Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội (Phần 1)

pdf 35 trang phuongnguyen 2660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfche_do_dan_chu_nha_nuoc_va_xa_hoi_phan_1.pdf

Nội dung text: Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội (Phần 1)

  1. Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội N. B. Davletshina, B. B. Kimlika, R. J. Klark, D. U. Rai Người dịch: Phạm Minh Ngọc
  2. Mục lục Lời người dịch 3 Lời nói đầu 4 Chương 1 5 1. Dân chủ là gì? 5 2. Nhà nước pháp quyền 9 3. Lịch sử của nền dân chủ 11 Chương 2: Xã hội và các giá trị dân chủ 15 1. Các điều kiện kinh tế xã hội của chế độ dân chủ 15 2. Xã hội công dân 18 3. Các giá trị đạo đức của nền dân chủ 19 Chương 3: Nhân quyền trong xã hội dân chủ 23 1. Các quyền của con người và nguồn gốc của chúng 23 2. Các quyền chính trị và quyền dân sự 27 3. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 30 4. Quyền và quyền tự do của con người trong Hiến pháp Liên bang Nga 33 Chương 4: Nhà nước và chính quyền 36 1. Hệ thống chính trị và nhà nước. Các hình thức quản lí nhà nước và chế độ chính trị 36 2. Các chế độ dân chủ thường gặp 39 Chương 5: Bầu cử - cơ chế thực thi dân chủ quan trọng 46 1. Bầu cử là gì? 46 2. Hệ thống bầu cử tại Nga 50 Chương 6: Các đảng chính trị và tổ chức xã hội 52 1. Các chính đảng trong xã hội dân chủ 52 2. Các nhóm quyền lợi. Vai trò của giới tinh hoa 59 Chương 7: Văn hóa và dân chủ 64 1. Văn hóa chính trị là gì? 64 2. Dân chủ và giáo dục 66 3. Vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong nền dân chủ 67 4. Văn hóa quyền lực 68 Chương 8: Nước Nga giữa quá khứ và tương lai 70 Phụ lục 74 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 74
  3. Lời người dịch Tác phẩm này được xuất bản như là cuốn sách giáo khoa về dân chủ cho các trường trung học của nước Cộng hoà Liên bang Nga, nhưng nó đã gây được sự chú ý không chỉ trong giới học sinh, giáo viên và phụ huynh mà được dư luận đánh giá rất cao. Lí do: nước Nga đang “khát” các kiến thức về thực hành dân chủ, đúng như các tác giả đã viết trong lời nói đầu: “khát vọng tự do có thể là bẩm sinh nhưng thực hành dân chủ thì phải học mới biết”. Khi dịch chúng tôi đã lược bớt những đoạn liên quan đến lịch sử nước Nga, có thể trở thành khó hiểu đối với người đọc Việt Nam, chúng tôi cũng không dịch chương về nhà nước liên bang, phụ lục thứ nhất (Hiến pháp Cộng hoàLiên bang Nga 1993) và các câu hỏi ôn tập.
  4. Lời nói đầu Thưa các bạn độc giả! Nước Nga đang trải qua một giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển của mình. Chúng ta đang mở ra một kỉ nguyên mới của lịch sử - kỉ nguyên dân chủ. Lần đầu tiên người dân Nga có cơ hội gây ảnh hưởng đến đời sống của đất nước và xã hội, cũng như có thể tác động đến chính sách của chính phủ. Vì vậy cuốn sách của chúng tôi được lấy tên là Chế độ dân chủ: nhà nước và xã hội. Tất cả chúng ta đều phải học qua trường học dân chủ: kể cả người vừa bước vào đời cũng như người đã trải qua nhiều kinh nghiệm sống, vì khát vọng tự do có thể là bẩm sinh nhưng thực hành dân chủ thì phải học mới biết. Khi viết tác phẩm này, chúng tôi cố gắng sử dụng thật nhiều kinh nghiệm quốc tế mà mình đã thu thập được. Các nguyên tắc dân chủ đã phát triển thành công trong hàng loạt nước. Các nước như Mĩ, Anh, Pháp, Canada và nhiều nước khác đã cho ta nhiều hình mẫu tốt về dân chủ, cũng như giúp ta tránh những khuyết điểm có thể xảy ra. Trong vài chục năm gần đây, dân chủ đã trở thành hiện tượng toàn cầu, nó được củng cố trên khắp các châu lục, đã giành chiến thắng trong các nước Đông Âu, Á, Phi và Mĩ Latin. Mong rằng cuốn sách bạn đang nắm trong tay sẽ là một nấc thang trên đường đưa bạn trở thành một con người tự do và tự chủ, giúp bạn tham gia vào công cuộc xây dựng nước Nga dân chủ của chúng ta. Cuốn sách này do các chuyên gia Nga và Canada chấp bút và là thử nghiệm đầu tiên trong việc soạn sách giáo khoa về dân chủ. Có thể bạn sẽ không tìm được câu trả lời cho tất cả những câu hỏi mà cuộc sống đang đặt ra hôm nay, nhưng chúng tôi tin tưởng rằng những lời phê bình, nhận xét, góp ý của bạn sẽ giúp chúng tôi hoàn thiện tác phẩm trong tương lai.
  5. Chương 1 Dân chủ (demos - nhân dân, kratos - chính quyền) một từ có gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa chính quyền của nhân dân hay quyền quản lí của nhân dân. Trong hàng ngàn năm, những bộ óc ưu tú nhất của loài người đã cố gắng tìm hiểu lịch sử phát triển của xã hội, đã tạo ra các hệ thống triết học, đã vẽ ra hình ảnh của xã hội lí tưởng trong đó mỗi người có thể cải thiện cuộc sống của mình cũng như của đồng bào mình. Chúng ta vẫn thường sử dụng từ “dân chủ”: “hình thức quản lí dân chủ”, “người dân chủ”, “quan điểm dân chủ” Chúng ta đã đưa vào các khái niệm này những nội dung gì? Tại sao chúng ta lại hay sử dụng từ này như vậy? Ta có thể thấy ngay rằng thuật ngữ “dân chủ” tuy đơn giản và thường được sử dụng lại hàm chứa trong nó một số khó khăn cả về phương diện triết học cũng như phương diện thực tế. Đã có nhiều cuốn sách giải thích ý nghĩa khái niệm “dân chủ”. Các cuộc thảo luận và tranh luận xung quanh lí thuyết dân chủ chưa bao giờ ngưng suốt thời gian tồn tại của xã hội loài người. Ước mơ vĩnh hằng của loài người là xây dựng một xã hội công bằng, dựa trên lí tính đã sản sinh ra biết bao con người có lòng nhân ái vĩ đại cũng như những tên bạo chúa khát máu, những cuộc cải cách tiên phong và các cuộc chiến tranh tàn khốc, làm mê hoặc trí tưởng tượng của hàng triệu người, đã sản sinh ra lí thuyết và các chế độ toàn trị. Loài người đã nghĩ ra hàng chục luận cứ ủng hộ và cũng bằng ấy luận cứ chống lại thể chế dân chủ. Những kẻ chống đối việc tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân vào các lĩnh vực quản lí thường nói như sau: “Chả lẽ mọi người ngồi trong ô tô đều tham gia lái ư: người thì cầm vô lăng, kẻ lên ga, kẻ nhấn phanh, kẻ bóp còi hay sao giao cho một người có hiểu biết, còn những người khác đóng vai hành khách lại chẳng tốt hơn hay sao?” Những kẻ độc tài cũng như nhiều lãnh tụ đã giữ chặt tay lái để đưa hành khách đến cuộc đời “mới, tốt đẹp hơn”. Những người không đồng ý và những người nghi ngờ vào sự đúng đắn của con đường thường bị vất ra khỏi xe để làm bài học cho những kẻ khác. 1. Dân chủ là gì? Xin bạn hãy suy nghĩ thêm về các định nghĩa và ý kiến trái ngược, hãy tôn trọng các tác giả của chúng và cố gắng lí giải xem vì sao nhà kinh tế học, triết gia và nhà hoạt động xã hội người Anh là J. S. Mill lại quan ngại một nền tự do vô giới hạn khi cho rằng đấy là “nền độc tài của số đông”, còn triết gia Hi Lạp cổ đại, Democritus, thì lại cho rằng thà sống “nghèo trong một nước dân chủ còn hơn là hạnh phúc trong một nước độc tài, vì tự do tốt hơn nô lệ”. Các nhà chính trị học ngày nay thường định nghĩa dân chủ là hình thức tổ chức chính trị của xã hội dựa trên sự công nhận nhân dân như là nguồn gốc của quyền lực, dựa trên quyền của nhân dân trong việc tham gia giải quyết những vấn đề của quốc gia và giao cho các công dân một loạt quyền và quyền tự do thực sự. N. V. Gogol trong Những linh hồn chết đã viết về đặc điểm của người Nga như sau: “nói chung chúng ta chưa sẵn sàng cho các cuộc hội nghị mang tính đại diện. Tất cả các cuộc họp của chúng ta, từ những cuộc gặp gỡ trong làng cho đến các cuộc hội nghị khoa học đủ mọi loại, thường rất lộn xộn nếu không có một người đủ sức kiểm soát mọi việc đứng đầu”. Cựu tổng thống Mĩ, R. Reagan, thì cho rằng dân chủ không chỉ là biện pháp quản lí mà còn là biện pháp giới hạn quyền lực của chính phủ để nó không ngăn cản sự phát triển những giá trị quan trọng nhất mà con người nhận được từ gia đình và nhà trường. Abraham Lincoln (luật sư, nhà
  6. hoạt động chính trị, năm 1860 được bầu làm tổng thống Hoa Kì) thì cho rằng dân chủ là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Bạn có thể sử dụng các cuốn từ điển và bách khoa toàn thư để tìm một định nghĩa khác, phù hợp với mình hơn Bạn sẽ ngạc nhiên là tại sao lại có nhiều định nghĩa, nhiều khi trái ngược nhau đến thế. Xin cứ bình tĩnh bởi vì theo lời của triết gia người Anh, ông Karl Popper, thì chúng ta chọn dân chủ không phải vì nó có nhiều đức tính tốt mà chỉ là để tránh chế độ độc tài mà thôi. Nhà sử học, nhà văn, nhà hoạt động xã hội người Pháp, ông Alexis de Tocqueville, ngay từ năm 1835 đã nhận thấy rằng những khuyết điểm và yếu kém của nền dân chủ rất dễ bị phát hiện và chứng minh được bằng các sự kiện rõ ràng (khó ra quyết định, thảo luận kéo dài ), trong khi các ưu điểm của nó lại khó nhận thấy hơn. Khuyết điểm thì lộ rõ ngay, còn ưu điểm thì phải sau một thời gian mới thấy được Tại sao dân chủ lại có sức lôi cuốn như thế? Trước khi trả lời câu hỏi này xin hãy cùng suy nghĩ: chả lẽ tất cả mọi người đều muốn quản lí, muốn nắm quyền ư? Dĩ nhiên là không. Nhưng ý tưởng cho rằng phải tự mình quyết định điều gì là tốt, điều gì là xấu và chính sách là cái có ảnh hưởng tới tất cả mọi người phải được soạn thảo trên cơ sở đồng thuận là một tư tưởng có sức hấp dẫn cực kì mạnh mẽ. Như vậy điều quan trọng đối với mỗi người không phải là bản thân sự tham gia, mà là quyền được tham gia vào đời sống của đất nước, của tập thể, của gia đình, v.v Bản chất của dân chủ là quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng cá nhân con người. Nói một cách khác, đặc trưng quan trọng nhất, bản chất của dân chủ là quyền tự do cá nhân, là tôn trọng cá nhân con người, “công nhận phẩm giá vốn có của mọi thành viên gia đình nhân loại, công nhận các quyền bình đẳng và bất khả phân của họ là cơ sở của tự do, công bằng và hoà bình trên toàn thế giới ”, lời nói đầu của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đã viết như thế (xem thêm phần phụ lục). Như vậy dân chủ đòi hỏi quyền bình đẳng của tất cả các công dân, không phụ thuộc vào màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, thành phần xuất thân, tài sản, đẳng cấp, niềm tin, v.v Nhưng phải hiểu bình đẳng là bình đẳng về cơ hội, bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng trong việc chọn người đại diện. Điều đó không có nghĩa là mọi người phải sống như nhau, phải đọc cùng một loại sách, phải có cùng thu nhập. Nói đến dân chủ trước hết chúng ta hiểu rằng đấy là quyền của con người trong việc tham gia quản lí nhà nước thông qua các cơ chế khác nhau, quyền làm một thành viên bình đẳng trong một tập thể nào đó, có điều kiện thể hiện quan điểm của mình và được lắng nghe. Điều đó có nghĩa là chúng ta lựa chọn dân chủ trên cơ sở niềm tin vào sự bình đẳng của mọi công dân. Một mặt đấy là niềm tin vào quyền tự do của mỗi người và mặt khác tin rằng tự do của người này không được trở thành cản trở tự do của những người khác. Karl Popper minh hoạ điều đó như sau. Toà án xét xử vụ một tên lưu manh đánh người hàng xóm. “Tôi là công dân tự do”, tên lưu manh tự bào chữa, “tôi có quyền vung nắm đấm về mọi hướng chứ”. Quan toà đã khéo léo đáp: “Chuyển động của nắm đấm của anh bị giới hạn bởi mũi của người hàng xóm”. Nói một cách khác, bạn được tự do hành động khi mà hành động đó không gây phương hại cho người khác, những người cũng có những quyền tự do như bạn. Quyền bình đẳng tham gia vào việc bầu chọn các nhà lãnh đạo cũng dựa trên cơ sở như thế. Trong chế độ dân chủ mỗi người đều có một lá phiếu và các lá phiếu có giá trị ngang nhau. Trên thực tế lí tưởng về tự do và bình đẳng dĩ nhiên là cũng có một số khiếm khuyết. Không cần phải tiến hành những cuộc nghiên cứu phức tạp cũng thấy rằng ngay tại những nước có nền dân chủ phát triển không phải tất cả các công dân đều bình đẳng trong việc sử dụng quyền tự do của mình. Thí dụ cựu tổng thống Mĩ, Bill Clinton, đã định bãi bỏ điều luật mà theo đó để được tham gia bầu cử người ta phải trải qua kiểm tra
  7. xem đã thoát nạn mù chữ hay chưa. Dân chủ đáp ứng được nhu cầu của con người trong việc tự thể hiện mình và đấy chính là động lực cho sáng kiến, cho tự do. Cần phải hiểu rằng dân chủ không phải bắt đầu khi nhân dân được công nhận là nguồn gốc của quyền lực trên lời nói, mà phải là khi xây dựng được hệ thống đảm bảo công dân được thực sự tham gia và kiểm soát được quyền lực. Dân chủ sẽ thắng lợi hoàn toàn khi tất cả các công dân thực sự tham gia và hoàn toàn bình đẳng trong việc giải quyết các công việc của quốc gia. Nhưng đây là một mô hình lí tưởng. Trong thực tế còn nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp mà xã hội hiện chưa giải quyết được. Đến giữa thế kỉ XX đã hình thành ba quan điểm chính về vấn đề dân chủ như sau: 1. Từ quan điểm nguồn gốc của quyền lực (dân chủ là chính quyền của dân) 2. Từ quan điểm mục đích (dân chủ là chính quyền hành động nhân danh và vì lợi ích của nhân dân) 3. Và cuối cùng, từ quan điểm các thủ tục thành lập chính phủ. Quan điểm cuối cùng được thảo luận rất nhiều. Trên thực tế điều đó có nghĩa là các cuộc bầu cử được coi là có vai trò quan trọng nhất vì chính tại các cuộc bầu cử mà hai đặc trưng chủ yếu của dân chủ là, thứ nhất, các nhà chính trị sẽ cạnh tranh với nhau để giành cho được càng nhiều phiếu càng tốt; thứ hai, trong thời gian bầu cử nhân dân có thể gây ảnh hưởng đến chính sách trong tương lai bằng cách ủng hộ ứng cử viên đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của họ. Như vậy dân chủ có tính hấp dẫn là vì nó đáp ứng được nhu cầu tự thể hiện của con người, nó là động lực cho sáng kiến và tự do sáng tạo. Quyền con người trong xã hội dân chủ phải được đảm bảo. Thí dụ Hiến pháp nước Mĩ có mười tu chính gọi là Bill of Rights đảm bảo cho công dân các quyền như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, v.v Tất cả các khái niệm về quyền công dân này được xây dựng trên cơ sở giả thiết rằng nhà nước và chính phủ tồn tại là để phục vụ nhân dân. Con người có quyền là vì anh ta là người chứ không phải vì nguồn gốc, dân tộc, giới tính, v v Mọi công dân đều có một số quyền xác định, bất khả phân, không một chính phủ nào có quyền tước đoạt hay hạn chế. Nhưng công dân trong một xã hội dân chủ không chỉ cố gắng thỏa mãn các quyền và lợi ích của mình mà còn chịu trách nhiệm với cuộc sống của mình và ở một mức độ nào đó trách nhiêm với đời sống của những người khác nữa. Dựa vào nhân dân mà lãnh đạo nhân dân có nghĩa là công dân của xã hội dân chủ không chỉ sử dụng các phúc lợi của xã hội mà còn chịu trách nhiệm về xã hội mà anh ta đang sống, nghĩa là anh ta chia sẻ các khó khăn của xã hội (dưới những hình thức sẽ được xem xét trong những chương sau). Theo ý nghĩa này thì mỗi người đều là thiêng liêng và đều cần được bảo vệ. Immanual Kant, cha đẻ của nền triết học cổ điển Đức, từng nhấn mạnh: “con người, cá nhân luôn luôn và trong tất cả mọi việc đều là mục đích, không bao giờ là phương tiện. Kể cả phương tiện để đạt mục đích”. Ngay cả nếu đấy là mục đích cao cả và vĩ đại. Nhưng trong lịch sử loài người, ta lại thường thấy những lời tuyên bố về quyền và tự do công dân vang lên như những lời kêu gọi, những khẩu hiệu và không được tôn trọng trong thực tế cuộc sống. Tự do và bình đẳng sẽ trở thành những lời nói rỗng tuyếch khi con người không được bảo vệ về mặt pháp lí và xã hội. Thí dụ điển hình là chế độ toàn trị ở nước Nga sau Cách mạng năm 1917. Quyền con người ở nước Nga sau Cách mạng được ghi trong Hiến pháp các năm 1936 và 1977, nhưng trên thực tế chế độ toàn trị đã được thành lập với các đặc trưng cơ bản sau: 1. Nhà nước hoá đảng cầm quyền. Đảng cộng sản độc chiếm quyền lực, tiếm đoạt các chức năng của nhà nước, kiểm soát toàn bộ đời sống của xã hội nói chung và cá nhân nói riêng. Trong
  8. những năm 1917-1918 sự kháng cự của các tổ chức đối lập như menshevik, dân chủ-xã hội và các đảng phái khác bị đập tan. Tháng Giêng năm 1918 người ta đã trắng trợn giải tán Quốc hội. Một cơ chế mà trong đó nhân dân bị đẩy khỏi quyến lực đã được hình thành, các thể chế dân chủ chỉ còn đóng vai trò “bình phong” che đậy chế độ toàn trị. Ngay từ năm 1921, A. A. Sols, Chủ tịch Ủy ban kiểm tra trung ương của Đảng cộng sản Nga (bolshevik), đã nhấn mạnh: “Nắm quyền lực lâu trong thời đại chuyên chính vô sản đã tạo ra hiện tượng tha hoá Đấy là nguyên nhân của tệ quan liêu, nguyên nhân của thói kiêu ngạo đối với những đảng viên thường và quần chúng ngoài đảng, đấy là nguyên nhân của thói lạm dụng quyền lực cho việc giành quyền lợi vật chất cho mình. Đã hình thành đẳng cấp cộng sản” 2. Lập ra bộ máy đàn áp. Các biện pháp đàn áp khác nhau như Ủy ban khẩn cấp toàn Nga, Bộ nội vụ, toà án quân sự, trại tập trung được sử dụng. Các trại lao động và các cuộc huy động bắt buộc cũng được sử dụng như là các biện pháp nhằm nắm giữ và củng cố quyền lực. 3. Khống chế toàn diện thông tin, tiến hành thường xuyên công việc tuyên truyền. Một trong các nghị định đầu tiên của chính quyền Bolshevik là nghị định đóng cửa các tờ báo đối lập và thành lập chế độ kiểm duyệt. Sau này đã hình thành độc quyền của nhà nước trong việc xuất bản sách báo. Trong xã hội dần dần hình thành khuôn mẫu trong đó đảng toàn trị đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo của mọi phong trào toàn trị với hệ thống cấp bậc, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương một cách nghiêm ngặt, con người thì bị chia thành địch ta rõ ràng. Xin hãy đọc đoạn trích từ tác phẩm Lí thuyết của nền văn hoá vô sản của N. I. Bukharin, một trong các lãnh tụ của phong trào cộng sản: “Giai cấp vô sản cầm quyền có các kẻ thù sau: 1. tầng lớp ăn bám (bọn địa chủ cũ, bọn tư sản- doanh nhân tham gia vào quá trình sản xuất); tư sản thương nghiệp, bọn đầu cơ, ngân hàng, thị trường chứng khoán; 2. giới quí tộc hành chính xuất thân từ các tầng lớp nói trên (các quan chức thư lại, tướng lĩnh, tăng lữ); 3. các doanh nhân tư bản, giám đốc các tổ hợp (trùm thế giới công nghiệp, các kĩ sư có liên hệ với giới tư bản, các nhà phát minh, v.v ); 4. tầng lớp thư lại có tay nghề cả trong lĩnh vực hành chính, quân sự và nhà thờ; 5. giới trí thức trong lĩnh vực kĩ thuật và trí thức nói chung (kĩ sư, kĩ thuật viên, bác sĩ, giáo sư, luật sư, phóng viên, đa số giáo chức); 6. tầng lớp sĩ quan; 7. phú nông; 8. tư sản bậc trung và tiểu tư sản thành thị; 9. giới tu hành ”. Như vậy là trừ bần cố nông còn tất cả các tầng lớp dân cư khác đều bị coi là kẻ thù của giai cấp vô sản. Về thực chất đây chính là “chương trình” hủy diệt cuộc sống, hủy diệt chính nhân dân Nga Cái chính sách được tiến hành ở nước Nga trong suốt hơn 70 năm ấy lại được che đậy bằng những khẩu hiệu về sự thống nhất giữa đảng với dân. (Ngày 27 tháng 2 năm 1937, N. I. Bukharin cũng như nhiều nhà lãnh đạo cách mạng tháng Mười đã bị đàn áp. Được phục hồi vào tháng 2 năm 1988). Đặc điểm cơ bản của tất cả các hệ tư tưởng toàn trị là đàn áp tự do. Chủ nghĩa cá nhân tự do đặt cơ sở trên sự tôn trọng cá nhân con người, trên cơ sở trách nhiệm cá nhân bị chế độ toàn trị đem đối lập với chế độ tập thể (đám đông), phi cá tính hoá, trách nhiệm tập thể (tội lỗi tập thể), quyền lợi giai cấp (chủ nghĩa bolshevik), quyền lợi của tập đoàn (chủ nghĩa phát xít) hay quyền lợi dân tộc (chủ nghĩa xã hội- dân tộc). Trong chế độ toàn trị, kinh nghiệm cá nhân bị phủ nhận, quá khứ lịch sử bị xuyên tạc, các hình thức tổ chức đời sống và đạo đức cổ truyền bị phủ nhận. Chức năng cơ bản của hệ tư tưởng toàn trị là tìm mọi cách lôi kéo quần chúng vào cuộc đấu tranh với cái cũ và thuyết phục họ về tính đúng đắn của các quan hệ mới, bào chữa cho chính sách toàn trị. Quốc doanh hoá (nhà nước hoá) tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đã diễn ra một cách từ từ và khi nhà nước đã đặt được sự kiểm soát đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thì ta có thể nói chế độ toàn trị ở quốc gia đó đã “chín muồi”. Chúng tôi xin giới thiệu với các bạn các cuốn: Chủ nghĩa toàn trị trong thế kỉ XX của A. Iu.
  9. Golovatenko, Khủng bố đỏ của S. P. Melgunov, Quần đảo GULAG của A. I. Solzhenitsyn, xin hãy suy nghĩ xem khủng bố bolshevik được thực hiện nhằm chống lại những nhóm xã hội nào. Như vậy nghĩa là lịch sử các chế độ toàn trị chứng tỏ rằng tuyên bố về các quyền và tự do cá nhân, thậm chí ghi điều đó vào hiến pháp cũng chưa đủ. Cần phải thiết lập được xã hội công dân và nhà nước pháp quyền là những thể chế thực thi chức năng kiểm soát đối với chính quyền, ngăn chặn, không cho nó biến thành chế độ toàn trị. Đối với những nước khác nhau hình thức của xã hội công dân và nhà nước pháp quyền có thể khác nhau (chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này trong những chương sau). 2. Nhà nước pháp quyền Nhà nước pháp quyền là gì? Theo chúng tôi nhà nước pháp quyền là qui phạm pháp luật nhằm thực thi chủ quyền của nhân dân trong khuôn khổ tổ chức nhà nước. Nghĩa là tất cả quyền lực đều nằm trong tay nhà nước nhưng quyền lực đó được đặt cơ sở và thực thi theo những qui phạm pháp lí đã được ghi thành luật và được nhân dân thừa nhận. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là gì? Nó có thể tồn tại trong những điều kiện như thế nào? Trước hết, đấy là tinh thần thượng tôn pháp luật. Nhà nước, tất cả các cơ quan nhà nước, tất cả các tập thể và từng cá nhân phải tuân thủ pháp luật, không phụ thuộc vào thành phần xuất thân và địa vị mà người đó nắm giữ. Quyền được pháp luật bảo vệ như nhau là cơ sở của mọi xã hội công bằng và dân chủ. Chuyên gia người Mĩ về quyền hiến định, John Frank, nhấn mạnh rằng nhà nước phải đối xử công bằng đối với mọi công dân. Trong quan hệ pháp luật thì ngay cả những người đứng đầu nhà nước cũng bình đẳng như một bà nội trợ mà thôi, người đứng đầu nhà nước sẽ phải từ chức nếu vi phạm pháp luật. Đáng tiếc là trong lịch sử Liên Xô đã có quá nhiều trường hợp quan chức lợi dụng pháp luật cho những mục đích cá nhân. Thứ hai, có hệ thống kiểm tra và giám sát việc thực thi pháp luật hữu hiệu. Các tòa án và trọng tài độc lập, v.v phải tiến hành kiểm tra việc thực thi pháp luật. Do lịch sử và truyền thống cũng như đặc trưng dân tộc mà việc thành lập cũng như hoạt động của các cơ quan này ở những nước khác nhau được tiến hành theo những cách khác nhau. Ngoài ra dư luận xã hội cũng có ảnh hưởng rất lớn. Trong các nhà nước dân chủ, công dân thường tuân thủ pháp luật vì họ nhận thức được rằng chính họ, dù gián tiếp, đã tham gia vào quá trình lập pháp. Nhưng tự thân nguyên tắc pháp trị chưa phải là bảo đảm của dân chủ. Pháp trị có thể trở thành cái đối lập với chính nó, nghĩa là thành tình trạng vô luật pháp. Pháp trị chỉ thực sự tồn tại khi nó được thi hành trên thực tế, nghĩa là hữu hiệu. Và cuối cùng, tuy nhiều người cho đây không phải là điều kiện bắt buộc, là tam quyền phân lập, là tách chính quyền thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp (ta sẽ xem xét phần này trong các chương sau) Như vậy, dân chủ là tập hợp các tư tưởng và nguyên tắc đảm bảo tự do, nó cũng bao gồm một tập hợp các qui định và thủ tục được hình thành trong nhiều năm nhằm thực hiện quyền tự do ấy. Như vậy dân chủ có nghĩa là tự do đã giành được qui chế pháp lí và các nguyên tắc dân chủ có thể được sử dụng: 1. Trong hệ thống các quan hệ nhà nước;
  10. 2. Trong việc thành lập và hoạt động của các tổ chức khác nhau (từ gia đình, trường học cho đến các phong trào và đảng phái chính trị) 3. Dân chủ có thể được coi là các giá trị xã hội và chính trị dưới hình thức các quyền con người. Dĩ nhiên là có thể tranh luận lĩnh vực nào trong ba lĩnh vực nói trên đóng vai trò quyết định. Điều đó phụ thuộc vào một loạt tác nhân, có biểu hiện khác nhau trong những nước khác nhau, phụ thuộc vào lịch sử, truyền thống, giá trị văn hoá, thế giới quan của con người. Nhưng khi và chỉ khi các nguyên tắc dân chủ trở thành chủ đạo trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành thành tố quan trọng nhất của các giá trị văn hoá thì mới có thể nói rằng dân chủ đã chiến thắng. Khó khăn là ở chỗ không chỉ cách tiếp cận dân chủ mà cách tiếp cận độc tài hoặc sự kết hợp cả hai cách tiếp cận đó có thể được sử dụng trong mỗi lĩnh vực trên. Điều này tồn tại trong mỗi người chúng ta. Đôi khi có thể đạt được kết quả nhanh chóng và thấy được bằng con đường độc tài. Cho nên chúng ta thường thấy các nhà “dân chủ” tại công sở nhưng “độc tài” trong gia đình và ngược lại. Ngay mỗi chúng ta cũng đôi khi nghĩ rằng bắt một người nào đó làm một việc gì đó thì nhanh hơn là giảng giải, thuyết phục anh ta cần phải làm như thế. Bây giờ ta sẽ cùng xem xét tại sao ở một số nước nguyên tắc dân chủ giành được thế thượng phong, trong khi một số nước khác người ta lại thích hành xử theo lối độc tài. Quá trình phát triển của xã hội là một quá trình phức tạp và có nhiều biến động. Nhưng mặc dù đa dạng như thế, mặc dù có những đan xen phức tạp như thế giữa dân chủ và độc tài, trong các thể chế nhà nước vẫn có những xu hướng chung mà chúng ta sẽ phân tích dưới đây. Trong thực tiễn khoa học thế giới đã có rất nhiều lí thuyết (phương pháp luận) được đem ra sử dụng để nghiên cứu xã hội loài người. Tại nước ta, đến tận thời gian gần đây quan điểm giai cấp trong việc phân tích các tiến trình lịch sử vẫn thường được đem ra áp dụng. Sự phát triển của xã hội được giải thích như là sự thay thế một hình thái kinh tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội khác, kết quả của những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế. Cuộc đấu tranh của các giai cấp đối kháng được coi là động cơ của tiến bộ xã hội. Người ta thường nhấn mạnh rằng các qui luật kinh tế tạo ra bộ máy nhà nước, luật pháp, giá trị đạo đức; gọi chung là thượng tầng kiến trúc với những hình thức, cơ cấu và phương thức hoạt động khác nhau. Sự phát triển của xã hội được coi là quá trình chuyển tiếp từ công xã nguyên thủy sang chiếm nô, phong kiến, tư bản rồi xã hội chủ nghĩa. Tương tự như vậy, dân chủ cũng chia ra thành dân chủ thời tiền quốc gia, dân chủ của giai cấp chủ nô, dân chủ của giai cấp phong kiến, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các bạn hẳn biết rõ quan điểm đó, các bạn đã sử dụng nó khi thảo luận về Roma cổ đại, hoặc khi thảo luận về nền Đệ tứ cộng hoà Pháp hay khi nói về sự phát triển của nước Nga chúng ta. Nhưng có một câu hỏi: Tại sao trong cùng một thời gian, cùng một giai đoạn phong kiến mà ở Anh diễn ra quá trình mở rộng dân chủ, bên cạnh Viện quí tộc có Viện thứ dân, mà ở Nga lại diễn ra quá trình ngược lại, những nguồn gốc cuối cùng của quyền lực của nhân dân bị hủy bỏ, một bộ máy nhà nước hoàn toàn lệ thuộc và chỉ lệ thuộc vào nhà vua được thiết lập? Có thể đặt ra nhiều câu hỏi, dẫn ra nhiều thí dụ mà nếu chỉ sử dụng quan điểm hình thái kinh tế hay quan điểm giai cấp sẽ không thể tìm ra câu trả lời. Phải làm sao đây? Có thể là trong khi phân tích sự phát triển của một khu vực hay một xã hội chúng ta phải tính đến những hình thức khác của đời sống xã hội của con người chứ không chỉ sự phát triển kinh tế. Đấy là: tôn giáo, chính trị, văn hoá và nghệ thuật, tương tác với tự nhiên, các truyền thống tâm linh, v.v Nhờ thế chúng ta có nhiều lựa chọn hơn: thứ nhất, ta có thể nghiên cứu sâu hơn các đặc điểm trong quá trình phát triển của dân tộc hay nhà nước nào đó; thứ hai, có thể tìm ta những điểm chung, khái quát hoá và xác định những xu hướng chung trong những giai đoạn phát triển khác nhau.
  11. Theo chúng tôi, trong điều kiện hiện nay vấn đề dân chủ là vấn đề mang tính toàn cầu. Vì vậy cần phải tiếp cận trên bình diện toàn cầu. Cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, các chế độ toàn trị đôi khi tự đối lập mình với cộng đồng thế giới, đã trở thành vấn đề vượt ra khỏi các biên giới quốc gia. Trên thực tế, nếu một kẻ độc tài khát máu đứng đầu một bộ lạc được trang bị cung tên tẩm thuốc độc, trong trường hợp xấu nhất, cũng chỉ có thể tiêu diệt được các bộ lạc lân cận mà thôi. Nhưng nếu chế độ toàn trị có vũ khí nhiệt hạch và sẵn sàng đốt cháy nửa hành tinh nhân danh “tương lai tươi sáng” thì sao? Cũng cần nhớ rằng càng ngày càng có nhiều người nhận thức được ưu thế của các giá trị toàn nhân loại, chính vì vậy ta mới nói đến quyền con người, quyền trẻ em, dù người đó đang sống ở bất kì đâu. Con người của những nền văn hoá khác nhau, các dân tộc khác nhau, các tôn giáo khác nhau có thể đạt được sự hoà hợp trong đa dạng của các hình thức biểu hiện của đời sống hay không? Chính nó sẽ quyết định tương lai của nền văn minh nhân loại và cuộc sống tốt đẹp hơn của mỗi chúng ta. 3. Lịch sử của nền dân chủ Dân chủ trực tiếp – hình thức quản lí trong đó mọi công đều tham gia vào việc giải quyết những vấn đề quan trọng của thành phố (đất nước) và đưa những giải pháp (luật) vào cuộc sống. Lần đầu tiên, dân chủ như một hình thức quản lí xuất hiện trong các thành bang (polis) Hi Lạp cổ đại. Đấy là các thành phố không lớn và chỉ đàn ông mới được coi là các công dân tự do mà thôi. Yếu tố quan trọng nhất trong chế độ gọi là “dân chủ trực tiếp” là tất cả các công dân đều có thể tham gia giải quyết những vấn đề quan trọng của thành phố và đưa những giải pháp (luật) đó vào cuộc sống. Các công dân tự do thường tụ tập trên quảng trường để thảo luận và thông qua quyết định về một vấn đề nào đó. Dân chủ trực tiếp từng tồn tại ở các nước khác, thí dụ ở nước Nga xưa. Tại Nga, chính quyền nhân dân ra đời trước khi nền cai trị của các công quốc được thiết lập. Biên niên sử cho chúng ta biết rằng trước khi chính quyền công quốc được thiết lập, các cuộc hội nghị nhân dân “đã là truyền thống lâu đời trong các đô thị, chứng tỏ nhân dân đã tham gia vào quản lí và tạo cho họ lòng dũng cảm mà trong các quốc gia độc tài không có”. Nghĩa là người Slav, tuy phục tùng các công vương nhưng vẫn giữ được một số quyền tự do và thường tham gia vào các hội nghị khi có các công việc quan trọng hay khi quốc gia lâm nguy. Cũng phải công nhận rằng nói chung tại Nga, các cuộc hội nghị không được tổ chức định kì mà khi cần thì có thể họp một tuần mấy lần mà cũng có khi cả năm không họp lần nào. Người ta thường tổ chức họp trong trường hợp khẩn cấp: thất bại quân sự, kẻ thù xâm lược, hoặc khi nhân dân bất mãn với chính quyền. Các vấn đề khác thường được công vương cùng với các đại diện là “các quân nhân, quan lại, thân binh cũng như các trưởng lão, những người nhờ tuổi tác, trí tuệ và lòng trung thực xứng đáng là đại diện trong các công việc chung”. Cùng với thời gian, dân chủ trực tiếp càng ngày càng ít được sử dụng. Thay vào đó là nền dân chủ đại diện, đấy là nói tại những nước tránh được chế độ độc tài. Dân chủ đại diện – hình thức quản lí trong đó công dân lựa chọn các nhà chức trách để quyết định các
  12. chính sách, ban hành luật pháp và đưa chúng vào thực hiện. Nghĩa là chúng ta giao cho những người được bầu một số quyền hạn và trách nhiệm thông qua các quyết định. Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường gặp cả hình thức dân chủ trực tiếp lẫn dân chủ đại diện. Thí dụ lớp các bạn cùng làm ra được một số tiền. Các bạn bàn xem nên mua gì: đa số ủng hộ mua bóng và lưới để chơi bóng chuyền (Các bạn đã sử dụng nguyên tắc dân chủ trực tiếp). Sau đó các bạn sẽ giao cho một người đại diện đi ra cửa hàng chọn, trả tiền và mang hiện vật về nhà. Đấy là các bạn đã giao quyền cho người đó. Có thể nói trong trường hợp này các bạn đã sử dụng hình thức dân chủ đại diện. Để có thể ra quyết định, chính phủ phải dựa vào một số qui tắc nhất định. Nói một cách khác, cần phải có hiến pháp, bộ luật chủ yếu của nhà nước, xác định thể chế, cơ cấu của chính quyền và các qui tắc về việc ra quyết định. Đa số các quốc gia hiện nay có hiến pháp, tại những nơi chưa có hiến pháp việc quản lí xã hội được thực hiện dựa trên tập quán, truyền thống hay các qui định tôn giáo. Về nguyên tắc, hiến pháp có hiệu lực trong một thời gian dài và ít khi thay đổi, trừ trường hợp có chiến tranh hoặc có sự thay đổi đột ngột trong đường lối chính trị của đất nước. Thí dụ Hiến pháp của Cộng hòa Liên bang Đức, Ý và Nhật được thông qua sau thất bại của các nước này trong chiến tranh thế giới thứ II. Hiến pháp của Mĩ đã có hiệu lực hơn 200 năm qua. Hiến pháp của Nga được thông qua vào năm 1993 (xem phụ lục). Anh là trường hợp đặc biệt, nước này không có văn kiện dưới hình thức hiến pháp, việc quản lí ở đây được thực hiện trên cơ sở các truyền thống xa xưa và các đạo luật riêng rẽ mà về tổng thể có hiệu lực không khác gì một văn kiện chính thức. Đặc điểm quan trọng của chế độ dân chủ là hình thức chuyển giao quyền lực. Dưới chính thể quân chủ, quyền lực thường được chuyển giao theo kiểu cha truyền con nối hoặc là do kết quả của một cuộc đảo chính cung đình. Tại các nước Mĩ Latin hiện nay, các cuộc đảo chính quân sự là hình thức chuyển giao quyền lực phổ biến. Trong xã hội dân chủ, nhờ các cuộc bầu cử mà quyền lực được chuyển giao một cách hòa bình. Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận về thể chế nhà nước. Thay thế cho các nước cộng hòa Hi Lạp cổ đại là các các nước cộng hòa quí tộc hay tập đoàn thống trị. Vậy quí tộc là gì? Quí tộc thường được hiểu là tầng lớp quí phái đặc quyền đặc lợi. Tương tự như quí tộc, tập đoàn thống trị là chính quyền của thiểu số không có liên hệ với nhau bằng huyết thống, thường sử dụng quyền lực cho những mục đích ích kỉ của mình và tước đoạt quyền lực của quần chúng. Khác với các nước cộng hòa, tầng lớp quí tộc thời cổ chỉ đưa đại diện của giai cấp mình vào các cơ quan quản lí mà thôi. Chính trong giai đoạn này đã hình thành chế độ nhà nước và pháp luật, thay thế cho tập quán, điều khiển mọi khía cạnh của đời sống. Như vậy là nhà nước đã thay thế cho tổ chức bộ lạc huyết thống, pháp luật thay thế cho tập quán. Nhà nước đã xuất hiện một cách tự nhiên, từ trong lòng của xã hội và phát triển, cùng với quá trình tiến hóa của xã hội, càng ngày càng có thêm nhiều đặc điểm mới. Pháp luật, một phần không thể tách rời của nhà nước, cũng có xu hướng tương tự, cũng thay đổi cùng với sự thay đổi của các tiến trình kinh tế, chính trị và văn hóa của xã hội. Quá trình hình thành các quốc gia trên thế giới thường diễn ra theo hai kịch bản sau đây. Một mặt, các điều kiện tự nhiên tương tự nhau ở phương Đông đã đưa tới sự hình thành các quốc gia trên lưu vực của các con sông lớn như sông Nil, Lưỡng Hà, sông Hằng, sông Hoàng Hà, v.v Châu thổ phì nhiêu của các con sông này chỉ có thể được khai thác nhờ các cố gắng chung của cả cộng động vì từng làng xã riêng biệt không thể đủ sức xây dựng hệ thống đề điều, tưới tiêu, đập nước, v v Hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu công xã hình thành từ đấy. Các nhà nước xuất hiện và đóng vai trò như lực lượng phối hợp trong quá trình sản xuất và chống lại các bộ lạc du mục khác. Đấy chính là điều kiện tạo ra
  13. chính thể chuyên chế, có nghĩa là chính thể quân chủ với quyền lực vô giới hạn. Tất cả quyền lực, không bị giới hạn bởi luật pháp, đều nằm trong tay nhà vua, cha truyền con nối (Pharaoh, Sa hoàng ). Nhà vua cai trị bằng bộ máy quan liêu-quân sự, được hình thành từ hoàng tộc, tầng lớp quí tộc và giới sĩ quan là tầng lớp có nhiều đặc quyền đặc lợi. Bản thân nhà vua được coi là thần thánh ngay từ khi còn sống và cả sau khi đã chết. Chế độ chuyên chế có ảnh hưởng đến cả thế giới quan của người dân. Con người cảm thấy mình là một với tự nhiên, cuộc sống diễn ra một cách đều đặn, không có gì thay đổi. Nghi lễ và truyền thống có ý nghĩa rất lớn. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo, nhận thức của con người nhuốm màu phi lí, hướng vào thế giới bên kia, hiện thực bị coi là tạm thời, chóng qua. Khác với phương Đông, ở châu Âu thực tế là không có sở hữu nhà nước. Quan hệ tiền hàng đóng vai trò quan trọng hơn nhiều, quá trình tan rã công xã diễn ra nhanh chóng. Quan hệ thị trường buộc người ta phải sử dụng áp lực kinh tế thay cho áp lực phi kinh tế của chế độ nô lệ hay nông nô. Sở hữu tư nhân cũng có ảnh hưởng rất lớn. Kết quả là trong cơ cấu chính trị và pháp chế của nền văn minh Âu châu các nguyên tắc dân chủ chứ không phải nguyên tắc độc tài thường được sử dụng. Việc truyền bá các tiêu chuẩn pháp luật của Roma dưới hình thức nhà nước pháp quyền cũng có ảnh hưởng to lớn. Pháp luật của nước cộng hoà Roma ở một mức độ nào đó đã trở thành nền tảng của các nhà nước pháp quyền, chính nước cộng hoà này còn là thí dụ về sự kết hợp giữa quyền lực của người đứng đầu chính phủ (Consul) và các cơ quan đại diện. Cơ quan quan trọng nhất là Thượng viện. Về hình thức Thượng viện là cơ quan tư vấn, nhưng trên thực tế Thượng viện phụ trách các vấn đề về tài chính, tôn giáo, đối ngoại và quản lí các tỉnh. Theo luật pháp Roma, quyền lập pháp là thuộc về các hội nghị toàn dân. Nhưng các hội nghị này lại không có quyền đưa ra các dự thảo mà chỉ xem xét các dự luật đã được Thượng viện thông qua. Người đứng đầu chính phủ, các viên kiểm duyệt và các viên chức khác do dân bầu thực hiện công tác quản lí hàng ngày. Vì các chức vụ đều không được trả lương nên thường do các tầng lớp hữu sản nắm giữ. Hệ thống này, sau khi đã được cải tiến, chính là hình mẫu của chế độ phân quyền trong các nhà nước dân chủ pháp quyền sau này. Thiên chúa giáo, một tôn giáo hướng người ta đến các tiêu chuẩn đạo đức cụ thể, gần gũi với con người cũng có ảnh hưởng rất lớn. Ngay từ thời cổ đại con người ở đây đã coi mình là thước đo của mọi sự, mọi vật, là chủ nhân ông của thiên nhiên. Ước mơ trở thành người tự do đã thấm dần vào máu thịt của người Âu Châu. Friedrich v. Hayek, nhà kinh tế và hoạt động chính trị người Áo, giải thưởng Nobel, đã từng nhấn mạnh rằng không được lẫn lộn giữa chủ nghĩa cá nhân, nền tảng của các giá trị phương Tây, với thói ích kỉ và tính tự phụ. Đặc điểm cơ bản nhất của nó là sự tôn trọng đối với cá nhân con người, là tinh thần bao dung. Dĩ nhiên là không nên coi nền văn minh phương Tây là một cuộc hành trình thẳng tiến về phía trước. Đã có những bước thụt lùi và những giai đoạn phát triển vượt bậc. Nước Nga nằm ở giữa hai nền văn minh - phương Tây và phương Đông. Về mặt lịch sử, nước Nga có nhiều liên hệ với phương Tây, nhưng các đặc điểm và truyền thống phương Đông cũng tạo nhiều ảnh hưởng đối với sự phát triển của Nga. Ách cai trị của người Tacta-Mongol cũng để lại dấu ấn nhất định. Kết quả là các đặc trưng của Tây và Đông xen kẽ vào nhau một cách tài tình trong lịch sử nước Nga. Một mặt, Nga đã trải qua những giai đoạn phát triển tương tự như các nước Tây Âu. Chế độ đẳng cấp và đẳng cấp đại diện ở Nga thế kỉ XV - XVI cũng giống như tại các nước châu Âu khác. Nghị viện ở Anh, ở Pháp, ở Hà Lan, ở Đức, ở Ba Lan và ở Nga, dù có những khác biệt là do những điều kiện phát triển chính trị và kinh tế cụ thể ở mỗi nước, vẫn có rất nhiều điểm chung. Nhưng tiến trình phát triển các thiết chế đại diện của Nga đã bị cắt đứt vào giữa thế kỉ XVII, chế độ quân chủ đại diện đã biến thành chế độ chuyên chế. Kết quả là ở Nga đã hình thành một bộ máy quan liêu quân sự và hệ thống quản lí nhà nước với các đặc thù của các chế độ chuyên chế. Tính chất khép kín của đời sống kinh tế và chính trị kiểu công xã cho ta thấy truyền thống phương Đông. Xét theo quan điểm này thì lịch sử Nga chứa đầy mâu thuẫn. Có thể đấy chính là một trong những nguyên nhân của những khó khăn mà nước ta đang gặp phải trong giai đoạn
  14. chuyển tiếp sang nền dân chủ hiện nay.
  15. Chương 2: Xã hội và các giá trị dân chủ Trong chương trước chúng tôi đã cố gắng giải thích thế nào là dân chủ và vì sao dân chủ lại có sức hấp dẫn. Trước hết đấy là quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng cá nhân, con người được nhà nước pháp quyền bảo vệ. Nhưng như thế lại có thể xuất hiện giả thiết rằng tất cả mọi quốc gia đều hướng đến nền dân chủ như là hình thức quản lí đáng mơ ước nhất. Vậy thì tại sao dân chủ lại hiếm gặp như thế? Chúng tôi cho rằng có thể liệt kê ra một số nguyên nhân: Thứ nhất, phải có một số điều kiện kinh tế và xã hội nhất định thì dân chủ mới có thể hình thành và hoàn thiện được; thứ hai, trong xã hội phải có một số giá trị đạo đức nhất định, thiếu chúng thì dân chủ không thể xuất hiện được, và cuối cùng, cai trị bằng các biện pháp dân chủ thì khó khăn hơn cai trị bằng các biện pháp độc tài. Không được quên điều đó. 1. Các điều kiện kinh tế xã hội của chế độ dân chủ Trước khi nói đến các điều kiện kinh tế xã hội của chế độ dân chủ, chúng ta hãy quay trở lại với cội nguồn của nó, quay lại các thí dụ về nền dân chủ trong các thành bang Hi Lạp cổ đại hay Novgorod và Pskop xưa kia. Điều dễ thấy nhất là các nước cộng hòa này, không có ngọai lệ, đều là những nước có quan hệ tiền - hàng phát triển. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì đây là những nước có mối quan hệ quốc tế rộng rãi, có mối quan hệ thương mại tích cực với các nước láng giềng. Trong thời Trung cổ, tại Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Novgorod, Pskov đa số dân chúng biết đọc biết viết. Ở Novgorod ngay cả phụ nữ cũng biết đọc biết viết. Trong các nền cộng hòa cổ và trung đại, trình độ văn hóa và sản xuất đã phát triển khá cao. Cho đến nay vẫn chưa tìm ra bí quyết sản xuất gốm đen và gốm đỏ rất đẹp của các thành bang Hi Lạp, bí quyết nghệ thuật kim hoàn, đúc tượng, kiến trúc, đúc tiền ở miến Bắc nước Nga Ở đây chúng tôi không đặt vấn đề thảo luận đâu là nhân và đâu là quả của tiến trình phát triển dân chủ. Nhưng phải luôn nhớ rằng sự tồn tại của nền dân chủ bao giờ cũng đi kèm với trình độ phát triển cao của các điều kiện kinh tế - xã hội so với các nước đương thời. Khi nói về những giai đoạn phát triển sau này của các nền dân chủ, chúng tôi cũng lại sẽ nhấn mạnh rằng các chế độ dân chủ bao giờ cũng kèm theo sự tự do tương đối về kinh tế. Đa số vẫn cho rằng chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực khác nhau, giữa chúng không có mối liên hệ nào, tự do cá nhân là vấn đề chính trị, còn sự đảm bảo về vật chất là vấn đề kinh tế và mọi chế độ chính trị có thể phù hợp với mọi thể chế kinh tế. Chúng tôi cho rằng không hẳn như thế. Kinh tế và chính trị gắn bó mật thiết với nhau và mỗi chế độ chính trị chỉ có thể phù hợp với một số thể chế kinh tế mà thôi. Chúng ta hãy xét một số thí dụ: Sau Thế chiến thứ II, công dân Anh không thể đi nghỉ ở Mĩ vì các bó buộc về ngoại tệ, nghĩa là cũng bị hạn chế tự do không khác gì công dân Mĩ không được đến Liên Xô vì quan điểm chính trị. Trường hợp thứ nhất có vẻ như hạn chế tự do là vì lí do kinh tế, trường hợp thứ hai là vì lí do chính trị. Nhưng đối với một công dân thì điều đó cũng chẳng có gì khác biệt. Tại Liên Xô trước đây kinh doanh cá thể, sở hữu tư nhân bị cấm là vì các qui định về chính trị và tư tưởng. Nghĩa là thể chế kinh tế có ảnh hưởng đến quá trình phát triển của xã hội tự do. Một mặt, tự do kinh tế
  16. có thể được coi là một phần của tự do theo nghĩa rộng nhất của từ này, cho nên tự do kinh tế phải là mục đích tự thân. Mặt khác, tự do kinh tế là phương tiện của tự do chính trị vì thể chế kinh tế có ảnh hưởng đến việc tập trung và phân tán quyền lực. Thí dụ, quan hệ phong kiến ở châu Âu không có tính chất chuyên chế như ở Nga hay ở phương Đông. Trên thực tế ở đây không có sự cưỡng bức ngoài kinh tế. Đồng thời có khá nhiều công dân không chỉ được tự do về chính trị mà còn tự do về kinh tế, những người này đã tạo ra nền tảng của xã hội công dân, chính quyền dựa vào họ, được họ ủng hộ. Riêng về Bắc Mĩ thì các công dân tự do tập hợp thành các công xã, là những tổ chức độc lập và có quyền lực. Ngay cả trước khi giành được độc lập khỏi chính quốc, các thuộc địa ở Mĩ đã giành được quyền tự quản. Tại đây đã có các cơ quan lập pháp và các cuộc bầu cử được tổ chức theo định kì. Vì vậy các thuộc địa ở châu Mĩ có sức thu hút rất lớn đối với dân cư chính quốc. Nhiều nhà khoa học đã coi tự do kinh tế và sở hữu tư nhân là cơ sở của nền dân chủ. Nhưng xin các bạn nhớ rằng đây không phải là sự bình đẳng về kinh tế mà là quyền bình đẳng về tự do kinh tế. Khi Thomas Jefferson và những người đương thời với ông, các tác giả bản Tuyên ngôn Độc lập, viết rằng “mọi người sinh ra đều bình đẳng” là họ hiểu rằng Thượng đế đã ban cho tất cả mọi người những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Bình đẳng về kinh tế” và “quyền bình đẳng về tự do kinh tế” khác nhau như thế nào? Bình đẳng về kinh tế là sự phân phối một cách bình quân về vật chất và thu nhập của nhà nước, thí dụ như bằng nhau hay gần như bằng nhau về tiền lương, v.v Quyền bình đẳng về tự do kinh tế là sự tự do lựa chọn trở thành viên chức nhà nước, công nhân hay doanh nhân. Bình đẳng về kinh tế không thể kéo dài và không nên để cho kéo dài vì nó sẽ giết chết mọi sự cố gắng cả trong lao động, cả trong học tập. Nhưng các bạn cũng phải hiểu rằng những biện pháp hạn chế tự do, thí dụ như thuế khóa, do chính phủ áp dụng để đảm bảo đời sống cho người nghèo, trẻ em, người già, là những biện pháp cần thiết. Nhưng sự can thiệp của chính phủ vào đời sống kinh tế và xã hội của đất nước cần có giới hạn bởi vì có thể tạo ra nhiều phức tạp. Mức độ can thiệp của chính phủ trong những nước khác nhau được xác định theo những tiêu chuẩn hoàn toàn khác nhau, đôi khi khác nhau rất xa như trong các nước gọi là “dân chủ xã hội” (Thụy Điển và các nước vùng bán đảo Scandinavia) và có khi không đáng kể (Mĩ, Anh). Cần phải hiểu rằng hoàn toàn tự do kinh tế cũng như tuyệt đối tự do chính trị là không thể và không bao giờ có. Cách mạng Pháp đã có lúc tuyên bố hoàn toàn tự do kinh tế. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Nhà nước vừa tuyên bố chấm dứt kiểm soát là lập tức xảy ra khủng hoảng trong lĩnh vực thanh toán, không còn luật về phá sản, không còn ai bảo vệ nhãn mác hàng hóa. Nói một cách khác, đã xảy ra rối loạn kinh tế. Vì vậy một trong những nghị định đầu tiên của Napoleon là khôi phục sự bảo hộ của nhà nước về quyền tự do hoạt động kinh tế của công dân trong một khuôn khổ pháp lí nhất định. Ông ta lập tức được lòng dân và được giới thương nhân và tư bản tài chính ủng hộ. Chúng ta sẽ cùng xem xét sự khác nhau giữa hai kiểu nhà nước nói trên. Cần phải nói ngay rằng trong đa số các nước phát triển theo nguyên tắc dân chủ đều tồn tại hai hình thức sở hữu: nhà nước và tư nhân. Các ngành công nghiệp lớn và những lĩnh vực có ý nghĩa sống còn như giao thông, năng lượng, viễn thông, giáo dục và một số lĩnh vực khác đều là tài sản nhà nước hoặc được nhà nước tài trợ. “Dân chủ xã hội” thường được hiểu là sự tham gia rộng rãi của nhà nước vào việc điều tiết nền công nghiệp và các quan hệ thị trường, đảm bảo về nhà ở, công việc làm, học tập, giao thông, chữa bệnh cho người dân. Nhà nước cũng tham gia vào việc phân phối tài nguyên quốc gia. Việc phân phối và tái phân phối phúc lợi xã hội được coi là quyền công dân. Thụy Điển được coi là hình mẫu của mô hình dân chủ xã hội. Hiện nay có quan niệm cho rằng nước này đã tránh được các biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa Marx và xây dựng được một xã hội thực sự dân chủ, phồn vinh và thực sự xã hội chủ nghĩa. Một mặt, điều đó đúng là như thế: tại Thụy Điển người dân có mức sống cao, tuổi thọ kéo dài, có nhiều thành tựu trong lĩnh vực giáo dục và tái đào tạo cán bộ. Nhưng mặt khác, từ đầu những năm 70 của thế kỉ trước Thụy Điển đã phải đối mặt với nhiều vấn đề: để đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới
  17. người ta buộc phải phá giá đồng krona và tăng thuế khoảng 1% mỗi năm. Thụy Điển trở thành nước có mức thuế cao nhất thế giới và điều đó làm cho người dân không còn tích cực lao động và tiết kiệm nữa. Xin bạn hãy giải thích những khó khăn và phức tạp của các nhà nước “dân chủ xã hội”. Xin phân tích hai phát biểu sau đây: Năm 1848 Alexis de Tocqueville so sánh dân chủ tự do và chủ nghĩa xã hội như sau: “Dân chủ thì mở rộng còn chủ nghĩa xã hội thì hạn chế quyền tự do cá nhân. Dân chủ khẳng định giá trị của mỗi cá nhân còn chủ nghĩa xã hội thì biến con người thành phương tiện, thành các con số đơn giản. Dân chủ và xã hội chủ nghĩa không có gì chung ngoài từ: bình đẳng. Nhưng hãy xem sự khác nhau: nếu dân chủ là tiến đến bình đẳng trong tự do thì chủ nghĩa xã hội là bình đẳng trong nô lệ và áp chế”. Năm 1949 W. Ripke, một nhà kinh tế người Đức, nói: “Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội toàn trị và chủ nghĩa xã hội dân chủ cũng giống như giữa việc giết người và vô tình gây thương tích dẫn đến chết người. Chúng tôi hoàn toàn không muốn coi dân chủ xã hội là hành vi giết người. Nhưng chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng con người có thể chết một cách vô tình, nhưng đối với nạn nhân thì chỉ kết quả chứ không phải hoàn cảnh là có ý nghĩa”. Liệu có thể khẳng định rằng khác với chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội, kể cả chủ nghĩa xã hội dân chủ, cố gắng cào bằng kết quả hoạt động của con người? Trong các nước kiểu như Mĩ, chính phủ chỉ chịu trách nhiệm đảm bảo cho các công dân mức sống tối thiểu (thí dụ, bằng trợ cấp). Nhưng đây không phải là đảm bảo quyền công dân mà là từ thiện. Sự khác nhau là ở đây có người rất giàu và rất nghèo. Tiền từ thiện được cấp rất ít, trong khi các nước “dân chủ xã hội” cố gắng cào bằng thu nhập của các công dân bằng cách tăng thuế đánh vào người giàu và nâng mức thu nhập của thành phần nghèo và trung lưu lên. Dĩ nhiên là sự bất bình đẳng về kinh tế có ảnh hưởng đến đời sống chính trị của đất nước và sự cách biệt về kinh tế cũng có ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác của đời sống của con người. Adam Smith, nhà kinh tế học người Scotland, cha đẻ của môn chính trị kinh tế học, đã coi các định hướng giá trị là động cơ hành động của con người: “Chúng ta thật khó mà trông mong vào lòng tốt của anh hàng thịt, anh đầu bếp hay anh nướng bánh mì, nhưng chính nhờ lòng tham của họ mà ta có được bữa cơm trưa”. Theo ông, chính thị trường, nhờ vào sự cạnh tranh của người sản xuất và người tiêu dùng, đã thúc đẩy sự phát triển và phồn vinh của xã hội: “Mỗi người, khi không vi phạm pháp luật của sự công bằng, đều được tự do theo đuổi quyền lợi theo ý mình và dùng lao động cũng như tư bản của mình mà cạnh tranh với tư bản và sức lao động của người khác, thậm chí cạnh tranh với cả đẳng cấp khác. Quốc vương hoàn toàn không phải quản lí công việc lao động của các cá nhân, không phải hướng anh ta vào các công việc hữu ích nhất cho xã hội”. Quan hệ thị trường ở nước ta đã tạo ra nhiều cuộc tranh luận. Đấy là do trong chế độ toàn trị, tư tưởng này đã bị vứt bỏ cả trên lí luận lẫn thực tiễn. Mấy thế hệ người Nga đã được đào tạo trên quan điểm tiêu cực đối với quan hệ tiền - hàng. Cách suy nghĩ như vậy vẫn là một trở lực bởi vì trong giai đoạn chuyển đổi, thị trường mang lại cho người ta nhiều tiêu cực hơn là tích cực. Ngay cả những người hiểu rõ sự cần thiết của việc chuyển sang các quan hệ thị trường cũng cảm thấy sợ khi chứng kiến cảnh giá cả leo thang và mức sống thì giảm đi từng ngày. Mặc dù vậy, thực tiễn trên thế giới đã chứng minh rằng tư hữu và quan hệ thị trường là động lực thúc đẩy việc hoàn thiện quá trình sản xuất, và kết quả là sự hoàn thiện của chính cá nhân con người. Mặc dù chỉ một số ít người chiến thắng trong quá trình cạnh tranh, nhưng việc sẵn sàng mạo hiểm, sẵn sàng
  18. đầu tư cho khoa học và phát minh đã đưa toàn thể xã hội đến phồn vinh. Vấn đề bất bình đẳng kinh tế đã được thảo luận suốt hàng mấy trăm năm qua. Nhiều nhà triết học thế kỉ XIX coi đó là nguyên nhân của tất cả các cuộc xung đột xã hội. Bất bình đẳng kinh tế còn được khắc phục bằng các cuộc cánh mạng. Đấy là Cách mạng Pháp, nhưng rõ nhất là trong giai đoạn Cách mạng tháng Mười Nga, khi Đảng Bolshevik định dùng cuộc “tấn công bằng đội cận vệ đỏ” vào tư bản, bãi bỏ sở hữu tư nhân, quốc hữu hóa công nghiệp và đất đai, để giải quyết vấn đề bất bình đẳng kinh tế. Các nước Đông Âu sau Thế chiến thứ II cũng đi theo con đường đó. Nhưng sự công bằng vẫn không được thiết lập. Công nhân viên chức nhận được đồng lương chết đói, trong khi cán bộ Đảng và công chức nhà nước lại giàu lên trông thấy. Kết quả là chúng ta và các láng giềng Đông Âu không chỉ phải đối diện với vấn đề xây dựng xã hội dân chủ mà còn trực diện với nhu cầu thay đổi một cách toàn diện hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước. Chúng ta buộc phải dung hòa khát vọng hướng tới tự do, kể cả sở hữu tư nhân, với những giá trị đã từng chiếm ưu thế trong xã hội ta, nhưng lại khác xa với những gì ta đang hướng tới hiện nay. Câu hỏi đặt ra cho ngày hôm nay là: Làm sao có thể cân bằng được lợi ích của các hệ thống khác nhau? Chúng ta phải tự hỏi mình nên đánh giá các cơ hội của xã hội tự do như: quyền bầu và ứng cử, tinh thần thượng tôn pháp luật, phát triển nền kinh tế thị thường như thế nào. Mặt khác, chúng ta phải thấy hết những khó khăn sẽ phải vượt qua trong giai đoạn chuyển đổi: về kinh tế xã hội thì đấy là giảm thiểu mức sống, phân hóa giàu nghèo; về chính trị thì đấy là sự thiếu đồng thuận trong hầu hết các vấn đề chính trị; và còn những lĩnh vực khác như văn hóa, tâm lí, v v Nghĩa là xã hội phải sẵn sàng không chỉ đặt ra các mục tiêu mà còn đưa ra được tổng thể các biện pháp tạo điều kiện củng cố nền dân chủ đang hình thành nữa. Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục đi sâu phân tích các điều kiện kinh tế cần thiết cho sự phát triển nền dân chủ của xã hội. Một mặt, có ý kiến cho rằng đất nước phải đạt đến một trình độ phát triển kinh tế và giáo dục cao rồi mới có thể tiếp nhận hình thức quản lí dân chủ. Mặt khác, một số nhà chính trị học lại cho rằng các nước nông nghiệp có nhiều cơ may cho phát triển dân chủ hơn là các nước công nghiệp. Có lẽ chẳng nên tuyệt đối hóa bất kì quan điểm nào. Trong lịch sử thế giới đã từng có các nước kém phát triển, dân chúng đa số mù chữ lại là nước dân chủ và ngược lại. Một lần nữa chúng tôi lưu ý các bạn khi phân tích bất kì nước nào cũng không được quên sự đa dạng của các nhân tố có ảnh hưởng đối với cơ cấu quốc gia : văn hóa, phong tục và truyền thống tôn giáo, thậm chí cả trí nhớ di truyền nữa. Chỉ có bằng cách đó ta mới giải thích được vì sao Ấn Độ từ khi tuyên bố độc lập, sau Thế chiến thứ II, mặc dù trình độ phát triển kinh tế thấp, tỉ lệ dân số mù chữ cao lại là nước dân chủ. Thí dụ khi bầu cử nhiều người Ấn chỉ gạch dưới biểu tượng của đảng mà họ muốn bầu. Điều đó không có nghĩa là họ không biết ai là người xứng đáng đại diện cho mình, đơn giản chỉ vì họ không biết chữ. Chúng ta có thể kết luận rằng các điều kiện kinh tế và xã hội đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nhưng các giá trị đạo đức mà người dân chia sẻ cũng đóng vai trò quan trọng không kém. 2. Xã hội công dân Hiện chưa có định nghĩa xã hội công dân nào được tất cả mọi người cùng chia sẻ. Chúng tôi đề nghị bạn suy nghĩ về những định nghĩa sau: Xã hội công dân là các quan hệ phi chính trị trong xã hội, được thể hiện thông qua các hiệp hội và tổ chức quần chúng được pháp luật ngăn chặn khỏi sự can thiệp trực tiếp của của chính phủ.
  19. Nhưng có một số tác giả lại coi định nghĩa sau là chính xác hơn: xã hội công dân là xã hội trong đó các hiệp hội khác nhau của quần chúng (đảng, công đoàn, hợp tác xã ) đóng vai trò cầu nối giữa cá nhân với nhà nước và không để cho nhà nước thoán đoạt, áp bức cá nhân. Nghĩa là khi có xã hội công dân thì chính phủ chỉ là một trong các thành tố cùng tồn tại với các thể chế, các đảng phái, hiệp hội khác nhau, v.v Sự đa dạng như thế có tên là chế độ đa nguyên, và các tổ chức, thể chế của xã hội dân chủ có thể tồn tại theo pháp luật và bằng uy tín của mình một cách độc lập với chính phủ. Trong xã hội dân chủ có hàng ngàn tổ chức tư nhân như thế, một số hiện hữu trên bình diện quốc gia, số khác chỉ có ảnh hưởng khu vực. Một số tổ chức đóng vai trò trung gian giữa các cá nhân và các thiết chế xã hội phức tạp hoặc với các thiết chế của chính phủ. Là thành viên của các tổ chức đó, công dân có thể có những đóng góp tích cực vào công việc nhà nước cũng như công việc của các tổ chức của mình. Các thiết chế công dân đó không phải được thành lập theo lệnh trên mà do sự tự nguyện và ước muốn của chính các công dân. Rất nhiều tổ chức nêu trên có thể tồn tại cả trong các xã hội phi dân chủ, nhưng lại bị chính quyền kiểm soát gắt gao. Có thể nói như sau: dưới chế độ chuyên chế, hoạt động của các tổ chức phải được nhà nước cho phép, các tổ chức bị đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ và phải thường xuyên báo cáo kết quả công tác cho các cơ quan chính quyền. Còn trong xã hội dân chủ, chức năng của chính phủ được xác định và qui định cụ thể bởi pháp luật; các tổ chức không bị chính phủ kiểm soát; các tổ chức tác động lên chính phủ và đòi chính phủ phải báo cáo kết quả hoạt động của mình. Như vậy là trong điều kiện xã hội công dân, nhà nước sẽ đóng vai trò là người thể hiện sự thỏa hiệp của các lực lượng khác nhau trong xã hội. Nền tảng kinh tế của xã hội công dân là sở hữu tư nhân. Trong xã hội công dân, quyền lợi của thiểu số sẽ được thể hiện bởi các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa, công đoàn, đảng phái và các phong trào khác nhau. Đấy có thể là các tổ chức nhà nước mà cũng có thể là các tổ chức độc lập. Điều đó cho phép mọi người thực hiện quyền và trách nhiệm công dân của mình. Tham gia vào các tổ chức như thế có thể giúp người ta tạo ảnh hưởng đến các quyết định chính trị. 3. Các giá trị đạo đức của nền dân chủ Các giá trị đạo đức của xã hội dân chủ là gì? Xin xem xét kịch bản sau đây. Giả sử một nước có nhiều nhóm sắc tộc và tôn giáo khác nhau. Có thể một số, nếu không nói là tất cả, các nhóm đó đều có các giá trị và niềm tin tôn giáo khác nhau. Có khá nhiều nước như vậy: Canada, Lebanon, Nam Tư, Nga và nhiều nước khác. Làm thế nào để xã hội có thể tồn tại một cách ổn định? Các nhà nước đó có thể quản lí một cách dân chủ được hay không? Điều đó có thể đạt được trong những điều kiện nào? Thực tiễn thế giới cho thấy điều đó là khả thể nếu: thứ nhất, có sự thỏa thuận (sự đồng thuận của công dân được ghi trong hiến pháp) về sự tồn tại của nhà nước và được các nước khác thừa nhận; thứ hai, đa số công dân muốn có một chính phủ dân chủ ổn định; thứ ba, những người cầm quyền có ước muốn chuyển giao quyền lực một cách hòa bình. Và cuối cùng nếu không có đồng thuận về việc tạo ra một hình thức quản lí thống nhất thì có thể thành lập cơ chế liên bang. Chúng ta sẽ thảo luận kĩ về chế độ liên bang trong những chương sau (bản tiếng Việt không dịch - ND). Ở đây chỉ ghi nhận rằng liên bang là hình thức quản lí dân chủ nhất cho những nhà nước có cơ cấu sắc tộc và tôn giáo phức tạp. Không có các điều kiện nêu trên thì không thể có chế độ dân chủ và cũng không có chế độ pháp trị. Nói một cách khác, các điều kiện quan trọng nhất của chế độ dân chủ là: khả năng thỏa hiệp; lòng
  20. khoan dung; tôn trọng cá nhân con người, giải quyết xung đột bằng phương pháp hòa bình. Mỗi điều kiện trong số đó đều quan trọng cho việc đưa ra các quyết định một cách dân chủ, không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà cả trong các lĩnh vực khác của đời sống. Ta sẽ xem xét từng lĩnh vực một cách cụ thể hơn. Khả năng thỏa hiệp. Lịch sử đã biết những trường hợp thỏa hiệp tưởng như không thể nào xảy ra được. Thí dụ như việc khôi phục chế độ quân chủ của dòng họ Bourbon ở Pháp vào các năm 1814-1815. Đây rõ ràng là một sự thỏa hiệp vì ngôi vua tuy được phục hồi nhưng chỉ có quyền lực hạn chế, những thay đổi về mặt luật pháp được thông qua trong những năm cách mạng và chiến tranh dưới thời Napoleon được thừa nhận. Tại Roma cổ đại đã từng có những sự thỏa hiệp giữa những người ủng hộ chế độ cộng hòa và những người bảo hoàng. Việc thành lập chế độ quân chủ hạn chế ở Tây Ban Nha vào năm 1975 cũng có thể coi là một sự thỏa hiệp. Việc thiết lập chế độ dân chủ tại Hợp chúng quốc Hoa Kì là thí dụ điển hình về khả năng thỏa hiệp của những người hoàn toàn khác nhau về tài sản và thành phần xuất thân. Trong các điều kiện của cuộc cách mạng Mĩ, nguyên tắc chính quyền của dân đã vượt qua biên giới làng xã và thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động của chính phủ. Tất cả các tầng lớp dân cư sẵn sàng nhượng bộ. Kết quả là các đạo luật dân chủ nhất đã lần lượt được đưa ra trưng cầu và được thông qua bởi chính những người mà mới nhìn thì có vẻ như quyền lợi bị phương hại khi các đạo luật này được thông qua. Hành động như thế, các tầng lớp thượng lưu đã tránh được sự tức giận của dân chúng và chính họ đã giúp thiết lập chế độ mới. Bang Maryland là một thí dụ, bang này được những nhà quí tộc có danh vọng thành lập nhưng lại là bang đầu tiên tuyên bố chế độ phổ thông đầu phiếu và áp dụng hình thức quản lí dân chủ. Các tu chính hiến pháp bang được thông qua vào các năm 1801 và 1809. Vấn đề là làm thế nào xác định đước “ý chí chung”, vì nói đúng ra thì không có một ý chí như thế? Trong xã hội dân chủ vấn đề này được giải quyết theo nguyên tắc thiểu số nhân nhượng đa số và phục tùng ý chí của đa số. Đấy là nguyên tắc căn bản của nền dân chủ, thiếu nó thì dân chủ không thể nào tồn tại được. Nhưng số đông không phải lúc nào cũng đúng. Biên niên sử thành phố Novgorod chép rằng Hội đồng thành phố quyết định ném một đại điền chủ tên là Iakun xuống sông, người này may mắn thoát chết và sau đó vài năm lại được bầu làm người đứng đầu chính quyền hành pháp của chính thành phố đó. Thí dụ sau đây chứng tỏ sự độc tài của đa số có thể đạt đến mức độ cực đoan. Trong thời gian chiến tranh năm 1812, một tờ báo ở Baltimore (Mĩ) có đăng bài phản chiến và đã làm cho dân chúng vô cùng tức giận. Đám đông xông vào đập phá máy in, tấn công ban biên tập. Để cứu các phóng viên người ta quyết định đưa họ lánh vào nhà tù. Thế mà vẫn không xong. Đêm đó nhà tù bị tấn công, một phóng viên bị giết tại trận, số khác bị đánh cho đến chết. Những kẻ giết người sau đó được tòa tha bổng. Nói đến dân chủ cũng không được quên một khái niệm nữa, đấy là quyền lực của đám đông (ochlocracy), nó khác xa với hình thức quản lí dân chủ. Theo quan điểm dân chủ thì một người sai, thậm chí một tên tội phạm cũng chỉ bị coi là phạm tội sau khi có phán quyết của tòa án, nghĩa là trước đó người này vẫn được tôn trọng như một công dân bình thường. A. N. Radishchev, một nhà văn Nga, đã rất có lí khi nhấn mạnh rằng ta chỉ là người khi đã học được cách nhìn thấy con người trong tha nhân. Tất nhiên là chính quyền do đa số bầu lên luôn luôn có khả năng buộc thiểu số phải phục tùng “ý chí chung” bằng các biện pháp cưỡng chế. Alexis de Tocqueville, trong cuốn sách Nền dân chủ Mĩ viết trong những năm 30 của thế kỉ XIX, đã ghi lại nội dung một cuộc nói chuyện của ông với người dân bang Pennsylvania về việc người da đen có quyền tham gia bầu cử nhưng họ không tham gia và điều đó được giải thích như sau: “Vấn đề không phải là họ không thích, mà họ sẽ bị rắc rối to nếu làm như thế. Nếu đa số không ủng hộ luật pháp thì luật trở thành vô giá trị. Đa số dân chúng lại có thành kiến với người da đen, còn chính quyền thì không thể đảm bảo quyền đã được luật pháp thừa nhận của người da đen”.
  21. Như vậy có nghĩa là đa số không chỉ có quyền ban hành luật lệ mà còn muốn có quyền vi phạm pháp luật nữa. Tốt nhất là sự đồng thuận đạt được bằng biện pháp thuyết phục, trên cơ sở chấp nhận các yêu cầu của kỉ luật dân chủ với sự tôn trọng quyền của thiểu số được bảo vệ các quan điểm của mình, được tự do thể hiện các quan điểm của mình trong khuôn khổ của trật tự và luật pháp. Thực tiễn chính trị cho thấy thiểu số không phải lúc nào cũng sai. Ngược lại, đôi khi sự thật và chân lí lại thuộc về thiểu số. Đấy chính là nhu cầu phải bảo vệ quyền lợi của thiểu số. Quyền của thiểu số, dù đấy là quyền sắc tộc, tôn giáo hay chính trị cũng đều không thể phụ thuộc vào lòng tốt của đa số và không thể bị bãi bỏ bởi quyết định của đa số. Quyền của thiểu số phải được bảo vệ bởi vì luật và các thiết chế dân chủ bảo vệ quyền lợi của tất cả các công dân, coi quyền của từng công dân là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Nhưng khó khăn là ở chỗ không chỉ xã hội mà từng người chúng ta đều có các mâu thuẫn nội tại. Đấy là bản chất của chính con người. Ta hãy xét kịch bản sau: mỗi người đều coi quyền của mình là thiêng liêng, nhưng khi đấu tranh cho bình đẳng xã hội, đôi khi chúng ta lại vi phạm quyền của người khác một cách vô ý thức. Thí dụ, khi những người làm việc trong một lĩnh vực nhà nước đòi tăng lương thì có khi họ không hiểu rằng như thế là họ đã làm phương hại đến các nhóm xã hội khác do phải tăng thuế hoặc giảm đầu tư vào các lĩnh vực đó. Xã hội dân chủ cũng không tránh được các cuộc xung đột, và cơ chế giải quyết chúng là thông qua thỏa hiệp, đạt được đồng thuận với điều kiện là các công dân trung thành với lí tưởng và các nguyên tắc dân chủ, hiểu rằng xung đột là không thể tránh khỏi, rằng có thể giải quyết xung đột bằng thảo luận và đàm phán. Nhưng các nguyên tắc quan trọng nhất của dân chủ không thể bị hi sinh trong quá trình đàm phán. Quyền lực tuyệt đối tự nó đã là nguy hiểm. Trên trái đất không thể có một chính quyền - dù nó có được tôn trọng đến đâu, dù nó có được coi là thần thánh đến đâu - lại được phép hành động mà không bị kiểm soát, được ra lệnh mà không gặp bất kì sự phản đối nào. Nếu một người nào đó - dù đấy có là nhân dân, đức vua, nền dân chủ hoặc chế độ quí tộc - được quyền và có khả năng làm tất cả những gì họ muốn, thì đấy chính là điều kiện sinh ra bạo chúa. Thí dụ rõ ràng nhất là việc thiết lập chế độ phát xít ở Đức. Hitler giành được chính quyền bằng con đường dân chủ: ngày 30 tháng Giêng năm 1930 ông ta được cử làm Thủ tướng. Hitler đòi tiến hành các cuộc bầu cử mới vào tháng Ba, và đảng phát xít giành được 43,9% số phiếu bầu. Sau một loạt nghị định của chính phủ, Hitler trên thực tế đã giành được độc quyền lập pháp. Hitler đã sử dụng độc quyền này để thành lập nhà nước phát xít: công đoàn bị giải tán, các đảng phái bị buộc phải tự giải tán, hội đồng địa phương bị hủy bỏ, mặt trận lao động Đức, các cơ quan an ninh quốc gia và cảnh sát mật (GESTAPO) được thành lập. Kết quả là ngay từ những năm 1934-1935, nước Đức đã trở thành nhà nước toàn trị. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng các biện pháp dân chủ không đảm bảo rằng những người được bầu bao giờ cũng là đại diện xứng đáng của xã hội, nghĩa là dân chủ phải giải quyết song song hai nhóm vấn đề: một mặt, cử tri phải cố gắng tạo lập được một hệ thống bầu cử hữu hiệu nhằm giảm đến mức tối thiểu khả năng nắm quyền của những kẻ không xứng đáng; mặt khác, phải tạo được cơ chế để trong trường hợp có những kẻ nắm quyền tồi tệ nhất, theo lời giáo sư K. Popper, thì thiệt hại cũng chỉ ở mức tối thiểu. Nghĩa là phải thiết lập được hệ thống kiểm soát hữu hiệu các hoạt động của những người đại diện cho nhân dân, tạo được cơ chế bãi nhiệm, miễn nhiệm các quan chức và các hình thức tác động xã hội khác. Giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình. Mọi xã hội công dân đều cần sự ổn định để phát triển. Nó phải cố gắng tránh các chấn động xã hội và các trục trặc về kinh tế có thể xuất hiện trong mọi xã hội, mọi tập đoàn người. Khả năng của xã hội trong việc giải quyết các xung đột một cách hòa bình là tác nhân chính đảm bảo sự ổn định.
  22. Luật pháp là biện pháp văn minh nhất trong việc giải quyết các xung đột. Luật pháp lại do những người nắm quyền lực tạo ra. Nhưng luật pháp lại chỉ được quần chúng công nhận và tuân thủ nếu được tạo ra bởi một chính quyền công chính và có uy tín trước dân. Mao Trạch Đông nói: “Súng đẻ ra chính quyền”. Thật đáng tiếc khi phải công nhận rằng chính phủ của nhiều nước và nhiều thời đại đã từng giành được quyền lực nhờ sử dụng vũ lực, cướp lấy chính quyền. Nhưng nếu một nhóm người dùng vũ lực mà cướp lấy chính quyền thì tại sao dân chúng lại phải tuân theo pháp luật của chính phủ đó? Họ có buộc phải tuân theo không? Họ phải tuân theo vì sợ hãi, vì dân chúng không đủ lực lượng và phương tiện để chống lại. Dĩ nhiên là những kẻ cướp quyền như thế không thể hi vọng vào lòng nhiệt tình và sự ủng hộ của dân chúng vì nhân dân đâu có đồng ý để cho những kẻ đó cai trị mình. Các chính phủ quân sự do đảo chính mà cướp được quyền lực nếu chỉ dùng lực lượng đàn áp thì không thể nắm quyền được lâu. Ngay cả các chính phủ tay sai do ngoại bang thiết lập cũng phải biện hộ cho việc cầm quyền của mình và cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của một bộ phận dân chúng. Rất nhiều người cho rằng một trong những đặc trưng rõ nhất của chế độ dân chủ là khả năng thay thế những người lãnh đạo bằng biện pháp hòa bình trong khi chỉ có thể phế truất những kẻ độc tài bằng vũ lực và có đổ máu. Chúng tôi có cảm giác rằng trong điều kiện hiện nay càng ngày càng có nhiều khả năng loại bỏ các chế độ độc tài với ít xương máu nhất, thậm chí không cần phải đổ máu nữa. Khả năng đó được tạo ra bởi các tổ chức hòa giải quốc tế, liên hiệp các chính phủ và dư luận quốc tế. Chúng ta sẽ xem xét trường hợp cụ thể sau: Như các bạn đã biết, năm 1973 tướng Pinochet tổ chức đảo chính lật đổ chính phủ hợp pháp của tổng thống Allende. Allende coi việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, làm cách mạng về kinh tế là mục đích các chính sách của mình. Mục đích của đảo chính là đưa đất nước trở lại các quan hệ thị trường, về thực chất là quay trở lại con đường phát triển phi cách mạng. Dĩ nhiên là ở Chi Lê có cả những người ủng hộ lẫn người chống đối đảo chính. Các biện pháp được áp dụng cho những người chống đối hoàn toàn không thể gọi là văn minh: quyền tự do chính trị bị hạn chế, những người phản đối thì bị đàn áp. Chế độ chuyên chế được thiết lập. Nhưng mặt khác, việc đưa đất nước trở lại con đường phát triển kinh tế bình thường, phi cách mạng sau một thời gian đã tạo ra cơ sở cho sự đồng thuận dân tộc và các biện pháp cai trị độc tài được thay thế dần bằng các biện pháp dân chủ. Kết quả là đa số người dân Chi Lê đã đồng ý với chính sách của Pinochet và coi nó là hợp pháp. Thí dụ này một lần nữa chứng tỏ rằng mỗi hoàn cảnh chính trị cụ thể đều rất phức tạp và thật khó mà đánh giá một cách dứt khoát được. Như vậy là trong xã hội dân chủ, từng người và mỗi tập thể đều phải tôn trọng ý kiến và ước muốn của những người xung quanh; cần phải có thái độ khoan dung đối với những khác biệt giữa con người với nhau; phải công nhận các quan điểm khác biệt với quan điểm của mình. Cần phải sẵn sàng thoả hiệp, trên cơ sở sự tin cậy cần thiết cho việc ra quyết định. Cần phải nhận thức một cách sâu sắc rằng dân chủ không phải là một hệ thống nhất thành bất biến. Đây là một cơ chế tạo ra khả năng cải thiện xã hội bằng thảo luận và thương lượng, khả năng phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn mà xã hội nào cũng có.
  23. Chương 3: Nhân quyền trong xã hội dân chủ 1. Các quyền của con người và nguồn gốc của chúng Tôn trọng các quyền của con người là dấu hiệu của xã hội văn minh. Nhưng cái qui tắc tưởng như đã được mọi người công nhận này lại không được thực hiện tại nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, tại đó các quyền con người, kể cả quyền được sống cũng bị xâm phạm. Khi nói đến quyền con người thì phong tục, tập quán, đặc điểm dân tộc và các giá trị văn hóa lại tỏ ra có ảnh hưởng rất lớn. Trước khi nói đến các tính chất của quyền con người, những đặc trưng tại những khu vực khác nhau trên thế giới, ta cần phải ghi nhận ngay rằng nguyên tắc căn bản nhất của chế độ dân chủ là chính phủ không cho, cũng không ban phát các quyền cơ bản của con người, mà có trách nhiệm bảo vệ tự do và các quyền mà con người được thiên nhiên ban cho ngay từ khi chào đời. Vì vậy điều quan trọng là phải tạo ra được các điều kiện và cơ chế mà nhờ đó quyền của từng người riêng biệt không thể bị xâm phạm, như nhà sử học Leonard Levy đã nói một cách hình tượng: “Người ta chỉ có thể trở thành tự do khi các chính phủ không được tự do”. Thực tiễn các nước có nền cai trị hợp hiến cung cấp cho ta nhiều ví dụ khẳng định nguyên tắc này. “Quốc hội không được ban hành bất cứ đạo luật nào liên quan đến việc thiết lập tôn giáo hoặc cấm thực hành tôn giáo, hoặc cản trở tự do ngôn luận hay báo chí, hoặc quyền hội họp một cách hòa bình và đệ trình chính phủ các các thỉnh nguyện về việc đáp ứng các đòi hỏi của dân chúng”, tu chính thứ nhất (1791) của Hiến pháp Hoa Kì đã viết như thế. Nói một cách khác, không phải chính phủ Hoa Kì cho người Mĩ tự do tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do ngôn luận, mà là đạo luật nền tảng của Mĩ buộc chính phủ không được can thiệp cũng như hạn chế các quyền này của công dân. Bây giờ chúng ta sẽ cùng nhau đưa ra các nguyên tắc căn bản liên quan đến quyền con người. Trước hết hãy xem những thí dụ sau đây: 1. Một người bị gọi công khai là kẻ nói dối. Anh ta cho rằng như thế là làm mất uy tín của mình và đòi được bảo vệ. Người đó có quyền được bảo vệ không? Nếu đa số cho rằng anh ta là kẻ nói dối thì anh ta có mất quyền được bảo vệ không? Nếu đa số đồng ý rằng quyền của anh ta cần được bảo vệ thì như vậy đã đủ để bảo vệ anh ta chưa? 2. Một người ngoại quốc bị rắc rối với luật pháp. Có vẻ như người này đã phạm tội. Người này có quyền mời luật sư bảo vệ, có quyền gặp đại diện sứ quán nước mình không? 3. Một nhân viên cơ quan chính phủ được phân nhà nghỉ, ô tô và tài xế riêng. Máy bay có thể giúp thực hiện công vụ. Anh ta có quyền đi máy bay không? Có sự khác nhau giữa việc cấp cho nhân viên chính phủ ô tô, máy bay, căn hộ và nhà nghỉ không? Khác nhau như thế nào? 4. Cai ngục bị kết tội đối xử tàn bạo với các tù nhân. Tù nhân được tha có thể báo thù không? Báo thù như thế nào? 5. Không nghi ngờ gì rằng quyền của phạm nhân đã bị vi phạm. Ai có thể và phải ngăn chặn điều đó? 6. Cơ quan điều tra chứng minh rằng cai ngục không hành động theo đúng qui chế và vi phạm quyền của tù nhân, nhưng phạm nhân lại không báo cáo cho trưởng trại. Nếu đưa ra tòa thì ai là người có tội? Tại sao? 7. Người ta định giết một con ngựa đua già thay vì để nó tự chết trên đồng cỏ. Nó có quyền chết trên đồng cỏ không? Súc vật có quyền gì? Khác với quyền con người ở chỗ nào?
  24. Khi phân tích các thí dụ nêu trên có thể các bạn đã thấy những nguyên tắc khác nhau trong việc thực thi quyền con người: đấy là đòi hỏi, quyền, ưu tiên, giới hạn, trách nhiệm, vi phạm. Đòi hỏi là lời khẳng định về việc bị lăng mạ, bị đối xử bất công, được trình cho các cơ quan bảo vệ pháp luật với hi vọng được đền bù. Đòi hỏi phải được kiểm tra rồi sau đó đưa ra phán quyết: đáp ứng hay không đáp ứng. Quyền là một đòi hỏi được pháp luật công nhận. Sẽ bất công nếu quyền không được đáp ứng. Bản thân từ “quyền” đã có nghĩa rằng mọi đòi hỏi phù hợp với luật pháp đều phải được đáp ứng. Quyền con người khác với quyền của súc vật và cây cối, v.v là những vấn đề không được xem xét trong cuốn sách này. Ưu tiên là công nhận rằng một đòi hỏi nào đó là không có cơ sở và những đòi hỏi khác tương tự cũng không bắt buộc phải được đáp ứng. Giới hạn là sự biện hộ cho việc không đáp ứng một đòi hỏi nào đó. Thay đổi nội dung của đòi hỏi: không phải là quyền mà là một ưu tiên nếu hoàn cảnh không cho phép thỏa mãn điều kiện đó. Trách nhiệm là công nhận quyền. Thí dụ quyền trẻ em phụ thuộc rất nhiều vào trách nhiệm của các bậc cha mẹ. Vi phạm là hành vi dẫn đến mất quyền. Quyền con người được chia ra thành: quyền chính trị, quyền công dân, quyền văn hóa, quyền kinh tế, quyền xã hội. Những trường hợp dưới đây nói đến quyền nào? 1. Cấm kì thị 2. Bảo đảm việc làm 3. Được học bằng tiếng mẹ đẻ 4. Được theo bất kì tôn giáo nào 5. Bảo đảm về nhà ở 6. Tự do đi lại 7. Cấm chế độ nô lệ 8. Lựa chọn chính phủ 9. Giáo dục miễn phí Xin đừng buồn nếu ý kiến của bạn khác với ý kiến của giáo viên hay của những người xung quanh. Điều đó là do, đôi khi một hoàn cảnh có thể được coi là thuộc phạm vi những quyền khác nhau. Thí dụ như tự do đi lại. Một mặt, nếu ta coi nó có ý nghĩa cá nhân thì đấy là quyền xã hội. Nhưng nếu quyền đi lại hoặc ra nước ngoài bị hạn chế thì đã xuất hiện khía cạnh chính trị. Còn nếu hạn chế là do không có đủ ngoại tệ thì có thể coi là thuộc lĩnh vực kinh tế. Các trường hợp nêu trên đều như thế cả. Quyền con người bao gồm: quyền cá nhân và quyền của nhóm. Trên thế giới người ta đã chia ra như sau: quyền chính trị, quyền công dân được coi là các quyền cá nhân, nghĩa là quyền do từng người thực hiện, không phụ thuộc vào những người khác; quyền xã hội, quyền văn hóa, quyền kinh tế được coi là quyền của nhóm, được thực hiện bằng cách tham gia vào một nhóm nào đó.
  25. Xin phân tích các tình huống gây tranh cãi dưới đây. Hãy xác định các hạn chế hợp lí, theo bạn, có thể áp dụng trong từng tình huống. 1. Người thợ ảnh tham gia cuộc thi và giành được giải nhất. Nhưng mọi cố gắng nhằm công bố bức ảnh đều thất bại. Biên tập viên các tòa soạn giải thích rằng bức ảnh thiếu tinh thần yêu nước. Quyền của ai đã bị xâm phạm? Những quyền nào? Bởi ai? Nếu thay đổi lí do từ chối công bố, thí dụ như khiêu dâm hay trái ngược với niềm tin tôn giáo thì sao? Khi nào thì có thể áp dụng “hạn chế hợp lí”? 2. Cô gái học xong trung học và đi đến thành phố khác làm việc một thời gian. Cô không có họ hàng nào ở đây cả. Cô có con nhưng không đủ khả năng chăm sóc. Vì vậy cô mang nó đến bỏ gần một nhà thờ. Các ông cố đạo đã tìm thấy đứa bé, mang về nuôi và đăng báo tìm mẹ nó. Quyền của ai bị xâm phạm? Bởi ai? Những quyền nào? 3. Một người bị cảnh sát bắt. Anh ta khẳng định rằng không làm gì sai, nhưng cảnh sát nói rằng anh ta chống người thi hành công vụ, đánh anh ta và nhốt vào nhà giam. Sáng hôm sau người ta thả anh ta, đồng thời rút lại lời buộc tội về việc chống người thi hành công vụ. Nạn nhân phát đơn kiện cảnh sát. Quyền của ai bị xâm phạm? Những quyền nào? 4. Có một số bức ảnh được đăng tải trên một tờ báo lớn. Có thể thấy rõ hình ảnh cảnh sát đang đánh đập. Cánh sát phải ra tòa và được công nhận là vô tội. Xã hội bất bình. Tòa phải xử lại, cảnh sát bị kết án. Cảnh sát có thể coi thường luật phát khi thi hành nhiệm vụ không? Dư luận xã hội có thể ảnh hưởng đến phán quyết của tòa không? 5. Lính biên phòng được lệnh nổ súng nếu có người vượt biên. Một người có ý định vượt biên bị bắn. Người lính thực hiện lệnh trên và người chỉ huy bị đưa ra tòa và bị kết tội theo điều luật được đưa ra sau sự cố nói trên. Quyền của ai đã bị xâm phạm? Những quyền nào bị xâm phạm? Liệu như vậy có nghĩa là quyền lợi quốc gia phải được thay bằng các chuẩn mực quốc tế không? 6. Thành viên một nhóm yêu chuộng hòa bình tổ chức biểu tình bên cạnh nhà máy sản xuất thiết bị hạch tâm. Cuộc biểu tình và phản đối một cách hòa bình đã có ảnh hưởng đến dư luận xã hội. Nhưng vì không đi làm anh ta đã bị đuổi việc. Quyền của ai bị xâm phạm? Quyền nào bị xâm phạm? 7. Một bé gái bị ông bác đánh vì những lí do không rõ ràng. Bố mẹ cô bé vì sợ ảnh hưởng đến uy tín của gia đình nên không báo công an. Nhưng thày giáo của cô bé đã kiên quyết khuyên phải báo cho công an biết. Quyền của ai bị xâm phạm? Những quyền nào? Nguồn gốc quyền con người. Quyền con người được nói đến lần đầu tiên trong kinh Cựu ước. Đấy là mười điều răn mà mọi người đều phải tuân theo: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, đã rút ngươi ra khỏi xứ Ê-dip-tô, là nhà nô lệ. Trước mặt ta ngươi chớ có các thần khác. Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống các các vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp này, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy các hình tượng đó và cũng đừng hầu việc chúng nó Ngươi chớ lấy danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi, vì Đức Giê-hô-va chẳng cầm bằng
  26. vô tội kẻ lấy danh Ngài mà làm chơi. Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh. Ngươi hãy làm hết công việc mình trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày nghỉ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê-hô-va Đức Chúa trời ngươi ban cho. Ngươi chớ giết người. Ngươi chớ phạm tội tà dâm. Ngươi chớ trộm cướp. Ngươi chớ nói chứng dối cho kẻ lân cận mình. Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người, hoặc tôi trai, tớ gái, bò, lừa hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi” (Bản dịch Holy Bible in Vietnamese. Published by the United Bible Societies. 8M-1992 - ND) Những qui định đạo đức tương tự như thế có mặt trong các tôn giáo khác và các nền văn minh khác. Một số các quyền xuất hiện trong một nền văn minh giành ngay được sự tôn trọng và trở thành định chế pháp lí của các dân tộc khác. Một số khác, ngược lại, không được chấp nhận, thậm chí bị lên án hay lãng quên. Thí dụ tòa án hội thẩm, tham gia bầu cử được áp dụng rộng rãi trong các nền văn minh khác nhau, trong khi án tử hình, lao động khổ sai bị một số xã hội bác bỏ. Đến mãi thời gian gần đây tục ăn thịt người còn được chấp nhận trong một số khu vực. Một số nước vẫn còn chế độ nô lệ, lao động nặng nhọc với đồng lương chết đói vẫn còn hiện diện khắp nơi Theo nhiều tuyên bố quốc tế thì đấy chính là sự vi phạm quyền con người. Phương pháp bảo vệ quyền con người quan trọng nhất là soạn thảo và ban hành luật pháp (bộ luật). Bộ luật đầu tiên (Luật Hammurapi) xuất hiện tại Babilon cách đây gần 4.000 năm. Tại Athens, các đạo luật nghiêm khắc của Draco được thi hành suốt hai thế kỉ trước khi có bộ luật “công bằng” của Solon, cùng với thời đại vàng son của nền dân chủ Hi Lạp (cách đây 2.500 năm), được ban bố. Đấy là những bộ luật do nhà cầm quyền chứ không phải nhân dân soạn thảo. Nhưng người Hi Lạp cổ đại đã hiểu rằng có cả luật tốt cũng như luật xấu, luật xấu thì phải bãi bỏ. Những đánh giá như vậy từ thời cổ Hi Lạp có thể được coi là đóng góp có giá trị vào việc bảo vệ quyền con người. Tại La Mã cổ đại đã hình thành quan niệm dễ hiểu về lẽ công bằng và có thể ứng dụng cho đến tận hôm nay, một quan niệm đã trở thành cơ sở của luật pháp châu Âu. Bộ luật có thể hạn chế nhà cầm quyền ban bố các đạo luật không công bằng khác hẳn với các đạo luật do chính nhà cầm quyền ban hành. Điển hình nhất là Đại Hiến chương Tự do (Magna Carta). Một nhóm các nhà quí tộc Anh quốc đã buộc vua John kí Bộ luật này vào năm 1215 nhằm ngăn chặn việc tăng thuế và bắt người tùy tiện. Quốc hội thường xuyên họp tại London từ năm 1295. Cơ cấu quyền lực tương tự lần lượt xuất hiện tại Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, San-Marino. Đa số các điều khoản của Magna Carta (tất cả có 63 điều) đều nhằm củng cố quyền lợi và địa vị của giới quí tộc và tăng lữ Anh, nhưng cùng với thời gian đã mở rộng sang cả các tầng lớp dân cư khác. Thí dụ như điều khoản qui định rằng khi giải quyết những vấn đề quan trọng của quốc gia, kể cả việc xác định thuế khoá, nhà vua phải tham khảo ý kiến của các nam tước, về thực chất đã trở thành cơ sở của chế độ quân chủ lập hiến ở Anh. Điều khoản này cũng đóng vai trò
  27. quan trọng đối với những người di dân ở Mĩ khi họ đưa ra khẩu hiệu “chưa có đại diện thì không đóng thuế”. Có thể nói rằng người ta đã dựa vào Đại Hiến chương Tự do để soạn ra Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kì năm 1776, đã sử dụng và hoàn thiện các luận điểm chủ yếu của nó. Từ quan điểm quyền con người thì đây là hai văn kiện cực kì quan trọng đối với giai đoạn ra đời của chúng vì chúng đã hạn chế quyền của kẻ giàu và ngăn không cho nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực. Ở Mĩ Latin, thí dụ như Brazil, Peru, Venezuela, Columbia ngay từ đầu thế kỉ XIX người ta cũng đã soạn thảo được các văn kiện tương tự nhưng chúng đã không được đưa ra áp dụng trong giai đoạn đó. Cần phải ghi nhận rằng cho đến thế kỉ XIX chỉ những người hữu sản mới được quyền bầu cử và ứng cử mà thôi. Tài sản là nguồn gốc gây ảnh hưởng chủ yếu đối với quyền lập pháp. Nhiều nước gọi là dân chủ nhưng cho đến nay vẫn chưa có hệ thống bầu cử hoàn thiện, họ đặt ra nhiều hạn chế, không cho tự do bầu cử và ứng cử, cũng như không qui định trong hiến pháp thời hạn cầm quyền tối đa. Kết quả là đôi khi có những nhà lãnh đạo giành được quyền lực bằng con đường dân chủ lại thoán đoạt quyền lực. Quyền của dân chúng và hiến pháp được soạn thảo theo lối dân chủ bị hạn chế hoặc có thể bị bãi bỏ hoàn toàn. Nhưng từ sau Thế chiến thứ II, dư luận xã hội đã có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình phát triển của nền văn minh và áp lực của cộng đồng quốc tế đối với các nước vi phạm quyền con người cũng ngày một gia tăng. Những nước như thế thật khó giữ được quan hệ với các nước khác, tuy nhiên vẫn chưa tìm ra được các biện pháp gây áp lực hữu hiệu. Các sự kiện gần đây ở Nam Phi, ở Philipines, ở Somalia hay Haiti chứng tỏ rằng đôi khi tác động hay thậm chí áp lực của cộng đồng quốc tế cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng, nhưng mặt khác cần phải hoàn thiện cơ chế tác động của cộng đồng quốc tế trong những hoàn cảnh khẩn cấp. Bây giờ ta sẽ xem xét một số quyền một cách cụ thể hơn. 2. Các quyền chính trị và quyền dân sự Các quyền chính trị bao gồm quyền tự do ngôn luận, quyền bầu cử và ứng cử, quyền tham gia bằng những cách khác nhau vào việc ban hành và thực hiện các quyết định chính trị. Thí dụ người Hi Lạp cổ đại đã từng tham gia bầu ra những người lãnh đạo, họ đã có quyền góp ý kiến về các vấn đề kinh tế và chính trị quan trọng, và để tránh phải đóng thuế thân, họ ủng hộ việc tự nguyện đóng góp cho nhu cầu của nhà nước. Tại Athens xưa, có sự phân biệt giữa những người được gọi là công dân - nghĩa là những người có quyền chính trị, và những người không được hưởng các quyền đó (người ngoại quốc, phụ nữ, nô lệ, trẻ con). Trong thời đại ngày nay, nhiều nước vẫn còn những hạn chế về quyền công dân. Vấn đề này vẫn thường được đem ra thảo luận trên các diễn đàn khu vực và quốc tế. Thí dụ theo luật pháp Latvia chỉ đại diện những gia đình đã từng sống ở nước này trước năm 1939 mới được quyền bầu cử. Ở Đức chỉ những người nhập cư gốc Đức mới có quyền trở thành công dân nước này mà thôi. Thí dụ khác là San- Marino. Đất nước nhỏ bé và cổ kính này đã thay đổi hiến pháp vào năm 1939. Hiện nay tất cả những người sinh tại San-Marino đều có quyền bầu cử dù người đó đang sống ở đâu và mang quốc tịch nào. Tòa án công bằng. Việc bảo vệ quyền con người phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của hệ thống pháp luật. Theo chúng tôi, sự công bằng của hệ thống luật pháp được quyết định bởi ba thành tố sau đây: 1. Không thiên vị
  28. 2. Có các thủ tục xác định được sự thật 3. Lòng từ bi. Mỗi thành tố trên đây có nguồn gốc từ các nền văn hóa và văn minh khác nhau. Nếu xem xét các thành tố của một tòa án công bằng như thế trong suốt chiều dài lịch sử thì ta thấy rằng một số thành tố, ở những nước khác nhau, vì những lí do khác nhau đã biến mất, rồi lại được khôi phục, đôi khi phải vượt qua những trở ngại vô cùng to lớn. Không thiên vị. Đây là một khái niệm rất tương đối, để có những phán quyết không thiên vị, người ta thường mời các hội thẩm tham gia. Người ta thường nghĩ rằng các công dân bình thường (không phải các chuyên gia - quan tòa) ít bị mua chuộc hơn, họ ít bị lệ thuộc vào thù lao vật chất hơn. Người Hi Lạp cổ đại dùng rất nhiều hội thẩm: số lượng phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của phiên tòa nhưng bao giờ cũng là số lẻ. Mỗi hội thẩm có hai viên sỏi, một trắng và một đen. Mỗi người bỏ một viên vào hòm: nhiều đen hơn nghĩa là có tội. Quan tòa sẽ tuyên án phù hợp với qui định của pháp luật. Tại nước Nga xưa cũng từng có cách xử án tương tự. Trả lương thật cao cho các quan tòa, đút lót không còn ám ảnh cũng là biện pháp làm cho tòa án đỡ thiên vị. Các quan tòa thường là những người được xã hội rất tôn trọng, đấy cũng là cách “chiêu hiền”. Mức độ tự giác phải rất cao vì chỉ cần một sai lầm nhỏ cũng đủ làm bại hoại thanh danh, không gì bù đắp được, người có lỗi sẽ bị thải hồi hoặc phải ra đi vì áp lực của đồng nghiệp. Sự thật. Có những trường hợp tòa không xác định được sự thật. Trong quá khứ bị cáo hoặc nhân chứng thường bị tra tấn để họ phải nhận tội. Hiện nay cũng vẫn còn những biện pháp gây áp lực, thường là rất tinh vi để gây áp lực về thể xác hoặc tinh thần. Theo truyền thống pháp lí của nhiều nước, những lời thú tội do bị tra tấn hoặc lừa dối không được tòa công nhận. Dĩ nhiên là phương pháp xác định sự thật tại tòa án của các nước khác nhau và các khu vực khác nhau thì khác nhau. Nhưng chỉ trong trường hợp, thứ nhất, sử dụng các biện pháp văn minh; thứ hai, có vật chứng và nhân chứng, và cuối cùng, có tranh tụng (buộc tội và bào chữa) tại tòa thì người dân mới công nhận phiên tòa và phán quyết của tòa là công bằng mà thôi. Lòng từ bi. Đôi khi có những lí do chính đáng để không áp dụng các biện pháp trừng phạt thông thường. Thí dụ bị cáo giết người để tự vệ, ăn cắp vì đói quá, nói dối để che giấu một người khác. Những lời biện hộ như thế được sử dụng để kết án hay coi là tình tiết giảm nhẹ. Người La Mã cổ đại đã đưa ra nguyên tắc “thà để lọt tội phạm còn hơn là trừng phạt người vô tội”. Nhiều hệ thống pháp luật đòi hỏi chứng cứ phải hoàn toàn xác đáng. Ngay cả khi đã có phán quyết vẫn có thể kháng án, nếu là án tử hình thì có thể được ân giảm. Khái niệm “từ tâm” được hiểu một cách khác nhau, phụ thuộc vào tôn giáo và nền văn hóa của từng khu vực. Có thể vì vậy mà trong các nước khác nhau người ta áp dụng những hình phạt khác nhau cho cùng một tội lỗi. Đấy là tác nhân quyết định thái độ đối với tội phạm trong những nước khác nhau có cùng hoàn cảnh. Thí dụ sau cuộc cách mạng “nhung” ở Tiệp Khắc (năm 1989) các nhà độc tài và tay sai của họ đã được tha bổng, trong khi tại Argentine, Philippines, và Iraq tình hình hoàn toàn ngược lại. Tự do cá nhân là quyền của các công dân được làm những việc mà không cần chính phủ cho phép. Luật pháp La Mã cho các công dân (trẻ con, phụ nữ, nô lệ và người ngoại quốc không phải là công dân) uy quyền tuyệt đối trong gia đình, họ có thể ra lệnh đánh đập, thậm chí giết người. Truyền thống đó còn tồn tại ở một số nước đến tận ngày nay, nạn nhân của những “quyền” như vậy chính là phụ nữ, trẻ em, người già, người ốm hay người tàn tật. Đột nhập vào nhà người khác bị coi là hành động lăng nhục và xâm phạm quyền tự do cá nhân. Quyền sở hữu tài sản được ghi trong Tuyên ngôn về tự do, mặc dù quyền này đã tồn tại từ trước đó. Hiện nay quyền bảo vệ sở hữu cá nhân vẫn được công nhận, cũng như
  29. những hành động lạm dụng quyền lực cá nhân đều bị lên án và trong các nước dân chủ được giao cho chính phủ giải quyết. Mặc dù xúc phạm phụ nữ và trẻ em bị chính thức cấm, nhưng thực tế thì điều này vẫn thường xảy ra. Quyền tự do cá nhân còn bao gồm tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do lựa chọn bạn đời, v.v Tự do ngôn luận: là một trong những quyền quan trọng nhất của con người. Công dân các nước dân chủ tin rằng nhờ trao đổi ý kiến công khai mà quan điểm và giá trị của các bên được thấu hiểu, sự thật cuối cùng sẽ chiến thắng dối trá. Nhà triết học người Anh, ông J. S. Mill, trong tác phẩm Luận về tự do viết năm 1859 đã bảo vệ quan điểm này như sau: “Nếu ý kiến là đúng thì người ta sẽ bị tước mất cơ hội biến sai thành đúng; còn nếu ý kiến đó sai thì người ta mất cơ hội cảm nhận hình ảnh rõ ràng và ấn tượng sinh động của cái đúng khi nó va chạm với cái sai”. Quyền tự do tôn giáo (hay là tự do lương tâm) có nghĩa là các công dân tự chọn tôn giáo cho chính mình. Tư tưởng này đã trở thành quyền cá nhân sau thời gian đối địch lâu dài giữa các tôn giáo với nhau. Loài người đã phải trải qua các cuộc thập tự chinh, các tòa án giáo hội, các cuộc cải cách và phong trào phản đối giáo hội, v.v và chỉ sau đó người ta mới có lòng khoan dung đối với các tôn giáo khác, mới chấp nhận cho cá nhân quyền tự lựa chọn tôn giáo cho chính mình. Các chính phủ dân chủ bị luật pháp cấm không được bắt buộc các công dân chấp nhận tôn giáo chính thống hay từ bỏ tôn giáo. Trong các nước dân chủ có một số hình thức quan hệ giữa nhà thờ với nhà nước: nhà thờ tách khỏi nhà nước hoặc là một phần của cơ cấu nhà nước nhưng người dân có toàn quyền tự do lương tâm. Các nhà văn, các nhà bác học và hoạt động xã hội trong quá khứ cũng như hiện tại đã và tiếp tục có ảnh hưởng rất lớn đối với việc bảo vệ các quyền và quyền tự do công dân. Voltaire có ảnh hưởng cô cùng to lớn đối với các nhà lãnh đạo quốc gia của Nga, Phổ và Áo; J. S. Mill có thể được coi là “cha đẻ” của tư tưởng tự do Quan điểm của họ được phản ánh trong Tuyên ngôn Độc lập, trong Hiến pháp và Tu chính hiến pháp (Bill of Rights) của Mĩ. G. Washington, B. Franklin, Thomas Jefferson là những chiến sĩ đấu tranh cho quyền tự do cá nhân mặc dù họ chưa giải phóng được người nô lệ da đen ở Mĩ. Trong số những chiến sĩ đấu tranh không khoan nhượng cho quyền tự do và tự do cá nhân còn có: Lev Tolstoi, Rabindranat Tagor, Bertrand Russell, Aleksandr Solzhenitsyn, Andrey Sakharov. Quyền tự do cá nhân hay là sự hạn chế quyền lực của chính phủ được ghi trong Hiến pháp nhiều nước, bao gồm quyền tự do thân thể, tự do lập hội, tư do đi lại, v v Năm 1941 Tổng tống nước Mĩ lúc đó là F. D. Roosevelt đã đưa ra một tuyên bố quan trọng góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tư do mơ ước, thậm chí cả tự do sợ hãi nữa. Chiến tranh lạnh đã tạo ra nhiều nỗi lo lắng bên trong Hợp chủng quốc Hoa Kì và Thượng nghị sĩ McCarthy dành nhiều công sức nhằm cứu nước Mĩ khỏi họa cộng sản. Nhiều khi chỉ vì các tin đồn hoàn toàn thiếu bằng chứng, ông đã đưa nhiều người vào danh sách các công dân không đáng tin cậy. Những người lọt vào danh sách này coi như vô phương, thanh danh bị hủy họai, sự nghiệp cũng tan tành. Hiện nay đã rõ rằng đa số người bị kết án kiểu đó đều là người vô tội nhưng một số người đã bị cho thôi việc. Ai thực sự là nạn nhân? Nguyên nhân của chính sách đó là gì? Tự do lập hội cũng là quyền tự do cá nhân. Điều đó có nghĩa là một số người hoặc rất nhiều người có thể tham gia vào các tổ chức khác nhau. Thí dụ, đấy là việc chọn bạn đời, tham gia vào tổ chức công đòan hay đảng phái chính trị, câu lạc bộ, v.v Ngoài ra, người ta còn có quyền ra khỏi tổ chức bất cứ lúc nào, dù đấy có là đảng phái chính trị hay câu lạc bộ bóng đá. Đồng thời người ta cũng có trách nhiệm: không được phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính, sắc tộc, đảng phái khi nhận người vào làm
  30. việc hay phân phối nhà ở, v.v Cho đến tận thời gian gần đây tại Liên Xô, những người bất đồng chính kiến vẫn bị săn đuổi, các tổ chức không được cấp trên ưng thuận bị cấm thành lập. Dĩ nhiên đấy là vi phạm quyền con người. Nếu ta công nhận quốc gia, thì ta phải bảo vệ các dân tộc thiểu số khỏi các cuộc tấn công nếu họ cũng không tấn công các sắc tộc khác. Thí dụ quyền của người Armenia, người Nga La Tư, người Do Thái hoặc bất kì dân tộc nào khác hiện sống trên lãnh thổ nước Nga đều phải được tôn trọng. Dĩ nhiên là quyền của người Nga sống ở Armenia, ở Latvia hay ở bất kì nước nào khác cũng phải được tôn trọng như thế. Các nước đều phải tôn trọng quyền của các dân tộc thiểu số, tạo điều kiện cho họ được học hành bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, tạo khả năng bảo vệ nền văn hóa dân tộc, tự do đi lại. Các nước cộng hòa khác nhau được thành lập sau khi Liên Xô tan rã đã xây dựng chính sách dân tộc khác nhau. Ví dụ chỉ người gốc Estonia mới có quyền trở thành công dân Estonia, người gốc Latvia mới có quyền thành công dân Latvia, trong khi tại Litva thì tất cả mọi người sống một thời gian nhất định nào đó là có quyền nhập quốc tịch. Như thế có nghĩa là người Nga dù có sống ở Estonia hay Latvia hàng chục năm, có nhà ở, có công ăn việc làm cũng không phải là công dân các nước này. Dư luận thế giới coi đây là vi phạm quyền con người và đã lên tiếng phản đối các đạo luật như thế. Trong khi đó luật pháp Đức cho phép người Đức sinh ra ở Nga được quyền hồi hương, cho nhập quốc tịch và giúp đỡ để có thể hòa nhập. Ngoài ra, nước Đức cũng giúp đỡ những người gốc Đức muốn ở lại Nga nữa. 3. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá Năm 1966, Liên hiệp quốc đã thông qua và sau đó gửi cho tất cả các nước phê chuẩn hai văn kiện: Công ước Quốc tế về các Quyền Chính trị và Dân sự, và Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Sau khoảng mười năm nhiều nước đã phê chuẩn các văn kiện này và hai Công ước nêu trên trở thành một phần của luật pháp quốc tế. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa bao gồm các điều khoản lí tưởng, đảm bảo quyền được học hành, trợ cấp xã hội, chăm sóc y tế, nhà ở, việc làm. Các quyền văn hóa được hiểu là quyền thành lập các hiệp hội mang tính dân tộc hay tôn giáo và các hiệp hội khác; văn hóa ở đây không có nghĩa là văn học, nghệ thuật, nhạc, v.v Các quyền này thường được coi là thước đo của tiến bộ, văn minh. Ngoài ra, quyền văn hóa còn bao gồm quyền giữ gìn và phát triển các truyền thống, các nền văn hóa của các dân tộc, giữ gìn bản sắc các dân tộc ít người, các nhóm sắc tộc. Việc cấm các dân tộc thiểu số sử dụng tiếng mẹ đẻ, thái độ coi thường các giá trị văn hóa của họ, việc sử dụng thánh tích tôn giáo vào mục đích khác cũng như việc đồng hóa các dân tộc thiểu số, đều là những trở ngại cho việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Những việc như thế đã từng gặp sự phản kháng suốt hàng thế kỉ qua và được phản ánh trong thơ ca, nhạc, họa của các dân tộc. Thường thì các dân tộc thiểu số chỉ nhận được các quyền đủ để sống còn mà thôi. Riêng về nước Nga thì trong nhiều thế kỉ đã hình thành nhiều ngôn ngữ và nhiều truyền thống khác nhau. Đã có những giai đoạn khi tiếng Pháp được coi là ngôn ngữ cung đình. Sau này công tác giáo dục được thực hiện bằng tiếng Nga nhưng người ta có thể học cả bằng tiếng Ukraine hay Grudia nữa. Theo chủ ý của Peter I và những người kế tục ông thì tiếng Pháp là chìa khóa cho giới thượng lưu Nga tiếp xúc với nền văn hóa Âu châu. Nhưng đồng thời điều đó lại gây khó khăn cho các tầng lớp dân cư khác tham gia vào đời sống xã hội vì họ không thể giao tiếp được. Ta cùng xem xét thí dụ sau đây: Mọi
  31. người đều biết rằng một trong những chỉ thị đầu tiên của công tước Potemkin khi chiếm được các tỉnh thuộc Crimea của người Tatar là cho dân chúng hoàn toàn tự do tín ngưỡng, cấm không được động đến nhà thờ Hồi giáo, cho giới quí tộc Tatar được chuyển thành quí tộc Nga. Người nào muốn sang Thổ Nhĩ Kì cũng được tự do, không những không ngăn cản, ông còn phát cho họ giấy thông hành và tiền ăn đường nữa. Tại sao Potemkin lại làm như thế? Các quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số ở khu vực của bạn được bảo vệ như thế nào? Dưới thời Liên Xô, các nhà ngôn ngữ học đã sáng tạo chữ viết cho nhiều dân tộc thiểu số. Vì dân cư thưa thớt, thí dụ như ở Bắc cực hay vùng Siberia xa xôi, việc tổ chức học tập cho đồng bào dân tộc chưa được tổ chức tốt. Người Nga cũng không chú ý học tiếng các dân tộc ít người. Người ta đổ xô vào học các thứ tiếng nước ngoài có nhiều khả năng thăng tiến hơn. Trong các trường học tại Nga hiện nay, việc học tập được thực hiện bằng 75 thứ tiếng. So với các nước khác thì đây là một thành công rất lớn trong việc bảo vệ quyền của các dân tộc thiểu số. Có thể chỉ có Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Trung Quốc và Anh là có thể so sánh với Nga về số lượng ngôn ngữ dân tộc thiểu số được nghiên cứu mà thôi. Các dân tộc thiểu số cũng tăng cường học tập bằng tiếng mẹ đẻ của họ. Quyền kinh tế. Ngay từ năm 1924 Tổ chức Lao động Quốc tế đã yêu cầu cải thiện vị thế của người công nhân và điều kiện lao động tại tất cả các nước trên thế giới. Khi nói về quyền kinh tế thì đấy trước hết là quyền đình công, nhờ đó mà lương bổng cũng như điều kiện lao động được cải thiện. Đình công nhằm lật đổ chính phủ không được khuyến khích dù Tổ chức Lao động Quốc tế có thể có thái độ tiêu cực đối với chính phủ đương quyền. Đa số các nước đều có luật về tiền lương tối thiểu đủ đảm bảo mức sống tối thiểu cho người làm công. Nhưng thường thường các chính phủ không có điều kiện đảm bảo cho nhu cầu của người lao động khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng hoặc bị lạm phát phi mã, v.v Trong những trường hợp như thế người ta phải trợ cấp cho những người không có tài sản hoặc có ít tài sản. Một số chính phủ không cho tăng lương nhằm tạo ra một phong cách sống đoan chính, thay vì thế người ta lập ra hệ thống cung cấp các nhu cầu tối thiểu như nhà ở, thức ăn, học hành, chữa bệnh, giao thông, thậm chí cả các chương trình văn nghệ miễn phí hoặc chỉ đòi một khoản tiền tối thiểu. Cách đây chưa lâu, đây là cách thức phân phối đặc trưng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đôi khi chính phủ còn trợ cấp cho ngành đường sắt, hàng không, nông nghiệp và công nghiệp chế biến nữa. Một số nước còn cố tình hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp bằng cách gia tăng số binh lính tại ngũ với mức lương không đáng kể. Một số nước còn cố tình che dấu sự quản lí thiếu hiệu quả bằng cách tạo việc làm hoặc cung cấp khẩu phần ăn cho tất cả mọi người Đa số dân chúng nước Đức phát xít chấp nhận các biện pháp cai trị độc tài vì họ được đảm bảo công ăn việc làm, mà trước đó do khủng hoảng cuối những năm 20 đầu những năm 30 nhiều người đã bị thất nghiệp, do quân số gia tăng và sự mở rộng các tổ hợp quân sự công nghiệp. Các nhà độc tài ở Argentine, Brazil, Nigeria, Indonesia cũng đi theo đúng con đường như thế. Chủ nghĩa mị dân kiểu đó có thể phản ánh ước muốn tạo sự công bằng của chính phủ, nhưng trên thực tế các chương trình như vậy không thể kéo dài được lâu. Nói một cách khác, khẩu hiệu “mỗi người dân một con gà” là tốt với điều kiện có đủ gà. Nếu tổ chức sản xuất nông nghiệp thiếu hiệu quả thì điều đó là bất khả thi. Việc quyền kinh tế của người dân không được thực hiện đã buộc chính phủ phải thay đổi không chỉ chiến thuật mà cả chiến lược kinh tế như đã từng xảy ra với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Trên thế giới luôn có những tiêu chuẩn để đánh giá tình trạng kinh tế của mỗi nước và mức sống của người dân và căn cứ theo đó đánh giá việc đảm bảo quyền kinh tế cho người dân từ phía chính phủ mỗi nước. Trong một thời gian dài tổng sản phẩm quốc dân (GDP) được coi là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất. Ngày nay các nhà khoa học thường không sử dụng chỉ số GDP nữa mà người ta tiến hành so sánh chất lượng cuộc sống nghĩa là thời gian lao động để đảm bảo một mức sống nào đó và chất lượng thức ăn, đồ dùng, v.v Mặc dù đây là vấn đề còn đang tranh luận, nó không chỉ có ý nghĩa
  32. kinh tế mà còn có ý nghĩa pháp lí vì liên quan đến quyền con người. Quyền xã hội liên quan đến việc phát triển các tiềm năng của xã hội trong lĩnh vực giáo dục, nghệ thuật, văn học, đảm bảo không có sự kì thị về giới tính, tuổi tác, hoàn cảnh gia đình, dân tộc. Sự kì thị có thể nấp dưới những hình thức tinh vi, phức tạp. Hình thức kì thị phổ biến nhất là kì thị giới tính và tuổi tác nghĩa là nhằm vào phụ nữ và trẻ em. Để thấy rõ sự kì thị này, chúng ta hãy cùng nhau xem xét địa vị của phụ nữ trên thế giới. Chuyện cổ tích kể rằng người đàn bà mang trên vai mình một nửa thế gian. Nhưng ngay cả trong các nước dân chủ tiền lương của phụ nữ vẫn thấp hơn đàn ông, công việc gia đình do người đàn bà gánh vác là chủ yếu vì đàn ông thường ít chú ý đến việc nhà. Phụ nữ thường ít có cơ hội vào đại học hơn nam giới, tại một số nước thì ngay vào trung học đã bị hạn chế và người ta còn không cho nữ giới học một số nghề nhất định nữa. Luật pháp một số nước còn tước cả quyền thừa kế của phụ nữ. Trên thế giới vẫn còn những trường hợp buôn bán phụ nữ và trẻ em làm nô lệ, các em gái bị gả bán, phụ nữ không có quyền quyết định có con hay không và nếu có thì bao nhiêu đứa. Vì vậy cơ quan bảo vệ quyền con người của Liên hiệp quốc đã đưa ra một loạt công ước nhằm bảo vệ phụ nữ khỏi tệ kì thị. Công ước về việc loại bỏ tất cả các hình thức kì thị đối với phụ nữ được thông qua vào năm 1979 và có hiệu lực vào năm 1981, sau khi được đa số các nước phê chuẩn, xác định rằng phụ nữ hoàn toàn bình đẳng với nam giới trong các lĩnh vực sau đây: • Trong bầu cử, được quyền bầu và ứng cử vào chính phủ và tham gia vào các tổ chức xã hội khác; • Lựa chọn thành phần dân tộc, quốc tịch, kể cả quyền thay đổi thành phần dân tộc của mình và của các con; • Học tập, nhận học bổng; • Công việc, được trả lương ngang với đàn ông khi cùng làm công việc giống nhau, được bảo vệ khỏi sự kì thị do mang thai và sinh con; • Chữa bệnh; • Được pháp luật bảo vệ; • Chọn chồng và quyền có một phần tài sản trong gia đình. Ngoài ra, Liên hiệp quốc còn đưa ra nhiều văn kiện liên quan đến số phận người phụ nữ trong những hoàn cảnh khác nhau: phụ nữ nô lệ, phụ nữ không có quốc tịch, phụ nữ là nạn nhân của tra tấn và áp bức, phụ nữ di dân, v.v Các văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền con người. Văn kiện quan trọng nhất là bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 1948. Cần ghi nhận rằng không phải tất cả các thành viên của Liên hiệp quốc lúc đó đều ủng hộ Tuyên ngôn. Đại diện của Arap Saudi và Nam Phi không bỏ phiếu. Điều đó tạo cớ cho một số nước như Irak (thời Saddam Hussein), Libya không công nhận văn kiện này. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được một nhóm chuyên gia trong Uỷ ban về quyền con người dưới sự lãnh đạo của Eleonora Roosevelt (Mĩ) và Rene Cassan soạn thảo. Hai người có vai trò quan trọng trong việc soạn thảo văn bản này là Iakov Malik (Libăng) và John Humfrey (Canada). Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền thể hiện được các tư tưởng quan trọng nhất của các nhà nghiên cứu chính trị học, trong đó thể hiện một cách ngắn gọn và rõ ràng các nguyện vọng trong lĩnh vực nhân quyền chứ không phải là ghi nhận những thành tích đã đạt được. Sau Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là các văn kiện khác, cụ thể hoá các quyền công dân, thí dụ quyền kinh tế, xã hội và văn hoá được cụ thể hoá trong Công ước về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá, Công ước về Quyền Chính