình thay đổi thì khác nhau. Quá trình thay đổi ở Mĩ là phức tạp nhất, qua nhiều giai đoạn và phải được đa số thông qua. Tại đa số các quốc gia khác chỉ cần cơ quan lập pháp đưa ra tu chính và cử tri sẽ thông qua vào lần bầu cử tiếp theo. Xin nhấn mạnh rằng tất cả các tu chính Hiến pháp cần phải loại trừ, theo ý kiến của K. Popper, “một kiểu thay đổi duy nhất đấy là thay đổi đe dọa bản chất dân chủ của nó”. Các hình thức quản lí nhà nước nêu trong bảng trên chỉ có tính chất tiêu biểu. Trên thực tế có thể có những hình thức khác nữa. Trong lịch sử nhân loại đã từng có những hình thức chính phủ không nằm trong các tiêu chuẩn kể trên. Cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ, phức tạp hơn mọi lí thuyết, mọi sơ đồ. Nhiều nhà khoa học có lí khi cho rằng sự hỗn hợp, ít nhất là giữa hai hình thức chính là cách quản lí phù hợp nhất. Họ khẳng định như vậy vì mỗi hình thức quản lí, kể cả hợp hiến, cũng đều có những ưu, khuyết điểm nhất định. Ngoài hình thức quản lí nhà nước ta còn cần phải phân biệt chế độ chính trị: vô chính phủ, độc tài và toàn trị. Có thể coi P. G. Proudhon và M. A. Bakunin là cha đẻ của phong trào vô chính phủ vì họ phủ nhận mọi hình thức chính phủ. M. A. Bakunin nhiều lần nhấn mạnh rằng “có nhà nước là có áp bức, nghĩa là có chế độ nô lệ; không thể có áp bức mà không có nô lệ, dù công khai hay che đậy, đấy là lí do vì sao chúng tôi là kẻ thù của nhà nước”. Vô chính phủ (anarchism, là một từ gốc Hi Lạp) là một phong trào chính trị-xã hội phủ nhận vai trò của nhà nước và mọi quyền lực chính trị nói chung, họ tuyên truyền cho một sự tư do cá nhân vô bờ bến và không công nhận một trật tự chung trong quan hệ giữa người với người. Theo chúng tôi, thực chất của vô chính phủ là quyền lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Toàn trị (totalis, tiếng Latin nghĩa là toàn bộ) là hiện tượng của thế kỉ XX. Các đồ đệ của tư tưởng toàn trị luôn luôn cho rằng nhà nước là công cụ chủ yếu để thực thi lí thuyết của họ. Nhà nước trên thực tế đã bị thần thánh hóa. Mussolini từng tuyên bố: “Tất cả vì nhà nước, không có gì được nằm ngoài nhà nước, không có gì được chống lại nhà nước”.
  4. Cách tiếp cận như thế nguy hiểm ở chỗ nào? Nó nguy hiểm trước hết là ở chỗ nhà nước toàn trị hoàn toàn không coi con người như một cá nhân, nó biến con người thành công cụ cho những mục đích của mình. Chế độ độc tài là hệ thống có nền đa nguyên hạn chế. Thường thì nó không có một hệ tư tưởng bao trùm lên tất cả (khác với toàn trị), cũng không dựa vào quần chúng (khác với dân chủ). Các chế độ độc tài là kết quả của các cuộc khủng hoảng và sụp đổ của các chính quyền dân chủ (các cuộc đảo chính quân sự tại Mĩ Latin), sự mất ổn định sau khi giành được độc lập và lật đổ chế độ thực dân (tại một loạt nước thuộc châu Á và châu Phi), các cuộc xung đột trong các xã hội đa sắc tộc (Nam Phi trước khi có tuyển cử tự do), sự lung lay của chế độ toàn trị (thí dụ Liên Xô sau khi Stalin chết hồi năm 1953). Nói đến các hình thức quản lí nhà nước chủ yếu cũng phải nhấn mạnh rằng cơ cấu nhà nước phải tính đến các truyền thống dân tộc. “Đức chúa trời nói rằng: hãy dừng lại trên đường đi, hãy nhìn cho kĩ và hỏi cho rõ những con đường xưa, đường nào tốt thì đi theo”, Kinh thánh đã viết như thế. Nếu phân tích một cách kĩ lưỡng các hình thức quản lí nhà nước thì ta phải nhận rằng dân chủ là hình thức tốt nhất từ trước đến nay. Có thể coi dân chủ là hình thức quản lí hợp đạo lí nhất vì nhà nước trong chế độ dân chủ là nhà nước vì dân và là nhà nước đảm bảo các quyền tự do cho các công dân của mình. Chế độ dân chủ là chế độ không cho phép tập trung quyền lực vào tay một người hoặc một nhóm người. Tổng thống thứ tư của Hoa Kì, cũng là một trong những tác giả của Hiến pháp Mĩ, ông James Madison, từng nói: “Hoàn toàn có lí khi nói rằng tập trung toàn bộ quyền lực, lập pháp, hành pháp và tư pháp vào tay một người là chế độ chuyên chế”. Nhưng phân quyền lại đòi hỏi, một mặt, sự phân định rõ ràng trách nhiệm và có các biện pháp hữu hiệu nhằm chống lại sự lạm dụng quyền lực; mặt khác, sự tham gia và ở mức độ nào đó cộng đồng trách nhiệm của tất cả mọi người đối với chính sách của quốc gia. 2. Các chế độ dân chủ thường gặp Các nhà nước dân chủ thường theo hai hình thức: đại nghị và tổng thống, khác nhau ở cách bầu chọn những người đại diện và lãnh đạo. Trong chế độ đại nghị, chính phủ (đứng đầu là thủ tướng) do đảng hay liên hiệp các đảng nắm đa số trong quốc hội lựa chọn. Trong chế độ tổng thống, người dân trực tiếp bầu tổng thống, không phụ thuộc vào quốc hội. Dân chủ đại nghị và dân chủ tổng thống còn khác nhau ở quan hệ giữa lập pháp và hành pháp. Trong chế độ đại nghị, quốc hội giữ thế thượng phong, còn trong chế độ tổng thống thì tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu chính phủ. Tổng thống và đại biểu quốc hội (lập pháp) đều do dân bầu. Trong chế độ đại nghị, các đảng chính trị đóng vai trò rất quan trọng mặc dù các nghị sĩ là những người đại diện cho toàn dân chứ không phải cho một đảng phái hay một nhóm người nào. Không nghi ngờ gì rằng các đảng phái chính trị có ảnh hưởng lớn hơn trong giai đoạn bầu cử vì sau đó họ thường liên kết thành các nhóm đa số và nhóm đối lập. Trong chế độ tổng thống, các đảng phái chính trị có ảnh hưởng ít hơn đối với hoạt động của các cơ quan lập pháp. Chỉ có trong trường hợp, thí dụ như ở Mĩ, khi cả tổng thống và thượng viện đều là
  5. người của một đảng thì tổng thống sẽ dễ dàng hơn trong việc thông qua dự luật tại thượng viện. Sự khác nhau chủ yếu giữa chế độ đại nghị và tổng thống là mối quan hệ giữa nhánh lập pháp và hành pháp. Trong chế độ đại nghị, hai nhánh này gần như là một vì thủ tướng và các thành viên chính phủ đều là nghị sĩ. Thời gian cầm quyền của chính phủ thường được giới hạn trong khoảng 4 đến 5 năm, trừ khi [phe ủng hộ] thủ tướng bị mất đa số tại quốc hội. Trong trường hợp như thế người ta sẽ tiến hành tổng tuyển cử và thành lập chính phủ mới. Trong chế độ tổng thống thì tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu chính phủ. Tổng thống cũng như các thượng nghị sĩ đều do nhân dân trực tiếp bầu. Theo mô hình phân quyền thì thành viên chính phủ thường không phải là nghị sĩ. Nếu đảng của tổng thống nắm đa số ghế tại thượng viện thì chính sách của tổng thống sẽ dễ được thông qua hơn, nhưng khác với thủ tướng, tổng thống không phụ thuộc vào phe đa số, ông có thể tại vị mà không cần có đa số ủng hộ trong quốc hội. Các ưu và khuyết điểm của hai hình thức đại nghị và tổng thống: chế độ đại nghị hấp dẫn ở tính mềm dẻo và khả năng phản ứng với những biến động. Các chính phủ đại nghị, đặc biệt là khi được bầu theo lối tỉ lệ (ta sẽ xem xét cụ thể trong các chương sau), thường có xu hướng đa đảng, khi đó ngay các đảng phái nhỏ cũng có thể có đại diện trong các cơ quan lập pháp. Kết quả là những nhóm thiểu số cũng có thể tham gia vào các quá trình chính trị ở ngay các cơ quan cao nhất của chính phủ. Sự đa dạng như thế góp phần thúc đẩy các cuộc đối thoại và thỏa hiệp khi các đảng đối kháng với nhau thành lập liên minh cầm quyền. Nếu liên minh tan vỡ hay đảng mất quyền cai trị thì thủ tướng phải từ nhiệm và một chính phủ khác được thành lập hoặc phải tiến hành tổng tuyển cử, nhưng không có khủng hoảng đe dọa chính hệ thống dân chủ. Khuyết điểm chính của chế độ đại nghị là mặt trái của tính mềm dẻo và sự tham gia của nhiều đảng phái trong chính phủ, đó là thiếu tính ổn định: 1. Liên hiệp đa đảng có thể không ổn định và sẽ tan vỡ ngay khi có khủng hoảng. Thời gian cầm quyền của chính phủ thường là ngắn. 2. Chính phủ có thể bị các đảng cực đoan khống chế, họ có thể dọa rút khỏi liên minh cầm quyền và như thế chính phủ phải từ nhiệm, họ cũng có thể đòi chính phủ thi hành những đường lối theo xu hướng của họ. Hơn nữa thủ tướng chỉ là lãnh tụ chính tri, ông không đủ uy quyền của một người do dân trực tiếp bầu. 3. Đảng chính trị chiếm đa số tuyệt đối trong quốc hội có thể thực hiện các cương lĩnh chính trị với những hậu quả nghiêm trọng mà không được ngăn chặn kịp thời, có thể dẫn đến tình trạng độc tài của đa số trong tương lai. Ưu điểm chủ yếu của chế độ tổng thống là, thứ nhất, trách triệm trực tiếp trước dân, thời gian dài và sức mạnh; thứ hai, vì tổng thống do dân bầu nên ông có uy quyền, không lệ thuộc vào thái độ của các đảng phái trong quốc hội; thứ ba, hai nhánh quyền lực đều có thực quyền và về lí thuyết thì ngang nhau, chế độ tổng thống cố gắng làm cho lập pháp và hành pháp đều mạnh, mỗi nhánh đều do dân cử và có thể làm đối trọng và kiểm soát lẫn nhau. Khuyết điểm là ở chỗ tổng thống và nghị sĩ được bầu riêng rẽ, có thể xảy ra tranh chấp, dẫn đến ngõ cụt. Tổng thống có thể không nhận được đủ số phiếu nên không thể thực hiện được một chính sách nào đó, đồng thời ông có thể sử dụng quyền phủ quyết ngăn không cho quốc hội thông qua dự luật nào đó. Do được bầu trực tiếp nên tổng thống có thể có quyền lực hơn thủ tướng. Nhưng tổng thống lại phải thỏa hiệp với cơ quan lập pháp, dù nó có bị phe đối lập kiểm soát hay không, là cơ quan cũng được dân trực tiếp bầu một cách độc lập với tổng thống. Kết quả là kỉ luật đảng ở đây yếu hơn so với chế độ đại nghị. Khác với thủ tướng, tổng thống không cách chức hay thi hành kỉ luật các đảng viên. Thủ tướng, khi nắm được đa số tuyệt đối, có thể đảm bảo rằng chương trình của ông sẽ được thông qua. Gặp trường hợp khi thượng viện kiên quyết bảo vệ ưu quyền của mình thì tổng thống phải đàm phán rất lâu mới có thể thông qua được một tu chính nào đó.
  6. Hệ thống nào đáp ứng tốt hơn các đòi hỏi của dân chủ? Không có câu trả lời dứt khoát. Xin bạn đừng buồn, đây là đề tài thảo luận thường xuyên của các nhà chính trị học, các nhà xã hội học và của các chính khách nữa. Mỗi hệ thống đều có mặt mạnh và mặt yếu. Chúng tôi cho rằng cả hai hệ thống đếu phù hợp với chế độ dân chủ lập hiến mặc dù không có hệ thống nào có thể bảo đảm dân chủ một trăm phần trăm. Chế độ phân quyền. Chính quyền nhà nước được chia thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Không một nhánh nào được quyền nắm trọn quyền lực quốc gia. Sự phân chia như thế được xác định một cách cẩn trọng trong Hiến pháp Hoa Kì, ban hành năm 1789 vì các nhà sọan thảo bản Hiến pháp này cho rằng đấy chính là điều kiện đảm bảo rằng không một nhánh nào của chính phủ có thể nắm trọn được quyền lực quốc gia.Tổng thống thư tư của Hoa Kì, cũng là một trong những tác giả của Hiến pháp Mĩ, ông James Madison, từng nói: “Hoàn toàn có lí khi nói rằng tập trung toàn bộ quyền lực, lập pháp, hành pháp và tư pháp vào tay một người là chế độ chuyên chế”. Cũng phải nói thêm rằng hệ thống do các tác giả của bản Hiến pháp Hoa Kì lập ra trù liệu không chỉ sự phân chia quyền lực mà còn sự cùng tham gia nữa. Thí dụ quyền lập pháp là của thượng viện, nhưng tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật đã được thượng viện thông qua. Để vô hiệu hóa quyền phủ quyết của tổng thống, thượng viện phải có hai phần ba phiếu ủng hộ ở cả thượng và hạ viện. Tổng thống cử thành viên nội các và các đại sứ, tiến hành đàm phán với các nước nhưng phải được hạ viện chấp thuận. Mặt khác, Hiến pháp xác định rằng chỉ có thượng viện mới có quyền tuyên bố chiến tranh nhưng tổng tư lệnh quân đội lại là tổng thống. Một trong những đặc điểm nổi bật của cơ quan lập pháp, do truyền thống lịch sử để lại, là hệ thống một hoặc hai viện quốc hội (chi tiết sẽ trình bày trong chương nói về chế độ liên bang). Người ta thường nghĩ rằng hệ thống hai viện thích hợp cho các nhà nước liên bang. Một viện đại diện cho cả nước, viện kia đại diện cho các bang. Nhưng lịch sử lại cho thấy rằng hệ thống hai viện xuất hiện trước các nhà nước liên bang và có nguốn gốc từ hệ thống quốc hội gồm hai viện của nước Anh có từ cuối thế kỉ XIII. Mặc dù quyền hạn của Viện quí tộc ngày càng bị thu hẹp (năm 1911 Viện quí tộc bị tước quyền đưa ra dự luật về tài chính, năm 1948 bị tước quyền hoãn thi hành dự luật đã được thông qua), nhưng nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tại quốc hội Anh có 872 quí tộc. Ba chức năng chủ yếu của cơ quan lập pháp. Trong các nhà nước dân chủ, cơ quan lập pháp có ba chức năng chủ yếu sau đây: 1. Quyền lập pháp, kể cả việc xem xét và phê chuẩn các hiệp ước và thỏa ước quốc tế. 2. Quyền xem xét và kiểm soát dự toán ngân sách quốc gia. 3. Quyền giám sát hoạt động của các cơ quan hành pháp. Trong một loạt nước, sáng kiến lập pháp được phân chia giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Ngoài ra, trong chế độ tổng thống, tổng thống còn có quyền can thiệp vào quá trình lập pháp (quyền phủ quyết). Trong mỗi khu vực quyền phủ quyết lại có đặc thù riêng. Thí dụ ở Mĩ, Thượng viện gửi dự luật đã được thông qua cho Tổng thống. Nếu Tổng thống không đồng ý thì trong thời hạn 10 ngày ông phải gửi lại Thượng viện kèm theo các đề nghị của mình. Nếu dự luật không được kí và không được gửi lại Thượng viện trong thời hạn 10 ngày thì nghiễm nhiên trở thành luật nếu Thượng viện chưa kết thúc khóa họp. Đấy gọi là “phủ quyết ngầm” hay “phủ quyết bỏ túi” khi dự luật được trình Tổng thống trong thời hạn mười ngày trước khi kết thúc khóa họp. Nhiều nước có hệ thống tương tự, với thời hạn hơi khác, thí dụ Argentine và Brazil là 10 ngày, Philippines là 20 ngày, Chi Lê là 30 ngày, Phần Lan là 3 tháng, Nga là 14 ngày
  7. Cũng phải nhớ rằng trong các xã hội dân chủ, nhân dân, trên cơ sở dân chủ trực tiếp hoặc bán trực tiếp, cũng được quyền hoặc ít nhất cũng đôi khi được quyền thông qua luật. Hình thức thể hiện ý kiến xã hội một cách trực tiếp nhất là trưng cầu dân ý, nghĩa là toàn dân biểu quyết về một vấn đề nào đó. Thường thì đấy là những vấn đề thuộc về hiến pháp. Trong chế độ dân chủ đại nghị, người đứng đầu chính phủ (Pháp, Italy) thường là người có quyền quyết định tổ chức trưng cầu dân ý, điều này là để hạn chế bớt quyền của nhánh lập pháp. Tổng thống, theo Hiến pháp Nga, là người quyết định tổ chức trưng cầu dân ý (điều 84). Hiến pháp của các nước khác nhau có qui định khác nhau về quyền của lập pháp và hành pháp trong những điều kiện đặc biệt, đòi hỏi phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Thí dụ, ở Pháp, quyền ban bố tình trạng khẩn cấp thuộc về tổng thống, quốc hội phải ngưng hoạt động trong giai đoạn khẩn cấp. Hiến pháp của Pháp viết rằng trong trường hợp khẩn cấp tổng thống có thể thay mặt chính phủ, hai viện và tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước khác. Nhưng trong đa số các quốc gia khác, việc ban bố tình trạng khẩn cấp không ngăn cản quốc hội thực hiện các chức năng của mình. Theo Hiến Pháp Nga thì Tổng thống có quyền ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ Liên bang hay tại những khu vực nhất định, nhưng phải lập tức thông báo cho Viện Liên bang và Viện Duma. Cũng phải nhớ rằng theo Hiến pháp thì Viện Duma không thể bị giải tán ngay cả trong tình trạng chiến tranh hay tình trạng khẩn cấp. Quyền xem xét và kiểm soát ngân sách quốc gia. Nếu xem xét chức năng của các cơ quan lập pháp trong quá khứ thì ta thấy ngay rằng, thông qua các đại diện của mình, nhân dân một số nước đòi được quyền thỏa thuận mức thuế khóa trước, rồi sau đó mới là quyền lập pháp. Cụ thể là Viện thứ dân ở Anh đã có quyền kiểm soát ngân sách trước, sau đó là quyền đưa đơn thỉnh nguyện và chỉ sau đó mới trở thành cơ quan lập pháp như ta thấy hiện nay. Hiện nay quyền kiểm soát và phân bổ ngân sách được giao cho ngành hành pháp. Quyền chi tiêu và kiểm soát ngân khố quốc gia được giao cho các chính phủ, chính phủ có trách nhiệm tránh tất cả những hành động gây nguy hại cho ngân sách quốc gia. Chức năng thứ ba là giám sát hoạt động của ngành hành pháp. Không nghi ngờ gì rằng chính quyền hành pháp ở các nước dân chủ có các cơ chế giám sát của chính mình. Ta hãy cùng xem xét cách thức hoạt động của cơ chế ấy ở Hoa Kì. Hàng năm Tổng thống Mĩ phải đọc thông điệp về tình hình đất nước trước Thượng viện. Ngoài ra ông còn phải đọc báo cáo về những lĩnh vực khác nhau trước Thượng viện ít nhất là 30 lần. Theo Hiến pháp Mĩ, Hạ nghị viện có quyền luận tội (impeachment) nghĩa là bãi chức hoặc cấm không cho giữ các chức vụ chính thức hoặc các chức vụ có thể tạo ra thu nhập tại Hợp chủng quốc Hoa Kì. Nói một cách khác, impeachment là các thủ tục pháp lí nhằm thay thế các đại diện của chính quyền hành pháp trước khi kết thúc nhiệm kì được thực hiện bởi cơ quan lập pháp. Thí dụ trước khả năng bị impeachment, tổng thống Brazil phải từ chức vào năm 1992, tổng thống Mĩ, Nixon cũng phải từ chức vào năm 1975. Tại Nga, Hiến pháp cũng qui định Viện Liên bang cũng có quyền bãi nhiệm tổng thống trước thời hạn vì tội phản quốc hoặc những tội ác nghiêm trọng khác. Như vậy nghĩa là cơ quan lập pháp có độc quyền ban hành các luật có giá trị pháp lí cao nhất. Cần ghi nhận rằng trong nhà nước quân chủ thì quyền này thuộc về nhà vua. Tại Hi Lạp cổ đại người ta sử dụng hình thức phổ thông đầu phiếu, cũng như Hội đồng năm trăm, một hình thức chủ tịch đoàn trong các hội nghị toàn dân. Hội đồng này cũng do đại hội toàn dân bầu ra. Tại La Mã cổ đại chức năng lập pháp thuộc về đại hội toàn dân, và các consul tức các nguyên lão, những người đứng đầu nước cộng hòa, do dân bầu lên. Ngày nay, nếu nói về các nước dân chủ, thì chức năng lập pháp thuộc về các đại biểu do nhân dân bầu lên. Nghĩa là nhiệm vụ của các cơ quan đại diện là tìm ra và lí giải một cách chuyên nghiệp, rõ ràng các vấn đề liên quan đến quyền lợi của toàn xã hội. Về phía mình, cử tri phải thiết lập được các cơ chế đảm bảo rằng đại biểu của họ sẽ cố gắng giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi của toàn xã hội. Trong các xã hội dân chủ các cơ chế thường được sử dụng là:
  8. 1. Bất tín nhiệm trong các lần bầu sau. 2. Có quyền bãi nhiệm. 3. Tổ chức trưng cầu dân ý. Sử dụng rộng rãi hình thức trưng cầu dân ý và sự hoạt động hữu hiệu của các cơ quan đại diện tại một số nước đã giúp tạo ra tại một số quốc gia một hệ thống năng động trong việc xác định và hợp thức hóa ý chí của nhân dân. Thụy Sĩ là trường hợp điển hình. Có người cho rằng trưng cầu dân ý là hình thức thể hiện ý chí của nhân dân một cách hữu hiệu và đầy đủ nhất. Xin bạn hãy suy nghĩ về cách đặt vấn đề như thế. Hãy đưa ra các ý kiến “ủng hộ” và “phản đối” của cá nhân mình. Tất nhiên, thật khó trả lời dứt khoát, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi vấn đề ngày càng phức tạp, khi có rất nhiều cách điều khiển dư luận, khi chính trị càng ngày càng trở thành lĩnh vực của các chuyên gia, cần phải có sự kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Chỉ có như thế mới có thể tìm ra được phương án tối ưu, một mặt, nghiên cứu dư luận xã hội và để quần chúng cùng tham gia giải quyết các vấn đề, mặt khác, hợp thức hóa nó một cách chuyên nghiệp về mặt pháp lí. Chính quyền hành pháp. Chính quyền hành pháp do tổng thống hoặc thủ tướng đứng đầu. Tổng thống được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu và đứng ra thành lập chính phủ. Trong chế độ đại nghị thì thủ tướng do đảng hoặc liên hiệp các đảng phái nắm đa số trong quốc hộ cử và đứng ra thành lập nội các. Người đứng đầu chính quyền hành pháp được bầu (cử) cho một thời hạn nhất định. Họ không thể nắm chức vụ đó suốt đời, cũng không thể nhường ngôi cho con. Đôi khi một người, một gia đình hoặc một dòng họ nắm quyền lực trong một thời gian dài. Thí dụ dòng họ Nehru ở Ấn Độ. Nhưng gia đình này cũng từng bị mất quyền lực đến hai lần trong giai đoạn từ 1945 đến 1990. Trong các nhà nước phi dân chủ (toàn trị) người lãnh đạo có thể nắm quyền rất lâu. Thí dụ Franco từng nắm quyền ở Tây Ban Nha suốt 30 năm. Đôi khi người đứng đầu ngành hành pháp (tổng thống) có thể được bầu lại. Thí dụ ở Mĩ một loạt tổng thống từ được bầu hai ba nhiệm kì, trong đó có Roosevelt (1936, 1940, 1944), Truman, Eisenhower, Reagan. Nhưng trong các xã hội dân chủ thời hạn cầm quyền được xác định bởi Hiến pháp và thường kéo dài từ 3 đến 7 năm, tuỳ nước. Hiến pháp cũng thường nói rõ một lãnh tụ có thể được bầu đến bao nhiêu lần. Thí dụ Tu chính XXII (năm 1951) Hiến pháp Hoa Kì viết như sau: “Không một người nào có thể được bầu vào chức vụ Tổng thống quá hai nhiệm kì ”. Trong các nước theo chế độ đại nghị, hiếm khi thủ tướng được nắm quyền đến hai nhiệm kì. Margaret Thatcher ở Anh và Helmut Kohl ở Đức giữ ghế thủ tướng ba nhiệm kì là những ngoại lệ cực kì hiếm. Cơ sở để một tổng thống hay một đảng nào đó có thể được tái cử là mức sống của người dân trong nước. Chức năng của chính quyền hành pháp trong các nước dân chủ là gì? Chức năng của hành pháp được xác định bởi nhu cầu lãnh đạo và quản lí thường xuyên trong các lĩnh vực lập kế hoạch, quản lí kinh tế, văn hóa và giáo dục. Chính quyền hành pháp lập và thực thi chương trình hành động của mình trong lĩnh vực tài chính, thuế khoá. Đặc điểm của hành pháp là áp dụng và thực thi pháp luật, hành pháp cũng có thể trình các dự luật cho quốc hội xem xét. Hành pháp phải báo cho và bị kiểm soát bởi ngành lập pháp. Hành pháp không thể tồn tại mà không có bộ máy tương ứng, đấy là nhân viên các bộ, các tổng cục Người ta thường cho rằng bộ máy quản lí là trung dung về mặt chính trị, nó không lệ thuộc vào chính quyền hành pháp theo nghĩa là khi chính phủ giải tán thì những các công chức trong bộ máy quản lí vẫn tiếp tục hoạt động. Nhưng trên thực tế thì thay đổi chính phủ thường kéo theo việc bổ nhiệm các công chức và các nhà quản lí mới. Sự không trong sạch, kém năng lực và các khuyết tật khác của bộ máy quản lí thường bị coi là những yếu kém của chính quyền hành pháp nói chung. Điều đó có thể dẫn đến việc từ chức của thủ tướng, thậm chí của cả chính phủ. Đôi khi người đứng đầu ngành hành pháp phải chịu trách nhiệm về những hành động xấu xa của bộ máy của mình. Thí dụ thủ tướng Willi Brandt của Cộng hoà Liên bang Đức đã phải từ chức khi nhận trách nhiệm về mối liên hệ của các cộng sự với tình báo Liên Xô mặc dù ông được coi là “kiến trúc sư” của mối quan hệ gắn bó
  9. hơn giữa các nước xã hội chủ nghĩa và các nước phương Tây. Tư pháp. Không phải lúc nào ngành tư pháp cũng đáp ứng được quyền lợi của nhân dân. Nhân danh pháp luật, nhân danh nhà nước, trong quá khứ và cả hiện nay vẫn thường diễn ra các vụ án bất công. Chính quyền dân chủ, cũng như mọi chính quyền khác, phải tự bảo vệ mình, nhưng phải là hợp hiến, công khai và không bị ảnh hưởng bởi các mưu đồ chính trị. Đấy chính là mục đích của ngành tư pháp. Chức năng chính của ngành tư pháp là giải thích và theo dõi việc thực thi pháp luật. Tại sao pháp luật lại cần phải được giải thích? Pháp luật, nhất là hiến pháp, thường chỉ bao gồm những công thức chung, không có các giải thích cụ thể. Đôi khi những giải thích như thế được ghi trong các nghị định, chỉ thị, nghị quyết và các văn bản pháp qui khác. Nhưng trong từng trường hợp cụ thể, khi xem xét tại tòa án thì các quan tòa là những người được đào tạo chuyên môn phải giải thích luật và đưa ra phán quyết. Khi nói đến tư pháp ta thường nghĩ đến tòa án tối cao là cơ quan theo dõi việc thực thi hiến pháp, xem xét các vụ án lớn, xem xét và trả lời các khiếu nại và tố cáo đối với các tòa án cấp dưới. Trong một số nước, trong đó có nước Nga, còn có tòa án hiến pháp, cơ quan này chỉ xem xét các vục việc vi phạm hiến pháp. Các tòa án địa phương xem xét các vụ án dân sự, hành chính, hình sự và các tố cáo của công dân về sự bất công mà họ phải chịu đựng. Trong một số nước, tòa án tối cao và tòa án hiến pháp có ảnh hưởng rất lớn đối với chính sách quốc gia. Thí dụ Tòa án Tối cao tại Cộng hoà Nam Phi từng kết án chính sách phân biệt chủng tộc và chính phủ nước này buộc phải tiến hành những biện pháp cải cách. Dư luận xã hội cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với chính sách của Cộng hoà Nam Phi. Phân biệt chủng tộc có nghĩa là phân chia xã hội thành các nhóm theo trên cơ sở chủng tộc, chính sách đó được áp dụng ở Nam Phi từ năm 1948, là phương tiện củng cố quyền lực của thiểu số da trắng đối với đa số người da đen. Sự phân biệt được thực hiện trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá. Tình hình tương tự cũng diễn ra tại một số nước châu Phi và châu Mĩ Latin, nơi các tập đoàn quân sự không thể thành lập được chính quyền hợp pháp vì sự chống đối của tòa án tối cao tại đó. Lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của các tòa án tối cao là tán thành các dự luật. Thí dụ cách đây mấy năm quốc hội Irland thông qua đạo luật cấm phụ nữ phá thai ngay cả ở nước ngoài. Đạo luật này vi phạm quyền của phụ nữ và đã bị Tòa án Tối cao của Cộng đồng châu Âu bác bỏ. Những sự kiện như thế một lần nữa khẳng định rằng ngành tư pháp, một mặt, có thể hoạt động độc lập với lập pháp và hành pháp và mặt khác, có thể thực hiện quyền giám sát các nhánh khác của chính quyền. Nghĩa là có hệ thống “kiềm chế và đối trọng” nhằm giảm thiểu khả năng lạm dụng quyền lực. Hiện nay tại Mĩ hệ thống này được coi là hoàn thiện hơn cả mặc dù vẫn còn rất nhiều phức tạp và mâu thuẫn. Tại Mĩ, Tòa án Tối cao có thể phủ quyết chức năng lập pháp, triệu tập khóa họp đặc biệt của Thượng viện, đề đạt luật và ra lời kêu gọi nhân dân. Tính trung thực và trình độ của các quan tòa có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động của tòa án. Vì vậy nhiệm kì của các quan tòa, dù được bầu hoặc được chỉ định, thường rất dài, tại một số nước, thí dụ ở Mĩ là suốt đời. Quan tòa rất ít khi bị cách chức. Thường những người nổi tiếng ở địa phương mới được bổ nhiệm làm quan tòa. Tòa án có thể đóng vai trò quyết định khi có mâu thuẫn giữa lập pháp và hành pháp hoặc trong trường hợp vượt quá quyền hạn được giao. Thí dụ phán quyết của tòa án rằng việc bãi nhiệm một viên chức cấp cao nào đó là phi pháp có thể làm mất tín nhiệm đối với chính quyền lập pháp hay hành pháp. Trường hợp như thế đã từng xảy ra ở Canada khi giám đốc ngân hàng Canada phát biểu chống lại việc dùng lạm phát như là biện pháp kích thích nền kinh tế. Thủ tướng John Diefenbaker đã nổi giận và ra lệnh cách chức ông này. Vụ kiện đã làm cho thủ tướng mất uy tín và ông đã chịu thất bại trong lần bầu cử tiếp theo. Sự độc lập của tòa án thường được nêu rõ trong hiến pháp. Điều này là cực kì quan trọng khi phải giải quyết các vấn đề chính trị phức tạp, những vấn đề có thể được lí giải khác nhau, thí dụ: Có nên luận tội
  10. Tổng thống Nixon (năm 1975) hay Tổng thống Brazil, Kollar (năm 1992) hay không? Và cuối cùng, nói về chính quyền lập pháp cần phải một lần nữa nhấn mạnh khía cạnh cực kì quan trọng, phân biệt xã hội dân chủ với các chế độ khác là tinh thần thượng tôn pháp luật. Nghĩa là không một cá nhân nào, không một cơ quan nhà nước nào được quyền coi thường hay đứng trên pháp luật. Khi có những trường hợp như thế thì tòa án sẽ xem xét từ quan điểm vi phạm pháp luật chứ không phải từ quan điểm quyền hạn của chính phủ, đảng phái hay của bất kì cơ quan nào khác.
  11. Chương 5: Bầu cử - cơ chế thực thi dân chủ quan trọng 1. Bầu cử là gì? Dân chủ đòi hỏi phải có tổng tuyển cử trực tiếp và công khai. Nhưng ở đây tồn tại nhiều vấn đề phức tạp và mâu thuẫn không chỉ về mặt thực tiễn mà còn cả về mặt triết học, vì cử tri khác nhau không chỉ về khả năng mà còn về đóng góp đối với xã hội, họ có những kinh nghiệm sống, đam mê và quyền lợi hoàn toàn khác nhau. Bầu cử dân chủ là gì? Jeane Kirkpatrick, cựu đại sứ Mĩ ở Liên Hợp quốc phát biểu về vấn đề này như sau: “Bầu cử không chỉ có ý nghĩa tượng trưng Đấy là các cuộc bầu cử theo định kì, có tính cạnh tranh, đại diện và chung cuộc, trong khi tiến hành tuyển cử các công dân có quyền tự do chỉ trích chính phủ, công bố sự chỉ trích và đưa ra kiến nghị, lựa chọn những người tham gia vào việc giải quyết các vấn đề hệ trọng trong chính phủ”. Như vậy là theo Jeane Kirkpatrick, các tiêu chí chủ yếu của bầu cử là: cạnh tranh, định kì, đại diện và chung cuộc. Sau đây chúng ta sẽ xem xét từng tiêu chí một cách cụ thể. Tính cạnh tranh. Cạnh tranh đòi hỏi không chỉ khả năng tham gia tranh cử của phe đối lập. Quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do đi lại phải được tôn trọng. Đối lập phải được sử dụng các phương tiện phát thanh và truyền hình, không bị áp dụng những biện pháp kiểm duyệt bổ sung. Tính định kì. Định kì là tiêu chí cực kì quan trọng, nó có nghĩa là sau một thời gian nhất định (do Hiến pháp qui định) các lãnh tụ chính trị lại phải được quần chúng cử tri uỷ nhiệm cho tiếp tục nắm giữ chức vụ. Xã hội dân chủ khác với các chế độ khác ở chỗ một lãnh tụ chính trị nào đó có thể không được bầu (không tái cử). Tại nhiều nước qui luật này không được áp dụng cho các quan tòa. Tính đại diện. Mọi người đều biết rằng chính phủ do một nhóm nhỏ nào đó bầu ra không thể được coi là chính phủ dân chủ. Lịch sử đã chứng kiến những cuộc đấu tranh của các nhóm dân chúng khác nhau (dân tộc, tôn giáo, sắc tộc thiểu số) bị tước quyền bầu cử. Tính chung cuộc. Tính chung cuộc đòi hỏi rằng các lãnh tụ được bầu thông qua thể thức dân chủ sẽ có thể thực sự dựa vào hiến pháp để thực thi quyền lực được giao. Các cuộc bầu cử dân chủ đòi hỏi một hình thức tổ chức đặc biệt cũng như có nhiều ứng cử viên cho một chức vụ. Trừ những nước quá nhỏ, dân chúng có thể trực tiếp tham gia giải quyết các vấn đề thuộc về chính sách quốc gia, những nước khác đều cần tổ chức các cuộc bầu cử để tìm ra những người đại diện cho dân chúng (cử tri) vào các cơ quan đại diện như quốc hội, thượng viện, hạ viện Dĩ nhiên là quyền bầu cử và ứng cử càng được mở rộng thì càng tốt. Tùy từng nước mà người ta đặt ra các điều kiện hạn chế khác nhau về tư cách cử tri. Đấy là các điều kiện về tuổi tác, về quốc tịch, về đạo đức. Thí dụ ở Nam Phi đã từng tồn tại những hạn chế về quyền công dân trên nguyên tắc chủng tộc. Trong một thời gian khá dài trước đây đã từng có những qui định về tài sản đối với cả cử tri và ứng cử viên. Thí dụ Hiến pháp Mĩ (năm 1787) chỉ cho 120 ngàn người có quyền bầu cử trong khi dân số ở Mĩ lúc đó khoảng 3 triệu người. Hiến pháp nước Pháp thời vua Louis XVIII (năm 1814) qui định rằng chỉ những người có mức đóng thuế trên 300 franc mới đủ tư cách cử tri. Quyền phổ thông đầu phiếu đối với nam giới trên 21 tuổi được áp dụng lần đầu tiên trong Cách mạng Pháp cuối thế kỉ XVIII, nhưng chỉ được
  12. áp dụng có một lần. Phải nửa thế kỉ sau người ta mới khôi phục lại quyền này, nhưng đồng thời lại đưa ra hạn chế về thời hạn cư trú. Ngoài ra, tại một số nước phụ nữ vẫn chưa có quyền bầu và ứng cử. Tại một số nước tuổi bầu và ứng cử được qui định giống nhau. Thí dụ Thuỵ Sĩ là 20; Úc, Anh, Ireland, New Zealand, Na Uy là 21, Đan Mạch là 23. Nhiều nước lại cho rằng người ứng cử phải có kinh nghiệm, vì vậy ở Mĩ, Ấn Độ, Nhật bản phải trên 30 tuổi mới được ứng cử vào Thượng viện, Brazil và Pháp là 35; ở Bỉ, Li Bi và Thổ Nhĩ Kì chỉ những người trên 40 tuổi mới được ứng cử vào Thượng viện. Giới hạn thứ hai về quyền ứng cử liên quan đến vấn đề quốc tịch. Thường thì các ứng cử viên phải là công dân nước sở tại ngay từ khi ra đời hoặc đã là công dân trong một khoảng thời gian nhất định, khác nhau, tùy nước. Nhưng bên cạnh đòi hỏi về tư cách công dân đôi khi còn có thêm, thí dụ như Mĩ, đòi hỏi rằng người ứng cử phải định cư ở trong nước. Cuối cùng, ứng viên phải là người có tiếng tăm trong sạch. Mỗi nước quan niệm về tiêu chí này một khác. Thí dụ ở Áo, New Zealand, Ireland, Pháp, Thụy Điển pháp luật có tỏ ra rất nghiêm khắc đối với hiện tượng tham nhũng, mất khả năng chi trả hay phá sản của ứng viên. Còn ở Hà Lan thì tù nhân có thời hạn dưới một năm chỉ bị tước quyền bầu cử chứ không bị tước quyền ứng cử. Tại một số nước ứng viên còn phải qua một kì sát hạch về trình độ, còn tại Thổ Nhĩ Kì thì chỉ những người có bằng đại học mới được ứng cử vào Hạ viện. Tại một số nước điều kiện ứng cử vào Thượng viện được qui định rất rõ ràng, cụ thể. Thí dụ tại Bỉ, chỉ các bộ trưởng, cựu bộ trưởng, hạ nghị sĩ, những người có bằng đại học, lãnh đạo các công ty lớn, cựu lãnh đạo các hội nghề nghiệp hoặc những người đóng thuế thu nhập trên 300 franc Bỉ một năm mới được quyền ứng cử thượng nghị sĩ. Giám đốc các ngành công nghiệp quốc gia ở Anh, Ireland, Ấn Độ cũng bị hạn chế quyền ứng cử. Tại một số nước, người ta cho rằng ứng cử ở khu vực, nơi ứng viên có thể gây áp lực đối với cử tri là hành động vô luân. Đôi khi người ta phải làm như sau: người muốn tranh cử từ nhiệm trước khi chiến dịch tranh cử bắt đầu và không đòi hỏi quay trở lại chức vụ đó nếu thất cử. Chúng tôi cho rằng đấy là cách giảm áp lực của chính quyền địa phương đối với các cuộc bầu cử, và nếu áp dụng cách làm như thế thì các cuộc bầu cử ở nước ta sẽ diễn ra một cách dân chủ hơn. Cuộc đấu tranh một cách trung thực giữa các chương trình tranh cử cũng có ảnh hưởng rất lớn. Trong những năm gần đây nhiều nước đã đi theo xu hướng dân chủ hóa các hệ thống tuyển cử. Thí dụ các nước như Jordan, Nepal đã tiến hành tuyển cử, các cuộc tuyển cử dân chủ được tiến hành ngay ở Nam Phi, tuyển cử đa đảng thay vì độc đảng đã diễn ra ở Senegal, Zambia, Kampuchea. Như vậy là tham gia bầu cử là hoạt động chính trị tối thiểu được hiến pháp bảo đảm cho mỗi cá nhân. Một mặt đấy là quyền và mặt khác cũng là trách nhiệm của mỗi công dân, tham gia vào hoạt động như thế chính là đưa các nguyên tắc dân chủ vào cuộc sống. Mỗi nước khác nhau có những đòi hỏi khác nhau đối với cử tri và ứng cử viên. Ngoài ra hệ thống tuyển cử ở mỗi nước cũng có những đặc điểm khác nhau. Có thể liệt kê ba phương án sau đây: 1. Hệ thống tuyển cử theo tỉ lệ - bầu cử theo danh sách của các đảng. Trong hệ thống này lại có thể có những trường hợp như sau: a) cử tri bỏ phiếu cho những nhóm người đại diện cho các đảng hay do các đảng cử ra; b) cử tri có quyền lựa chọn một người nào đó trong danh sách hay đôi khi có thể đề nghị ứng viên mà mình muốn chọn. Hệ thống này có một số ưu điểm và khuyết điểm vì nhờ cách này mà những nhóm thiểu số cũng có đại diện trong các cơ quan dân cử. Nhưng mặt khác, thường thì lãnh tụ các đảng phái không có quan hệ trực tiếp với khu vực bầu cử, không sống ở đó, nguyên tắc quan hệ qua lại giữa cử tri và ứng cử viên đã bị vi phạm. Về thực chất ứng cử viên tuy đại diện cho cả dân tộc nhưng lại chỉ chịu trách nhiệm trước đảng của mình. Hệ thống này được áp dụng ở Ý, ở nhiều nước Mĩ Latin, ở Israel và nhiều nước khác. Nga cũng áp dụng hệ thống này khi bầu đại biểu Duma quốc gia.
  13. 2. Hệ thống đa số - đảng hoặc liên hiệp các đảng vượt trước các đảng khác trong bầu cử nắm đa số trong các cơ quan đại diện. Mâu thuẫn ở đây là gì? Thứ nhất, đảng hay liên hiệp các đảng phái được 49% phiếu bầu có thể không có đại diện trong quốc hội, nghĩa là một phần khá đông dân chúng không có ảnh hưởng, thông qua đại diện của mình, đối với đời sống của đất nước. Nhưng mặt khác, những cuộc bầu cử như thế thường tạo ra các chính phủ ổn định. Hệ thống này được áp dụng ở Pháp, ở Canada, ở Ấn Độ và cho đến tận thời gian gần đây vẫn còn áp dụng tại Mĩ. Ưu điểm của hệ thống này là mối liên hệ gắn bó giữa cử tri và đại biểu vì mỗi khu vực chỉ có một đại biểu và đại biểu đại diện cho khu vực của mình. Nhưng lại có ý kiến cho rằng hệ thống này có thể tạo ra các xung đột trong những xã hội mất ổn định vì dưới mắt dân chúng các cuộc tuyển cử như thế có thể bị coi là không chính thống. (Chính thống: từ Latin - legitimus - hợp pháp, là thủ tục để xã hội công nhận một hành vi, một người hay một sự kiện nào đó. Chính thống nghĩa là hợp pháp, được xã hội thừa nhận, không chính thống là phi pháp, không được xã hội công nhận). Ngoài ra, vì mỗi khu vực chỉ bầu một người nên uy tín cá nhân của người đó đóng vai trò quan trọng. Vì vậy các đảng sẽ cố gắng chọn những người nổi tiếng trong khu vực làm đại diện ứng cử. Nhưng những người này lại có thể không có đủ trình độ giải quyết các vấn đề mang tầm quốc gia. 3. Hệ thống đa số tuyệt đối. Trong hệ thống náy các đảng nhỏ cũng không có đại diện trong các cơ quan lập pháp và hành pháp. Hệ thống này đòi hỏi hai vòng bầu cử. Các đảng thường thỏa hiệp với nhau trong giai đọan bầu cử. Mĩ đã chuyển sang hệ thống tính phiếu bầu theo đa số tuyệt đối, Pháp và Đức cũng áp dụng hệ thống này. Ngưỡng bầu cử. Mục đích của cách làm này là giảm bớt sự phân tán phiếu bầu và đại biểu. Thí dụ, ở Hi Lạp chỉ các đảng thu được trên 17% số phiếu mới được vào vòng 2; ở Pháp các đại biểu phải có trên 12,5% mới được vào vòng 2. Có nước lại đặt ra phần trăm phiếu bầu tối thiểu mà một đảng hay liên hiệp các đảng phái phải có để có thể có đại biểu đại diện trong quốc hội: ở Tây Ban Nha là 3%, Ba Lan (từ 1993) là 7%, Thổ Nhĩ Kì là 10%. Có nước lại đặt ra phần trăm trung bình (thường là 5%), Nga đã áp dụng cách này từ cuộc tuyển cử tháng 12 năm 1993. Một vấn đề đặc biệt quan trọng (nhưng mới nhìn lại có vẻ không có ý nghĩa lắm) là việc xác định khu vực bầu cử. Không chú ý cần thiết trong vấn đề này có thể dẫn đến nhiều rắc rối. Thí dụ tại Anh từ thế kỉ XVI đến thế XIX không hề có phân chia lại khu vực bầu cử nên các trung tâm công nghiệp như Manchester, Birmingham, Leeds vào thế kỉ XVI chưa tồn tại nên không có đại biểu trong Viện thứ dân, trong khi khu Old Sarum chỉ có 7 người dân lại có đến 2 đại biểu, hoặc khu Davich chỉ có 1 người dân và người này nghiễm nhiên trở thành đại biểu. Cũng không được quên rằng việc phân bố lại khu vực bầu cử có thể được sử dụng như một phương tiện đấu tranh chính trị. Tại Nhật, trong một thời gian dài phiếu của cử tri nông thôn (một số nhà xã hội học cho rằng nông dân bảo thủ hơn) có giá trị cao gấp ba lần phiếu của người thành phố, còn ở Na Uy thì đến tận năm 1952 hai phần ba đại biểu quốc hội là do nông dân bầu chọn, mà điều này được ghi trong hiến pháp. Người ta lợi dụng việc phân chia khu vực vào mục đích chính trị như thế nào? Nếu biết cảm tình chính trị ở một khu vực nào đó thì có thể dùng biện pháp phân chia khu cực bầu cử để điều chỉnh kết quả. Biện pháp này được gọi là chủ nghĩa Jerry (theo tên thống đốc bang Massachusetts, Elbridge Jerry, người đã chia lại bang vào năm 1912 nhằm làm lợi cho đảng của mình trong cuộc bầu cử cùng năm đó) Ứng cử viên được giới thiệu như thế nào? Có rất nhiều cách. Phụ thuộc vào hệ thống chính trị và truyền thống của từng nước. Ở Mĩ áp dụng phương pháp gọi là “primary”, nghĩa là bầu cử sơ bộ, cử tri chọn ra đại diện của đảng sẽ tham gia vòng tiếp theo, đại biểu được chỉ định từ dưới lên. Tại Pháp đại biểu các khu vực do trung ương cử. Ứng viên Đảng Bảo thủ ở Anh do những hội đồng lựa chọn, còn ứng viên Công đảng thì do công đoàn và các tổ chức cơ sở của đảng giới thiệu. Tại Canada đảng viên
  14. cơ sở giới thiệu đại biểu đại diện cho đảng của mình. Các đảng muốn tham gia tranh cử phải: 1. Nộp tiền kí quĩ. 2. Trình bày nội qui và cương lĩnh của đảng. 3. Ứng viên (hoặc đại biểu) tại một số nước không được liên hệ với chính phủ, nghĩa là không được có lợi tức từ các cơ sở của chính phủ. Nguyên tắc thu thập được một số chữ kí nhất định mới được quyền tham gia tranh cử cũng thường được sử dụng. Số chữ kí thường từ vài trăm đến vài ngàn. Giai đọan vận động bầu cử thường kéo dài 1 tháng (tại Anh) cho đến 3 tháng (tại Đức). Các cơ chế khác cũng thường được sử dụng trong các chiến dịch tranh cử. Quảng cáo là một trong các biện pháp quan trọng nhất vì hình ảnh của ứng viên và của đảng có ý nghĩa rất lớn đối với cử tri. Người ta còn tìm đủ mọi cách để tiếp xúc với cử tri, từ việc sử dụng những kĩ thuật tân kì nhất để có thể tiếp xúc với thật nhiều cử tri cho đến việc đi từng nhà. Dù truyền hình thuộc chính phủ hay tư nhân thì luật bầu cử tại các nước dân chủ vẫn thực hiện nguyên tắc dành thời lượng phát sóng như nhau cho các đảng phái. Nhưng thường thì các đảng phái đã có chân trong quốc hội vẫn có lợi thế hơn. Phải nói thêm rằng hầu hết các nước đều có qui định về việc hạn chế công bố các kết quả thăm dò dư luận xã hội vì chúng có thể ảnh hưởng đến những người còn chưa có ý kiến dứt khoát. Tại Đức không được công bố các kết quả thăm dò dư luận xã hội trong vòng hai tuần trước khi diễn ra bầu cử, tại Nhật thì cấm công bố các kết quả như thế trong suốt thời gian vận động tranh cử. Cung cấp tài chính. Tất cả các cuộc vận động tranh cử đều rất tốn kém. Các nước thường áp dụng các biện pháp cung cấp tài chính sau: quĩ của đảng; trợ cấp của chính phủ; quyên góp; tiền của chính ứng cử viên (Kennedy và Nixon là những người sử dụng rất nhiều tiền riêng vào vận động tranh cử). Chúng ta sẽ xem xét cụ thể vấn đề tài trợ của chính phủ và hoạt động quyên góp cho các chiến dịch tranh cử. Tài trợ của chính phủ. Tại nhiều quốc gia tiền in ấn tài liệu và chi phí cho truyền hình và phát thanh được chính phủ tài trợ. Nhưng thường thì chỉ các đảng đang có đại diện tại quốc hội mới được tài trợ, số tiền tài trợ phụ thuộc vào số ghế mà đảng đó đang nắm tại quốc hội. Tại Anh, nhà nước chỉ trợ cấp cho các đảng nắm từ 2 ghế trở lên. Tại Đức, các đảng được hơn 0,5% phiếu bầu sẽ được hoàn lại một phần chi phí tranh cử. Tại Canada, chính phủ cũng hoàn lại một phần chi phí tranh cử cho các đảng nhận được ghế trong quốc hội. Quyên góp. Quĩ quyên góp thường được qui định cụ thể trong các văn bản pháp qui. Số tiền quyên góp thường được giới hạn, thí dụ Luật về các chiến dịch bầu cử Liên bang của Mĩ (sửa đổi năm 1974) qui định mỗi người một năm chỉ được góp cho mỗi ứng viên không quá 1 ngàn dollar; cho quĩ đảng không quá 20 ngàn dollar; cho bất kì tổ chức chính trị nào khác không quá 5 ngàn dollar. Thời gian gần đây báo chí đăng tải nhiều tài liệu về việc Đảng Cộng sản Liên Xô cung cấp tài chính cho các đảng cộng sản khác trên thế giới. Có cảm tưởng như chỉ có những người cộng sản mới trợ cấp cho các đảng cộng sản khác như thế. Nhưng sự thật hoàn toàn ngược lại và Đảng Cộng sản Liên xô hoàn toàn không phải là ngoại lệ. Nhiều đảng phái đã sử dụng khoản tiền trợ cấp từ nước ngoài. Nhưng vì chưa có đủ tài liệu nên chúng tôi không thể đưa ra được số liệu và các nguồn tài trợ cụ thể.
  15. Việc kiểm phiếu được thực hiện ra sao? Trước hết cần phải ngăn chặn tất cả các kiểu gian lận có thể xảy ra. Có hai biện pháp giảm thiểu gian lận được mọi người công nhận như sau: 1. Sự có mặt của đại diện các ứng cử viên trong khi mở hòm phiếu và khi kiểm phiếu. Đôi khi người ta còn cho các đại diện bên ngoài, thí dụ, đại diện các phương tiện thông tin đại chúng chứng kiến nữa. 2. Tuyệt đối tuân thủ cơ chế kiểm phiếu và cách xử lí đối với phiếu bầu đã được pháp luật qui định. Việc kiểm phiếu kịp thời cũng giúp ngăn chặn phần nào khả năng gian lận. Hơn nữa các phương tiện kĩ thuật hiện đại cho phép hoàn thành công việc kiểm phiếu trong vòng một hai ngày. Các số liệu sau đây có thể bị tính sai: 1. Phần trăm cử tri tham gia bỏ phiếu; 2. Phần trăm phiếu bầu của từng đảng; 3. Số đại biểu trúng cử. Kết quả kiểm phiếu có thể gây tranh cãi. Trọng tài trong những trường hợp như thế có thể là quốc hội vừa mới được bầu lên. Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ thường làm như thế. Một số nước lại dùng các trọng tài độc lập. Thường thì đấy là các tòa án các cấp, đôi khi là Hội đồng Hiến pháp như ở Anh hay Tòa án Tối cao ở Pháp, Áo, Thổ Nhĩ Kì Có những trường hợp, thí dụ như ở Costa-Rica người ta phải lập ra tòa án đặc biệt gọi là Tòa án Bầu cử Tối cao. Dù sử dụng bất kì hình thức nào được liệt kê bên trên thì trong các nhà nước dân chủ công việc bầu cử cũng phải được tiến hành một cách minh bạch, việc kiểm phiếu được kiểm soát nhằm tránh mọi sự gian lận có thể xảy ra. Tại phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa, trong một thời gian dài việc bầu cử chỉ mang tính hình thức bởi thường chỉ có một ứng cử viên. Việc thiếu các thủ tục dân chủ, để cho cá nhân có thể tác động lên chính sách của nhà nước làm cho quần chúng bàng quan đối với việc lựa chọn những người đại diện cho mình. Kết quả là tất cả các ứng viên do cấp trên giới thiệu đều trúng cử. Dưới tác động của dư luận xã hội, từ cuối những năm 80 của thế kỉ 20, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã thực hiện những cuộc cải tổ to lớn trong hệ thống bầu cử. Thí dụ, năm 1989, tại Ba Lan đại diện Công đoàn Đoàn kết (đối lập) đã được 99 trên 100 ghế tại Thượng viện và 161 trên 460 ghế tại Hạ viện. Cuộc bầu cử ở Ba Lan năm 1989 đã trở thành một mốc quan trọng trên con đường dân chủ hóa Đông Âu. Hiện nay các quá trình tương tự cũng đang diễn ra ở các nước SNG, Mĩ Latin, châu Phi. Các cuộc bầu cử thực sự công bằng, có thể đem lại những thay đổi thực sự đang càng ngày càng được nhiều nước trên khắp thề giới đem ra áp dụng. 2. Hệ thống bầu cử tại Nga Hệ thống bầu cử theo những nguyên tắc dân chủ vừa mới được thành lập ở nước Nga. Theo chúng tôi, một quốc hội hữu hiệu phải là quốc hội đa đảng. Đại diện các đảng phái và kỉ luật nội bộ từng nhóm sẽ giúp điều chỉnh các chức năng của cả lập pháp và hành pháp của nước Nga. Nhưng như các cuộc bầu cử năm 1993 cho thấy hệ thống đa đảng chưa thực sự hình thành mặc dù ở Nga đã có rất nhiều đảng phái chính trị (chi tiết xem chương 10). Mọi người đều biết rằng các vấn đề như thế không thể được
  16. giải quyết trong một cuộc bầu cử. Phải cần nhiều năm nữa, nhưng bài học mà các ứng cử viên cũng như toàn xã hội đã trải qua có ý nghĩa to lớn đối với quá trình dân chủ hóa đất nước. Cuộc tổng tuyển cử năm 1993 áp dụng hệ thống hỗn hợp với các đặc điểm sau đây: 1. Các đảng được khuyến khích thành lập liên hiệp. 2. Mỗi khu vực đều có đại diện. 3. Những khu vực chỉ có một đại diện được đề cử các ứng viên độc lập. 4. Các đảng muốn có đại diện ở mức Liên bang phải nhận được ít nhất 5% số phiếu bầu. 5. Ngoài ra, các ứng viên phải thu thập được một số chữ kí nhất định: đảng viên là 100 ngàn chữ kí, ứng viên độc lập 1% cử tri. Chữ kí được thu thập tại 7 khu vực bầu cử. Mỗi bước trên con đường dân chủ hóa đất nước đều góp phần làm thay đổi bộ mặt của nhà nước chúng ta. Không nghi ngờ gì rằng chúng ta đã đạt được khá nhiều thành tựu, nhưng khuyết điểm không phải là không có. Vì vậy cần đặc biệt chú ý rút ra những bài học trên con đường cải tạo dân chủ. Cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên cũng không phải là ngọai lệ. Trước hết phải nhấn mạnh rằng các cuộc bầu cử đa đảng đã giúp cho các đảng và các tổ chức trưởng thành một cách nhanh chóng. Nhờ đó nhân dân cũng rút được bài học về bầu cử. Không có kinh nghiệm, không biết tổ chức bầu cử, chúng ta không thể trở thành một phần của thế giới văn minh. Đấy là trường chính trị mà tất cả các công dân đều phải trải qua. Khi chọn ứng viên này hay ứng viên kia, đảng này hay đảng kia, là người công dân đã ủy quyền cho họ trong việc thể hiện và bảo vệ quyền lợi của chính mình. Chúng tôi cho rằng cùng với thời gian, mỗi người trong chúng ta sẽ học được cách phân tích và đánh giá các cương lĩnh tranh cử của các ứng viên và các ứng viên cũng sẽ có những câu trả lời rõ ràng về những lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội, tinh thần mà cử tri sẽ nhận được nếu cương lĩnh tranh cử được thực hiện. Bầu cử không chỉ đơn giản là cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước; trong chế độ dân chủ, đấy là tiền đề để biến sự đồng thuận của các công dân thành quyền lực của chính phủ. Tính cạnh tranh, định kì, đại diện, công khai, trách nhiệm báo cáo trước cử tri là những đặc trưng không thể tách rời của quá trình phát triển dân chủ. Hạ thấp hoặc bỏ bớt bất kì yếu tố nào cũng đều có thể kéo theo sau các biểu hiện độc tài và đôi khi đơn giản là sự thoái hóa từ dân chủ thành chế độ chuyên chế.
  17. Chương 6: Các đảng chính trị và tổ chức xã hội 1. Các chính đảng trong xã hội dân chủ Khác với các chế độ độc tài và toàn trị, chế độ dân chủ đòi hỏi sự tham gia của quảng đại quần chúng vào đời sống của đất nước. Từng cá nhân, các nhóm, các hiệp hội, đảng phái, không nhất thiết phải nằm trong các cơ cấu quyền lực cũng, thứ nhất, gây ảnh hưởng đến quyết định của cử tri và như vậy có thể gián tiếp kiểm soát hoạt động của chính quyền; thứ hai, giữa các kì bầu cử, có thể thể hiện sự đồng ý hoặc không đồng ý, thậm chí bất phục tùng các biện pháp của chính quyền, dĩ nhiên là trong khuôn khổ của pháp luật. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét các biện pháp kiểm soát và gây ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ cũng như các biện pháp nhằm ngăn chặn các sai lầm trước khi chúng xảy ra hoặc sửa chữa khi chúng đã xảy ra. Trong xã hội dân chủ có rất nhiều lực lượng khác nhau cùng hoạt động, chúng đều ít nhiều tác động đến việc đưa ra các quyết định, soạn thảo và thực hiện các chương trình của nhà nước và có khi còn quyết định đến chính sách đối nội cũng như đối ngoại của quốc gia. Đấy là các đảng phái, các tổ chức công đoàn, các tổ chức xã hội, các tổ hợp công nghiệp-quân sự và tầng lớp trí thức tinh hoa nữa. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, nghiên cứu dư luận xã hội, thu thập chữ kí, tổ chức biểu tình, thông qua hệ thống giáo dục, thông qua các tác phẩm văn học và nghệ thuật, các tổ chức nói trên có thể mở rộng cơ sở xã hội của mình, nghĩa là lôi kéo thêm nhiều người mới tham gia vào phong trào. Đồng thời, càng ngày họ càng mở rộng thêm khả năng tác động vào chính sách của nhà nước. Phương tiện tác động quan trọng nhất đối với đời sống chính trị của đất nước là các đảng phái chính trị. “Đảng” có nghĩa là quyền lực. Một trong những định nghĩa đầu tiên về đảng là của E. Berk, nhà triết học theo trường phái bảo thủ, như sau: “Đảng là một tổ chức của những người liên kết lại với nhau với một nguyên tắc đặc thù để tạo ra đồng thuận nhằm thúc đẩy các quyền lợi quốc gia bằng những nỗ lực chung”. M. Weber lại cho rằng đảng là tổ chức xã hội, kết nạp thành viên trên cơ sở tự nguyện, đặt ra mục tiêu giành quyền lực để lãnh đạo và tạo cho các đảng viên tích cực các điều kiện (tinh thần và vật chất) đặc quyền và đặc lợi hoặc đồng thời cả hai. Người ta cũng thường coi đảng là “tổ chức của thành phần tích cực của một giai cấp (tầng lớp) đặt ra cho mình mục đích tiến hành cuộc đấu tranh chính trị vì quyền lợi của giai cấp (tầng lớp) ấy và là tổ chức thể hiện và bảo vệ các quyền lợi ấy một cách kiên định nhất”. Theo bạn định nghĩa nào thể hiện đúng nhất bản chất của một đảng chính trị? Các đảng phái chính trị thật muôn màu muôn vẻ, các đảng có thể khác nhau về số lượng đảng viên, về mục đích, về phương tiện và phương pháp hoạt động, về thời gian thành lập, về thành phần dân tộc, v.v Chúng tôi cho rằng trước hết phải chỉ rõ những khía cạnh đặc thù phân biệt giữa một đảng chính trị với các tổ chức và các nhóm quần chúng khác. Đấy trước hết là về mặt tổ chức và thứ hai đấy là tổ chức của những người đồng chí hướng. Nhưng khi nói đến các đảng phái chính trị, người ta thường nghĩ đến một loạt đặc điểm chủ yếu sau đây: 1. Đấu tranh giành chính quyền là mục đích của mọi chính đảng. 2. Tất cả các đảng đều xác định rõ mục đích và nhiệm vụ hoạt động trong các tài liệu mang tính cương lĩnh (cương lĩnh hoặc tuyên bố mang tính cương lĩnh) 3. Tất cả các đảng phái đều phải soạn thảo được chiến thuật hoạt động.
  18. 4. Nguyên tắc tổ chức được xác định trong điều lệ đảng. 5. Các đảng phái thường có biểu tượng riêng, tuy nhiên các phong trào khác nhau cũng có thể có các biểu tượng như thế. 6. Cố gắng mở rộng các mối liên hệ với quần chúng, sử dụng các phương tiện truyền thông (các đảng thường có các ấn phẩm định kì), các diễn đàn của các tổ chức nhà nước hoặc xã hội để tiến hành đấu tranh giành ảnh hưởng chính trị trong quần chúng. Các đảng phái còn thường xuyên sử dụng các mối liên hệ trực tiếp với quần chúng như tham gia mít tinh, tranh luận công khai, v.v Các đảng phái chính trị đều, ở mức độ này hay mức độ khác, có các đặc điểm nêu trên. Ban đầu người ta cho các đảng phái là xấu, là nguyên nhân của các xung đột và tranh chấp. Nhưng ngày nay ta phải nhận rằng các đảng phái có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống của mọi quốc gia. Solzhenytsin từng nói: “Chúng ta không thể nào tưởng tượng được đời sống chính trị mà không có đảng phái, cũng như đời sống cá nhân không có gia đình”. Theo chúng tôi, các đảng phái có ảnh hưởng lớn đến đời sống của xã hội như vậy là do trong các nền dân chủ đại diện, quyền lợi của từng cá nhân được thể hiện thông qua các đại biểu dân cử. Đảng chính trị là phương tiện truyền đạt quyền lợi hay được sử dụng nhất. Có rất nhiều đảng phái khác nhau, vì vậy cũng có rất nhiều cách phân loại khác nhau. Trong sách báo Liên Xô người ta chỉ sử dụng cách phân loại với quan điểm giai cấp của Lenin. Thí dụ, trước Cách mạng tháng Mười Lenin đưa ra ba tập đoàn chính trị chủ yếu (tương tự là ba loại đảng phái chính trị): địa chủ-phong kiến, dân chủ tư sản, dân chủ cách mạng. Không hạ thấp vai trò của Lenin trong việc nghiên cứu hoạt động của các đảng phái ở Nga, nhưng không nên quên rằng Lenin nghiên cứu vấn đề này trước hết như một lãnh tụ chính trị chứ không phải nhà chính trị học chuyên nghiệp. Như vậy là ta chỉ nên coi cách phân loại của Lenin như một trong những tiếp cận vấn đề mà thôi. Mặt khác, cũng không được quên rằng phương pháp tiếp cận lịch sử nước Nga mang tính giai cấp hồi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cũng còn là vấn đề cần bàn vì quá trình phân hoá giai cấp lúc đó chưa hoàn toàn kết thúc. Trong các tài liệu pháp luật và trong đời sống hàng ngày tại Nga việc phân chia thường được thực hiện theo giai tầng hoặc theo tôn giáo. Có rất nhiều cách phân loại các lực lượng chính trị và đảng phái chính trị. Trước hết đấy là chia thành “cánh hữu” và “cánh tả”. Nhưng cách tiếp cận như thế đã vô hình chung đơn giản hoá và không phản ánh được hoàn cảnh thực tế. Trong trường hợp này ta không thể phân biệt được các quyền lợi mang tính dân tộc, xã hội và tôn giáo, cũng có nghĩa là không nhìn thấy các cơ cấu chính trị thể hiện các quyền lợi đó. Ngoài ra, trên thế giời người ta còn phân chia các đảng theo nguyên tắc: xã hội, theo mục tiêu đấu tranh, theo các phương tiện và phương pháp đấu tranh nữa. Người ta còn phân chia các đảng thành: tiền phong (Đảng cộng sản Liên Xô là thí dụ tiêu biểu); đảng nghị viện (các đảng ở Anh, Pháp, Mĩ, Canada); đảng-công xã, đảng-câu lạc bộ. Đặc điểm chủ yếu của các đảng “tiền phong” là: chủ nghĩa tập trung, cấp dưới tuyệt đối phục tùng cấp trên. Các đặc điểm này không chỉ có trong giai đoạn đấu tranh giành quyền lực mà còn tồn tại ngay cả khi đã nắm được chính quyền. Trong những điều kiện nhất định các đảng như thế sẽ thoái hoá thành đảng toàn trị. Đảng viên các đảng toàn trị phục tùng một tư tưởng, cái tư tưởng cùng với thời gian sẽ bị nhân cách hoá, nghĩa là lãnh tụ đảng đóng vai trò người truyền bá hệ tư tưởng ấy trở thành thánh sống của họ. Các đảng “tiền phong” bao giờ cũng là những đảng cách mạng vì mục đích chủ yếu của họ là cải tạo lại toàn bộ xã hội. Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga và hậu duệ của nó là Đảng Cộng sản Liên Xô có thể coi là những thí dụ điển hình của các đảng toàn trị. Nhiều đảng công sản và dân chủ xã
  19. hội thế kỉ XX cũng có thể coi là các đảng kiểu này. Người ta gọi đấy là các đảng “tiền phong” để phân biệt với các đảng nghị viện. Cũng phải nhấn mạnh rằng đảng cộng sản hay đảng dân chủ xã hội mà hoạt động trong các nước dân chủ thì cũng có thể có những đặc điểm của đảng nghị viện. Đảng nghị viện cũng đặt ra nhiệm vụ giành quyền lực. Nhưng đấy là giành được đa số trong các cơ cấu nhà nước nhờ chiến thắng trong các cuộc bầu cử. Các đảng này tiến hành thảo luận các chính sách của nhà nước và xã hội, đưa ra các đề nghị về cải tạo xã hội hoặc đôi khi đứng lên đấu tranh chống lại đường lối đang được thực hiện. Nếu một đảng như thế giành được sự ủng hộ thì nó sẽ thành lập chính phủ và bắt đầu thực hiện cương lĩnh của mình. Khi cần, nó có thể thoả hiệp, hi sinh một vài quan điểm để liên hiệp với các đảng có đường lối gần giống với nó. Liên hiệp các đảng phái hay chính phủ đa đảng được thành lập bằng cách đó. Các đảng chính trị lí tưởng nhất là những tổ chức năng động, có thể thay đổi đường lối khi tình hình đất nước và thế giới đã thay đổi. Trên thế giới, ngoài những nước có hệ thống độc đảng còn có những nước đa đảng và cả những nước gọi là lưỡng đảng. Nhưng lưỡng đảng không có nghĩa là chỉ có hai đảng chính trị, đơn giản là hai đảng nghị viện chủ yếu này là những đối thủ chính của nhau trong các cuộc bầu cử mà thôi. Mĩ và Anh là những nước thuôc hệ thống lưỡng đảng. Tại các nước này, thường thì một đảng nhận được đa số tuyệt đối phiếu trong các cuộc bầu cử. Ở Mĩ hơn hai trăm đại diện các đảng phái khác cùng tham gia ứng cử tổng thống, nhưng những người này thường thu được không quá một triệu phiếu bầu. Cộng hoà Liên bang Đức được gọi là hệ thống hai đảng rưỡi. Đảng thứ ba cũng nhận được khá nhiều phiếu bầu và có ảnh hưởng tích cực đối với cương lĩnh của hai đảng chủ yếu kia. Đảng chiến thắng trong bầu cử thường chỉ nhận được 75-80% phiếu bầu vì vậy để thành lập chính phủ, một trong hai đảng chiến thắng phải mời đảng thứ ba tham gia liên hiệp. Ở Ý cũng có hai đảng chính trị chủ yếu, nhưng một đảng là dân chủ Thiên Chúa giáo thì luôn luôn giành được đa số còn đảng cộng sản thì luôn đóng vai trò đảng đối lập. Người ta còn chia các đảng thành đảng cầm quyền và đảng đối lập nữa. Đối lập là gì? Năm 1747, nhà quí tộc người Anh, ông Bolingbrooke, là người đầu tiên xác định bản chất của khái niệm này. Các đảng thất bại trong cuộc bầu cử có nhiệm vụ: thứ nhất, phê phán một cách có hệ thống hoạt động của chính phủ, chỉ ra các sai lầm và nhược điểm của nó; thứ hai, kiểm soát các hoạt động của chính phủ xem có phù hợp với hiến pháp, với những hứa hẹn khi tranh cử và có phù hợp với những nguyên tắc đạo đức được xã hội công nhận hay không; thứ ba, đề xuất các phương án giải quyết các vấn đề đang được đặt ra. Các đảng đối lập cũng như cầm quyền đều phải tuân thủ quyền lợi chung và đấu tranh bằng các biện pháp chính trị, nghĩa là cố gắng cải thiện trật tự chính trị hiện hành. Nhưng thường thì các đảng có ý định sử dụng biện pháp cách mạng để thay đổi chế độ chính trị xã hội cũng tự gọi mình là “đối lập”. Tuy nhiên, chỉ có những đảng không đe doạ cơ sở hiến pháp và hệ thống quản lí của đất nước mới có thể được coi là đối lập mà thôi. Trong các nhà nước dân chủ, qui chế và hoạt động của các đảng phái chính trị được điều chỉnh bằng một bộ luật đặc biệt. Thí dụ như Luật về đảng phái của Cộng hoà Liên bang Đức (1967) xác định rất cụ thể qui chế pháp lí của các đảng phái. Nhưng cũng có nước, thí dụ Anh, Thụy Sĩ, Úc, Canada không có những bộ luật như thế, ở đây các đảng hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc được hiến pháp qui định. Như vậy là các đảng thực hiện chức năng liên kết các quyền lợi của các tầng lớp xã hội khác nhau. Các đảng biến các quyền lợi khác nhau này thành đường lối chính trị và khi có điều kiện thì thực thi chúng trên bình diện quốc gia, bảo đảm mối liên hệ giữa các nhánh và cấp chính quyền, đưa ra các giải pháp mang tính thoả hiệp. Ngoài ra các đảng chính trị còn:
  20. • Đóng vai trò trung gian giữa các tầng lớp xã hội khác nhau; • Vận động về tử tưởng và tổ chức trong các chiến dịch tranh cử; • Đưa ra các đại biểu tham gia tranh cử (đa số ứng cử viên là đại diện các đảng phái) Thường thì tên các đảng phái đã phản ánh quan điểm chính trị, dân tộc và lãnh thổ, mối liên kết với tôn giáo, xã hội hay nghề nghiệp (thí dụ Đảng Bảo thủ ở Anh, Đảng Dân chủ Xã hội hay Đảng Xanh ở Cộng hoà Liên bang Đức). Các đảng phái tôn giáo như Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo có vai trò rất to lớn. Có các đảng ủng hộ thị trường và tự do kinh doanh, có đảng, ngược lại, ủng hộ nền kinh tế kế hoạch hoá. Có đảng của các điền chủ, lại có đảng của nông dân, có đảng hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, v v Có cả các đảng mang tên “phát-xít”. Đảng phát-xít đầu tiên do Benito Mussolini thành lập ở Ý vào năm 1919. Từ phát-xít gốc Ý có nghĩa là “chùm”, “bó”, đầu thế kỉ XIX vốn là biểu tượng của sự thống nhất của nước Ý. Sau này tên đó được gắn với Đảng Xã hội Chủ nghĩa Quốc gia Đức, tức Đảng của Hitler. Các Đảng phát-xít đẩy dân tộc này chống lại dân tộc khác, dùng bạo lực để nô dịch các dân tộc. Khi giành được chính quyền, cách đảng này lập tức xoá bỏ các truyền thống dân chủ, đàn áp đối lập. Cấn phải nói rằng các đảng phát-xít và các tổ chức tân phát-xít (có thể với tên gọi khác nhưng giữ nguyên biểu tượng và phương thức hoạt động truyền thống) xuất hiện tại cả những nước mà trong những năm 20-40 tư tưởng phát-xít đã bị bác bỏ, nước Anh là một thí dụ. Ảnh hưởng tiêu cực của các đảng đó thể hiện rất rõ ở Mĩ Latin, châu Á và châu Phi. Trong các nước dân chủ, các đảng bảo thủ, tự do, xã hội hay cộng sản, sau khi giành thắng lợi trong tuyển cử sẽ thành lập chính phủ. Như đã nói bên trên, chính phủ có thể là đa đảng [trong thành phần]. Chính phủ có thể là đa số, thiểu số hoặc liên hiệp. Trong trường hợp thứ nhất (chính phủ đa số), đảng cầm quyền có thể lãnh đạo đất nước một cách tự tin, có thể thực hiện cả những chương trình còn gây tranh cãi, mà nếu đảng không nắm đa số tuyệt đối trong các cơ quan lập pháp thì không thể nào thực hiện được. Chính phủ thiểu số thường thiếu ổn định vì phải thoả hiệp, hợp tác với các đảng khác. Rõ nhất là sự thay đổi chính phủ thường xuyên ở Ý và Israel, đấy là các chính phủ thiểu số. Những người ủng hộ cho việc thành lập các chính phủ thiểu số thường đưa ra các lí lẽ sau đây: thứ nhất, các chính phủ thiểu số thường rất nhạy cảm đối với dư luận xã hội; thứ hai, các chính phủ này thường ít khi thực hiện các chương trình mâu thuẫn với nhau. Đấy là một trong những lí do để George Washington và các đồng tác giả khác của Hiến pháp Hoa Kì đưa ra hệ thống “kiếm chế và đối trọng” của các nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở Mĩ tình trạng gọi là “thiểu số” xuất hiện khi tổng thống và đa số thuộc lưỡng viện quốc hội là người của những đảng khác nhau. Tổng thống Ronald Reagan năm 1980 giành thắng lợi khi đảng của ông (Đảng Cộng hoà) nắm đa số cả hai viện quốc hội. Tổng thống Bill Clinton năm 1990 cũng cầm quyền khi đảng của ông (Đảng dân chủ) kiểm soát lưỡng viện quốc hội. Nhưng sau này, vào năm 1994, tình hình đã thay đổi: đa số Thượng viện thuộc phe đối lập. Thượng viện cũng ở thế đối lập trong nhiệm kì thứ hai của Ronald Reagan và George Bush (cả hai đều thuộc Đảng Cộng hoà). Ở Mĩ, cử tri có ảnh hưởng rất lớn với các nghị sĩ cho nên không phải lúc nào dự luật hoặc đề nghị của tổng thống cũng được quốc hội thông qua. Tuy vậy ở Mĩ không cần tiến hành các cuộc bầu cử mới (như thường thấy trong các nền dân chủ đại nghị khác), tổng thống chỉ cần chứng minh sự cần thiết của các đề nghị hay dự luật của mình với quốc hội là đủ. Trong các điều kiện của nền dân chủ, không thể có một đảng nào được mọi người cùng công nhận là đảng cầm quyền xứng đáng nhất. Vì vậy mà không có đảng nào cầm quyền được lâu. Nhật và Ý là hai
  21. trường hợp ngoại lệ. Việc một đảng cầm quyền trong một thời gian dài (Liên Xô, Mexico) chỉ chứng tỏ rằng đấy là những nước chưa dân chủ chứ không phải là các đảng cầm quyền là không chê vào đâu được. Và cuối cùng cũng phải nhấn mạnh rằng việc thay đảng cầm quyền trong các nước dân chủ thường không kéo theo những thay đổi căn bản trong chính sách kinh tế. Cạnh tranh chính trị hiện diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, và có vai trò quan trọng trong hoạt động của các đảng phái. Nhất là khi ta nói đến cơ sở xã hội, việc lựa chọn phương thức đấu tranh, cử ứng viên tham gia bầu cử, v.v Đến đây chúng ta cũng cần xem xét lịch sử một số đảng quan trọng nhất ở Mĩ, Anh và Nga. Các đảng chính trị ở Mĩ Đảng Dân chủ được thành lập ngay trong những năm đầu tiên của nền Cộng hoà và thể hiện các quan điểm và lí tưởng của những người sáng lập ra nó là Thomas Jefferson và các đồng chí của ông. Đây là một đảng theo đường lối tự do cổ điển, triết lí của nó là chính phủ càng ít can thiệp sâu vào đời sống của người dân thì càng tốt, nghĩa là xã hội càng độc lập với chính phủ thì càng tốt. Nhưng dưới thời các tổng thống Franklin Delano Roosevelt (1933-1945) và Lyndon Johnson (1963-1969) thì đảng đã thay đổi một cách cơ bản đường lối của mình. Thực chất của các thay đổi ấy là quan niệm cho rằng chính nhà nước phải bảo đảm sự công bằng trong xã hội, phải là lực lượng tạo nên thế cân bằng trong xã hội. Nghĩa là chính phủ phải giảm nhẹ các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với các thành phần dân cư dễ bị tổn thương nhất. Các tổng thống đảng viên Dân chủ là: F. D. Roosvelt, G. Truman, J. Kennedy, L. Johnson, J. Carter, B. Clinton. Đảng Cộng hoà được củng cố dưới thời tổng thống A. Lincoln (1861-1865). Chính sách của Đảng Cộng hoà là bảo vệ chủ nghĩa tư bản truyền thống: giảm tối đa sự kiểm soát của nhà nước, giảm thuế, quân đội mạnh, chính sách đối ngoại mềm dẻo. Nguyên tắc chủ yếu của họ là: “Nước Mĩ trên hết!”. Các tổng thống đảng viên Cộng hoà: D. Eisenhower, R. Nixon, J. Ford, R, Reagan, G. Bush. Hiện nay hai đảng này đều có các đảng viên là các nhà doanh nghiệp, các điền chủ, giáo chức, bác sĩ, viên chức. Nghĩa là họ cố gắng hợp nhất quyền lợi của những người hoàn toàn khác nhau. Phải nói thêm rằng hiện nay Đảng Dân chủ hợp tác chặt chẽ với các tổ chức công đoàn, cố gắng mở rộng ảnh hưởng trong giới trí thức và tầng lớp trung lưu, ủng hộ các thành phần dân tộc và tôn giáo thiểu số. Đảng Cộng hoà lại được tầng lớp doanh nhân, quân nhân, điền chủ, thành phần trí thức có xu hướng bảo thủ ủng hộ. Hai đảng này có ảnh hưởng rất lớn không chỉ bên trong nước Mĩ mà còn gây được ảnh hưởng ở các nước dân chủ khác. Cả hai đảng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm không những trong việc quản lí đất nước mà cả các phương pháp gây ảnh hưởng khi ở thế đối lập, hai đảng thay nhau nắm quyền cai trị thông qua các cuộc bầu cử dân chủ. Cả hai đảng đều thực hiện việc lựa chọn các ứng cử viên một cách cực kì cẩn thận: ở Mĩ hiếm có người nào nhảy ngay được vào tầng lớp chính khách cao cấp. Thường thì đấy là một con đường khá dài, phải trải qua từng nấc thang một. E. Kennedy là một ngoại lệ, ông đã trở thành thượng nghị sĩ của bang Massachusetts ngay sau khi tốt nghiệp đại học và giữ cương vị này hơn 25 năm. Con đường hoan lộ thênh thang như vậy một phần là nhờ sự nổi tiếng của cha và người anh là cố tổng thống J. Kennedy. Người ta thường cho rằng tổng thống Mĩ đứng trên các đảng phái. Trong một bài diễn văn Thomas Jefferson đã nói một câu nổi tiếng như sau: “Mọi sự khác nhau về ý kiến đều không phải là khác nhau
  22. về nguyên tắc. Khác nhau về tên gọi nhưng chúng ta là những người ủng hộ cùng một nguyên tắc. Tất cả chúng ta đều là những người cộng hoà, tất cả chúng ta đều là những người ủng hộ chế độ liên bang”. Nhưng vì ứng cử viên là do các đảng giới thiệu nên tổng thống có mối liên hệ mật thiết với đảng, cần sự ủng hộ của các đảng viên dù rằng sau khi đắc cử mối liên hệ có thể yếu đi. Sau khi trở thành tổng thống, ứng viên bắt đầu kêu gọi sự ủng hộ của toàn thể cử tri. Tại Mĩ, dân chúng thường tỏ ra tích cực trong giai đoạn tranh cử. Họ thường gặp gỡ ứng viên, tham gia thu thập chữ kí, biểu tình, vận động người khác ủng hộ ứng viên, và cuối cùng là quyết định “bỏ phiếu cho ai”. Đa số cử tri ủng hộ cho một đảng nào đó, dù họ không phải là đảng viên. Người Mĩ coi việc tham gia vào tiến trình dân chủ là nghĩa vụ, trách nhiệm công dân. Quĩ của đảng là do các tổ chức và cá nhân ủng hộ. Các tổ hợp công nghiệp và công đoàn là những tổ chức ủng hộ nhiều nhất. Các đảng phái chính trị ở Anh Các đảng chính trị ở Anh xuất hiện từ thế kỉ XVII, sau khi Nữ hoàng Elizabeth, vốn không có người nối nghiệp trực tiếp, tạ thế. Dòng họ Stuart tỏ ra không đủ khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp đang đặt ra trước đất nước: James I (1603-1625) và Charles I (1625-1649) khăng khăng cho rằng họ tiếp tục cai trị vì là “thiên tử”. Chales I giải tán quốc hội, từ năm 1628 đến năm 1640 nền dân chủ đại nghị không tồn tại ở Anh. Xuất hiện hai đảng: đảng viên bảo hoàng tự gọi mình là Cavalier, đây chính là tiền thân của những người bảo thủ sau này. Những người ủng hộ nến dân chủ tự gọi mình là “đầu tròn” chính là tiền thân của những người tự do về sau. “Đầu tròn” tiến hành “bảo vệ” nền dân chủ bằng vũ lực: cuộc nội chiến đã dẫn đến việc thành lập nước cộng hoà, Nhà vua bị xử tử vào năm 1649. Từ đó đến nay những người bảo thủ và những người tự do đã thường xuyên đấu tranh không khoan nhượng với nhau để giành quyền kiểm soát quốc hội. Trong thế kỉ XX những người Labourist (lao động) đã dần dần thay thế những người thuộc phái tự do trong vai trò đối lập với phái bảo thủ (Tori). Các đảng chính trị ở Anh có sự phân hoá rất lớn về quan điểm và thành phần xã hội. Các đảng viên Tori thường thuộc tầng lớp có của, có học, tin vào chính phủ mạnh và trung thành với những giá trị truyền thống. Họ không phủ nhận cải cách nhưng cho rằng phải rất thận trọng. Đảng viên Đảng Lao động là những người nghèo hơn, ít học hơn và hi vọng rằng chính phủ sẽ dùng thuế đánh vào người giầu để tạo công bằng trong xã hội. Đảng Bảo thủ và Đảng Lao động có quan điểm hoàn toàn khác nhau về vai trò của chính phủ trong lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Đảng Lao động ủng hộ việc nâng cao vai trò của chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Dưới tác động của Đảng này, nước Anh đã tiến hành công cuộc cải cách giáo dục, thực hiện việc chữa bệnh không mất tiền, tăng thêm tài trợ của nhà nước cho các phương tiện truyền thông đại chúng và công nghệ điện ảnh, xây dựng nhà ở, quốc hữu hoá ngành luyện kim, đóng tầu, năng lượng và giao thông vận tải. Đảng Bảo thủ (dưới thời Margaret Thatcher và John Major) đã xem xét lại nhiều chương trình của chính phủ và việc sử dụng ngân sách nhà nước. Một số công ty đã bị giải tư. Nhưng thay đổi ở lục địa châu Âu đã được phản ánh trong quan điểm và hoạt động của các chính đảng ở Anh. Thí dụ, Đảng Lao động đã phản ứng khá gay gắt trước việc nhiều người Anh có thể thất nghiệp khi hình thành thị trường lao động chung trên toàn châu Âu. Đảng Bảo thủ phải thay quan điểm khi đồng bảng Anh, một trong những đồng tiền ổn định nhất châu Âu, mất giá. Đảng Bảo thủ được các công ty lớn tài trợ, trong khi Đảng Lao động lại dựa vào các tổ chức công đoàn, hiện nay các công đoàn còn buộc đoàn viên của mình đóng góp cho các quĩ này. Trong chế độ đại nghị, mỗi đảng đoàn là một khối thống nhất, mọi thành viên đều phải tuân thủ kỉ luật. Vì thường thường
  23. trong các cuộc bầu cử cử tri chỉ bầu cho danh sách đảng viên các đảng phái chứ không phải cho những ứng viên cụ thể nên đại biểu chống lại đường lối của đảng có thể bị khai trừ. Tại Anh, từ sau chiến tranh thế giới thứ II, chính phủ thường nắm được đa số trong quốc hội. Các chính đảng tại Nga Vấn đề hình thành và hoạt động của các chính đảng tại Nga có ý nghĩa thời sự, nhất là trong giai đoạn thiết lập hệ thống đa đảng hiện nay. Nhưng trước hết ta hãy xét qua lịch sử hình thành của nó. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đời sống chính trị tại Nga có một số đặc thù. Chế độ quân chủ chuyên chế, giai cấp tư sản, nhiều dân tộc cũng như một loạt nhân tố khác không thể không tạo dấu ấn lên cơ cấu chính trị của nhà nước Nga. Khác với nhiều nước khác, các chính đảng ở Nga chỉ xuất hiện vào nửa sau của thế kỉ XIX. Trong những năm 1905-1907, tại Nga đã có khoảng 50 đảng phái đủ mọi khuynh hướng chính trị và tư tưởng; đến năm 1917 số đảng đã tăng gấp đôi. Các đảng lớn là: Xã hội Dân chủ (Bolshevik và Menshevik); Đảng Lao động, hình thành trong giai đoạn Duma thứ nhất; Đảng Dân chủ Cách mạng. Đây là các đảng theo đường lối cải tạo xã hội một cách triệt để. Các đảng phái trên, trừ Đảng Bolshevik, đều có thể được coi là đảng đại nghị. Trong một thời gian dài tầng lớp cầm quyền ở Nga không có đảng phái riêng. Chế độ của Sa Hoàng không nhìn thấy nhu cầu tổ chức các lực lượng chính trị nên các nhà quí tộc và địa chủ đã thành lập nên các tổ chức có tính chất đẳng cấp nhằm bảo vệ chế độ quân chủ theo kiểu “đảng-câu lạc bộ”. Đấy là các tổ chức: Hội nghị Nga, Đảng bảo hoàng và sau này là các đảng: Liên minh Dân tộc Nga, Liên minh của Nhân dân Nga. Yêu cầu có tính cương lĩnh của các tổ chức này là: Chính thống giáo, bảo hoàng và dân tộc (nghĩa là có tính đại Nga). Cách mạng 1905-1907 đã đẩy nhanh việc hình thành các đảng phái tư sản theo xu hướng tự do. Hai đảng lớn nhất trong số đó là: Liên hiệp 17 tháng Mười (gọi là những Người tháng Mười) và Đảng Dân chủ Lập hiến (gọi là Kadet). Các đảng này cũng có thể được coi là các đảng đại nghị. Cách mạng năm 1917 đã cắt đứt hoạt động của hầu hết các đảng phái chính trị. Kết quả là tại Nga trong suốt 70 năm chỉ có chế độ một đảng, không cho phép bất kì một phong trào đối lập nào. Việc chuyển từ chế độ toàn trị sang các nguyên tắc dân chủ đã tạo điều kiện hình thành chủ nghĩa đa nguyên chính trị và thúc đẩy quá trình phân hoá xã hội. Cơ sở pháp lí cho việc hình thành chế độ đa đảng ở Nga được xác lập bởi Hội nghị đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ III vào tháng 3 năm 1990. Luật “Về các tổ chức xã hội” xác định trình tự thành lập, các quyền và nguyên tắc hoạt động của các tổ chức xã hội. Từ tháng 3 năm 1991 bắt đầu cho phép đăng kí các đảng phái và các tổ chức xã hội. Bộ Tư pháp Nga đã đăng kí các đảng phái: Đảng Dân chủ Nga, Đảng Dân chủ Tự do Nga, Đảng Dân chủ Xã hội Liên bang Nga, Đảng Cộng hoà Liên bang Nga, Đảng Nông dân Nga, Phong trào Cải cách Dân chủ, Đảng Nhân dân Nga, Đảng Tự do Kinh tế; Phong trào Dân chủ Thiên chúa giáo Nga, Hội nghị Dân tộc Nga, Đảng Dân chủ Tự do Nga, Mặt trận Cứu nguy Dân tộc, Đảng Dân chủ Pháp chế, Đảng Xã hội Chủ nghĩa của Người lao động, Đảng Công nhân Cộng sản Nga, Đảng Mác-xít, Đảng Cộng sản Liên bang Nga và các đảng khác. Các đảng này cũng như các đảng khác hiện đang tồn tại ở Nga có ảnh hưởng, định hướng chính trị và xã hội cũng như dựa vào các thành phần xã hội hoàn toàn khác nhau. Thí dụ Phong trào Dân chủ tập hợp được trên 30 đảng, nhóm và các phong trào khác nhau, và theo chúng tôi thì đây là lực lượng chính trị mạnh nhất hiện nay. Cuối năm 1991, đầu năm 1992 đã hình thành Phong trào Cải cách Dân Chủ quốc tế, cũng như Phong trào Cải cách Dân chủ Nga. Cả hai phong trào này đều vận động cho những cuộc cải cách sâu rộng về kinh tế, chính trị và xã hội. Các phong trào này nhắm vào các doanh nhân, điền chủ và giới trí thức; được sự ủng hộ mạnh mẽ của thanh niên. Hội nghị Dân tộc Nga tập hợp các phong trào dân tộc chủ nghĩa và bảo hoàng cực kì đa dạng. Tồn tại mấy đảng theo xu hướng cộng sản, thí dụ như Đảng Cộng sản Nga, Nước Nga Lao động, v.v Các phong trào này có chung đường lối là đối lập kiên quyết, nhiều khi không khoan nhượng đối với chiến lược cải cách hiện hành. Đảng Dân chủ Tự do có ý định tập hợp tất cả các phong trào theo đường lối dân tộc và tự do, đang rất được lòng
  24. quần chúng. Các đảng này cũng như nhiều đảng khác có thể trở thành các đảng nghị trường, có thực sự trung thực trong cuộc đấu tranh chính trị để giành sự ủng hộ của quần chúng hay không? Chỉ có thời gian mới trả lời được mà thôi. Nhưng ngay từ bây giờ đã có thể khẳng định rằng phục hồi lại hệ thống đa đảng là những bước đầu tiên trên con đường dân chủ hoá của nước Nga. Bước tiếp theo là mở rộng và làm sâu sắc thêm các nguyên tắc dân chủ. Đấy là con đường mà tất cả các đảng và các phong trào chính trị phải đi. Từ những điều đã trình bày, ta có thể thấy rằng các đảng cũng đa dạng như chính xã hội trong đó họ đang hoạt động. Những chức năng quan trọng nhất của các chính đảng trong một xã hội dân chủ là đưa ra các biện pháp công bằng và hoà bình để cho các công dân lựa chọn người lãnh đạo và thông qua họ tham gia trực tiếp vào tiến trình dân chủ của đất nước. 2. Các nhóm quyền lợi. Vai trò của giới tinh hoa Nhiều công dân, tuy không phải đảng viên một đảng phái nào, nhưng cũng quan tâm đến chính sách của chính phủ. Trong các điều kiện dân chủ, họ có thể gây ảnh hưởng đến chính sách bằng những hành động đơn độc hoặc thông qua các nhóm quyền lợi hay nhóm vận động hành lang (lobby). Các nhóm này có thể có mức độ tổ chức, thời gian tồn tại và hiệu quả khác nhau. Các nhóm quyền lợi có thể tồn tại trong một thời gian dài, nhưng cũng có khi rất ngắn, chỉ để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể nào đó. Trên thế giới có những nhóm lobby chỉ đòi hỏi giải quyết những vấn đề kinh tế cụ thể, lại có những nhóm đòi hỏi giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội. Vậy vận động hành lang (lobby) là gì? Lobby (tiếng Anh có nghĩa là hành lang, tiền sảnh) là việc thành lập các nhóm gây áp lực đối với các nghị sị, mục đích là thuyết phục họ ủng hộ một dự án nào đó. Các nhóm quyền lợi có vai trò to lớn trong việc hình thành dư luận xã hội. Các nhóm quyền lợi kinh tế bao gồm công đoàn, hiệp hội các nhà sản xuất và buôn bán, các phòng thương mại, các nhà sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, v.v Công đoàn là nhóm có ảnh hưởng hơn cả. Các hiệp hội nghề nghiệp như hội bác sĩ, hội luật gia, kĩ sư, hội địa lí, hội nghệ sĩ, hội nhà văn cũng có ảnh hưởng rất lớn. Tham gia các hội đoàn như thế giúp nâng cao tay nghề, và như thế cũng giúp hình thành các định hướng giá trị và chính trị theo lối phe nhóm. Các nhóm được xây dựng theo nguyên tắc sắc tộc, vùng miền (đồng hương), theo giới tính và tuổi tác (phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh) cũng có ảnh hưởng lớn đối với đời sống chính trị của xã hội. Các nhóm này thường dựa vào các phương tiện truyền thông đại chúng để chuyển tải các vấn đề mà họ quan tâm và gây ảnh hưởng đối với chính sách. Các nhóm này phải nghiên cứu dư luận xã hội, mở rộng cơ sở của mình, có lãnh tụ và được quần chúng ủng hộ. Các nhóm này chính là cầu nối giữa chính quyền và quần chúng. Các nhóm như thế sử dụng rất nhiều biện pháp đấu tranh khác nhau: biểu tình ôn hoà, đưa kiến nghị, bãi công, tẩy chay Trong xã hội dân chủ, đấy là quyền của mọi công dân hay của các nhóm đã được hiến pháp qui định. Có rất nhiều thí dụ về dân sự bất phục tùng, mà trường hợp điển hình nhất là cuộc phản kháng bất bạo động chống lại nhà cầm quyền Anh ở Ấn Độ, một phong trào cuối cùng đã dẫn đến nền độc lập của nước này. M. Gandhi đã kêu gọi dân chúng bất tuân những luật lệ tước đoạt nền độc lập của Ấn Độ. Thí dụ ông đã kêu gọi người dân không đóng thuế cho chính quyền thực dân và lãnh đạo phong trào đòi khôi phục các quyền cá nhân đã bị chính quyền thực dân tước đoạt.
  25. Các nhóm quyền lợi thường sử dụng các nhà vận động hành lang (lobbist) chuyên nghiệp để tác động lên chính sách của chính phủ. Đôi khi người ta còn sử dụng các chiến dịch tuyên truyền và quảng cáo để tăng cường ảnh hưởng đối với các cơ quan lập pháp và dư luận xã hội nữa. Các nhiệm vụ quản lí ngày càng phức tạp, ngày càng đòi hỏi tính chuyên nghiệp đã đưa đến một xu hướng mới trong tiến trình dân chủ hoá: sự tập trung quyền hành vào tay những nhóm tinh hoa. Trước hết ta xem xét các thuật ngữ: tinh hoa, tinh hoa chính trị, tập đoàn chính trị. Thường thường, khi nói đến tầng lớp tinh hoa là người ta nghĩ tới một tầng lớp xã hội hẹp, giữ vị trí (nhờ vai trò, trình độ, khả năng kinh tế) đặc biệt trong xã hội. Nói đến tầng lớp tinh hoa Nga thì cần xem xét vấn đề này trong tiến trình lịch sử. Ở Nga, từ tháng Mười năm 1917 cho đến năm 1985 tầng lớp tinh hoa chính là giai cấp cầm quyền, chủ sở hữu tập thể toàn bộ phương tiện sản xuất, là giai cấp áp đặt nền chuyên chế của mình lên toàn bộ xã hội. Tầng lớp tinh hoa trong giai đoạn Xô Viết được gọi là Nomenclatura, nghĩa là nhóm chóp bu của chế độ quan liêu, thư lại nắm quyền và chiếm chừng 1 đến 1,5% dân số Liên Xô. Đấy là các lãnh đạo cao cấp của Đảng và nhà nước, tướng tá bộ nội vụ, Ủy ban an ninh quốc gia, quân đội, giám đốc các xí nghiệp lớn, các văn nghệ sĩ, nhạc sĩ, v.v Chỉ có đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô mới được lọt vào tầng lớp này mà thôi. Từ những năm 30 của thế kỉ trước, cùng với một chính sách đã được cân nhắc và bản năng bảo tồn của chế độ, tại Liên Xô đã hình thành một tầng lớp tinh hoa mới. Trung thành với chế độ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực tư tưởng và đạo đức nữa mà đã được thể hiện bằng vật chất, bằng quyền lợi của những ngươi tham gia tích cực vào việc thực thi các chức năng quản lí và đàn áp. Quá trình này gợi người ta nhớ đến việc hình thành tầng lớp quí tộc thời phong kiến, chỉ với một khác biệt: trong xã hội Xô Viết đặc quyền đặc lợi không mang tính kế thừa và không được pháp luật bảo hộ, mặc dù trong nhiều trường hợp đặc quyền đặc lợi được truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia. Tại phương Tây và Mĩ không có quá trình phân tầng trên cơ sở các nghị định của chính phủ như thế. Một trong các đặc thù của chế độ phân tầng Xô Viết là sự tồn tại của các hạt nhân trong mỗi tầng lớp. Ở Liên Xô nghề nào cũng có tầng lớp tinh hoa, được nhiều ưu tiên ưu đãi hơn hẳn những người khác. Công nhân, nông dân, trí thức đều có tầng lớp tinh hoa của mình. Có thể bạn nghĩ khác, nhưng chúng tôi cho rằng chế độ đã sử dụng cách ấy để chứng tỏ rằng ở đây cũng có sự “bình đẳng về cơ hội”, làm nghề gì cũng là vinh quang cả. Phải nói thêm rằng hệ thống phân tầng xã hội Xô Viết năng động hơn các xã hội khác: các ưu tiên, ưu đãi có thể bị tước bỏ ngay khi có khuyết điểm, sai lầm, v.v Ai cũng nhận thấy rõ điều đó, nhất là trong giai đoạn khủng bố dưới thời Stalin. Hệ thống phân tầng Xô Viết có một nghịch lí sau đây: địa vị càng cao thì càng không vững, nhất là những vị trí có liên quan đến hoạt động chính trị. Đa số nước khác thì ngược lại: nấc thang xã hội và nghề nghiệp càng cao thì càng chắc chắn. Ở Mĩ, Canada, Anh và nhiều nước khác tình hình là như thế. Trong những năm 60 của thế kỉ 20, T. Rigby, một nhà chính trị học ở Mĩ khi nghiên cứu mối quan hệ nghề nghiệp và đảng tịch trong xã hội Xô Viết, đã rút ra kết luận như sau: “Những nghề mà chỉ đảng viên mới được làm bao gồm cán bộ đảng, cán bộ các cơ quan hành chính của chính phủ, lãnh đạo các bộ và cơ quan ngang bộ, lãnh đạo các phòng ban cấp thành phố trở lên, giám đốc các xí nghiệp quốc doanh. Ở các chức vụ này người ngoài đảng chiếm không tới 1%. Các nghề khác thực tế cũng phải là đảng viên mới được làm vì người ngoài đảng chiếm không quá 5% bao gồm: luật sư, sĩ quan quân đội, cảnh sát, chủ tịch các nông trường ”. Bạn có đồng ý với Rigby không? Đấy có phải là biểu hiện của chế độ toàn trị không?
  26. Trong những điều kiện hiện nay ta thường gán cho từ giới tinh hoa ý nghĩa sau: Tinh hoa là tầng lớp tri thức nhất trong xã hội, là tầng lớp có khả năng tạo ra các ý tưởng mới trong những lĩnh vực khác nhau (chính trị, kinh tế, văn hoá ). Tầng lớp tinh hoa chính trị là một nhóm (một phần của xã hội) thực hiện việc lãnh đạo trực tiếp đối với xã hội, nắm quyền điều hành bộ máy quản lí nhà nước. Trong môn chính trị học hiện nay người ta đang tranh cãi xem tầng lớp tinh hoa chính trị có phải là một nhóm người thể hiện quyền lợi của toàn xã hội hay đây chỉ là nhóm đầu sỏ của tầng lớp đang nắm quyền thống trị về kinh tế. Bạn quan niệm như thế nào? Tập đoàn chính trị thường được hiểu là tổ chức không chính thức của các nhà hoạt động chính trị hay hoạt động nhà nước nhằm giành lấy quyền lực quốc gia hoặc kiểm soát nó trên thực tế bằng các phương tiện bất hợp pháp hay tội phạm. Sự tập trung quyền lực vào tay những nhóm tinh hoa được thể hiện qua: thứ nhất, tăng cường quyền lực của các cơ quan hành pháp, các cơ quan hành pháp thường giành quyền ban bố pháp luật; thứ hai, ảnh hưởng của các cơ quan chuyên trách (hội đồng, ủy ban) trong bản thân cơ quan lập pháp, nghĩa là ảnh hưởng của tầng lớp thư lại trong việc ban hành quyết định chính trị. Tại một số nước ảnh hưởng của những nhóm thiểu số còn thể hiện ở hoạt động của các trung tâm quyền lực bí mật, không chính thức. Nếu tầng lớp tinh hoa nắm quyền ở đấy thiếu năng động thì nguy cơ “ma-phia hoá” chính quyền là rất lớn. Thí dụ, ở Columbia các nhóm mafia buôn bán ma túy có ảnh hưởng rất lớn. Mặt khác, xã hội không thể vận hành mà không có tầng lớp tinh hoa, kể cả tầng lớp tinh hoa trên những nấc thang quyền lực cao nhất. Vai trò của tầng lớp tinh hoa là: “đưa ra các hình mẫu, các thí dụ về việc phải sống như thế nào, hành động ra sao cho có đức hạnh; đào sâu, nâng cao, làm giầu thêm các nhu cầu của con người, nghĩa là sáng tạo ra văn hoá” (István Bibo). Dù đòi hỏi có vẻ hơi cao, nhưng theo chúng tôi Bibo hoàn toàn có lí vì nếu không có tầng lớp tinh hoa trí thức, không có những người truyền bá mẫu hình văn hoá cho các thành viên khác theo thì xã hội sẽ không ổn định, không thể dự báo trước được. Ở đây chúng tôi muốn nói đến không chỉ nhóm xã hội thay nhau cầm quyền mà còn nói đến tầng lớp trí thức, những người: • Đưa ra các chương trình chính trị, kinh tế, xã hội cho các cơ quan quyền lực cũng như cho các nhóm đối lập; • Nghiên cứu và hình thành dư luận xã hội; • Tạo ra các định hướng đạo đức, giá trị cho xã hội. Đấy là các nhà khoa học, các nhà hoạt động xã hội, những người hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, những người giữ cho xã hội công dân vận hành một cách bình thường, thiếu nó thì không thể nào có dân chủ được. Về khía cạnh này thì có thể nói sau Cách mạng tháng Mười, nước ta đã bị giáng một đòn nặng (các nước gọi là xã hội chủ nghĩa khác cũng vậy) vì tầng lớp tinh hoa trí thức của Nga đã bị tiêu diệt hoàn toàn, một phần di cư ra nước ngoài, nhưng phần lớn đã bị giết hại trong giai đoạn khủng bố dưới thời Stalin. Kết quả là dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng đương quyền, xã hội đã đánh mất các truyền thống, các giá trị văn hoá bị bóp méo, xuyên tạc.
  27. Quá trình phục hưng xã hội phụ thuộc phần lớn vào việc sửa chữa các sai lầm trong quá khứ, phụ thuộc vào việc hình thành con người tự do, con người có tư duy độc lập, hình thành tầng lớp tinh hoa trí thức. Không chỉ nhà nước mà tất cả các cơ cấu phi chính phủ đều phải hướng đến mục tiêu đó. Và cuối cùng, hoạt động của bộ máy nhà nước phụ thuộc vào công tác của các nhân viên, những nhà chuyên môn của nó, nghĩa là phụ thuộc vào các đại diện của nền dân chủ. Đấy là những người ăn lương nhà nước, nắm trong bộ máy nhà nước để thực thi các chức năng quản lí xã hội. Theo M. Weber, các đặc trưng chủ yếu của bộ máy quan liêu là: 1. Sự hợp lí mang tính mục đích. 2. Hệ thống các mối liên hệ theo chiều dọc được xác định một cách rõ ràng và tuân thủ một cách tuyệt đối. 3. Phân công chức trách rõ ràng trên cơ sở chuyên môn hoá hẹp. 4. Một hệ thống các qui định và nghị định xác định rõ quyền và trách nhiệm của các nhân viên. 5. Qui định rõ các phương pháp và các bước trong khi thi hành phận sự. Nếu các chức năng đó được tuân thủ một cách triệt để thì ta có một hình thức tổ chức có hiệu quả và năng suất cao hơn hẳn các tổ chức khác. Một bộ máy quan liêu vận hành tốt là điều kiện bắt buộc đối với mọi hệ thống, kể các hệ thống quản lí nhà nước. Nhưng đáng tiếc đấy chỉ là một mặt của tấm huy chương. Trong đời sống hàng ngày, chắc chắn các bạn từng đụng chạm với những đặc trưng khác của bộ máy quan liêu, những hiện tượng tiêu cực như thế chính là cản ngại cho mọi tiến trình cải cách. Khi nói về bộ máy quan liêu người ta thường hay nghĩ đến khía cạnh tiêu cực của nó. Chuyện đó không phải chỉ có ở nước Nga. Đấy là hiện tượng chung của mọi quốc gia, không có ngoại lệ. Tệ quan liêu giấy tờ không phải bao giờ cũng xuất phát từ những nguyên nhân khách quan. Thường thì đấy là ước muốn của những người có quyền “muốn thể hiện quyền lực của mình”. Đối với nước Nga thì khía cạnh tiêu cực của khái niệm “quan liêu” đã có lịch sử lâu đời, là do nước ta quá lớn, bộ máy quản lí cồng kềnh, thiếu tổ chức và thiếu hiệu năng; tệ tham những, hối lộ; tất cả những người có quyền, dù ít dù nhiều, đều lợi dụng quyền lực cho các mục đích cá nhân. Nhưng điểm đặc biệt ở đây là bộ máy quan liêu lại được giao nhiệm vụ phân phối tất cả những gì được làm ra trong khuôn khổ của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Vì vậy ở Liên Xô bộ máy quan liêu có một quyền lực cực kì to lớn, không nước nào trên thế giới có một bộ máy với quyền lực như thế. Các nhà văn như Chekhov, Gogol, Saltykov- Shchedrin và Bulgakov đã từng lưu ý đến vấn đề bộ máy quan liêu, đã từng chế nhạo nó, và như vậy, cũng là đấu tranh với nó. Trong nhận thức xã hội, khi nói đến bộ máy quan liêu là người ta nghĩ ngay đến mặt tiêu cực vì cho đến tận bây giờ vẫn còn thấy rất nhiều biểu hiện độc đoán không thể tượng nổi của nó. Nhưng mặt khác, cũng cần nhận thức rõ rằng không có các công chức, viên chức nhà nước có hiểu biết, có tay nghề cao ở mọi vị trí, nhất là các vị trí quyền lực, thì cũng không thể nào chuyển sang hệ thống quản lí dân chủ được. Tôn trọng cá nhân con người là biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu hữu hiệu nhất. Để làm việc đó cần có: • Luật pháp và tuân thủ pháp luật trên thực tế; • Dư luận xã hội; • Trách nhiệm và sự quan tâm của mỗi người dân; • Các biện pháp kinh tế. Đây là nhiệm vụ vô cùng phức tạp nhưng cũng vô cùng quan trọng. Chỉ có thể giải quyết được nó nếu
  28. có sự đồng lòng. Trong trường hợp ngược lại, chúng ta sẽ không thể loại bỏ được hiện tượng bè phái, độc đoán và thói quan liêu sẽ tiếp tục là lực lượng hủ bại, tiếp tục bóp chết mọi cuộc cải cách. Nước ta đã từng trải qua những kinh nghiệm như thế. Chỉ có thể tránh được nó khi tất cả chúng ta vừa nghiêm khắc với chính mình, vừa đòi hỏi người khác, nghĩa là tất cả phải “đồng lòng”.
  29. Chương 7: Văn hóa và dân chủ Nhiều lúc chúng ta thường tự hỏi: tại sao các cuộc cải cách lại diễn ra một cách chật vật như thế? Mục tiêu cải cách là rõ ràng, nhưng tại sao vẫn có người phản ứng một cách tiêu cực như thế? Sự thờ ơ chính trị, hư vô chủ nghĩa về pháp lí là do đâu? Chúng tôi sẽ cố gắng trả lời các câu hỏi nêu trên trong chương đặc biệt quan trọng này. 1. Văn hóa chính trị là gì? Chúng ta thường nói đến dân chủ như là tập hợp các thiết chế. Nhưng dân chủ chỉ có thể vận hành khi trong xã hội đã hình thành các tiêu chuẩn hành vi thúc đẩy quá trình tự quản. Khi thái độ bàng quan, thụ động, yếm thế là những đặc trưng gắn liền với các chế độ toàn trị còn thịnh hành thì không thể có tự quản. Cần phải xây dựng cho được những đặc điểm mới, mà quan trọng nhất là: • Mọi người đều có khát vọng thể hiện các khả năng và đáp ứng các nhu cầu của mình trên cơ sở sử dụng các quyền cá nhân; • Mọi người đều có trách nhiệm trước cuộc sống của mình cũng như của đồng bào mình. Điều quan trọng là từng người phải có khả năng tự quyết định xem anh ta phải làm nghề gì, phải có quan điểm chính trị nào, có tham gia hay ủng hộ đảng phái hay phong trào này hay phong trào kia không, v.v Nói một cách khác, cải cách dân chủ liên quan mật thiết đến vấn đề văn hóa chính trị. Văn hóa chính trị được hiểu là kinh nghiệm lịch sử, trí nhớ của cộng đồng xã hội và từng con người riêng biệt trong lĩnh vực lịch sử, các định hướng của từng người và cả cộng đồng có ảnh hưởng đến thái độ chính trị của họ. Khái niệm văn hóa chính trị được nhà chính trị học người Mĩ, ông G. Almond, đưa vào sử dụng vào năm 1956. Theo chúng tôi, văn hóa chính trị, một mặt, là một phần của nền văn hóa của xã hội, mặc dù nó chỉ liên quan đến một khía cạnh nhất định của cuộc sống, mặt khác, văn hóa chính trị luôn luôn gắn bó với một hệ thống chính trị cụ thể, hiện hành trong xã hội. Theo quan niệm của chúng tôi, văn hóa chính trị phụ thuộc rất nhiều vào trí lực. Chúng tôi hiểu trí lực là tầng nhận thức, chứa đựng truyền thống, thói quen, các phương pháp nhận thức thế giới do lịch sử đển lại, nói một cách khác, trí lực là “công cụ tinh thần” của nhân dân. Rõ ràng là trí lực của nước Nga được hình thành trong chế độ độc tài, quân chủ, toàn trị không có một số đặc điểm điển hình của các dân tộc có truyền thống dân chủ. Nhưng như thế cũng không có nghĩa là việc xây dựng nền dân chủ ở nước ta chỉ là những cố gắng vô vọng. Điều đó chỉ có nghĩa là, một mặt, quá trình dân chủ hóa sẽ diễn ra một cách khó khăn vì ta chưa có các truyền thống văn hóa [dân chủ], thứ hai, quá trình này phải thúc đẩy việc hình thành và phổ biến các đặc điểm văn hóa và trí lực cần thiết cho mỗi con người vốn là một phần của xã hội dân chủ. Nghĩa là xã hội dân chủ không phải là biểu hiện của trí lực mà là cơ sở để hình thành một trí lực “mới”. Nghiên cứu truyền thống, văn hóa trong tiến trình lịch sử của đất nước cho phép ta tìm ra nguyên nhân của thái độ chính trị đặc trưng của người Nga. Tạo lập một nền văn hóa chính trị văn minh là công việc khó khăn, lại càng đặc biệt khó khăn trong trường hợp của nước ta, vì “dân Nga có thái độ đối với chính quyền khác hẳn dân các nước châu Âu khác. Họ không chống lại, và quan trọng hơn, họ không tham gia. Dân Nga luôn coi chính quyền như một tai họa cần tránh cho xa ” (L. N. Tolstoi). Đấy chính
  30. là lí do vì sao nhiều người không thích tham gia bầu cử: tôi còn nhiều việc lắm, họ thường nói như thế. Mặt khác, giai đoạn chuyển tiếp thường tiềm ẩn nguy cơ biến nhân dân thành đám đông. Các nhà xã hội học thế giới, khi nghiên cứu hiện tượng đám đông, đã liệt kê các đặc điểm cơ bản sau: 1. Đám đông thường bất dung và có tính phá họai. 2. Đám đông càng lớn thì trình độ càng thấp. 3. Đám đông phục tùng quyền lực không khác gì nô lệ. 4. Đám đông bị điều khiển không phải bằng lí trí mà bằng tình cảm. 5. Đám đông không đi tìm nguyên nhân của các sự kiện, không tìm phương pháp giải quyết vấn đề mà tìm “nguốn gốc của cái ác”. 6. Trong đám đông, con người đánh mất cá tính vốn có của mình. Có thể liệt kê thêm những đặc trưng khác của đám đông, nhưng chỉ từng đó cũng đủ thấy mối nguy hiểm của quyền lực của đám đông rồi. Cuối cùng, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng hậu quả của những áp lực về mặt tình cảm do đám đông gây ra có thể làm biến dạng tâm lí của con người trong một thời gian dài, người đó có thể đánh mất khả năng đánh giá tình huống một cách khách quan, đánh mất khả năng thấu hiểu quan điểm của người khác. Tình hình đất nước, phân bố các lực lượng chính trị, quan điểm của các lãnh tụ có ảnh hưởng rất lớn đối với việc hình thành nền văn hóa chính trị dân chủ. Có rất nhiều hình thức văn hóa chính trị khác nhau. Các nhà khoa học chưa tìm được đồng thuận về vấn đề này. Chúng tôi xin dẫn một số quan điểm sau đây. Có người cho rằng văn hóa chính trị có thể là đóng và mở; châu Âu, phương Tây, châu Á; có người lại chia theo mối quan hệ giữa người với người thành đối địch và đồng thuận, v.v Nhà chính trị học người Mĩ, ông G. Almond, chia thành bốn loại văn hóa chính trị: Anh-Mĩ, châu Âu lục địa, gia trưởng-độc đoán, toàn trị. Theo ông, văn hóa chính trị Anh-Mĩ có đặc điểm là thế tục, thực dụng, đồng thuận toàn dân, trung dung, nghĩa là ôn hòa, không chấp nhận cực đoan. Văn hóa chính trị châu Âu lục địa cũng có đặc điểm là trung dung nhưng có thêm các thành tố mang tính lí tưởng hóa, có tính chu kì, chia tách cử tri thành các khối. Thí dụ rõ nhất là nền văn hóa chính trị của Pháp. Đặc trưng của nền văn hóa chính trị gia trưởng độc đoán là việc coi xã hội như một gia đình lớn, đứng đầu là một lãnh tụ cứng rắn. Cuối cùng, văn hóa toàn trị là hậu quả của việc vận hành một cơ chế xã hội mà ở đó con người mất hết cá tính và chỉ còn là một phần của cơ chế. Cần phải hiểu rằng văn hóa chính trị là một quá trình tư duy liên tục về các nhân tố và hiện tượng của đời sống chính trị. Trình độ văn hóa chính trị của xã hội càng cao thì càng ít có khả năng rơi vào ảnh hưởng của các chính khách mị dân. Mị dân là hướng về nhân dân để tìm sự ủng hộ của họ. Trong nền chính trị hiện đại thì mị dân có nghĩa là giữ tiếng tăm trong quần chúng bằng những lời hứa hẹn vô căn cứ. Ở Nga vấn đề nâng cao văn hóa chính trị cho các công dân, các tổ chức của họ và của các chính đảng càng được giải quyết sớm bao nhiêu thì việc thành lập xã hội công dân và nhà nước pháp quyền càng mau đến thắng lợi bấy nhiêu.