Các thành phần kinh tế: Nhận thức lý luận và thực tiễn Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Các thành phần kinh tế: Nhận thức lý luận và thực tiễn Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- cac_thanh_phan_kinh_te_nhan_thuc_ly_luan_va_thuc_tien_viet_n.pdf
Nội dung text: Các thành phần kinh tế: Nhận thức lý luận và thực tiễn Việt Nam
- Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 Các thành phần kinh tế: Nhận thức lý luận và thực tiễn Việt Nam PGS.TS. Phạm Văn Dũng* Khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 18 tháng 11 năm 2010 Tóm tắt. Bài viết bàn về vấn đề đa dạng hóa sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin về nền kinh tế thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và trở thành nội dung quan trọng của quan điểm Đổi Mới kinh tế ở nước ta. Điều đó đã góp phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế - xã hội của đất nước ta trong những năm qua. Tác giả đưa ra một số nhận xét về quá trình hình thành, phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sở hữu và thành phần kinh tế; về triển khai thực hiện các quan điểm đó. Đồng thời, đưa ra một số kiến nghị, đó là: xây dựng chế độ sở hữu công cộng trong điều kiện Việt Nam hiện nay; quản lý các doanh nghiệp nhà nước; sắp xếp, phân chia các thành phần kinh tế; xây dựng nhà nước phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế nhiều thành phần 1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hội chủ nghĩa (XHCN). Bên cạnh việc xây về sở hữu và các thành phần kinh tế * dựng những cơ sở kinh tế mới cho CNXH, cần phải coi trọng cải tạo và sử dụng các cơ sở kinh Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam tế sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích (Đảng CSVN)về sở hữu và các thành phần kinh hợp. Tuy nhiên, "chúng ta chưa xác định rõ tế là cơ sở lý luận và nội dung quan trọng của ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương đổi mới kinh tế ở nước ta. Nhìn chung, những và chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo XHCN. quan điểm Đảng đưa ra ngày càng phù hợp hơn Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ với thực tế, góp phần quan trọng vào những ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc nước ta trong những năm qua. doanh. Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, ít Sự hình thành, phát triển quan điểm của chú ý những đặc điểm về tính chất của từng Đảng CSVN về sở hữu và các thành phần kinh ngành, từng nghề, để lựa chọn hình thức tổ tế được thể hiện thông qua Văn kiện tại các kỳ chức thích hợp, có xu hướng muốn tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc trong thời kỳ Đổi Mới. ngay các hợp tác xã quy mô lớn, không tính đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và Xuất phát từ tư tưởng của Lênin về nền kinh tế năng lực của cán bộ. Về nội dung cải tạo, nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu nghĩa xã hội (CNXH), Đảng CSVN đã phê về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải phán những tư tưởng nóng vội trong cải tạo Xã quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối" [1]. * ĐT: 84-4-36416817 E-mail: minhtam280557@yahoo.com.vn 1
- 2 P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 Đảng CSVN còn đưa ra định hướng giải Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý quyết quan hệ giữa thành phần kinh tế XHCN kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc với các thành phần kinh tế khác. "Củng cố doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những thành phần kinh tế XHCN bao gồm cả khu vực lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế củng cố và phát triển những cơ sở kinh tế trọng độ phân phối, làm cho thành phần kinh tế này điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân, nghĩa lớn đối với nền kinh tế quốc dân [2]. thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất Tư tưởng của Đảng CSVN về các thành lượng sản phẩm, thu nhập của người lao động phần kinh tế được tiếp tục khẳng định và cụ thể và tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. hóa hơn nữa trong Cương lĩnh xây dựng đất Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội khả năng của các thành phần kinh tế khác trong (1991): Phát triển một nền kinh tế hàng hoá sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Kinh thành phần kinh tế XHCN" [1]. Đảng CSVN tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập chủ trương: cần có chính sách sử dụng và cải thể không ngừng được củng cố và mở rộng. tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác. Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, Chính sách đó cho phép sử dụng nhiều hình từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. thích hợp trong từng khâu của quá trình sản Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những xuất và lưu thông nhằm khai thác mọi khả năng ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được Đó là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp khuyến khích phát triển mạnh, nhưng không phần giải phóng và khai thác mọi nguồn lực để phải là một thành phần kinh tế độc lập. Các phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau kinh tế hợp lý. Giải pháp đó xuất phát từ thực tế hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các tổ của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của chức kinh tế tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh Lênin coi “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành tranh trong sản xuất và kinh doanh [2]. phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ” [1]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991). (1996). Sau một thời kỳ phát triển kinh tế nhiều Tiếp tục tư tưởng của Đại hội lần thứ VI, Đại thành phần, mặt trái của vấn đề đã bộc lộ. Đảng hội lần thứ VII đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về CSVN đã có định hướng khắc phục mặt trái đang vai trò của nhà nước trong nền kinh tế nhiều tồn tại. Theo đó, "để phát triển sức sản xuất, cần thành phần. Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng phát huy khả nǎng của mọi thành phần kinh tế, hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước hoá giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng thông qua pháp luật, kế hoạch, chính sách và phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao các công cụ khác. động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xoá đói, hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm khá giả" [3]. soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật Khắc phục mặt trái của nền kinh tế nhiều trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hoà thành phần còn được thực hiện bằng "Đổi mới giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
- P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 3 cǎn bản tổ chức, quản lý và nâng cao hiệu quả xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá khu vực doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới và trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài qua phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. từ thấp đến cao, mà nòng cốt là các hợp tác xã. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây Phát triển các hình thức liên doanh, liên kết trực dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và tiếp giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau, quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi giữa kinh tế nhà nước với kinh tế hợp tác, kinh vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu tế tư bản tư nhân, cá thể và các công ty nước quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng ngoài" [3]. XHCN là thúc đẩy phát triển lực lượng sản Trên cơ sở lý luận của Lênin về kinh tế xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện nhiều thành phần và tình hình thực tiễn Việt công bằng xã hội" [4]. Nam, Đảng CSVN khẳng định: "Thực hiện nhất Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X(2006). quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế Đại hội xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục động theo pháp luật, đều là bộ phận hợp thành tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát quan trọng của nền kinh tế thị trường định triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng chức kinh doanh" [3]. phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001). mạnh. Đảng CSVN khẳng định lại tư tưởng về nền Đồng thời, Đảng CSVN đã xác định vị trí kinh tế nhiều thành phần đã được nêu ra trong và định hướng phát triển các thành phần kinh tế các Đại hội trước. "Trong thời kỳ quá độ, có chủ yếu. Trong đó, "kinh tế nhà nước giữ vai nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành xã hội" [4]. Đảng và Nhà nước ta chủ trương nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận trong những động lực của nền kinh tế. động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN(1). thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở Đây là bước phát triển mới về lý luận kinh tế thị hữu. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình trường, về sở hữu và các thành phần kinh tế thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi trong quá trình xây dựng CNXH. hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, Đại hội lần thứ IX còn chỉ rõ con đường, lĩnh vực, sản phẩm; một số mục tiêu như xuất cách thức xây dựng chế độ sở hữu công cộng khẩu, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, khắc (công hữu) về tư liệu sản xuất. Chế độ đó phục rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp " từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế nhỏ và vừa. tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng Thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây dựng một hệ thống doanh (1) S.đ.d. tr.86.
- 4 P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức được tuân thủ đầy đủ. Vẫn còn những biểu hiện cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, trong đó chủ quan, duy ý chí trong các chính sách đối chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên với các thành phần kinh tế. Nhiều vấn đề của hình thức cổ phần. Nhà nước định hướng, tạo khu vực doanh nghiệp nhà nước hiện nay, sự môi trường để phát triển có hiệu quả các doanh phát triển không tương xứng với tiềm năng của nghiệp theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào kinh tế tư nhân bắt nguồn từ lý do này. tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và Thứ ba, xây dựng chế độ sở hữu công cộng thành đạt. là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng nhưng cần lưu Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao ý rằng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện cơ kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, tế quốc dân là mục tiêu dài hạn, dựa trên sự công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xoá phát triển rất cao của lực lượng sản xuất. Do đó, bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh qua từng giai đoạn cần xác định mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà hơn trong xây dựng kinh tế nhà nước và kinh tế nước có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách tập thể sao cho phù hợp với thực tế hơn và với nhiệm trên thị trường và trước pháp luật" [5]. trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản Như vậy, thông qua các kỳ đại hội, Đảng xuất. Điều đó sẽ thuận lợi hơn trong hoạt động CSVN đã từng bước phát triển những quan chỉ đạo thực tiễn; tránh được những tranh luận điểm về sở hữu và các thành phần kinh tế. Có không cần thiết hoặc hiểu nhầm. thể đưa ra một số đành giá, nhận xét tổng quát sau: 2. Thực trạng các thành phần ở nước ta hiện Thứ nhất, quan điểm của Đảng CSVN về sở nay hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới là nhất quán, phù hợp với tư tưởng của chủ Nền kinh tế nhiều thành phần đã tác động nghĩa Mác - Lênin. Sự đa dạng về sở hữu và các tích cực đến giải phóng sức sản xuất, huy động thành phần kinh tế đã làm cho quan hệ sản xuất và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Năm phù hợp hơn với tính chất và trình độ phát triển 2000, tổng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế là lực lượng sản xuất ở nước ta. Đây là tiền đề 151.183 tỷ đồng thì đến năm 2009 đã tăng lên quan trọng giải phóng sức sản xuất, phát triển là 708.826 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ngoài kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhà nước tăng từ 34.594 tỷ đồng lên 240.109 tỷ của nhân dân. Những quan điểm này cần được đồng; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ kế thừa và phát triển trong văn kiện các kỳ Đại 27.172 tỷ đồng lên 181.183 tỷ đồng [6]. Đây là hội Đảng tiếp theo. điều kiện quan trọng để Việt Nam trở thành một Thứ hai, giữa nhận thức lý luận và các trong các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế chính sách về sở hữu và các thành phần kinh tế cao trên thế giới trong thời gian qua. đang có những khoảng cách nhất định. Định Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã tạo môi hướng quan trọng của Đảng CSVN trong xây trường cạnh tranh - động lực của tăng trưởng; dựng chế độ sở hữu công cộng và thành phần thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực kinh tế XHCN "là một quá trình phát triển kinh hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tế - xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội; là con thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển cộng nói riêng và quan hệ sản xuất mới nói của lực lượng sản xuất chung với bước đi vững chắc" [4], đã không
- P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 5 Bảng 1: Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước theo thành phần kinh tế theo giá so sánh 1994 (%) Nguồn: Niên giám thống kê hàng năm; Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, Hà Nội - 2010, tr.92 Theo số liệu bảng 1, thành phần kinh tế tư Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn góp nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn phần quan trọng trong tạo việc làm, đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn thành phần kinh thu nhập và đời sống cho người lao động. Khu tế nhà nước; đóng góp phần chủ yếu vào mức vực kinh tế ngoài nhà nước đã tạo ra phần lớn tăng trưởng của nền kinh tế. việc làm cho người lao động (xem bảng 2). Bảng 2: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo thành phần kinh tế (%) Năm 2000 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 100, 100, 100, 100, 100, Tỷ lệ % 100,0 100,0 0 0 100,0 0 0 0 Kinh tế nhà nước 9,31 9,95 9,88 11,6 11,2 11,0 10,9 10,5 87,8 Kinh tế ngoài NN 89,70 88,14 3 85,8 85.8 85.5 85,5 86,1 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 0,99 1,91 2,29 2.6 3.0 3,5 3,6 3,4 Nguồn: Niên giám thống kê hàng năm; Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, Hà Nội - 2010, tr.63.
- 6 P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 Nhờ cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, các Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chính sách tạo việc làm, chính sách xoá đói của đất nước ta trong những năm qua gắn liền giảm nghèo của nhà nước, Việt Nam đã đạt với sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh được thành tựu to lớn trong lĩnh vực này. Tỷ lệ tế. Trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP), xu nghèo đã giảm từ 37,4% năm 1998 xuống hướng chung là tỷ trọng kinh tế Nhà nước, kinh 28,9% năm 2002; 19,5% năm 2004; 16% năm tế tập thể giảm; trong khi đó tỷ trọng kinh tế tư 2006 và 14,5% năm 2008 [7]. nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng Với mức chuẩn nghèo 200.000 lên. Trước năm 1990, kinh tế tư nhân và kinh tế đồng/người/tháng đối với vùng nông thôn và có vốn đầu tư nước ngoài gần như chưa có gì, 260.000 đồng/người/tháng đối với thành thị thì nhưng đến năm 2009 đã chiếm trong GDP tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam trong năm 2009 là tương ứng là 41,09 % và 18,33 %. Trong khi 12,1%, năm 2010 - khoảng 10 - 11%(2). đó, tỷ trọng kinh tế Nhà nước đã giảm từ 40,18 % năm 1995 xuống còn 35,13% năm 2009; Việt Nam đã đạt những thành tựu rất quan kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 10,06% trọng trong giải quyết các vấn đề xã hội(3). Nhờ xuống còn 5,45% (xem bảng 3). Xu hướng này đó, Việt Nam không chỉ duy trì mức tăng sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới do Việt Nam trưởng kinh tế cao trong khu vực và trên thế thực hiện tự do hóa kinh tế, đẩy mạnh hội nhập giới, giữ vững ổn định về chính trị - xã hội mà kinh tế quốc tế; quá trình đổi mới doanh nghiệp còn ngày càng nâng cao vị thế của mình trên thế nhà nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của giới Những thành tựu trong giải quyết các vấn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đề xã hội biểu hiện tập trung ở các chỉ số phát được gia tăng sẽ tạo thành làn sóng mới cả về triển con người của Việt Nam không ngừng số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn được nâng lên. thực hiện. Bảng 3: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế (%)(2)(3) 1995 2000 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 TỔNG SỐ 100. 100. 100. 100. 100. 100. 100. 100. 100. 100. 40.1 38.5 38.3 39.0 39.1 38.4 37.3 35.9 35.5 Kinh tế Nhà nước 8 2 8 8 0 0 9 3 4 35.13 53.5 48.2 47.8 46.4 45.7 45.6 45.6 46.1 46.0 Kinh tế ngoài Nhà nước 2 0 6 5 7 1 3 1 3 46.54 10.0 Kinh tế tập thể 6 8.58 7.99 7.49 7.09 6.81 6.53 6.21 5.66 5.45 10.1 10.5 Kinh tế TB tư nhân 7.44 7.31 8.30 8.23 8.49 8.89 9.41 8 0 11.02 36.0 32.3 31.5 30.7 30.1 29.9 29.6 29.7 29.8 Kinh tế cá thể 2 1 7 3 9 1 9 2 7 30.07 13.2 13.7 14.4 15.1 15.9 16.9 17.9 18.4 Kinh tế có vốn ĐTNN 6.30 8 6 7 3 9 8 6 3 18.33 (2) ngày 9/6/2010. (3) Năm 2009, diện tích ở bình quân đầu người của cả nước là 18,6m2; 87% số hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh; 54% hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh; 96% hộ sử dụng điện lưới để thắp sáng; 87% hộ có tivi và 46% số hộ có điện thoại cố định. ( ngày 02/01/2010).
- P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 7 Nguồn: Niên giám thống kê hàng năm; Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, Hà Nội - 2010, tr.88. Như vậy, sự thay đổi về tỷ trọng đóng góp động lực cho sự phát triển của nền sản xuất. của các thành phần kinh tế trong GDP (trong đó Theo đó, như K.Marx đã nói, chỉ trong vòng kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể giảm xuống, mấy trăm năm tồn tại của mình, CNTB đã tạo kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu ra một khối lượng của cải nhiều gấp nhiều lần tư nước ngoài tăng lên) đã song hành với những khối lượng của cải của các xã hội trước cộng thành tựu kinh tế - xã hội mà đất nước ta đã đạt lại. Chỉ khi lực lượng sản xuất đã phát triển cao, được. Điều đó xuất phát từ hiệu quả hoạt động xã hội hoá cao độ, chế độ sở hữu tư nhân của doanh nghiệp nhà nước còn thấp; việc sắp TBCN mới trở nên lạc hậu, không đáp ứng được xếp, đổi mới còn chậm, chủ yếu mới là số yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và phải doanh nghiệp quy mô nhỏ, mức vốn thấp; độc được thay thế bằng chế độ sở hữu công cộng. quyền nhà nước đã được biến thành độc quyền Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx kinh doanh của nhiều tổng công ty nhà nước; - Lenin, chỉ đến Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà Cộng sản, lực lượng sản xuất phát triển ở mức nước còn nhiều sơ hở, thậm chí buông lỏng độ cao nhất, chế độ sở hữu công cộng được Kinh tế tập thể về số lượng gần đây tăng lên thiết lập mới có đủ điều kiện thỏa mãn ngày nhưng tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu chủ yếu còn càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của thấp và giảm. Kinh tế tư nhân đăng ký nhiều về con người; lúc ấy con người được phát triển tự số lượng nhưng thực tế hoạt động còn ít; quy do và toàn diện. Như vậy, chế độ sở hữu công mô nhỏ bé; sức cạnh tranh quốc tế còn thấp. cộng là động lực thúc đẩy sự phát triển, thật sự Trong nông nghiệp, sự phát triển của kinh tế hộ gia vì con người phải dựa trên sự phát triển cao đình đã có dấu hiệu chững lại; việc tích trữ ruộng của lực lượng sản xuất. đất, vốn liếng của kinh tế trang trại khá hơn nhưng chưa có khả năng phát triển đột phá Hiện nay, trình độ phát triển nền kinh tế nước ta còn thấp [8], chế độ sở hữu tư nhân còn phù hợp, là động lực phát triển sản xuất thì 3. Một số kiến nghị cũng có nghĩa là chế độ sở hữu công cộng chưa có đầy đủ cơ sở kinh tế để tồn tại và phát triển. Thực tiễn cho thấy, hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể thấp kém hơn so Thứ nhất, CNXH dựa trên chế độ sở hữu với kinh tế tư nhân. Do đó, việc xác định kinh công cộng về tư liệu sản xuất. Vì vậy, xuất hiện tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà logic đơn giản là, xây dựng CNXH phải xây nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền dựng chế độ sở hữu trên. Do đó, ở các nước tảng(4) chưa tương ứng với quy luật về sự phù XHCN trước đây, chế độ sở hữu công cộng đã hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình được xây dựng bằng những nỗ lực chủ quan, độ phát triển lực lượng sản xuất và trên thực tế bằng cả biện pháp hành chính. Theo tư tưởng chúng cũng chưa thể thực hiện được vai trò đó. của K.Marx và F.Engels, quan hệ sản xuất, Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, kinh trước hết là quan hệ sở hữu phải phù hợp với tế nhà nước là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô tính chất và trình độ phát triển của lực lượng nên sự tồn tại của nó là khách quan. Ở các nước sản xuất. Trong giai đoạn đầu của Chủ nghĩa tư bản (CNTB), chế độ sở hữu tư nhân Tư bản chủ (4) nghĩa (TBCN) phù hợp với trình độ còn thấp Đảng CSVN: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của kém của lực lượng sản xuất nên đã trở thành Đảng (tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương), tháng 4 - 2010, tr.9.
- 8 P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 phát triển, kinh tế nhà nước chỉ chiếm 10 - 15% mình và tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí, GDP nhưng vẫn có thể thực hiện được sứ mệnh thất thoát tài sản. Về nguyên tắc, các doanh đó. Trong những năm qua, kinh tế nhà nước nghiệp nhà nước không thể được tự chủ như chưa thể giữ vai trò chủ đạo nhưng đất nước ta doanh nghiệp tư nhân và để đảm bảo hiệu quả, vẫn đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc khu vực doanh nghiệp nhà nước không nên có thực hiện định hướng XHCN. Thuật ngữ “kinh quy mô quá lớn. tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” có thể gây hiểu Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của nhầm trong chỉ đạo thực tiễn, gây bất bình đẳng doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi nhà nước phải giữa các thành phần kinh tế. Sự ưu tiên cho mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp kinh tế nhà nước đã làm méo mó các quan hệ này nhưng điều này hoàn toàn không đồng thị trường, làm cho thị trường hoạt động kém nghĩa với buông lỏng quản lý. Ngược lại, với tư hiệu quả, việc thực hiện định hướng XHCN gặp cách chủ sở hữu, nhà nước phải đặc biệt coi nhiều khó khăn. Luận điểm này chưa phù hợp trọng kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp của với thực tế hiện nay, gây phản cảm và gây khó mình. Quy mô của khu vực doanh nghiệp nhà khăn cho việc chỉ đạo các hoạt động thực tiễn. nước càng lớn, việc kiểm tra, kiểm soát sẽ càng Từ nay đến năm 2020, nên đặt mục tiêu: xây khó khăn. Vì vậy, việc phân cấp quản lý các dựng kinh tế nhà nước trở thành công cụ điều doanh nghiệp nhà nước, từ chính phủ, các bộ tiết kinh tế vĩ mô thật sự hiệu quả. Từ năm 2020 ngành đến các địa phương là rất cần thiết. Các trở đi, khi Việt Nam đã cơ bản trở thành nước cá nhân, các cơ quan chức năng được phân cấp công nghiệp, lực lượng sản xuất đã được xã hội quản lý phải chịu trách nhiệm trước pháp luật hóa tương đối cao mới đặt mục tiêu phấn đấu: về các hoạt động của mình. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; Kinh tế Thứ ba, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở cần xem xét việc phân chia các thành phần kinh thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc tế. Căn cứ vào chế độ sở hữu, nền kinh tế sẽ có dân. 2 thành phần: kinh tế nhà nước và kinh tế tư Thứ hai, trên phương diện lý luận, quan hệ nhân. Hiện nay, kinh tế tập thể ở nước ta chủ giữa sở hữu với tổ chức quản lý và phân phối yếu dựa trên sự liên kết tự nguyện của các hộ luôn được chú ý. Tuy nhiên, trong thực tế, vấn gia đình nên về bản chất là kinh tế tư nhân. đề phân phối và đặc biệt là vấn đề tổ chức quản Đồng thời, vai trò của kinh tế tập thể cũng rất lý đã không được chú ý đúng mức. Thực tế cho nhỏ bé: giảm từ 10,06% GDP năm 1995 xuống thấy, sự kém hiệu quả, thất thoát tài sản ở nhiều còn 5,45% GDP năm 2009 (xem bảng 5). Do doanh nghiệp nhà nước không phải do sở hữu, đó, trong những năm trước mắt không nên coi mà do tổ chức quản lý. Những khuyết điểm kinh tế tập thể là thành phần kinh tế. Khi lực trong tổ chức quản lý và phân phối có thể làm lượng sản xuất phát triển cao hơn, hình thức sở lung lay, thậm chí rung chuyển cả chế độ sở hữu tập thể và kinh tế tập thể có vai trò lớn hơn hữu. Bởi vậy, đổi mới tổ chức quản lý doanh chúng ta sẽ xem xét lại điều này. nghiệp nhà nước phải được coi là trọng tâm của Thành phần kinh tế tư bản nhà nước cũng đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong cần được xem xét lại. Những doanh nghiệp liên những năm tới. doanh mà nhà nước có từ 51% vốn trở lên cần Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhà đưa vào thành phần kinh tế nhà nước vì nhà nước vừa có chức năng quản lý vĩ mô, vừa có nước có thể chi phối được. Những doanh chức năng quản lý các doanh nghiệp nhà nước nghiệp liên doanh có vốn nước ngoài chiếm từ (với tư cách chủ sở hữu). Nếu nhà nước giao 51% trở lên cần đưa vào thành phần kinh tế có toàn quyền quản lý, sử dụng vốn trong các vốn đầu tư nước ngoài vì các nhà đầu tư nước doanh nghiệp nhà nước cho các cá nhân, cũng ngoài mới là người chi phối. Như vậy, nền kinh đồng nghĩa với việc từ bỏ quyền sở hữu của
- P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 9 tế Việt Nam sẽ có 3 thành phần: kinh tế nhà có của nhà nước và đi liền với nó là tính trách nước, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nhiệm thấp, tính năng động và hiệu lực của bộ nước ngoài. Điều này cũng phù hợp với phân máy quản lý thấp. iv) Trong điều kiện các nước chia các thành phần kinh tế ở các nước đang chậm phát triển, nhà nước mang đậm dấu ấn của phát triển hiện nay. chế độ chuyên chế, mất dân chủ. Bởi vậy, xây Cuối cùng là nền kinh tế nhiều thành phần dựng nhà nước của dân, vì dân cần phải tính đến và đòi hỏi nhà nước phải có sự can thiệp, điều tiết khắc phục được những khuyết tật đó. phù hợp. Nếu sự can thiệp của nhà nước quá mức hoặc không đủ mức cần thiết đều ảnh Với những kinh nghiệm tích lũy được trong hưởng xấu đến sự phát triển của từng thành những năm qua, với sự nỗ lực hơn nữa của toàn phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế. Để phát Đảng, toàn dân, nhất định chúng ta sẽ giải quyết huy vai trò của các thành phần kinh tế, nhà vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế phù nước chỉ nên can thiệp nhằm khắc phục các hợp các quy luật kinh tế khách quan và điều khuyết tật của kinh tế thị trường; hạn chế mặt kiện cụ thể của Việt Nam, xây dựng thành công trái của cạnh tranh, tương tác giữa các thành CNXH. phần kinh tế; điều hòa mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; khắc phục mặt trái của quá trình hội nhập quốc tế, bảo vệ lợi ích Tài liệu tham khảo của đất nước, của doanh nghiệp và người dân [1] Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội Đảng toàn tập, tập Để điều tiết nền kinh tế nhiều thành phần 47, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. một cách hiệu quả, bản thân nhà nước phải thay [2] Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội Đảng toàn tập, tập đổi. Nhà nước không đứng trên, đứng ngoài mà 51, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007. phải tương thích với nền kinh tế có nhiều thành [3] Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội lần thứ VIII, NXB phần. Nói cách khác, nền kinh tế nhiều thành phần Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. đòi hỏi nhà nước phải thật sự của dân, vì dân. [4] Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội lần thứ IX, NXB Nhà nước nói chung có những khuyết tật có Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. thể dẫn tới sự thất bại trong hoạt động điều tiết [5] Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. kinh tế. Những nguyên nhân chính là: i) Bộ [6] Niên giám thống kê 2009, NXB Thống kê, Hà Nội, máy nhà nước có khả năng bị chi phối bởi các 2010. nhóm lợi ích và trở thành nhà nước trục lợi và [7] Tổng cục Thống kê, Kết quả khảo sát mức sống tham nhũng. ii) Là bộ máy quyền lực của xã gia đình năm 2008, NXB Thống kê, Hà Nội, hội, nhà nước có khả năng lạm quyền và đi 2010. chệch khỏi bản chất công quyền của mình, [8] Văn kiện Đại hội lần thứ X xác định phấn đấu đến chuyển thành bộ máy quyền lực đứng trên xã năm 2010: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát hội. iii) Chủ nghĩa tập thể là một thuộc tính vốn triển”, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
- 10 P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 1-10 Economic sectors: Theories and practices in Vietnam Assoc.Prof.Dr Pham Van Dung Faculty of Polical Economics, University of Econmics and Business, Vietnam National University, Hanoi 144B Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract: The article discussed the ownership diversity and the development of multi-sector economy which is considered a creative application of Lenin’s thoughts of in the transitional period to socialism in the conditions of Vietnam. The application contributed greatly to the economic and social achievements that Vietnam has gained for recent years. The author commented on the development of Vietnam Communist Party’s perspectives related to ownership, economic sectors, and the implementation of those perspectives. Meanwhile, recommendations were proposed included: developinga public ownership mechanism to be in line with Vietnam’s conditions nowadays; management of state owned businesses; arrangement and and division of economic sectors; building the State to satisfy requirements of a multi sector economy.