Các học thuyết tâm lý nhân cách - ThS. Nguyễn Thơ Sinh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Các học thuyết tâm lý nhân cách - ThS. Nguyễn Thơ Sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- cac_hoc_thuyet_tam_ly_nhan_cach_ths_nguyen_tho_sinh.pdf
Nội dung text: Các học thuyết tâm lý nhân cách - ThS. Nguyễn Thơ Sinh
- CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH Tác giả: ThS. NGUYỄN THƠ SINH LỜI GIỚI THIỆU Tôi rất vui khi được mời viết lời giới thiệu cho cuốn sách "Các học thuyết tâm lý nhân cách" của Nhà xuất bản Lao Động, vì mấy lẽ sau đây: 1. Có thêm một cuốn sách về tâm lý học ra mắt bạn đọc; 2. Hơn thế, lại là sách về Tâm lý học nhân cách; 3. Đặc biệt, tác giả là một người Mẹ gốc Việt có bí danh "Tự hào là người Việt Nam". Anh đã có nhiều ấn phẩm như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thể loại sách tham khảo về chuyên ngành Tâm lý học sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ và đã được xuất bản ở trong nước. Cuốn sách "Các học thuyết tâm lý học nhân cách”, nhân đây tôi xin nói đôi điều, tạm coi như là lời tâm sự với bạn đọc cuốn sách này.
- Tâm lý học ở nước ta hãy còn là một khoa học trẻ, trước năm 1945 chỉ là một môn học trong trường phổ thông trung học, về sau có dạy ở một số trường đại học, rồi từ nhũng năm 60 thế kỷ trước có cơ quan nghiên cứu, có khoa chuyên đào tạo cán bộ tâm lý học, có tạp chí Tâm lý học, có Hội các khoa học Tâm lý – Giáo dục – thành viên của Hội Khoa học Tâm lý Thế giới. Trong các chuyên ngành Tâm lý học có ở ta, tâm lý học nhân cách là chuyên ngành non trẻ nhất. Mà chẳng phải chỉ ở ta mới như vậy, như chính trong nội dung cuốn sách này cũng cho ta thấy, đó cũng là tình trạng chung của tâm lý học thế giới. Riêng ở Việt Nam, thuật ngữ "nhân cách" vào những năm 60 (của TK XX) hãy còn rất xa lạ với nhiều người, trong sách, báo rất ít gặp, những giờ đây đã dùng thường xuyên hơn và khoa học về nhân cách thì mới đang hình thành. Vài chục năm qua một số anh em công tác trong lĩnh vực này cũng mày mò nghiên cứu đề tài này. Từ công cuộc đổi mới, Nhà nước có các chương trình (KX–07, KHXH–04, KX–05 ) nghiên cứu con người, nên đã có thêm điều kiện tiến hành một số thực nghiệm (như NEOPIR ), tìm hiểu lịch sử vấn đề, học thuyết này học thuyết kia, viết một số sách,
- báo và có những đề xuất, trong đó có cả định nghĩa về con người, về nhân cách Với 22 nhà tâm lý học có tiếng, có nhà tâm lý học vĩ đại Sigmund Freud, rồi B.F. Skinner, A. Maslow được giới thiệu trong sách, chúng tôi cũng đã có dịp điểm qua (Phạm Minh Hạc, Nhập môn tâm lý học, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1980; Hành vi và Hoạt động, 1977; Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (chủ biên), Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà nội, 2004) nhưng bây giờ đọc sách này mới thấy cặn kẽ hơn. Nhân đây phải nói một điều là sách này cùng với mấy cuốn vừa nhắc tới có thể bổ sung cho nhau, giúp chúng ta thấy được toàn cảnh hơn các lý thuyết tâm lý học nhân cách. Tâm lý học Nga là một nền tâm lý học lớn, được thế giới công nhận, các nhà tâm lý học như L.S. Vưgốtki, A.R.Luria, A.N.Leônchiép, S.L.Rubintêin được giới tâm lý học phương Tây, Mỹ nghiên cứu, học tập, trích dẫn. Trong Bách khoa thư Sáng tạo của Mỹ xuất bản, chỉ có hai nhà tâm lý học được chọn, đó là Freud và Vưgôtski. Các nhà tâm lý học Nga và Giocgi (tâm lý học tâm thế) có các lý thuyết về nhân cách rất đáng được quan tâm. Tận dụng cơ hội, nói vài điều trên, tranh thủ
- giới thiệu một vấn đề rất khó, rất phức tạp đang chờ sự đóng góp của các bạn, mà cuốn sách này với lối viết dí dỏm, nhất là các tiểu sử các nhà khoa học, lại có cả thơ ca, diễn đạt rất dễ hiểu, nội dung cuốn sách có ích cả cho công việc giảng dạy lẫn công tác nghiên cứu. Thay mặt Hội các khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam tôi hết sức hoan nghênh cuốn sách này, và nhân dịp này tôi xin bày tỏ lời cảm ơn với tác giả, mong mỏi các nhà tâm lý học Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở các nước cộng tác với anh em ở nhà cùng nhau xây dựng một khoa học hết sức lý thú và hữu ích cho con người, cho cuộc đời cho xã hội. Chúc tác giả sẽ có nhiều công trình mới mà anh em chúng tôi rất chờ đợi. Giáo sư, Viện sĩ PHẠM MINH HẠC Chủ tịch Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam Chương 1. SIGMUND FREUD THUYẾT PHÂN TÍCH TÂM LÝ Chương 2. ANNA FREUD TÂM LÝ NHÂN CÁCH CÁI TÔI Chương 3. ERICK ERIKSON – THUYẾT NHÂN CÁCH PHÁT TRIỂN TƯ DUY Chương 4. CARL JUNG HỌC THUYẾT NHÂN CÁCH BIỂU TƯỢNG
- Chương 5. OTTO RANK THUYẾT NHÂN CÁCH TRUYỀN THUYẾT Chương 6. ALFRED ADLER – TÂM LÝ CÁ NHÂN Chương 7. KAREN HORNEY THUYẾT NHÂN CÁCH TÂM THẦN Chương 8. ALBERT ELLIS THUYẾT NHÂN CÁCH TƯ DUY Chương 9. ERICH FROMM THUYẾT NHÂN CÁCH XÃ HỘI Created by AM Word2CHM
- Chương 1. SIGMUND FREUD THUYẾT PHÂN TÍCH TÂM LÝ CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH 1. Tiểu sử sáng lập Sigmund Freud sinh ngày 6 tháng 5 năm 1856 trong một thị trấn nhỏ bé tại Freiberg thuộc xứ Moravia. Cha ông là một thương gia buôn lông cừu sắc sảo và rất hài hước. Mẹ ông là một người phụ nữ đảm đang. Mẹ của ông làm người vợ thứ của cha và kém chồng 20 tuổi. Bà đã sinh ra Freud ở tuổi 21. Sigmund Freud có 2 người anh cùng cha khác mẹ và 6 đứa em nhỏ. Khi cậu bé Sigmund lên khoảng 6 tuổi, gia đình cậu dọn lên Vienna, và ở nơi đây cậu bé ấy đã sống gần như trọn vẹn cuộc đời của mình: Là một đứa trẻ rất thông minh, luôn luôn đứng đầu lớp học, lớn lên ông theo học trường y khoa. Đây là một trong những lựa chọn hiếm hoi cho một dứa trẻ có nguồn gốc Do Thái lúc bấy giờ. Ở trường Đại học, ông bắt tay vào nghiên cứu dưới sự giám sát của giáo sư sinh lý học Ernst Brucke. Thầy của ông đã rất tin tưởng vào các học thuyết mang tính phân tích với
- suy luận cho rằng các nội lực vật lý và hóa học là những xung lực hoạt động trong một cơ thể sống. Freud đã cố gắng trong nhiều năm trong việc mổ xẻ nhân cách con người qua ngã thần kinh học (neurology). Nhưng đấy là một thách đố mà sau này ông đã bỏ cuộc. Freud rất giỏi trong nghiên cứu, ông giành nhiều thời gian tập trung vào hoạt động sinh lý của các tế bào thần kinh và đứa phát minh ra kỹ thuật nhuộm màu các tế bào trong nghiên cứu ở phòng thí nghiệm. Tất nhiên ông đã gặp phải nhiều cạnh tranh với những sinh viên khác vì các vị trí nghiên cứu trong trường Đại học không nhiều lắm. Dù vậy giáo sư Brucke đã giúp Freud có kinh phí để thực hiện nghiên cứu với một bác sĩ tâm thần khác tên là Charcot ở Paris. Sau một thời gian ngắn thực tập nghiên cứu trong một Trung tâm tâm thần trẻ em. Ở Berlin, ông quay trở về Vienna: Sau đó ông cưới cô bạn gái tên là Martha Bemays. Rồi ông mở phòng mạch chuyên trị thần kinh tâm thần cùng với người phụ tá là Joshep Breueur. Những cuốn sách và những bài giảng của
- Freud đã làm rạng danh tên tuổi của ông và kéo theo cả những chống đối trong cộng đồng y học lúc bấy giờ. Mặc dù ông đã tranh thủ được sự đồng cảm nơi một số học giả uy tín trong xu hướng phong trào phân tích tâm lý. Tuy nhiên một trở ngại lớn là Freud đã từ chối bất cứ ai không hoàn toàn đồng ý với quan điểm của ông, vài người sau đó đã chia tay với ông. Một số đã chính thức giới thiệu những tư tưởng đối chọi với học thuyết của Freud trên diễn đàn tâm lý học lúc bấy giờ Freud di cư đến Anh Quốc trước Chiến tranh thế giới II trong lúc Vienna trở thành một nơi nguy hiểm cho cộng đồng người Do Thái, nhất là đối với một người nổi tiếng như Freud. Sau đó không lâu Freud qua đời tại đây vì bệnh ung thư hàm miệng, sau 20 năm vật lộn với căn bệnh này. 2. Học Thuyết Freud Nói chính xác ra thì Freud không phải là cha đẻ của khái niệm ý thức; đối chiếu với khái niệm vô thức nhưng ông là người đã có công biến nó trở thành nổi tiếng. Trạng thái ý thức xảy ra khi chúng ta có nhận thức về những diễn biến xảy ra từ xung quanh qua cách nhìn, trí nhớ, nhận thức, tư tưởng, cùng với
- những ảo tưởng và cảm giác. Freud cho rằng tiềm thức là một trợ tá đắc lực của ý thức; ông cho rằng đây là một của trạng thái trí nhớ sẵn sàng hoạt động vốn là trung tâm lưu trữ được ý thức sử dụng để truy cập dữ kiện khi cần thiết. Người đương thời với Freud không có những nhận xét nào cụ thể về ý thức và tiềm thức nhưng Freud tin rằng phải có một bộ phận nhỏ nằm ở giữa ý thức và tiềm thức. Theo ông, đấy là một bộ phận vô thức, một khu vực lưu trữ không dễ dàng truy cập khi cần thiết bởi ý thức, bao gồm những xung động và nội lực tồn tại, chẳng hạn như bản năng hay những tâm thức cảm xúc có cường độ quá mạnh mà con người né tránh vì những tâm thức cảm xúc này liên quan đến những điều đau đớn khó chịu. Theo Freud, vô thức là nơi tập trung những động cơ. Những động cơ này có thể là đơn giản như muốn được tin trong khi đói hay nhu cầu thỏa mãn tính dục, hoặc những xung động thần kinh tự động. Vô thức còn chứa trong nó những động cơ cao hơn, phức tạp hơn như vẫn thấy trong sáng tạo nghệ thuật và tìm tòi khoa học. Theo ông những động cơ thuộc khu vực vô thức thường có nhiều hình thái rất khó nhận dạng.
- 3. Các khái niệm về xung động vô thức, cái tôi và siêu ngã Những trường phái tâm lý theo học thuyết của Freud đặt một sinh thể trong bối cảnh cuộc sống với những liên hệ phong phú. Trong đó một sinh thể có những hành vi đặc thù để duy trì đời sống và sinh sản, được hướng dẫn bởi những nhu cầu sinh lý cơ bản bao gồm: đói, khát, hoạt động tính dục hay tránh né những hình phạt, đau đớn, và những trạng thái khó chịu. Thần kinh là một bộ phận tối quan trọng cần thiết của một sinh thể. Đây chính là cơ quan nhạy cảm với những nhu cầu sinh sống và sinh sản của một sinh thể. Khi vừa được sinh ra, một sinh thể đã được cài đặt một hệ thần kinh có bộ phận xung động vô thức. Nhiệm vụ của xung động vô thức là giải mã nhu cầu sinh lý thiết yếu của sinh thể, từ đó đề xuất những động cơ mà Freud gọi là những khao khát. Quá trình giải mã này được gọi là quá trình xử lý chủ lực. Phương thức làm việc của xung động vô thức chủ yếu cung cấp nền tảng xoay quanh nguyên lý khoái lạc vốn tập trung vào cơ năng đòi hỏi thỏa mãn
- ngay lập tức những nhu cầu sinh lý của một sinh thể. Ví dụ khi một trẻ sơ sinh đói, em sẽ khóc cho đến khi tái xạm cả người. Xung động vô thức không cần biết đến yếu tố hợp lý trong não trạng bình thường mà chỉ biết ra lệnh, đòi hỏi được thỏa mãn nhu cầu và nhu cầu phải được thỏa mãn ngay lập tức. Theo Freud thì xung động nơi trẻ em là trạng thái xung động vô thức thuần túy nhất, là đại biểu toàn diện của tâm thức dưới hình thái sinh học. Ước muốn có thức ăn khi ta đói bụng được kích thích bởi trí tưởng tượng về một món ăn. Nếu nhu cầu từ ước muốn ấy không thể thỏa mãn được, xung động bên trong cơ thể chúng ta sẽ nhập cuộc trong việc nổi loạn và không chịu ngưng nghỉ cho đến khi những nhu cầu thức ăn thỏa mãn cơn đói được đáp ứng. Và khi nhu cấu ăn được đáp ứng thì sinh thể sẽ trở về trạng thái nghỉ. Để kiềm chế xung động vô thức, một sinh thể cần đến khả năng ý thức, vốn là một cơ năng có liên hệ với những lý giải và phân tích suy diễn. Theo Freud thì xung động vô thức nơi trẻ sơ sinh sẽ phát triển trở thành cái tôi trong thời gian một tuổi đầu tiên. Trong đó cái tôi là một bộ phận liên hệ trực tiếp với môi trường
- sống thực tế của sinh thể. Cái tôi đóng vai trò trong việc đi tìm những đáp ứng từ môi trường thỏa mãn nhu cầu của xung động vô thức. Đây là một quá trình mang tính chất xử lý vấn đề. Freud gọi quá trình này là quá trình xử lý thứ cấp. Khác với xung động vô thức, cái tôi vận hành theo nguyên lý hợp lý với điều kiện thực tế, đảm nhiệm việc tìm ra những đáp ứng cho nhu cầu sinh lý của cơ thể từ những nguồn thích hợp. Ví dụ khi đói, một cá nhân sẽ tìm thức ăn ở những nơi mà anh ta có thể được cho phép như ở nhà, hay ở tiệm ăn khi anh ta có tiền. Cái tôi đại diện cho suy diễn thực tế và vì thế có sự xuất hiện của phân tích lý luận. Tuy nhiên trong quá trình đi tìm đáp ứng để thỏa mãn nhu cầu của xung động vô thức (giúp cho một sinh thể duy trì trạng thái cân bằng), cái tôi sẽ vấp phải những trở ngại trong cuộc sống thực tế của môi trường. Thường thì cái tôi sẽ cố gắng trong việc dung hòa giữa mục đích ý nghĩa và nhu cầu trong việc ổn định sinh hoạt của sinh thể. Cái tôi sẽ gặp phải những thuận lợi và những trở ngại. Cái tôi sẽ ứng xử dựa trên hệ quả đến từ thuận lợi qua những phần thưởng và tránh những trở ngại đến từ hình phạt. Đây là quá trình
- trẻ em rút ra từ môi trường sống qua tiếp xúc với cha mẹ và người lớn từ khi các em còn bé. Chính những khái niệm phần thưởng và hình phạt này sẽ giúp trẻ tránh những điều bất lợi, từ đó các em sẽ tự xây dựng cho mình những chiến lược xử lý để đạt được nhiều phần thưởng và tránh né những hình phạt. Khi trẻ lên 7, hệ chiến lược xử lý nơi các em sẽ phát triển trở thành siêu ngã, tuy nhiên nhiều người sẽ không phát triển đến mức độ đạt được trạng thái siêu ngã. Siêu ngã có hai khía cạnh: (1) là lương tâm và (2) cái tôi lý tưởng. Lương tâm là một quá trình thiết lập ý thức về hình phạt và sự cảnh cáo (punishment và warnings). Cái tôi lý tưởng được phát triển khi các em nhận được những phần thưởng có giá trị đạo đức tinh thần và do các em học được những gương mẫu tích cực từ người lớn. Lương tâm và cái tôi lý tưởng sẽ đối thoại với cái tôi trong việc xử lý những yêu cầu nhằm thiết lập những định nghĩa về khái niệm như: tự hào, điều xấu hổ hoặc những mặc cảm. Khi trẻ em lớn lên, những phản ứng vận hành chuyển từ thuần túy sinh học sang tính năng xã hội. Tuy nhiên điều kiện thực tế từ đời sống xã hội sẽ đặt ra những khó khăn cho xung động vô thức. Nhất là khi
- các nguồn cung cấp trong xã hội có giới hạn. Nên biết, cơ năng xung động vô thức nơi con người thường chỉ muốn được sở hữu, ai cũng muốn mình có nhiều hơn và rất ngại trong việc tiếp nhận đời sống khó khăn, thiếu hụt. 4. Bản năng ham sống và bản năng được chết Freud nhìn thấy mọi hành vi của con người có động cơ từ những đam mê và bản năng; vốn được coi là những phương thức của hệ thần kinh trong việc đáp ứng những nhu cầu sinh lý của cơ thể. Ban đầu ông cho rằng đó là những bản năng ham sống phục vụ đời sống của một cá nhân sinh thể (a) bằng cách kích thích việc tìm thức ăn và nước uống và (b) duy trì đời sống của cộng đồng qua việc sinh sản. Theo đó Freud giới thiệu khái niệm xung lực dục năng theo tiếng La tinh có nghĩa là Tôi muốn. Kinh nghiệm lâm sàng của Freud đã dẫn ông đến việc đánh giá tính dục là một xung lực dục năng quan trọng hơn những động lực tâm lý khác. Con người là những sinh thể có nhu cầu xã hội. Tính dục thực ra là một nhu cầu mang tính xã hội rất cao. Freud định nghĩa tính dục rộng hơn nghĩa đen đơn thuần là
- giao hợp, tuy nhiên nhiều người ngộ nhận khái niệm dục năng là năng lượng chỉ xoay quanh đời sống tính dục. Về sau này, Freud bắt đầu tin rằng bản năng sống không hoàn toàn chi phối tất cả chúng ta. Theo ông, dục năng chỉ là một mảng của đời sống, nguyên lý lạc thú là bộ phận khiến chúng ta chuyển động liên tục không ngừng nhằm duy trì trạng thái thoả mãn, bình yên và bằng lòng. Tuy nhiên Freud tin rằng mỗi cá nhân đều có một mục đích sau cùng của đời sống là sự chết. Ông tin rằng từ trong sậu thẳm, mỗi người có một khát khao vô thức sẽ được chết. Và đây là một bản năng nằm phía bên dưới của bản năng ham sống. Đây là một ý tưởng độc đáo và lạ lùng khiến nhiều học trò của Freud đã phản đối ông kịch liệt. Tuy nhiên đã có ý kiến cho thấy và vài kinh nghiệm minh họa. Đôi lúc đời sống có khi rất đau khổ, nhất là những lúc cơ thể được đặt trong một trạng thái kiệt sức thường xuyên – con người sẽ muốn được giải thoát. Đây là một não thức rất phổ thông. Vì thế trên thế giới luôn có những nhận định tin rằng số người đau khổ luôn nhiều hơn số người hạnh phúc, trong số đó nhiều người không dám trực diện đối mặt với đau khổ.
- Và như thế cái chết vô tình đã là một hứa hẹn giải phóng con người thoát khỏi những vật lộn giằng xé này. Freud mượn nguyên lý Niết Bàn; vốn là một ý tưởng của Phật giáo được hiểu theo nghĩa như một thiên đàng. Niết Bàn có nghĩa được dịch sát là thổi hơi, như việc thổi tắt một ngọn nến. Vì thế Niết Bàn thú trọng đến tính không hiện diện, không tồn tại, tính hư không, trống rỗng. Đây vốn là tất cả những triết lý giáo huấn của Phật giáo. Bằng chứng hàng ngày về bản năng được chết và nguyên lý Niết bàn được thể hiện qua những khao khát an bình, không muốn đối diện với mâu thuẫn, khát khao sự an bình trong giấc ngủ, sự bình thản, lặng lẽ, được nghỉ ngơi, được thinh lặng. Đôi lúc đi xa hơn, ta còn thấy nhiều người đã dự định đi tìm cái chết qua tự tử và có ý định tự tử như một nhu cầu van xả. Freud đã cố gắng đưa ra một học thuyết cho rằng một số người còn hướng bản năng chết vào những hành vi khác như gây hấn, giết người, độc ác, và những hành vi mang tính phá hoại. 5. Lo lắng
- Freud đã có lần nói: Đời sống chẳng dễ dàng một chút nào! Cái tôi là trung tâm của những xung lực mạnh mẽ đến từ hai ngả: (a) siêu ngã có nguồn gốc từ tác động của kinh nghiệm thực tế xã hội, và (b) từ xung động vô thức có nguồn gốc sinh lý. Bình thường thì cái tôi sẽ tìm mọi cách để dung hòa hai thái cực này. Tuy nhiên nhiều cá nhân có những cái tôi phát triển không bình thường. Khi có sự mâu thuẫn gay gắt giữa siêu ngã và xung động vô thức, thì cá nhân đó sẽ có những cảm giác sợ sệt, khiếp nhược, mệt mỏi, có vẻ như sẽ sụp đổ. Trạng thái này gọi là lo lắng phục vụ như là một tín hiệu cảnh báo, giúp một sinh thể ý thức rằng sự tồn tại hiện diện của mình đang bị đe dọa. Freud đưa ra ba hình thái lo lắng là: (1) Lo lắng thực tiễn: hay còn được gọi là sợ hãi, ví dụ như đi lạc trong rừng có nhiều thú dữ như cọp, beo, báo, sợ bóng đêm sợ sung đạn . (2) Lo lắng đạo đức: đây là những trạng thái con người cảm nhận từ bên trong nội thức của mình. Lo lắng về mặt đạo đức không đến từ bên ngoài, hay từ môi trường sống. Đây là cảm giác mang tính hấp thụ xã hội nằm trong khu vực siêu ngã. Lo lắng đạo
- đức thuộc về thế giới nội tâm qua những cảm xúc xấu hổ, mặc cảm, hoặc sợ bị trừng phạt bởi lương tâm, hay sợ hãi từ các giáo lý tôn giáo hoặc mặc cảm trong đời sống tâm linh. (3) Lo lắng thần kinh: là nỗi sợ hãi do bị khuất phục bởi xung lực từ xung động vô thức. Vài ví dụ có thể nhận thấy là khi ta giận đến độ mất khả năng kiểm soát và kiềm chế, quá khích đến độ mất khả năng phán đoán, giảm khả năng phân tích và xử lý. Neurotic trong tiếng La tinh có nghĩa là sợ hãi. 6. Cơ chế tự vệ Freud cho rằng cái tôi phải đối diện với những yêu cầu từ hai phía trong đời sống thực tiễn là: xung động vô thức và siêu ngã. Tuy nhiên khi có sự mâu thuẫn quá lớn giữa xung động vô thức và siêu ngã xảy ra, cái tôi buộc phải tự bảo vệ nó một cách vô thức tự động bằng cách chặn lại những xung lực này hoặc tìm cách thay đổi biến chúng trở thành những hình thái mới mẻ khác, dễ được chấp nhận và bớt đi tính cách đe dọa hơn. Sau đó con gái của Freud là Anna cùng một số cộng sự khác đã tiếp tục khám phá thêm về hiện tượng cơ chế tự vệ này.
- Cơ chế tự vệ chối bỏ: là cơ chế tự vệ chặn những sự kiện có hại từ bên ngoài, không cho chúng đi vào khu vực cảnh giác của tâm thức. Khi tiếp cận những trường hợp tình huống căng thẳng vượt quá khả năng xử lý của cá nhân, người đó sẽ từ chối không nhập cuộc với tình huống ấy. Đây là cơ cấu tự vệ chủ lực. Theo Freud và Anna thì đây là cách tiếp cận không lành mạnh vì chúng ta không thể đóng cửa mãi với vấn đề được. Đây là cơ chế tự vệ tạo điều kiện để những cơ chế tự vệ không lành mạnh khác có cơ hội phát huy. Vài ví dụ được thấy, trẻ em quay mặt tránh né cái nhìn bắt lỗi của người lớn khi các em phạm lỗi. Trong trường hợp này các em đã sử dụng cơ chế tự vệ chối bỏ để tránh né tia mắt nóng nảy của người lớn. Hay có nhiều người lớn bất tỉnh khi nhìn thấy máu, đây cũng là cơ năng tự vệ chối bỏ. Có người đổ vỡ trong tình cảm không tin rằng họ bị phản bội. Nhiều người cố tình không chấp nhận sự ra đi của người thân. Đôi lúc nhiều người không có can đảm để nghe sự thật. Nhiều sinh viên không dám đi coi điểm bài thi của mình vì sợ thi rớt. Đó là những ví dụ của cơ chế tự vệ chối bỏ thực tế.
- Anna, con gái của Freud cũng nhắc đến cơ chế tự vệ chối bỏ trong địa hạt tưởng tượng. Ví dụ khi một em bé đã chuyển đổi chân dung một người cha độc ác sang một con gấu dễ thương, hay một em bé tội nghiệp đáng thương trở thành một anh hùng đầy sức mạnh (như trong truyện cổ tích). Cơ chế tự vệ dồn nén: được Anna Freud (con gái của Freud) gọi là sự lãng quên có động cơ trong đó một cá nhân không thể nhớ lại những tình huống, hoặc những sự kiện đau đớn. Đây là một cơ chế tự vệ khá nguy hiểm vì cá nhân không giải quyết dứt khoát tận gốc mọi sự cố xảy đến từ điều kiện hoàn cảnh đời sống không thuận lợi. Ví dụ một người rất sợ loài nhện mà không hiểu vì sao mình lại quá sợ? Chỉ nghĩ đến loài nhện thôi họ đã sợ chứ không cần phải nhìn thấy. Rồi khi lớn lên anh ta vẫn không hiểu do đâu mình sợ. Cho đến khi anh ta nghe người lớn kể rằng ngày còn rất bé anh ta bị nhốt trong một căn phòng hẹp có nhiều nhện. Ký ức anh ta đã đóng chặt và anh ta đã cố tình quên để gạt bỏ kinh nghiệm của mình đã bị nhốt trong một căn phòng có đầy nhện. Anh ta cố quên hẳn chuyện vì sao mình sợ nhện – tuy nhiên nỗi sợ hãi vẫn tồn tại ở một
- cấp độ gián tiếp khó nhận ra. Theo trường phái phân tích tâm lý của Freud thì hiện tượng sợ hãi vô lý này đã dồn nén một sự kiện gây sợ quá ấn tượng; đó là căn phòng hẹp có nhiều nhện. Vì thế chỉ cần anh ta nhìn thấy nhện hoặc nghĩ về nhện đã gây ra lo lắng mà không cần khuấy động toàn bộ hệ thống trí nhớ. Cơ chế tự vệ dồn nén này thường là căn nguyên của những nỗi lo sợ vô căn cứ. Cũng theo Freud, đời sống khổ hạnh là một thói quen từ bỏ những nhu cầu bình thường hàng ngày như nhịn ăn, tập thể dục quá độ, tập luyện võ nghệ, cùng với nhiều hành vi ép xác khác bởi vì các cá nhân đó có thói quen từ bỏ nhìn nhận những khả năng phát triển bình thường của mình. Vì thế họ luôn cố gắng hoàn thiện mình. Đây là một hình thái xử lý tình trạng lo lắng về những khiếm khuyết của bản thân. Nhiều người còn đi xa hơn, tự đày đọa thân xác để mong tìm được sự bình an trong ăn năn sám hối. Anna Freud đã lý luận và cho rằng nhiều người trải qua một hình thái dồn nén nhẹ hơn gọi là hạn chế cái tôi. Điều này xảy ra khi một người không còn hứng thú đến một bộ phận nào đó của cuộc sống
- nên đã tập trung vào những mảng khác của đời sống để né tránh những gai góc thử thách. Ví dụ một cô gái sợ mình không có nhiều cơ hội có người yêu nên dồn vào việc học tập và làm việc. Hoặc một cậu bé không giỏi thể thao thường tập trung vào học môn toán. Cơ chế tự vệ đóng cửa đôi khi còn được gọi là quá trình thông minh hóa. Đây là cơ chế tự vệ liên quan đến việc tách cảm xúc ra khỏi một ký ức khó chịu hay một một xung lực có tính chất đe dọa. Ví dụ một người đã bị sách nhiễu tình dục có vẻ rất hờ hững và bàng quan và coi mình chưa bao giờ bị sách nhiễu tình dục. Đây chính là một hình thái của tự nói dối, tự lừa gạt chính mình. Trong trường hợp khẩn cấp, nhiều người tỏ ra rất tỉnh táo nhưng khi tình trạng khẩn cấp đó qua đi thì họ sẽ sụp đổ. Trong quá trình căng thẳng, cơ thể họ cho biết họ không thể ngã quy. Nhiều cá nhân có khả năng tỏ ra rất cứng rắn trong việc xử lý chết chóc hay tiếp cận với những ca bị thương như các bác sĩ và y tá. Họ là những người phải làm việc thường trực với các vết thương, vết mổ, máu và dao kéo. Ta có thể nhận ra họ có khả năng áp dụng cơ chế tự vệ đóng cửa. Hoặc ta thấy nhiều trẻ em rất sợ phim ma nhưng vẫn đi coi.
- Hoặc nhiều người cố tình cười đùa trước những sự kiện đau lòng. Đây là những ví dụ cơ chế tự vệ đóng cửa nơi con người. Các cá nhân tự thuyết phục rằng họ không có những cảm xúc lo lắng nhưng thật ra họ rất lo lắng. Cơ chế tự vệ thay thế là quá trình chuyển hướng cảm xúc của mình về một cá nhân A qua một cá nhân B khác. Thông thường thì những cảm xúc tích cực dễ chịu được con người đón nhận và tiếp cận. Song có những cảm xúc quá gay gắt và khó chấp nhận, một cá nhân thường có phản ứng chuyển cảm xúc ấy sang cho người khác (như giận cá chém thớt). Ví dụ một người không thích sếp của mình là người thấp lùn nên có ác cảm với tất cả những người đàn ông thấp lùn khác (không thích sếp nên ghét lây sang người khác). Hay nhiều người không tìm được bạn tình nên đã tìm cách kiếm những thú vật khác như chó mèo để thay thế nhu cầu tình cảm ấy. Nhiều người đi tu vì không tìm thấy ý nghĩa của mình trong cuộc sống ở ngoài đời. Nhiều người bực bội ở cơ quan về nhà hành hạ và la mắng người thân. Nhiều trường hợp, cá nhân có thể áp dụng cơ chế tự vệ thay thế với chính mình bằng cách giận người khác nhưng lại tự
- đọa đày và có những não trạng yếm thế, thụ động, chán chường dẫn đến thiếu tự tin và trầm uất. Họ cảm thấy tự ghét bỏ mình và không chấp nhận bản thân con người của họ. Cơ chế tự vệ gán ghép cảm xúc được Anna Freud gọi là hoán chuyển cảm xúc hướng ngoại. Đây là cách nhiều người gán ghép cảm xúc của mình lên người khác, nhất là những điểm hạn chế tiêu cực của bản thân họ được nhìn thấy nơi người khác. Họ thường có những cảm xúc vẫn tồn tại trong hệ tư duy của mình nhưng lại cho đấy là cảm xúc của người khác. Có thể nói đây là cách suy bụng ta ra bụng người về những mặt thiếu lành mạnh và tiêu cực. Ví dụ như một ông chồng rất thích một cô gái hàng xóm và rồi nghĩ rằng vợ mình cũng có những cảm giác đó với những người đàn ông khác tại cơ quan. Hay một sinh viên lười biếng có khuynh hướng cho rằng nhiều sinh viên khác cũng sẽ lười biếng như mình. Hoặc nhiều người có những lo lắng băn khoăn về xu hướng giới tính của mình sẽ nghĩ là nhiều người xung quanh có cùng cảm giác đó. Anh A là người đồng tính sẽ nghĩ rằng có nhiều người đàn ông khác cùng đồng tính giống như anh. Nhiều người sống và hy sinh
- vì người khác vì họ tìm thấy những nhu cầu của mình sẽ được đáp ứng qua sinh hoạt người khác. Ví dụ như ta vẫn nghe câu nói "muốn ăn gắp bỏ cho người". Chẳng hạn một cô gái luống tuổi rất thích làm mai cho các cô gái trẻ khác vì họ có nhu cầu cơ chế tự vệ hoán chuyển cảm xúc này. Cơ chế tự vệ phản ứng được Anna Freud gọi là tin vào điều ngược lại. Đây là cách các cá nhân thay đổi một xung lực khó chấp nhận qua một xung lực ở trạng thái dễ chấp nhận hơn. Ví dụ một đứa trẻ chẳng ưa gì cô giáo nhưng vẫn vui vẻ để lấy lòng cô giáo ấy để tránh bị phạt. Hoặc một người đồng tính không thể chấp nhận được những phản đối về sinh hoạt tính dục đồng tính từ phía dư luận xã hội nên đã công khai chống lại đồng tính (anh ta có phản ứng với dư luận tiêu cực qua việc nói dối). Một ví dụ điển hình thường thấy nơi các em gái ở độ tuổi 7–11, khi các em nói mình ghét các em trai, nhưng người lớn có thể nhận ra được cảm xúc thực của các em gái là rất thích các cậu bé. Nhiều ví dụ cho thấy các em ở tuổi dậy thì cố phản ứng bằng những ám hiệu được hiểu ngầm với nhau. Nhiều người lớn sử dụng xin lỗi để cải thiện một quan hệ. Họ dựa vào cơ chế tự vệ này để sửa đổi lại cảm
- xúc trong một mối quan hệ – mặc dù họ không nghĩ là mình có lỗi để phải xin lỗi. Cơ chế tự vệ nhập tâm hay còn được gọi là tự vệ nhận định thể hiện qua cách tin rằng cá tính của người khác sẽ là nhân cách của mình để giải quyết những khó khăn trong phạm trù cảm xúc. Ví dụ một bé gái bị bỏ rơi thường chơi với búp bê và các con thú trong vài trò người mẹ để giải tỏa lo lắng và sợ hãi. Em đóng vai người mẹ để thay thế niềm tin khao khát có một người mẹ thương em. Hoặc chuyện các em nhỏ vẫn thích một nhân vật anh hùng nào đó từ ti vi hay từ phim ảnh và thích bắt chước các nhân vật ấy để khẳng định nhân cách của mình. Nhiều người tin rằng đây là một cơ chế quan trọng trong việc hình thành sườn mẫu siêu ngã (khung mẫu nhân vật lý tưởng trong tương lai). Hoặc nhiều người vì phải đối điện với những hàng xóm có tính nết khó khăn, đua đòi đã phải tự trang bị cho mình những cá tính để có thể ngang bằng với hàng xóm của họ: Đây là xu hướng ăn có hàng, ở có xóm hoặc đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy như vẫn thường thấy trong văn hóa Việt Nam. Một vài trường hợp nạn nhân của những vụ bắt cóc không
- nỡ giận kẻ bắt cóc mà còn thông cảm cho họ nữa. Hoặc chuyện có người bị cướp bắt cóc sau đó trở thành một thành viên của băng cướp ấy. Cơ chế tự vệ hoài cổ là cơ chế khi một cá nhân quyết định lùi về thời gian quá khứ mỗi khi họ đương đầu với những khó khăn trước mặt. Ví dụ, mỗi khi gặp vấn nạn hoặc sợ hãi, hành vi của chúng ta thường muốn quay trở về não trạng của trẻ thơ khi chúng ta không phải lo lắng gì cả. Nhiều người cần phải có những kỷ niệm thời vàng son để có thể sinh hoạt bình thường. Có người dọn lên sống ở thành phố nhưng gặp những thử thách nên muốn dọn về quê sống. Hoặc nhiều người có tư tưởng yếm thế, để trở thành lệ thuộc và buông xuôi như thể họ là những trẻ em: Thông thường nhất là đôi lúc ta vẫn nghĩ lại về quá khứ và nhận ra chúng thật đáng yêu so với hoàn cảnh hiện tại. Cơ chế tự vệ lý luận hóa là khả năng nhận thức và áp dụng có tính lý luận nhằm chuyển đổi những sự kiện có tính đe dọa trở thành dễ chấp nhận hơn. Ví dụ, chúng ta thường bào chữa để tự thuyết phục mình trên bình diện có ý thức về những sự kiện bất lợi xảy ra trong cuộc sống. Tuy nhiên với một số
- người do có cái tôi quá nhạy cảm nên họ thường có khả năng tạo ra những biện hộ quá dễ dàng. Nói khác đi, nhiều người trong chúng ta dễ dàng trong việc chấp nhận những biện hộ của mình. Nói một cách dễ hiểu là cơ chế tự vệ lý luận hóa chính là sự tổng hợp của cơ chế tự vệ chối bỏ (sự thật) và cơ chế tự vệ dồn nén (né tránh điều kiện sống trước mắt) Tất nhiên mọi cơ chế tự vệ đều là những lời biện hộ để thuyết phục chính bản thân mình và diễn ra dưới phạm trù vô thức và có ý thức. Nói khác đi cơ chế tự vệ chính là cơ chế con người sử dụng để tự nói dối với chính mình. Nhiều người trong chúng ta sử dụng những cơ chế này một cách máy móc: Khi không có những hướng xử lý để điều tiết sự cân bằng giữa xung động vô thức và siêu ngã, cái tôi sẽ bị kéo giãn ra vì phải quán xuyến cho cả hai thái cực kia. Nói dối vì thế tiếp tục sinh ra nói dối và cuối cùng một cá nhân sẽ được điều kiện hóa trong tư duy và lối ứng xử của chính mình. Tuy nhiên theo Freud thì vai trò của những cơ chế tự vệ này được coi như một bộ phận cần thiết để duy trì đời sống. Nói khác đi theo Freud thì Cơ chế tự vệ sẽ giúp một cá nhân có thể đương đầu với những
- thử thách khó khăn trong cuộc sống như một ngõ thoát hiểm cần thiết. Trong khi các học trò của ông tin rằng một số cơ chế tự vệ có thể sử dụng theo hướng tích cực, riêng cá nhân Freud tin rằng chỉ có một cơ chế tự vệ là có ích với con người đó là cơ chế tự vệ hoán chuyển. Cơ chế tự vệ hoán chuyển là cách để một cá nhân chuyển đổi tư duy về những xung lực sang một ngã tích cực khác. Có thể những xung lực này là nhu cầu tính dục, giận dữ, sợ hãi, hoặc bất cứ những dạng xung lực nào. Cơ chế tự vệ hoán chuyển chuyển tải những xung lực sang một hình thái mới dễ được chấp nhận hơn. Ví dụ người có tính nóng thường thích theo đuổi nghề đấu võ đài, người có nhiều thất bại trong cuộc sống có thể chọn con đường tu hành, người có những khát khao xúc cảm có thể trở thành nhà thơ, nhà văn. Theo Freud chính nhờ cơ chế tự vệ này mà chúng ta có những bộ não siêu việt và con người đã đột phá vào rất nhiều lĩnh vực sáng tạo khác nhau. 7. Các giai đoạn phát triển Theo Freud, dục năng là một nguồn năng lượng lớn nhất chi phối mọi nguồn năng lượng khác
- có ảnh hưởng lên con người. Theo Freud thì dục năng không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến người lớn mà còn có tác động rất rõ rệt lên trẻ em và trẻ sơ sinh. Khi Freud trình bày quan điểm của mình về tính dục nơi trẻ em, ông đã bị giới học giả lúc bấy giờ ở Vienna phản đối cực lực. Đơn giản là lúc đó dục tính với người lớn đã là một phạm trù tế nhị. Tính dục nơi trẻ em lúc bấy giờ càng là một vấn đề khó chấp nhận hơn. Một thực tế được quan sát kỹ là ngay từ khi còn rất nhỏ (từ lúc mới sinh ra) khả năng đạt được cảm giác khoái cảm tính dục nơi trẻ sơ sinh đã xuất hiện. Nhưng mọi người đã hiểu sai quan điểm của Freud và nghĩ ràng ông nhắm đến dục tính trong giới hạn của giao hợp và phóng tinh. Tất nhiên Freud cho rằng tính dục cần được định nghĩa là những cảm xúc khoái lạc đem đến từ hệ thống da người. Và bằng chứng là từ trẻ em sơ sinh cho đến người lớn, chúng ta luôn tỏ ra thích thú với những va chạm như vuốt ve, xoa bóp, sờ nắn, nụ hôn Freud cho rằng ở mỗi giai đoạn phát triển của con người, một vùng da nên cơ thể sẽ có những phản ứng hứng thú khoái cảm cao nhất khi được kích thích. Nhiều học giả sau này đã gọi những vùng da ấy là khu
- vực nhạy cảm. Theo Freud thì con người trải qua những bước phát triển tâm tính dục sau: (1) Giai đoạn miệng: là giai đoạn trẻ em sơ sinh có khoái cảm lớn nhất qua thao tác bú và đưa lên miệng cắn những vật thể gần bé. (Từ lúc mới sinh đến 1 tuổi hay chừng 18 tháng). (2) Giai đoạn hậu môn: là giai đoạn bé tập trung vào khu vực hậu môn trong thao tác đại tiện mỗi khi bé đi vệ sinh. Khoái cảm xảy ra mỗi khi bé nín và thả cơ vòng hậu môn trong thao tác đại tiện. (Khoảng từ 2–3 tuổi, chừng 18 tháng). (3) Giai đoạn bộ phận sinh dục nam: là giai đoạn bé có thích thú khám phá bộ phận sinh dục của mình, và chuyện bé thích nghịch bộ phận sinh dục của mình tương đối phổ biến. (Khoảng từ 3, 4 đến 5, 6 có khi đến 7 tuổi). (4) Giai đoạn tĩnh lặng: là giai đoạn xung lực tính dục tạm thời bị nén lại để các em có thời gian tiếp thu những kỹ năng mới nơi trường học. Vào thời điểm này các em thường không tập trung quá nhiều vào mảng dục tính, tuy nhiên theo George Boeree (2006) có khoảng 25% các em có những hành vi thủ dâm,
- cao hơn nhiều so với thời gian nghiên cứu của Freud. (Giai đoạn này bắt dầu từ 5,6,7 tuổi trở đi cho đến năm 12 tuổi). (5) Giai đoạn tập trung vào bộ phận sinh dục: là giai đoạn bắt đầu từ tuổi dậy thì khi cảm xúc tính dục tập trung vào khoái cảm giao hợp. Theo Freud, bất cứ những hành vi tính dục nào khác với giao hợp tự nhiên, chẳng hạn như thủ dâm, làm tình qua đường miệng, tính dục đồng phái và những hành vi tính dục khác (vốn được thực hiện rộng rãi trong xã hội hôm nay) đều được coi là những hành vi thiếu trưởng thành. Đây là một học thuyết được các nhà tâm lý thuộc trường phái Freudian cổ vũ vì họ tin rằng tất cả mọi người đều trải qua những bước phát triển này. 8. Khủng hoảng Oedipus Theo Freud, ở mỗi một giai đoạn phát triển sẽ có những nhiệm vụ khó khăn nhất định đối với một số cá nhân. Chẳng hạn như ở giai đoạn miệng, một số cá nhân sẽ có vấn đề nan giải với quá trình cai sữa. Giai đoạn hậu môn sẽ gây khó khăn cho nhiều cá nhân về chuyện đái dầm hoặc đi cầu đêm trên giường.
- Riêng với giai đoạn bộ phận sinh dục nam vấn đề khủng hoảng Oedipus gây ra khó khăn cho một số cá nhân. Đây là một hội chứng được Freud lấy tên của ông vua Oedipus trong truyện cổ Hy Lạp, khi ông vua này đã giết nhầm ông bố của mình và sau đó đã cưới mẹ ruột của mình. Sau đây là mô tả về khủng hoảng Oedipus: các trẻ em đều yêu mẹ của chúng và muốn có được sự quan tâm của mẹ qua những âu yếm, vuốt ve. Đây là một trạng thái hiểu rộng hơn của nhu cầu dục tính. Các bé trai có đối thủ của mình là người cha với nhiều điều kiện vượt trội như: cha các em cao lớn hơn, khỏe hơn, thông minh hơn. Nhất là người cha được quyền ngủ chung với mẹ trong khi bé trai phải ngủ riêng một mình. Vì thế người cha vô tình trở thành một đối thủ của em. Ngoài ra các bé trai còn phát hiện ra sự khác biệt giữa mình và các bé gái. Không phải chỉ là tóc các bé trai ngắn hơn và quần áo có màu sắc khác với các bé gái. Các cậu bé sẽ phát hiện ra mình có một dương vật trong khi các bé gái không có. Tất nhiên với não trạng của bé trai thì có một cái gì đó vẫn tốt hơn là không có. Và các bé trai bằng lòng với điều này.
- Khi các bé trai nhận ra các bé nữ không có dương vật, các bé sẽ hỏi: Vậy điều gì đã xảy ra? Các bé nữ dã bị mất dương vật, có thể là do bị cắt. Và các bé trai sẽ lo sợ. Điều này bắt đầu dẫn đến não trạng lo lắng mình sẽ bị thiến bởi cha ruột của mình. Đây là một dạng biến thể của nỗi lo mình sẽ bị mất dương vật. Tất nhiên là các bé trai sẽ lo lắng và sợ cái oai của ông bố và lo sợ về dương vật của mình bị cắt đi. Nỗi lo này đi vào những cơ cấu tự vệ của các em. Thế là bé trai sau đó sẽ dần dần thay thế tình cảm với mẹ ruột của mình bằng tình cảm với các em gái. Khi lớn lên, các em sẽ chuyển năng lượng và tập trung vào những phụ nữ khác. Các bé trai cho rằng mình cần phải phát triển một cách chủ động, mạnh mẽ và có ý định lớn lên sẽ phải giống như bố – trở thành một người đàn ông. Sau vài năm trải qua thời kỳ tĩnh lặng, các cậu bé trải qua tuổi dậy thì và trở thành một người đàn ông thực thụ. Các bé nữ cũng bắt đầu từ tình cảm giành cho mẹ mình. Theo Freud thì các bé nữ trải qua một hội chứng ghen vì mình không có dương vật khi bé nữ phát hiện ra có sự khác biệt giữa cơ thể bé nữ với các
- bé nam. Thế là các em cũng muốn có một cái dương vật giống như thế và cả những đặc tính đi kèm với một dương vật (như đứng đái). Dần dần một bé nữ tìm đến và thay thế cho một dương vật là con búp bê (như em bé). Và các em nữ biết rõ phải có cha với mẹ thì mới sinh ra em bé được, thế là các em nữ để mắt đến người cha. Tất nhiên là cha của các bé gái đã có mẹ. Thế là, các bé nữ thay thế cha bằng các bé nam khác. Lớn lên là nữ giới, nên bé cần phải phát triển những phẩm chất đặc tính giống nơi mẹ. Một điều nhận ra ở đây là các bé gái không trải qua hội chứng lo lắng bị thiến nên phụ nữ thường có thái độ không phân biệt về tính dục– khác phái như ở như nam giới. Vì thế họ thường có vẻ không quan trọng lắm lý luận đạo đức như ở nam giới. 9. Nhân cách và cá tính Kinh nghiệm sống khi chúng ta lớn lên đã góp phần tạo nên nhân cách hay còn gọi là cá tính của chúng ta để trở thành một người lớn có những nét đặc trưng rất riêng. Theo Freud thì những ký ức khó chịu chính là những vết thương lòng, vốn có những tác hại
- tâm lý rất lớn. Tất nhiên mỗi kinh nghiệm đau thương sẽ có những mức độ ảnh hưởng tác động khác nhau và chỉ có cá nhân đó mới có thể khám phá, thẩm định được mức độ ảnh hưởng của kinh nghiệm đó. Như thế những kinh nghiệm ký ức khó chịu xảy ra trong những giai đoạn phát triển tâm tính dục đã nêu ở phần trên sẽ có những ảnh hưởng đến cá tính con người. Nếu một cá nhân có những khó khăn trong việc thành thục những nhiệm vụ của từng giai đoạn phát triển như cai sữa, tập đi cầu, hay trong giai đoạn xác định giới tính của mình, chính những khó khăn này sẽ tồn tại như những ký ức vấp váp vì họ đã không vượt qua được những nhiệm vụ quan trọng cột mốc này. Nếu bị ách tắc trong việc đạt được mức độ thành thục sẽ dẫn đến trạng thái khựng và những kinh nghiệm bị khựng này sẽ hằn dấu ấn và lưu lại trong tiềm thức của các em, gây ảnh hưởng đến các giai đoạn phát triển sau này cũng như có ảnh hưởng đến quá trình hình thành cá tính của một cá nhân. Vì thế khi một cá nhân không được cho bú sữa đầy đủ hoặc bị bỏ đói, khát nước, hoặc được cai sữa quá sớm, khi lớn lên, các em sẽ có những cá tính liên quan đến miệng như ăn vặt, nói chuyện nhiều, hay
- tắc lưỡi, hay nhổ nước miếng, nói lắp, hút thuốc, huýt sáo và những hành vi này được coi như việc bù lại những thiếu sót của ngày xưa. Ở thời gian từ 5 đến 8 tháng tuổi, khi mọc răng các em bé sẽ bị ngứa lợi. Nếu nhu cầu được cắn một vật gì đó cho bớt ngứa không được đáp ứng, cộng với việc em có thể bị cai sữa quá sớm, một cá nhân có thể phát triển thành cá tính thích gây gỗ qua đường miệng. Ví dụ thường là người thích cắn móng tay, cắn bút chì, cắn hạt dưa, và thích cắn người khác và là người có khuynh hướng ăn nói thiếu trách nhiệm, cố ý gây thương tổn đến người khác. Vào giai đoạn phát triển hậu môn, nhiều bé rất ngạc nhiên về những chức năng vận hành của cơ thể. Đầu tiên trẻ em có thể đi cầu bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu. Rồi khi phát triển lớn hơn, một em bé sẽ hiểu ra mình phải đi vệ sinh ở đâu và vào lúc nào. Tất nhiên sự cổ vũ của cha mẹ đã có một ảnh hưởng tích cực rất rõ rệt. Thái độ mừng vui của cha mẹ khi trẻ em thực hiện đúng các thao tác đi vệ sinh và tỏ vẻ thất vọng thái quá khi bé làm sai sẽ khiến cho bé lớn lên có tính
- cách xoay quanh hậu môn. Khi lớn lên họ sẽ trở thành người lộn xộn thiếu ngăn nắp, luộm thuộm và rất xuề xòa, cẩu thả, bừa bãi. Lớn lên các bé có thể là người độc ác, phá hoại, và xâm phạm tài sản và của công. Nhiều bậc phụ huynh nôn nóng trong việc thúc ép các em trong việc thôi sử dụng tã và yêu cầu các em phải chủ động trong việc đi vệ sinh. Các bậc cha mẹ này đã không ngần ngại trong việc áp dụng hình phạt, chế nhạo và kết quả là nhiều em cố gắng hết sức mà không thực hiện được. Vì thế khi lớn lên sẽ trở thành những người có nhân cách tiện tặn, dè sẻn, rất sạch sẽ, cầu toàn, gia trưởng, độc đoán, và rất keo kiệt. Có hai nhân cách ảnh hưởng trong thời gian phát triển bộ phận tính dục nam. Nếu bé nam bị mẹ em ruồng bỏ và bị đối xử hà khắc bởi người cha, khi lớn lên em sẽ phát triển thành một người có tâm trạng rất yếm thế về khả năng của mình khi đối diện với bức tranh sinh hoạt tính dục. Người như thế sẽ dễ co cụm trong sinh hoạt tính dục với người khác phái. Các bé trai này có thể là người đam mê đọc sách, hoặc cố tình tạo ra vẻ mình là người ga lăng với phụ nữ.
- Nếu các em gái bị cha mình xa lánh bỏ rơi và bị mẹ mình làm cho sợ, khi lớn lên các bé gái này sẽ có khuynh hướng không có đủ tự tin vào bản thân, là người nhút nhát co cụm, và thường là những cô gái đỏng đảnh khác thường. Nhưng nếu một bé trai không bị mẹ hắt hủi lại được thương mến bởi một người cha hiền lành nhu nhược, lớn lên bé sẽ gặp nhiều khó khăn khi hội nhập vào thế giới người lớn vì không ai yêu thương chàng trai ấy như bố mẹ của anh ta. Nếu một cô gái được nuôi dưỡng bởi một người cha chiều chuộng quá mức và một người mẹ quá dễ dãi trong nhà, bé gái ấy sẽ dễ trở thành với một cá tính tiểu thư, ích kỷ, có thể phát triển một nhân cách đầy nam tính. Những cá tính trong thời gian phát triển bộ phận sinh dục nam cho thấy quá trình chăm sóc của bố mẹ sẽ dẫn đến những phát triển thái cực khác nhau. Nếu một trẻ em có bố mẹ quá khó khăn hoặc được chiều chuộng quá mức sẽ dẫn đến những phát triển không thuận lợi sau này. Những trục trặc trong một giai đoạn phát triển tâm tính dục sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực sau này. Sự thực là nhiều vấn đề có thể được xử lý và chặn đứng. Điều này cho thấy trong
- bối cảnh đời sống phong phú, chúng ta luôn thấy có rất nhiều những nhân cách rất khác biệt nhau. 10. Áp dụng vào trị liệu Áp dụng vào trị liệu được coi là một trong những thế mạnh của thuyết phân tích tâm lý, dưới đây là những điểm son trong cách thức trị liệu của học thuyết này: – Môi trường thả lỏng: trong đó thân chủ được tự do trong cảm xúc và có thể phát biểu tất cả những gì được họ suy nghĩ. Môi trường trị liệu phải được coi là một môi trường rất đặc trưng, là nơi mà thân chủ không có bất cứ một lo lắng quan ngại hay sợ sệt nào. Thân chủ sẽ không bị chất vấn hoặc chỉ trích. Trên thực tế, trong liệu pháp phân tích tâm lý, sự có mặt của tư vấn viên sẽ gần như là biến mất. Phòng trị liệu thường có ánh sáng mờ, một ghế bành tiện nghi, thoải mái, thoáng mát, và phòng trị liệu cần có một hệ thống giữ kín âm thanh: – Tự do liên tưởng: là cách thân chủ sẽ nói về tất cả những gì xảy đến trong tâm trí họ. Với hy vọng rằng trong môi trường tự do thoải mái sẽ tạo điều kiện để những vấn đề thuộc khu vực vô thức sẽ có cơ hội
- xuất hiện trên bề mặt. Người ta thấy liệu pháp theo trường phái Freudian rất chú trọng đến phân tích giấc mơ. Trong đó các tư vấn viên sẽ được huấn luyện để chọn lọc những mấu chốt quan trọng trong giấc mơ. Khi thân chủ chia sẻ những tự do liên tưởng, tư vấn viên sẽ lắng nghe để tìm ra cội rễ của vấn đề. - Phân tích chống đối: là một kỹ năng để tư vấn viên phát hiện ra những chống đối của thân chủ. Các thân chủ thường tỏ thái độ chống đối bằng cách thường xuyên thay đổi đề tài, lảng tránh, bỏ lửng, tỏ vẻ buồn ngủ, đến hẹn muộn, hoặc bỏ ngang các cuộc hẹn. Hơn nữa, các tư vấn viên sẽ vạch ra những điều tồn đọng được thân chủ thể hiện một cách vô thức. Từ đó tư vấn viên sẽ động viên thân chủ vượt qua những rào cản để đến với trạng thái tự do liên tưởng. – Phân tích giấc mơ: thuyết phân tích tâm lý tin rằng trong giấc ngủ con người sẽ giảm bớt những kiềm chế từ khu vực vô thức và như thế sẽ tạo điều kiện cho những vấn đề xuất hiện có nội dung thông điệp gửi đến con người qua hình thái biểu tượng. Giấc mơ cho phép tư vấn viên truy cập những đấu mối về những bức xúc nằm trong khu vực xung động vô thức. Hiện có nhiều liệu pháp sử dụng phân tích giấc mơ
- trong việc tìm ra hướng giải quyết; tuy nhiên trường phái Freudian thường chú trọng đến nội dung giấc mơ có liên quan đến tính dục. – Nói vấp: Là những câu nói lỡ miệng của thân chủ. Freud tin rằng những câu lỡ miệng là nguồn cung cấp những đầu mối rất tốt về những mâu thuẫn từ cõi vô thức. Freud cũng đặc biệt quan tâm đến những câu nói đùa của thân chủ. Freud tin rằng bất kể câu nói nào của thân chủ đều có giá trị nhất định phục vụ cho công tác trị liệu, và như thế chuyện bấm nhầm số điện thoại, quẹo sai đường, hoặc đánh vần sai chính tả một chữ sẽ là những khu vực đáng chú ý trong trị liệu sử dụng thuyết phân tích tâm lý. Một số những nhà trị liệu theo phái Freudians có vẻ hứng thú với kỹ thuật kiểm tra biểu lộ cảm xúc vô thức như cách kiểm tra nổi tiếng Rorscharch hay còn gọi là trắc nghiệm hình vẩy mực. Chủ đích của cách kiểm tra này là đưa ra những hình ảnh có nội dung rất mờ mịt và thân chủ được hỏi xem họ đã nhìn thấy những gì? Những gì mà thân chủ nhìn thấy thường đến từ vô thức và điều đó sẽ giúp cung cấp những dữ kiện cần thiết cho tiến trình trị liệu.
- Một ví dụ của (Rorscharch inkblot test) sẽ hỏi bạn nhìn thấy gì? 11. Liên tưởng, giải tỏa và nhận thức Liên tưởng: là xảy ra khi một thân chủ nghĩ rằng nhà trị liệu là một người thân của họ. Freud tin rằng liên tưởng sẽ giúp quá trình trị liệu khi tư vấn viên giúp thân chủ đem những ký ức đau thương và những cảm xúc khó chịu trong quá khứ lên trên bề mặt hiện tại. Đây là một cách trị liệu rất tốt. Vì chúng ta khó có thể xử lý vấn đề giận dữ với ai đó mà không có một người đối diện để ta giận. Và quan hệ giữa thân chủ và điều trị viên là một quan hệ rất gần gũi trong liệu pháp phân tích tâm lý theo trường phái Freudian. Thả lỏng: là hiện tượng cảm giác xúc động đổ ra một cách ồ ạt và bất ngờ. Đây là lúc những cảm xúc về những ký ức đau đớn được tái diễn lại. Các tư vấn viên được khuyến khích trong văn phòng luôn có sẵn khăn giấy để giúp thân chủ lau nước mắt khi cơn xúc động dâng lên. Nhận thức: là tình trạng ý thức được nguồn cam xúc, và nhận thức rõ về nguyên nhân cội rễ của những sự kiện đau đớn. Nhận thức cho phép thân chủ
- có thể xác định được mấu chốt của vấn đề một cách cụ thể. Liệu pháp phân tích tâm lý chỉ có thể coi là đạt được kết quả khi trạng thái thả lỏng và nhận thức về cốt lõi của vấn đề được rút ra. Đây thường là những vấn đề trong quá khứ mà thân chủ lúc đó còn quá nhỏ để có thể xử lý, hoặc có quá nhiều vấn đề cùng xảy ra trong thời kỳ ấu thơ. Một khi xác định và xử lý được nguồn gốc của nan đề, thân chủ sẽ là người hạnh phúc và an bình hơn trước. Freud đã nói rằng nhiệm vụ của liệu pháp là biến vô thức trở thành có ý thức. 12. Thảo luận Có lẽ điểm yếu nhất của thuyết phân tích tâm lý của là Freud nằm ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề hội chứng khủng hoảng Oedipus và hệ quả của nó là các em nam luôn lo lắng sẽ bị thiến và các em nữ có cảm giác ghen vì không có dương vật. Thật khó mà xác định được nếu như có hiện tượng các em bé yêu cha mẹ khác phái và tranh giành với cha mẹ cùng phái? Liệu có chuyện một số em nam sẽ sợ mình bị thiến? Có thật không nếu các em nữ có tính ghen vì mình không có dương vật? Nhiều nhà học thuyết nhân cách cho rằng
- những điều vừa nói trên chỉ mang tính chất dị biệt khác thường chứ không có tính áp dụng phổ cập, và đây là những trường hợp ngoại lệ nhiều hơn là luật định. Nếu có, thường đây sẽ là các em bé sinh trưởng trong một gia đình mà quan hệ giữa con cái cha mẹ không được phát triển hòa thuận và con cái được đưa ra làm những lá chắn trong những vụ cãi vã. Hoặc trong những gia đình mà cha mẹ hay nói về chuyện “cắt chim" (thiến), chứ trẻ em thường không đủ trí khôn để suy nghĩ vấn đề quá xa. Và như thế các hiện tượng nêu trên chỉ nên hiểu theo ý nghĩa tham khảo chứ không nên coi nặng về mặt áp dụng. Và tất nhiên đây có thể là một giải đáp cho một số nhỏ các thân chủ nên tư vấn viên không coi đây là đáp số chung cho tất cả mọi người. Tuy nhiên những đóng góp về khu vực này của Freud đã cho chúng ta những nhận xét cơ bản về những giải thích khi các em bắt chước cha mẹ trong hành trình phát triển nhân cách của mình để trở thành người lớn. 13. Bức tranh tính dục Một số lớn những góp ý của giới chuyên môn với thuyết của Freud là thuyết này đặt nặng vào tính
- dục. Theo Freud, tất cả những hành vi của con người, tốt và xấu đều nằm ở chỗ con người có khả năng biểu cảm một cách trưởng thành hoặc phải dồn nén dục năng của mình lại. Nhiều người đã chất vấn rằng liệu sẽ có những xung lực khác góp phần ảnh hưởng đến phạm trù nhân cách? Để trả lời câu hỏi này, Freud đã dưa ra bản năng được chết và điều này càng khiến cho những suy nghĩ trong học thuyết của ông có vẻ kém hấp dẫn hơn. Trong đời sống hiện đại, nhìn vào mọi khía cạnh của cuộc sống, ta luôn thấy sự xuất hiện của tính dục như một điều khó tránh khỏi. Hầu như trong mọi ngõ ngách của đời sống, tính dục luôn là một bộ phận không thể xem nhẹ. Freud là người đã tiên phong trong thời đại của mình khi ông nêu lên những nhận định rất gai góc. Cần nhớ rằng vào thời điểm đó các bác sĩ và tôn giáo đã cấm nặng chuyện thủ dâm. Ngay cả các từ ngữ như cổ, đùi, ngực, lông đều là những chữ kỵ húy. Phụ nữ không được công khai bày tỏ cảm xúc dục tính, và cô dâu trong đêm động phòng phải giả vờ ngất xỉu đi. Và như thế Freud đã là người rất dũng cảm trong thế hệ của mình. Tuy nhiên trở ngại của Freud là
- dã hệ thống hóa quá xa và đã không đưa bối cảnh văn hóa vào học thuyết của mình. Tuy nhiên dưới sự khởi xướng của ông, nhiều người đã bắt đầu xắn tay nhập cuộc vào một lĩnh vực gai góc: Phạm trù tính dục trong tâm lý học. 14. Vô thức Một khái niệm được nhiều người tranh cãi nhất là khái niệm vô thức. Vấn đề này được đem ra bàn cãi là con người có bao nhiêu vô thức? Hình thái và vai trò của vô thức đã có ảnh hưởng đến nhân cách nơi người như thế nào? Những nhà học thuyết hành vi, nhân văn học và thuyết hiện sinh tất cả đều tin rằng: (1) động cơ của con người và những vấn đề của con người đến từ vô thức, nhưng theo họ thì ảnh hưởng của vô thức lên tư duy và hành vi của con người ít hơn rất nhiều so với Freud. Và (2) vô thức không phải là cái lò nung thúc đẩy con người ứng xử như ta đang nhìn thấy hôm nay. Nhiều nhà tâm lý hiện đại đã không công nhận khái niệm vô thức là cần thiết. Nhiều người đã từ bỏ không áp dụng khái niệm vô thức này vào liệu pháp. 15. Những khía cạnh tích cực
- Mặc dù có nhiều ý kiến không ủng hộ và chính bản thân Freud có những ý kiến không thuyết phục lắm, song ông đã để lại những tư tưởng rất phong phú và có tính ứng dụng vào nhiều học thuyết khác. Tuy nhiên người ta đã vô tình quên đi và không trao cho ông những vị trí xứng đáng cần thiết. Trước tiên, Freud đã khiến chúng ta nghĩ đến hai thái cực xung lực và những ảnh hưởng của chúng lên tâm thức con người. Vào thời đó con người được tin là có khả năng lý luận. Ông đã mạnh dạn chỉ ra rằng hành vi của con người thực ra đã chịu sự tác động của sinh học. Giữa lúc đó mọi người cho rằng mỗi cá nhân phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình thì ông đã cho thấy ảnh hưởng của xã hội lên những hành vi của con người. Khi mọi người cho rằng vai trò và vị trí của phụ nữ và nam giới được chi phối bởi tự nhiên hay Thượng Đế thì Freud đã giới thiệu ảnh hưởng của đời sống sinh hoạt trong quan hệ gia đình. Tất nhiên xung động vô thức và siêu ngã luôn là một bộ phận của đời sống con người ở trong một hình thái tâm thức nào đó – và đây là điểm son trong học thuyết của Freud. Thứ hai, ông đã giúp chúng ta nhận ra một
- điểm tích cực đáng chú ý trong quá trình giáo dục bằng cách nêu ra rằng một tuổi thơ đầy những bạo lực, bị hất hủi, hoặc trải qua nhiều nghịch cảnh tai ương sẽ dễ phát triển trở thành một người trưởng thành không có hạnh phúc. Chính Freud đã là người khởi xướng suy nghĩ cho rằng những vết thương trong quá khứ có thể sửa chữa lành và tái thiết kế lại. Ông cho phép chúng ta cơ sở để giải thích, mổ xẻ, và hàn gắn lại những vết thương trong quá khứ. Thứ ba, khái niệm cơ chế tự vệ để bảo vệ cái tôi là một đóng góp quan trọng. Theo đó, ông đã lý giải về việc chúng ta sử dụng những cân nhắc và tính toán để đạt được sự cân bằng giữa điều kiện hoàn cảnh thực tế và nhu cầu tư duy tâm lý cá nhân. Chính những cơ chế tự vệ mà ông nêu ra đã thật sự giúp nhiều người có thể xác định được những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Sau cùng, những hướng dẫn trong trị liệu đưa ra bởi Freud trong đó việc sử dụng tư vấn viên như một điểm tựa cho quá trình liên tưởng để thân chủ có thể đào sâu vào quá khứ là một hình thức liệu pháp có kết quả rất cao. Ngoài ra liệu pháp "nói chuyện để chữa bệnh" trong bối cảnh phòng ốc với sự thoải mái xem ra
- là một áp dụng vẫn rất thịnh hành hiện nay. Một số ý tưởng của Freud gắn liền với thời đại và văn hóa nơi ông đã sống. Nhiều ý tưởng tuy khó có thể kiểm chứng được trong bối cảnh lúc ấy nhưng có thể hiểu dễ dàng hơn ở hôm nay. Nhiều ý tưởng của ông được coi là kinh nghiệm cá nhân và được lấy ra từ nhân cách riêng của ông. Tuy nhiên dù sao ông vẫn xứng đáng là một trong những nhà quan sát có trách nhiệm về những điều kiện sinh hoạt của con người. Những gì ông nói mãi mãi sẽ là một phần quan trọng của những trang sách giáo khoa tâm lý nhiều năm nữa. Ngay cả những nhà học thuyết mới khi xây dựng những học thuyết nhân cách của mình đã luôn luôn so sánh và đối chiếu học thuyết của ông. Như thế có thể nói Sigmund Freud (1856– 1939) thật sự xứng đáng là một người có những đóng góp rất lớn vào sự nghiệp di sản tâm lý học của nhân loại ngày hôm nay. Created by AM Word2CHM
- Chương 2. ANNA FREUD TÂM LÝ NHÂN CÁCH CÁI TÔI CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH 1. Con gái của Sigmund Freud Cứ mỗi lần Sigmund Freud tin rằng ông chọn được một học trò đắc ý sẽ kế thừa công trình nghiên cứu của mình thì người được ông chọn đã rời bỏ ông. Ít nhất thì hai người học trò nổi tiếng ấy là Carl Jung và Alfred Adler. Trong khi đó con gái của ông là Anna là người đã chịu khó ngồi lắng nghe và theo dõi những bài giảng của cha mình. Trải qua những buổi phân tích tâm lý cùng với cha và sau cùng bà đã trở thành một chuyên viên phân tích tâm lý. Ngoài ra bà còn là người đã chăm sóc cho Freud khi ông phát bệnh ung thư hàm miệng vào năm 1923. Bà đã trở thành người duy nhất được coi là người thừa kế sự nghiệp hoạt động và nghiên cứu của Sigmund Freud. 2. Tâm lý xoay quanh cái tôi Không giống như hai học trò của cha là Carl Jung và Alfred Alder, Anna trung thành với những tư tưởng do cha mình đã phát triển. Tuy nhiên bà đã chú
- trọng đến khía cạnh động lực của tâm thức hơn là tiếp tục khám phá về cấu trúc của tâm thức, nhất là bà đã tỏ ra rất hứng thú về cái tôi trong bối cảnh toàn diện của tâm thức nơi con người. Trong khi cả đời mình Freud đã cống hiến toàn tâm toàn lực của mình cho xung động vô thức (id) và vô thức của đời sống tinh thần, với Anna thì bà cho rằng qua cái tôi, chúng ta mới có thể nhìn thấy cách vận hành của xung động vô thức và vô thức một cách tổng quát hơn. Theo bà cái tôi là một khu vực cần thiết được nghiên cứu rộng và sâu hơn. Bà được coi là người nổi tiếng với cuốn sách Cái Tôi Và Những Cơ Chế Tự Vệ. Trong đó bà đã liệt kê và trình bày một cách có hệ thống về những vận hành của các cơ chế tự vệ. Từ đó bà đã đem ra áp dụng vào khảo cứu và tìm thấy biểu hiện của cơ chế tự vệ trong ứng xử nơi trẻ ở lứa tuổi dậy thì. Trong chương 1, chúng ta đã có dịp làm quen với những nét chính trong tác phẩm của bà khi mổ xẻ về các cơ chế tự vệ. Sự tập trung vào cái tôi bất đầu xuất hiện khi những người theo phái Freudian nhóm họp lại. Họ
- dựa vào những công trình nghiên cứu và làm việc của Sigmund Freud làm nền tảng then chốt cho những hoạt động chuyên môn của mình. Sau đó họ phát triển chuyên sâu, tập trung vào khu vực cái tôi với chủ trương mong sao học thuyết này đi sát với thực tiễn hàng ngày. Bằng cách này, họ muốn nhìn thấy học thuyết của Freud vẫn có thể được áp dụng không chỉ trong tâm lý bệnh học mà còn áp dụng được cả vào xã hội và các phạm trù phát triển nơi con người. Một ví dụ điển hình đại diện của nhóm này là nhà tâm lý Erik Erickson, người được coi là nhà tâm lý tập trung vào cái tôi. 3. Tâm lý phục vụ trẻ em Có thể nói Anna Freud không hẳn thuần túy là nhà lý thuyết, đam mê của bà là áp dụng vào thực hành. Phần lớn tâm huyết và năng lượng của bà đều tập trung vào trẻ em và lứa tuổi dậy thì, nhất là mảng phát triển phân tích mà bà luôn quan tâm dấn. Nếu như cha của bà đã giành trọn sự nghiệp cuộc đời mình để viết về người lớn; mặc dù ông viết khá nhiều về quá trình phát triển có liên hệ đến trẻ em. Tuy nhiên những gì ông viết về trẻ em được nhìn qua lăng kính người lớn.
- Với Anna thì khác, bà đã đặt câu hỏi: Vậy chúng ta sẽ phải làm gì với những em bé sinh trưởng trong một gia đình có những khủng hoảng, nơi những vết thương ký ức, và cả những sự cố phát triển khựng lại của những em bé này trong điều kiện hiện tại. Liệu chúng ta có thể làm gì cho các em ngay từ khi các em còn bé, thay vì chờ đợi những vấn đề trở thành quá khứ xa mờ của ký ức khi các em lớn lên? Vấn đề khó khăn hiện tại của các em đã đánh thức khát khao của Anna Freud trong hành trình khám phá thế giới tâm lý nơi trẻ thơ. Trước hết, mối quan hệ giữa nhà trị liệu và trẻ em rất khác biệt với mối quan hệ giữa các em và cha mẹ. Theo Anna thì phụ huynh của các em bé dù sao vẫn là một bộ phận quan trọng có tác động ảnh hưởng trực tiếp lên đời sống của các em. Và đấy cũng chính là một bộ phận mà nhà trị liệu không nên và không thể tạo ra những ảnh hưởng tương tự trực tiếp đối với các em nhỏ. Vì thế nhà trị liệu có thể chỉ giả vờ mình là một đứa trẻ khác chứ không phải trong cương vị một người có thẩm quyền (như cha mẹ của các em). Anna Freud đã tìm ra một cách khả thi tốt nhất để xử lý vấn đề này khi áp dụng thủ pháp liên tưởng
- bằng một lối tiếp cận rất tự nhiên: Hãy là một người lớn có tâm hồn và biết quan tâm, không phải là một người bạn của các em, càng không phải là một người thay thế cho vị trí của cha mẹ các em. Một vấn đề khác khi phân tích trẻ em là khả năng cảm thụ và nhận thức về các biểu tượng nơi các em chưa được phát triển như với người lớn. Vì các em còn quá nhỏ sẽ có những khó khăn trong việc diễn tả những cảm xúc của mình qua kênh ngôn ngữ nói. Ngay cả những em lớn hơn cũng không thể giống như người lớn trong cách che đậy những vấn đề của mình dưới lớp vỏ những biểu tượng phức tạp. Theo Anna Freud, những vấn đề của trẻ em thường có tính chất hiện sinh ngay trong lúc này. Theo bà các vấn đề nơi trẻ em vẫn chưa có thời gian để trở thành những cơ chế tự vệ. Vì thế các vấn đề ở trẻ em thường gần gũi trên bề mặt của vấn đề, có khuynh hướng diễn đạt một cách trực tiếp, ít mang tính chất biểu tượng, tập trung vào hành vi và xúc cảm hiện tại nhiều hơn. Phần nhiều những đóng góp của Anna Freud trong nghiên cứu về nhân cách được thu thập từ Viện
- điều trị cho trẻ em Hamstead ở Luân Đôn. Tại đó bà đã giúp đỡ trong việc tạo dựng lên nhiều cách làm việc có hiệu quả giữa những chuyên ngành trong tổ điều trị trẻ em. Bà đã khám phá ra một trở ngại lớn là sự đối thoại và trao đổi giữa các điều trị viên với nhau. Các vấn đề của người lớn có thể được gọi theo những tên gọi truyền thống, trong khi đó những vấn đề của trẻ em chưa có những tên gọi chuyên môn. Vì các vấn đề của trẻ em thường mang tính khẩn cấp ngay lập tức, nên bà đã khái niệm lại những vấn đề ấy với những từ ngữ chuyên môn như trong những chuyển động của trẻ em cùng với thời gian phát triển phù hợp. Một em bé được coi là khỏe mạnh nếu như em giữ được một nhịp độ phát triển bình thường trong những phạm trù ăn uống, vệ sinh cá nhân, và cách chơi đùa. Bà đã giúp xây dựng cách đo đạc đánh giá các hành vi và quá trình phát triển của các em sao cho có hệ thống. Nếu như ở một em bé có những khu vực phát triển chậm hẳn so với các em khác, điều trị viên sẽ có thể xác định được vấn đề và họ có thể trao đổi về vấn đề ấy bằng cách diễn tả những phát triển chậm một cách rõ ràng mạch lạc và chính xác hơn, qua hệ
- thống đánh giá bằng từ ngữ chuyên môn. 4. Nghiên cứu Bà cũng là người có những đóng góp đáng kể cho những công trình nghiên cứu trong tâm lý trường phái Freudian. Bà đã giúp thiết lập một tiêu chuẩn chung trong việc ghi lại lý lịch của các em có hồ sơ để đưa vào hội chẩn, khuyến khích việc nhiều nhà phân tích khác nhau có thể hiểu các công trình nghiên cứu một cách dễ dàng hơn. Bà có những đóng góp trong việc nghiên cứu về sự phát triển từ thời thơ ấu đến giai đoạn tuổi dậy thì. Bà cũng chỉ đạo nhiều công trình thí nghiệm tự nhiên, bằng cách phân tích cẩn thận những nhóm các trẻ em có chung một loại hình khuyết tật như trẻ em bị mù, trẻ em mồ côi và trẻ em loạn lạc trong chiến tranh. Một chỉ trích lớn về tâm lý theo trường phái Freudian là thiếu hẳn những khám phá dựa trên cơ sở thí nghiệm vốn cần được áp dụng trong các phòng thí nghiệm. Nhưng Anna đã muốn công việc nghiên cứu của bà dựa trên cơ sở thí nghiệm. Phần nhiều những công trình khám phá của Anna Freud được tìm thấy trong những tác phẩm của
- bà, một bộ sưu tập gồm 7 tập những sách nghiên cứu, trong đó có cả tác phẩm Cái Tôi Và Cơ Chế Tự Vệ, cùng với những công trình nghiên cứu của bà về trẻ em và tuổi dậy thì. Bà là một cây bút viết rất dễ đọc, không quá khô khan như các sách kỹ thuật, và sử dụng rất nhiều những ví dụ minh họa. Anna Freud (1895–1982) thật sự là một tấm gương sáng cho những ai có tâm hồn và nhiệt huyết với sự nghiệp phát triển tâm lý ở trẻ em. Created by AM Word2CHM
- Chương 3. ERICK ERIKSON – THUYẾT NHÂN CÁCH PHÁT TRIỂN TƯ DUY CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH 1. Hành trình đi tìm mơ ước Trong số những người sống ở bộ lạc Oglala Lakota (khu vực của người bản địa đầu tiên của Hoa Kỳ), một truyền thống được lưu truyền từ lâu đời cho tất cả các trẻ em nam ở tuổi dậy thì là sẽ một mình ra đi tìm kiếm mục đích của đời mình. Các em ra đi không có bất cứ một thứ vũ khí nào và chẳng mặc quần áo gì ngoài một cái khố và một cái khăn moccasins. Đấy là những trang bị mà em có được trên con đường chinh phục giấc mơ của mình. Đói và khát, mệt lả người, các cậu bé đã mong đợi sẽ nhìn thấy ước mơ của mình sau bốn ngày đói khổ. Một giấc mơ sẽ mở ra cho các cậu nhìn thấy đời sống trong tương lai của mình. Khi trở về nhà cậu bé sẽ kể lại cho già làng nghe giấc mơ của mình. Sau đó cụ sẽ giải thích giấc mơ ấy theo cách của người cổ xưa để lại. Chính giấc mơ ấy sẽ quyết định xem cậu bé ấy sẽ là một thợ săn cừ khôi, một chiến sĩ can đảm, hay là một tay ăn cắp
- ngựa không ai bì kịp, hoặc anh ta sẽ là một người thợ chế tạo vũ khí, một nhà lãnh đạo tinh thần, một thầy tế lễ, hay là một thầy lang phục vụ cho mọi người. Trong một vài trường hợp, một giấc mơ sẽ đưa cậu bé đến nơi tập trung của những kẻ lập dị, bị nhốt cách biệt với những người Oglala khác. Một giấc mơ liên quan đến tiếng sấm có thể đưa cậu bé trải qua một thời hạn như một heyoka, vốn là người phải nhảy nhót như một tay hề hay một thằng khờ trong một thời gian. Hoặc nếu như giấc mơ của cậu bé là mặt trăng hay là một con trâu trắng, cậu bé ấy sẽ có một cuộc đời như một berdache – một người đàn ông phải ăn mặc và xử sự như thể anh ta là một người đàn bà. Cứ thế, có nhiều giấc mơ để trở thành người bình thường và rất ít những giấc mơ để trở thành người có chuyên môn và có chức quyền. Khi Erick Erikson đến thăm Oglala Lakota, các sinh hoạt nơi đây đã được thay đổi ít nhiều. Những người dân bản địa này được đưa vào những trại tập trung và trải qua những thay đổi bởi chiến tranh do người da trắng gây ra. Cuối cùng là những hiệp định thương nghị bất lợi cho họ. Những đàn trâu hoang dã một dạo là nguồn thức ăn, cung cấp quần áo, nhà ở,
- và hầu như là nguồn cung cấp mọi thứ và bây giờ đã tuyệt chủng. Tệ hơn nữa là lối sống của họ đã thay đổi, không phải vì những người lính da trắng xâm lược mà là từ những chính sách của chính phủ đang cố gắng biến những người dân bộ tộc Lakota trở thành những công dân Hoa Kỳ văn minh hiện đại. Tất nhiên là các giáo viên da trắng đến đây dạy học đã vấp phải một trở ngại lớn là các con em bộ tộc Lakota không chịu nghe theo các hướng dẫn và chỉ dạy của các thầy cô. Các em đã quen với cuộc sống bụi bặm, nô đùa với tự nhiên nên tỏ ra khó chịu với những tiêu chuẩn vệ sinh. Các em được dạy im lặng ở nhà nên việc phát biểu trong lớp là điều các em đã chưa từng quen. Thời gian trôi qua, cuộc sống bình thường hôm xưa đã mất, nền văn hóa mới chẳng thể là một sự thay thế phù hợp. Không còn những hành trình đi tìm giấc mơ như xưa nữa. Và các cậu bé tuổi dậy thì hôm nay chẳng biết kiếm đâu ra những giấc mơ tương lai cho mình. Erikson cảm động trước những khó khăn này của các trẻ em bộ tộc Lakota mà ông đã có dịp quan
- sát và truyện trò. Ngay cả việc lớn lên và rồi sẽ làm gì cũng đã là một trở ngại đối với nhiều em ở lứa tuổi dậy thì da trắng khác. Trong khi đó các em bé da đen lầm lũi vật lộn với hiện tại khi nguồn gốc tổ tiên Châu Phi của mình bị mất đi. Các em bé Châu Á cũng đang phải căng giãn giữa văn hóa Tây phương và văn hóa phương Đông. Đơn giản là những ngày lễ và phong tục của văn hóa Hoa Kỳ đã tác động mạnh mẽ lên những em bé thiểu sổ, trong đó có cả những em bé bộ tộc Lakota. Giống như các em bé da đỏ bản xứ, nhiều trẻ em Hoa Kỳ đã không còn nhận ra những cột mốc quan trọng trong hành trình phát triển tâm lý của mình. Các em bỡ ngỡ không biết đến khi nào mình sẽ là người lớn. Khi nào là tuổi dậy thì? Khi nào là thời điểm tốt nhất cho kinh nghiệm giao hợp lần đầu tiên? Rồi học xong cấp ba, các em sẽ có bằng lái xe, tốt nghiệp đại học, đi làm? Chính xác ra là các em không xác định được chính thức khi nào được coi mình là người lớn. Trong những năm tháng truyền thống (cách đây chừng 25 đến 50 năm), một chàng trai và một cô gái thường quan sát cha mẹ, họ hàng, lối xóm, và thầy cô để tìm ra cho mình những ứng xử phù hợp. Họ là
- những người chịu khó và hiền lành, biết ứng xử và tiết độ. Nói chung đây là những mẫu người chúng ta rất muốn có được hôm nay. Thật đáng tiếc, trẻ em hôm nay đã tin vào những phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là ti vi để tìm ra những gương mẫu sống. Những người trên ti vi trông đẹp đẽ hơn, giàu có hơn, thông minh hơn, khôn ngoan lanh lợi hơn, và có vẻ hạnh phúc hơn những người bình thường hàng xóm của chúng ta. Rất buồn, những mô hình đó hoàn toàn không thực tế. Trong xã hội hiện đại hôm nay, nhiều em sinh viên đã vỡ mộng khi nhận ra ngành học của họ đòi hỏi quá khó khăn so với khả năng của mình. Rồi công việc nhàm chán và đơn điệu. Chẳng có gì hấp dẫn và sáng tạo như trong ti vi cả. Cuối cùng những lối đi tắt và lỗi lầm đôi khi phản ánh rất sát và khá trung thực với những gì chúng ta nhìn thấy: Bạo lực và nổi loạn, chán đời và phá bĩnh. 2. Tiểu sử của Erick Erikson Erick Erikson sinh tại Frankfurt, nước Đức ngày 16 tháng 6 năm 1902. Một điều thú vị là cha của ông là một người Hà Lan đã bỏ rơi mẹ con ông trước
- khi ông chào đời. Mẹ ông là Karla Abrahamsen, một phụ nữ trẻ gốc Do Thái đã nuôi con một mình trong ba năm đầu tiên. Sau đó bà lấy chồng là bác sĩ Thoedor Homberger, một bác sĩ nhi đồng chuyên khám bệnh cho Erick, rồi họ dọn về sống ở Karlsruhe, miền nam nước Đức. Một nét nổi cộm trong tiểu sử của Erick đã ghi rõ là người ta chẳng biết ai đã thôi thúc và để lại dấu ấn rất đậm lên cuộc đời cũng như công trình nghiên cứu của ông. Khi còn bé và lúc mới trưởng thành, Erick có tên đầy đủ là Erick Homberger. Cha ghẻ và mẹ ông đã giấu hẳn chuyện giấy khai sinh thật của ông. Thành ra ông là một chàng trai cao ráo, tóc vàng, mắt xanh, gốc Do Thái. Khi ở trường đạo, bọn trẻ chọc ông là người Bắc Âu và ở trường tiểu học thì ông bị chế nhạo là thằng bé Do Thái. Sau khi tốt nghiệp cấp ba, Erick muốn mình sẽ trở thành một họa sĩ. Những lúc rảnh rỗi, ông thường ngao du khắp nơi thuộc Châu Âu, viếng thăm các viện bảo tàng và có lúc đã ngủ bên dưới gầm cầu. Ông đã từng sống lang thang bụi đời trong một thời gian rất lâu trước khi ông có thể nhận ra mình sẽ phải làm một cái gì đó.
- Khi ông được 25 tuổi, một người bạn cùng giới nghệ sĩ là Peter Blos, sau này trở thành nhà phân tích tâm lý đề nghị ông nên xin dạy học tại một trường thí điểm tại Hoa Kỳ, được lãnh đạo bởi Dorothy Burlingham – một người bạn của Anna Freud. Ngoài việc dạy nghệ thuật, ông tiếp tục học và được cấp chứng chỉ giáo dục do viện Montessori và Hội phân tích Tâm lý Vienna do chính tay Anna Freud cấp. Trong thời gian đó, ông gặp Joan Sersons, một giáo viên dạy múa người Canada. Họ lấy nhau và có 3 người con, một người con của ông sau này trở thành một nhà xã hội học. Khi nhóm phát xít Nazis thành công và lên nắm quyền, gia đình họ rời Vienna. Đầu tiên họ đến Copenhagen, sau đó là Boston. Erick được đề nghị nhận một chân giảng dạy tại trường Đại Học Y Dược Harvard và thực hành phân tích tâm lý trẻ em với tư cách tư nhân riêng rẽ. Trong thời gian này, ông gặp gỡ các tâm lý gia khác như Henry Murray và Kurt Lewin, cùng với các nhà nhân chủng học như Rith Benedict, Margaret Mead, và Gregory Bateson. Đây là nhóm những người có ảnh hưởng lớn đến Erik, giống như Sigmund Freud và Anna Freud đã từng có ảnh hưởng
- đến ông. Sau đó ông giảng dạy ở Đại học Yale. Kế đó ông dạy tại Đại học Tiểu bang California tại Berkely. Trong thời gian này, ông đã bắt tay vào thực hiện chương trình nghiên cứu nổi tiếng của mình về đời sống hiện đại nơi bộ tộc Lakota và bộ tộc Yuork. Khi trở thành một công dân Hoa Kỳ, ông chính thức đổi tên của mình thành Erick Erikson. Chẳng ai biết ông đã chọn cái tên này vì lý do gì. Năm 1950, ông viết cuốn Tuổi Thơ Và Xã Hội, trong đó ghi lại những khám phá của ông với các em bé da đỏ bản xứ, và những phân tích về Maxim Gorkiy và nhà độc tài Adolph Hitler. Trong tác phẩm này ông liên hệ những phân tích về thuyết của Freud, cũng như về nhân cách của người dân Hoa Kỳ. Đây là những đề tài mô tả khá kỹ lưỡng về ảnh hưởng của văn hóa lên nhân cách con người. Cũng trong thời gian này Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy đã gây ra những lo lắng chung cho tình hình an ninh xã hội ở Tiểu bang California, Erikson rời Berkeley vì các giáo sư buộc phải ký lời thề trung thành. Sau đó ông làm việc 10 năm với một Trung tâm y tế ở Massachusetts, rồi dạy 10 năm nữa ở Đại học Harvard. Từ đó ông nghỉ hưu.
- Sau cùng ông tiếp tục viết và làm nghiên cứu với vợ của mình. Ông mất năm 1994. 3. Học thuyết Nhân cách của ông Erikson là một nhà tâm lý về cái tôi thuộc trường phái Freudian. Điều này cho thấy ông đã chấp nhận các khái niệm tâm lý của Freud như những nền tảng đúng đắn căn bản, kể cả những vấn đề hiện vẫn đang gây ra bàn cãi như hội chứng khủng hoảng Oedipus, cũng như những tư tưởng về cái tôi đã được Heinz Hartman và Anna Freud xây dựng. So với các nhà tâm lý học thuộc trường phái Freudian, ông là người chú trọng đến yếu tố xã hội và ảnh hưởng văn hóa lên nhân cách nhiều nhất. Có lẽ do tác động của các bạn là những nhà nhân chủng học. Do chịu nhiều ảnh hưởng của họ, vì thế ông thường có xu hướng gạt bản năng và vô thức ra khỏi phạm trù tâm lý. Có lẽ vì thế ông đã được cả hai phe Freudian phe chống Freudian chú ý đến. 4. Nguyên lý phát triển hình thành nhân cách Ông là người nổi tiếng trong việc chắt lọc và phát triển thuyết của Freud liên quan đến những thời
- kỳ phát triển nơi người. Ông cho rằng quá trình phát triển dựa trên nguyên lý phát triển hình thành, theo đó một sinh thể sẽ phát triển qua những giai đoạn đã được định sẵn xảy ra trong quá trình phát triển của con người qua 8 bước. Theo ông, những bước phát triển đầu tiên sẽ có tác động thuận lợi hay bất lợi lên các bước sau đó. Ông so sánh những bước phát triển này giống như một đóa hoa hồng nở ra với mỗi một cánh hoa là một lớp phát triển. Và như thế cần phải có những bước phát triển cần xảy ra theo một trình tự thời gian hợp lý. Mỗi giai đoạn phát triển có những nhiệm vụ liên quan đến phát triển tâm lý. Xuất phát từ hệ thống tư tưởng của Freud, ông tin rằng những vấn đề vấp/khựng trong quá trình phát triển sẽ dẫn đến những khủng hoảng. Tuy nhiên ông cho rằng những trạng thái vấp/khựng chỉ nên được đánh giá là những gợi ý và mang tính khái quát nhiều hơn. Cũng theo ông, những vấn đề và nhiệm vụ của một giai đoạn phát triển nên được coi là những khu vực có ảnh hưởng từ tác động của giao tiếp với môi trường bên ngoài, thay vì có liên hệ trực tiếp đến nội lực bên trong. Theo ông, những phạm trù sinh hoạt và phát
- triển luôn có hai thái cực. Chẳng hạn như đối với các trẻ em sơ sinh, ông cho rằng các em sẽ thường trải qua hai thái cực kinh nghiệm là tin tưởng - hoặc không tin tưởng nơi cha mẹ của mình trong quá trình được chăm sóc. Tuy ban đầu các em học cách đặt niềm tin, nhưng sẽ có lúc các em nhận ra rằng không nên quá tin tưởng (sau này dẫn đến việc không tin tưởng). Tuy nhiên theo ông thì không tin tưởng sẽ là một bộ phận giúp cho các cá nhân có tinh thần cảnh giác nhiều hơn. Ông cho rằng ở mỗi một thời điểm phát triển sẽ có riêng những khả năng và những nhiệm vụ cần được xử lý thành thạo. Một em bé không thể trở thành một người lớn mà không qua những giai đoạn phát triển. Những khả năng và nhiệm vụ của từng giai đoạn phải phù hợp và đi theo trào lưu chung của nhóm tuổi giai đoạn phát triển đó, vốn có thể quan sát được. Tuy nhiên trong thực tế ta thấy có nhiều bậc phụ huynh vì nôn nóng hoặc quá đặt nặng vấn đề thành công nên đã thúc ép các con em của mình. Trên thực tế, mỗi thời điểm có một số nhiệm vụ mà các em cần đạt được. Làm nhanh hơn hoặc chậm hơn tiến trình này đều dẫn đến những bất thường trong phát triển ở
- tương lai về sau. Nếu ở từng thời kỳ giai đoạn phát triển được điều chỉnh thuận lợi một cá nhân sẽ có những gặt hái tốt đẹp về mặt tâm lý, giúp họ tiếp tục phát triển bình thường ở những giai đoạn tiếp theo. Nếu không xử lý những nhiệm vụ được đặt ra cho từng giai đoạn phát triển, một cá nhân sẽ có những ảnh hưởng không bình thường về tâm lý, dẫn đến việc có những hành vi thiếu lành mạnh và những hành vi độc hại, kể cả việc họ có những tư duy khập khiễng về sau này. Trong đó những hành vi độc hại là rất nguy hiểm vì cá nhân có quá nhiều tư duy tiêu cực nhưng lại thiếu hẳn về mặt tư duy tích cực. Tất nhiên những người như thế sẽ không có nhiều niềm tin nơi người khác, tệ hại hơn là họ luôn luôn có sự nghi ngờ vào tất cả xung quanh. 5. Trẻ em và người lớn Có lẽ sáng tạo tiên phong lớn nhất của Erikson là việc đề xuất không chỉ 5 giai đoạn như với Freud. Nói khác đi là Erikson đã khai triển 5 bước giai đoạn ấy của Freud và cố gắng đem lại khả năng dung hòa áp dụng vào điều kiện thực tế bằng cách đưa
- thêm vào 3 giai đoạn khác nơi người trưởng thành. Con người là một sinh thể không ngừng phát triển – nhất là về mặt tâm lý. Con người không ngừng phát triển lần sinh nhật lần thứ 12 hay thứ 15 nào đó. Vì thế sự phát triển thêm 3 giai đoạn nữa của Erikson đã có một ảnh hưởng tương đối thuận lợi, được đông đảo học giả đón nhận. Ngoài ra Erikson còn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự giao lưu đối thoại giữa nhiều thế hệ khác nhau. Freud đã trình bày về ảnh hưởng của cha mẹ trong việc giúp phát triển hình thành nhân cách của trẻ em. Tuy nhiên Erikson cho rằng chính trẻ em đã có những tác động ảnh hưởng lên người lớn. Ông cho rằng sự ra đời của một trẻ em đã thay đổi rất nhiều đến đời sống của một cặp vợ chồng trong suốt một khoảng thời gian dài. Theo Erikson, trẻ em học hỏi rất nhiều từ cha mẹ và ông bà. Ngược lại, cha mẹ, ông bà cũng học hỏi được rất nhiều từ trẻ em. Điều này có thể được nhận ra qua câu ca dao của người Việt Nam: Sinh con rồi mới sinh cha, Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. 6. Hành trình phát triển ở người
- Hành trình phát triển của con người là một hành trình bao gồm nhiều bước phức tạp và tương đối rắc rối, ngay cả đối với nhiều nhà học thuyết cũng có những nhầm lẫn. Nhưng không hẳn vì thế mà những ngõ ngách của vấn đề lại trở nên không được xem xét quan tâm. Theo Erikson, 8 giai đoạn phát triển rất đặc trưng nơi con người bao gồm: – Giai đọan 1 (mới sinh đến 1 tuổi): là lúc các trẻ em sơ sinh tín thác tin tưởng hay thiếu niềm tin và không tín thác mẹ ruột của mình. Nếu bé tin tưởng cha mẹ, bé sẽ có trạng thái tinh thần vui vẻ, tin tưởng, đầy hy vọng. Nếu bé không tin tưởng nơi cha me, niềm tin của bé bị lấy mất, bé có thể tìm cách tránh né và co cụm. – Giai đoạn 2 (trẻ tập đi): là lúc trẻ phát triển khả năng tự chủ hay bé đã biết mắc cỡ. Trẻ thường có thể sẽ quá lệ thuộc, có thể tự mình khám phá, tự quyết định, hoặc có thể sẽ có những cá tính nóng nảy được phát triển, hoặc trẻ sẽ đòi hỏi. – Giai đoạn 3 (trước tuổi đến trường – tuổi mầm non): là lúc bé phát triển khả năng chủ động hoặc có mặc cảm. Trong lúc này các em chủ yếu quan
- sát mọi sinh hoạt của gia đình, trẻ rất thích chơi đùa. Nếu phát triển bình thường, trẻ sẽ hiếu động, có tính can đảm. Tuy nếu được nuông chiều quá mức, trẻ có thể hỗn hào. Nếu không phát triển khả năng chủ động, nhiều em sẽ trở nên co cụm, yếm thế, nhút nhát. – Giai đoạn 4 (từ 7 đến 2 tuổi): là giai đoạn các em đến trường. Đây là lúc các em phát triển năng động cần cù khéo léo. Nhiều em do không phát triển có thể rơi vào não trạng nhược tiểu, thua kém, không có năng lực. Lúc này trẻ sẽ phải đối diện với hàng xóm, trường học và gia đình. Trẻ trong thời kỳ này tập trung phát triển những kỹ năng ứng xử và khả năng tiếp thu. Nếu không thuận lợi, nhiều bé sẽ rơi vào trạng thái thụ động, ù lỳ. – Giai đoạn 5. (tuổi dậy thì 12 đến 18 tuổi): đây là giai đoạn phát triển cái tôi và nhận diện chính mình – hay còn gọi là quá trình xác định nhân định. Trong giai đoạn này các em dễ rơi vào nhầm lẫn về vai trò của mình. Môi trường sống sẽ có những ảnh hưởng lớn đến các em trong giai đoạn này, nhất là ảnh hưởng từ bạn bè cùng trang lứa và những người lớn có vai trò gương mẫu. Các em cố gắng phấn đấu và khám phá xem mình là ai. Các em có khuynh hướng
- trung thành với những giá trị nhân cách mà các em có ấn tượng. Nếu không phát triển bình thường, các em dễ rơi vào khó khăn, dễ lúng túng và mất phương hướng. – Giai đoạn 6 (từ 18 đến 20 tuổi): là giai đoạn các người trẻ đi tìm bạn tình để xây dựng đời sống tình cảm thân mật hoặc có nhiều bạn rơi vào tình trạng né tránh hoặc không có bạn tình. Môi trường ảnh hưởng chính vẫn là bạn bè. Nhiều người hạnh phúc với những lựa chọn của mình, nhưng cũng có nhiều bạn trẻ gặp khó khăn trong việc tìm cuộc sống cho mình. Vì thế đã dẫn đến việc một số người ráo riết đi tìm bạn tình, họ ga lăng và hào phóng. Tuy nhiên sẽ có người co cụm, né tránh. – Giai đoạn 7 (từ 20 đến 50 tuổi): là khoảng giữa của tuổi trưởng thành. Ở giai đoạn này người ta có thể phát triển lành mạnh và tin rằng mình là người có ích cho cuộc đời, tuy nhiên một số chìm đắm vào riêng cá nhân bản thân mình. Môi trường ảnh hưởng chủ yếu là sinh hoạt trong gia đình, và với đồng nghiệp tại cơ quan. Người có phát triển bình thường ở giai đoạn này sẽ mở rộng mình với cuộc sống, và người không phát triển bình thường sẽ dễ cáu bẳn, chỉ lo
- lắng ưu tư đến bản thân. – Giai đoạn 8 (từ 50 tuổi trở đi): là khoảng sau cùng của tuổi trưởng thành. Cá nhân trong giai đoạn này thường nhắm đến phát triển để đạt được tính nguyên tắc nhất quán trong mục đích của mình hoặc chán nản thất vọng vô nghĩa. Họ thường nhìn vào những mẫu tuýp người để so sánh. Để từ đó người phát triển bình thường sẽ an tâm với cuộc sống và người không phát triển bình thường sẽ có những biểu hiện chán nản ưu phiền. 7. Mổ xẻ chi tiết các thời kỳ – Thời kỳ đầu tiên: Ở lứa tuổi sơ sinh là giai đoạn cảm giác miệng trong khoảng 18 tháng đầu. Đây là lúc trẻ phát triển việc đặt niềm tin vào chính nơi bé. Nếu được cha mẹ cung cấp đầy đủ các nhu cầu chăm sóc, bé sẽ phát triển một cảm giác an toàn trong môi trường sống của mình. Bé sẽ cảm thấy tự tin và không còn lo lắng sợ hãi. Một môi trường an toàn sẽ khiến bé tin vào các chức năng của cơ thể. Vì thế đói bụng hay khi ướt tã không còn là những vấn đề lớn đối với bé, vì bé luôn được quan tâm chăm sóc. Nếu cha mẹ không cung cấp và đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu bé sẽ
- dần dần mất niềm tin vào cuộc sống, bé sẽ lo lắng và sợ hãi, giảm hẳn niềm tin nơi mọi người xung quanh. Tuy nhiên cần chú ý, các bậc cha mẹ không thể hoàn toàn tuyệt hảo. Nhất là nhiều bậc cha mẹ quá khẩn trương đến từng yêu cầu nhỏ nhặt nhất của em bé sẽ dẫn đến việc làm hư bé vì đã gửi đi những tín hiệu sai lệch. Nhất là khi bé không ý thức được giữa nhu cầu và đáp ứng cần thiết phải có một khoảng thời gian nhất định. Và như thế sau này lớn lên, có thể bé sẽ rất nhẹ dạ cả tin vào người khác. Và khi vấp vào thực tế, bé sẽ rơi vào những não thức cả tin, đôi khi mất một thời gian dài mới có thể điều chỉnh lại được Tệ hại nhất là nhiều bậc cha mẹ đã không có sự cân bằng trong chăm sóc hoặc không được duy trì được một môi trường lành mạnh, các em sẽ rơi vào co cụm vì thiếu niềm tin, dẫn đến khuynh hướng nhân cách tránh né, rút lui, nghi hoặc, trầm cảm, buồn chán, có khả năng dẫn đến bệnh tâm thần nữa. Nếu có sự quân bình, trẻ sẽ yêu đời, có tinh thần lạc quan, có niềm tin vào cha me. Bé sẽ tin rằng dù khó khăn nhưng sẽ có kết thúc tốt đẹp. Dấu hiệu là trẻ sẽ không bẳn gắt và cáu kỉnh trong khi chờ đợi đáp
- ứng của cha mẹ. Bố mẹ em không nhất thiết phải khẩn trương và như thế xây dựng trẻ không nóng tính, thể hiện đủ tính kiên nhẫn. Và khi lớn lên, trẻ sẽ có những hướng xử lý bình tĩnh như khi em còn bé. – Giai đoạn hai: là giai đoạn có liên hệ đến các cơ vòng nơi hậu môn của thời kỳ thơ ấu, từ 18 tháng cho đến 3 đến 4 tuổi. Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là đạt được khả năng tự chủ trong khi cố gắng giảm thiểu xuống mức thấp nhất trạng thái xấu hổ và ngờ vực, nhất là vào khả năng thao tác đi vệ sinh. Nếu cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ thường xuyên cho phép em được tự do khám phá thế giới xung quanh mình, trẻ sẽ dần dần phát triển một tính cách tự chủ và độc lập. Phụ huynh không nên quá cấm đoán hoặc chiều chuộng, càng tránh thái độ thúc đẩy quá mức cần thiết. Mức độ cân bằng rất quan trọng trong thời điểm này. Cha mẹ chăm sóc trẻ trong giai đoạn này cần kiên nhẫn nhưng nghiêm nghị. Có như thế trẻ em mới phát triển được lòng tự trọng và khả năng tự kiềm chế. Nếu như cha mẹ quá hà khắc với con cái, sẽ
- dẫn trẻ đến phát triển xấu hổ hoặc ngờ vực. Khi cha mẹ quá xét nét và cấm đoán những cơ hội khám phá của con, bé sẽ ngừng lại việc khám phá và không dám mạnh dạn trong việc tìm kiếm học hỏi mọi thứ xung quanh. Ngay cả những tiếng cười sảng khoái của bố mẹ sẽ có thể gây ra những hiểu lầm có ảnh hưởng tiêu cực – nếu như bé không hiểu tại sao bố mẹ lại cười? Điều này được nêu ra để cảnh giác, nhưng không nên quá lo lắng, vì thật ra những điều bất ngờ như thế đôi khi thường khó tránh. Tuy nhiên bé cần hiểu được những cung bậc cảm xúc nơi cha mẹ là có ý tốt. Ngoài ra nếu cho trẻ tự do phá phách và không có một nội qui nào, hoặc nếu như cha mẹ ngăn cấm một cách quá cứng nhắc, hay việc cha mẹ luôn tìm cách giúp đỡ con mình, các em sẽ không có cơ hội khám phá và học hỏi. Trẻ có thể ỷ lại hoặc nghĩ rằng mình không có khả năng tốt để xử lý những thao tác cần học. Vì thế bạn cần kiên nhẫn trong việc huấn luyện bé tập mặc quần, xỏ dép, cột dây giày, cất nón Người lớn cần tránh coi việc này là quá khó hay việc kia là quá dễ. Hãy tạo điều kiện để trẻ tự khám phá thế giới xung quanh từ kinh nghiệm cá nhân của riêng của
- em. Cần biết rằng có lúc trẻ sẽ vấp vào những kinh nghiệm xấu hổ và ngờ vực, và đây là điều không thể tránh khỏi, tuy nhiên đôi lúc đây sẽ là dịp có những lợi ích cho bé. Nếu không có những lần bé xấu hổ hoặc ngờ vực, bé sẽ dễ rơi vào não trạng hay đòi hỏi và tự mãn, hoặc là bé sẽ chẳng bao giờ biết tự trọng hay nhận ra mình đã làm sai một điều gì đó. Khi lớn lên, bé sẽ dễ rơi vào đánh giá và xét đoán người khác một cách vội vã. Tuy nhiên quá nhiều xấu hổ và ngờ vực sẽ dẫn đến tình trạng hành vi độc hại mà Erikson tin rằng đấy là quá trình bé không thể kìm hãm được một hành vi của mình. Khi trưởng thành, họ thường rơi vào não trạng mọi việc phải đạt được kết quả thật hoàn hảo. Họ đòi hỏi phải có một hệ thống nguyên tắc và luôn luôn áp dụng một cách rất cứng nhắc với hệ thống nguyên tắc ấy. Họ rất sợ lỗi lầm và tránh mọi cơ hội phạm lỗi, tuy nhiên vì quá cứng nhắc nên họ thường mắc phải những hạn chế không cần thiết. Làm cha mẹ, bạn nên tránh để con cái thường xuyên rơi vào tình trạng xấu hổ và ngờ vực. Hãy kiên nhẫn hơn với các em một chút để các em có cơ hội khám phá và học hỏi. Như thế, bạn
- không chỉ tránh việc mình sẽ quá hà khắt với bé, song bạn còn làm cho mình một điều tốt đó là bạn không quá khẩn trương một cách máy móc. Nếu như có sự quân bình giữa tự chủ và xấu hổ ngờ vực, một cá nhân sẽ phát triển khả năng có ý chí tiến thủ và khả năng có những quyết định độc lập cho bản thân mình. Nên nhớ rằng với trẻ lên ba thì chuyện được phép làm hoặc bị cấm làm một điều gì đó điều bạn cần quan tâm. Nếu bạn không muốn con phá phách, đừng bày những đồ đạc để bé sẽ phá phách. Trẻ luôn mang não trạng có thể làm được, vì thế trẻ luôn khám phá. Nếu bạn biết cách giữ gìn và trân quý, bé sẽ lớn lên và tiếp tục não trạng ấy không ngừng chủ động. – Giai đoạn ba: là giai đoạn liên quan đến độ phận sinh dục và vận động chân tay. Giai đoạn này kéo khoảng từ 3–4 đến 5–6 tuổi, khi các em cố gắng hoàn thiện kỹ năng chủ động và cần tránh cảm giác mặc cảm. Chủ động ở đây được hiểu là bé có những phản ứng trong sáng lành mạnh và hồn nhiên về những gì bé nhìn thấy trong đời sống và sinh hoạt của
- mình. Bé sẽ biết vâng lời, có tinh thần chia sẻ và háo hức học tập thêm những kỹ năng mới. Các bậc cha mẹ có thể khuyến khích bé trong việc khám phá những trò chơi chung của gia đình trong đó nhường cho bé quyền được làm người chủ động. Đây là giai đoạn chơi nhiều hơn học. Trẻ bây giờ có nhiều khả năng hơn trước đó. Ngoài ra chủ động còn là kênh cho phép trẻ thể nghiệm những điều từ trí tưởng tượng với điều kiện thực tế. Nếu trẻ em có thể tưởng tượng ra tương lai của mình, trẻ có thể có kế hoạch và sẽ có tránh nhiệm với tương lai của mình. Trong lúc này, một số em đã có cảm giác mặc cảm về những hành vi khi em biết sẽ làm cho cha mẹ không được vui. Nếu như Freud cho rằng trẻ có những mặc cảm (hội chứng lo lắng khủng hoảng Oedipus) trong giai đoạn lứa tuổi này thì Erikson tin rằng một số trẻ có thể sẽ co cụm và tránh né nên cha mẹ cần khuyến khích trẻ năng động. Tuy nhiên những động viên này không nên ép quá tay vì có thể bé sẽ có những mặc cảm không cần thiết nếu như bé không đáp ứng được yêu cầu của cha mẹ. Nếu bé có quá nhiều chủ động hoặc khi bé có quá ít cảm giác mặc cảm sẽ dẫn đến cá tính hỗn láo.
- Người có cá tính này thường luôn chủ động, họ có những kế hoạch và chương trình hành động trong mọi lĩnh vực như trong học hành, công việc, tình cảm, đến cơ hội thăng tiến nghề nghiệp. Tuy nhiên họ là người sẵn sàng chà đạp bỏ mặc những cá nhân khác và không hề quan tâm đến cảm giác của người khác. Họ chỉ nhắm đến mục đích thành công và không quan tâm đến quyền lợi của người xung quanh. Khi trở thành một thói quen thái hóa, họ sẽ là thành phần gây ra những tội ác trong xã hội. Người không có thái độ khẳng khái cũng như là có một thái độ tiêu cực. Tuy nhiên người không có khẳng khái và thiếu thái độ dứt khoát thường khiến người khác ít khó chịu hơn so với thái độ xấc xược hỗn hào. Người thiếu khẳng khái là những người thụ động. Họ có chủ trương: Nếu ta chẳng thử nghiệm thì ta sẽ chẳng mất mát gì. Và trong chuyện tình cảm, họ có thể là người rất khô khan nguội lạnh. Một trạng thái tâm lý cân bằng sẽ dẫn đến một não thức tâm lý có mục đích hội nhập xã hội tốt. Đây là một cảm giác lành mạnh mà mọi người trong chúng ta nhắm đến, tuy nhiên nhiều người trong chúng ta đã không nhận ra điều đó. Một bằng chứng là
- khi đối diện với những vấp váp và thất bại, chúng ta thường nghĩ về những điều khác (lý tưởng hơn) đáng lẽ có thể sẽ xảy ra. Nhưng nếu có não thức tâm lý ý thức về mục đích, chúng ta sẽ có những khao khát muốn được tái thiết, được làm lại từ đầu và chuyên tâm nhiều hơn nữa. – Giai đoạn bốn: đây là giai đoạn trẻ em đến trường tiểu học (6 đến 12 tuổi). Nhiệm vụ của giai đoạn phát triển này là để phát triển những kỹ năng thao tác Các em thường phấn đấu và cố gắng tránh chuyện mình sẽ rơi vào những điểm yếu và bị xem và nhược tiểu vô dụng. Trong giai đoạn này các em sẽ cố gắng để đạt được điểm tốt trong môi trường học hành và ngoan ngoãn ở nhà. Nên nhớ, các trẻ em dù học kém vẫn có khao khát là học sinh giỏi, có điều các em chưa tìm ra phương pháp học. Là phụ huynh và là giáo viên, chúng ta cần tìm hiểu, giúp đỡ các em. Trẻ thời nay được gặp gỡ nhiều người hơn trước. Ngoài cha mẹ và anh em trong gia đình, bây giờ còn có cả thầy cô và bạn bè nữa. Vào lúc này rất cần thiết đối với trẻ em là được: – Cha mẹ khích lệ.
- – Thầy cô quan tâm. – Bạn bè chấp nhận. Trẻ cần được hướng cách nhìn và cách nghĩ đến điều tốt và điều tốt hơn nữa. Các em cần được tạo điều kiện để cảm nhận được những giá trị tích cực và giá trị của thành công, trong lĩnh vực học tập, trên sân chơi, trong mối quan hệ xã hội và ở nhà. Ở lứa tuổi này các em thích các trò chơi có luật lệ. Các em thường tập trung vào trò chơi và chơi cho đến khi trò chơi kết thúc. Nếu một em bé không có được cơ hội kinh nghiệm thành công vì thầy cô quá nghiêm khác hoặc các bạn bè trêu ghẹo tẩy chay, em bé đó sẽ phát triển trở nên lo lắng, yếm thể, và tin rằng mình chẳng có những năng lực nào. Các em có thể có não trạng phát triển dẫn đến những đối xử phân biệt như: phân biệt giới tính, phân biệt chủng tộc, vì các em tin rằng thành công đến từ người đó là ai, chứ không phải thành công đến bằng cách cố gắng nào. Vì thế các em không còn nhận ra ý nghĩa của sự phấn đấu cố gắng nữa. Nếu các em có quá nhiều khả năng thao tác thành công có thể dẫn đến một xu hướng không lành
- mạnh gọi là não trạng đạo mạo hạn hẹp. Lúc đó trẻ em không còn là trẻ em nữa, khi mà các em được cha mẹ và thầy cô ép để trở thành những dạng thần đồng hay do trẻ có năng khiếu khác. Đó là những em bé không có tuổi thơ bình thường như những đứa trẻ bình thường khác. Đáng buồn là nhiều người trong chúng ta luôn muốn con có năng khiếu. Chúng ta có xu hướng thích thú những điều đó nơi một đứa trẻ, tuy nhiên nếu nhìn kỹ, ta thấy những tài năng ấy sẽ ăn cắp đi của các em một cuộc sống hồn nhiên trong sáng bình thường. Nếu một em bé chẳng có chút khả năng nào điều đó cũng tệ hại không kém và các em sẽ trở thành thụ động, biến thành những người rơi vào hội chứng yếm thế. Hội chứng này dễ tạo ra những ám ảnh tâm lý. Ví dụ sau khi thử một lần không đạt kết quả, ta thường nghĩ rằng có cố gắng đến mấy cũng sẽ chẳng ăn thua gì. Nhiều người không có khiếu nói chuyện mỗi khi phải đứng trước đám đông, họ sẽ chẳng bao giờ muốn mình nói chuyện trước một cử tọa. Và như thế, khuynh hướng tránh né sẽ càng ngày càng lớn hơn. Một điều cần chú ý là sự cân bằng giữa hai thái cực vừa có khả năng và một chút yếm thế là tốt nhất, vì
- cá nhân đó sẽ có vừa tự tin cần thiết và đôi lúc anh ta biết đến giới hạn khả năng của mình để có tinh thần cảnh giác và biết kiềm chế. – Giai đoạn năm: Đây là giai đoạn phát triển của tuổi dậy thì và kết thúc ở tuổi 18 đến 20. Nhiệm vụ phát triển trong lúc này là phát triển khả năng và xác định được nhận định cái tôi của mình đồng thời tránh né trạng thái nhầm lẫn về vai trò của mình. Theo Erikson thì đây là giai đoạn rất quan trọng vì có nhiệm vụ là nền tảng cơ bản cho những bước phát triển tình cảm sau này. Nhận định cái tôi được xác định có nghĩa là khả năng biết mình là ai và mình sẽ hội nhập vào môi trường đời sống xã hội như thế nào? Điều này yêu cầu một cá nhân cần phải có khả năng hiểu rõ về bản thân và có kiến thức về những gì đã học được. Sau đó họ sẽ sắp xếp và tạo ra một chân dung về con người thực sự của mình; đây là một hình ảnh mà họ tin rằng sẽ được xã hội chấp nhận. Để quá trình này xảy ra thuận lợi, một cá nhân cần có một môi trường sống thuận lợi và được tiếp cận với những người lớn qua những kênh đối thoại cởi mở và lành mạnh.
- Hơn nữa, xã hội cần tạo điều kiện để có những tấm gương công dân làm mẫu để các em phấn đấu. Như thế các em sẽ hiểu được ở độ tuổi nào thì các em sẽ cần phải làm gì? Nếu không có những tấm gương cụ thể về tinh thần quan tâm, nhất quán trong hành động và lời nói, các em sẽ dễ rơi vào những lầm lẫn bỡ ngỡ trong việc xác định một chân dung chuẩn xác cho mình. Chúng ta cần tạo điều kiện để các em có thể trả lời được một câu hỏi căn bản: Tôi là ai? Erikson đã đề nghị rằng trong xã hội cần có những xu hướng giải lao tâm lý. Đây là cách hãy giành ra một khoảng thời gian ngắn ngủi. Một mùa hè chẳng hạn, hãy tạo điều kiện để đi đến một nơi hoàn toàn xa lạ, thay đổi hẳn những điều thường nhật. Hãy thẩm định lại xem giá trị của thành công là gì. Erikson tỏ vẻ lo lắng khi nhiều bạn trẻ có mơ ước làm giàu và tìm mọi cách để trở nên thành công nhanh nhất nên đã quên rằng thành công thật sự có ý nghĩa không nhất định chỉ có thể đo đạc bằng vật chất. Nhận định cái tôi được xác định là điểm tựa để cá nhân có một vai trò thích hợp, giúp họ hội nhập
- vào môi trường xã hội nơi họ đang sống. Tuy nhiên nhiều người vì có cái nhìn sai lệch vô tình tạo cho mình một chân dung không được chấp nhận bởi môi trường sống, tạo thành một sự nổi loạn chướng mắt. Những người này tin rằng cách làm việc của họ là cách duy nhất đúng đắn. Nhất là với lứa tuổi dậy thì, ta thấy họ thường lý tưởng hóa và có cái nhìn rất một chiều, thiếu hẳn sự linh động uyển chuyển. Xa hơn nữa, nhiều người trở thành cực đoan khi họ cố gắng quảng bá lối sống của mình (mà họ tin là đúng). Tuy nhiên nếu không có một nhận định cái tôi được xác định cũng sẽ là một vấn đề nan giải mà Erikson đã gọi là xu hướng không lành mạnh vì con người đã chối bỏ cuộc sống. Họ có xu hướng tự gạt mình ra khỏi bức tranh cuộc sống và không tìm thấy ý nghĩa thành viên của bản thân trong những bối cảnh sinh hoạt cộng đồng xã hội hàng ngày. Nhiều người chán chường vì lạc lối. Và khi gặp phải những tổ chức xã hội cung cấp cho họ những cơ hội khẳng định mình, thế là họ nhập cuộc. Nếu đây là những tổ chức băng nhóm, bè đảng, có thể cung cấp những hình ảnh ấn tượng chóng vánh mà họ đang khao khát – nhất là với các em ở tuổi dậy thì, các em sẽ nhập cuộc một
- cách mau chóng. Vì các em nghĩ rằng thà là làm một cái gì đó xấu xa vẫn hơn là chẳng làm cái gì cả. Nếu một bạn trẻ thành công trong việc giàn xếp và cân bằng trong giai đoạn phát triển này, bạn trẻ ấy sẽ tìm thấy ý nghĩa trung thành với hình ảnh chân dung mình đã kiến tạo từ sự tổng hợp lành mạnh giữa bản thân và những yêu cầu trong cuộc sống. Từ đó các cá nhân này sẽ có khả năng sống hòa nhập, bằng lòng với những tiêu chuẩn trong cuộc sống; mặc dù có lúc họ vẫn có những điều chưa hoàn thiện, chưa nhất quán, và cả những lần thiếu sót. Họ là những người yêu mến cộng đồng của mình, muốn tạo ra những nét đáng yêu cho cộng đồng của mình. Nói chung đây là cảm giác mình hội nhập vào một cộng đồng và yêu mến cộng đồng ấy. – Giai đoạn sáu: khi một cá nhân phát triển đến giai đoạn này mà không gặp phải bất cứ trở ngại nào, họ đã bắt đầu chính thức bước vào thế giới người lớn. Giai đoạn này kéo dài từ tuổi 18 đến 30 tuổi. Ở độ tuổi này các bạn người lớn không có những phát triển chung như thời bé, nghĩa là mỗi người có một cách phát triển khác nhau. Đây là giai đoạn mà tiêu chuẩn và nhu cầu đi tìm bạn tình của một cá nhân xem ra rất
- khác biệt. Sự thân mật gần gũi: là khả năng có thể gần gũi người khác, như người bạn tình, người bạn thân, và những quan hệ người với người khác trong xã hội. Vì đã có một khái niệm định hình khá rõ về bản thân nên cá nhân không còn sợ mình đi lạc nữa. Tuy nhiên vẫn có một số người chưa phát triển ở giai đoạn này thường có vẻ sợ những ràng buộc trách nhiệm, đây là một trạng thái lo lắng không định hình mà một kết quả thường thấy là các cá nhân cứ chần chừ lưỡng lự, tránh né, lần khấn. Họ thường tìm cớ thoái thác, né tránh trách nhiệm và cơ hội nhập cuộc với đời sống tình cảm. Vì không còn phải thể hiện hay chứng minh mình là ai, người ở giai đoạn này có khuynh hướng đi tìm người bạn đời của mình dựa trên những tiêu chuẩn thỏa thuận nhất định nào đó. Đây là quá trình kết hợp hai cái tôi để tạo thành một quan hệ lớn hơn chính bản thân của hai người họ. Nhiều người trẻ trong xã hội văn minh hôm nay đã phải đối diện và gặp rất nhiều những khó khăn trước mặt vì xu hướng cuộc sống càng lúc càng khép
- kín nên nhiều bạn trẻ đã trải qua những kinh nghiệm khó khăn trong việc thiết lập những mối quan hệ. Vì nhu cầu công việc và vì nhiều lý do xã hội khác, chúng ta đã thấy nhiều người trẻ liên tục có những kế hoạch năm năm hoãn lại. Những làng thôn nông nghiệp, khu vực quê mùa yên bình ngày nào cha ông chúng ta vẫn gắn bó với người làng kẻ nước đã dần dần thu hẹp lại. Cuộc sống càng ngày càng công nghiệp hóa và lối sống công nghiệp đã khiến cho nhiều người mất đi cơ hội tạo dựng một cuộc sống lứa đôi. Một mô thức được thay thế là sống vội, sống tạm bợ và sống thiếu tập trung lâu dài. Chính mô thức này đã khiến con người càng lưỡng lự rụt rè hơn. Một trở ngại trong thời gian này, với một số cá nhân là tình trạng hay thay đổi bạn tình, hoặc quá dễ dàng trong việc thân mật, và thường không có một quan hệ bền chặt sâu lắng, họ sống buông thả và quan hệ bừa bãi. Và đây là một thái cực không lành mạnh, tổn thương đến uy tín bản thân và tình cảm của người khác. Một thái cực khác đối nghịch là thói quen xa
- lánh co cụm. Đây là xu hướng tránh né và đóng cửa cõi lòng của mình lại với tình yêu, tình bạn, và cả với cộng đồng, ở họ thường rơi vào nhiều cung bậc cảm xúc như sợ hãi, lo lắng, không an tâm, và có thể căm ghét những mối quan hệ giữa con người với nhau. Nếu một cá nhân dung hòa và xứ lý tốt giai đoạn này, cá nhân ấy sẽ tìm thấy trạng thái tâm lý lành mạnh và đây sẽ là nền tảng của cuộc sống tình yêu lứa đôi sau này. Theo Erikson, tình yêu được định nghĩa như là khả năng dẹp bỏ qua một bên những khác biệt và những khó khăn để tìm đến với một người khác qua sự tận hiến cho nhau. Theo ông đây là trạng thái tình cảm tìm thấy trong tình yêu, tình bạn, tình đồng chí, đồng nghiệp và những quan hệ con người khác. – Giai đoạn bảy: là giai đoạn nằm giữa của đời sống người trưởng thành. Thật khó để xác định một độ tuổi nhất định cho giai đoạn này, nhưng theo Erikson thường đây là độ tuổi một cá nhân có quyết định sinh con và nuôi con. Tùy theo từng điều kiện xã hội mà độ tuổi có thể thay đổi từ năm 20 tuổi và kéo đến độ tuổi 50 tuổi. Đây là thời điểm một cá nhân sẽ cố gắng đầu tư vào cân bằng, nhằm tạo ra tích lũy hoặc nếu không họ sẽ rơi vào tình trạng tù đọng.
- Tạo ra tích lũy: là trạng thái muốn được sống có ý nghĩa và duy trì được đời sống tình cảm xã hội của mình đến với tương lai, với trọng tâm là những gì một cá nhân khao khát sẽ để lại cho thế hệ sau. Đây là cảm xúc đóng góp cho thế hệ sau. Đời sống tình cảm bây giờ đã trưởng thành và sâu lắng hơn những gần gũi nhục thể như trước đó; vốn đòi hỏi phải có sự đáp trả hỗ tương từ hai phía. Với khả năng tạo ra tích lũy, một cá nhân sẽ ứng xử rộng rãi hơn và thường không đòi phải có những đáp trả cân xứng cho những gì họ đã bỏ ra. Ít ra thì là nhu cầu này thường không bức xúc lắm. Tuy nhiên vẫn có một số cha mẹ có vẻ muốn nhờ cậy vào con cái. Một số người thậm chí còn muốn tính sổ với con cái về những gì họ đầu tư trước đó. Tuy nhiên các cá nhân không chỉ đầu tư vào thế hệ sau (có liên hệ máu thịt với cá nhân đó), mà họ có nhiều kênh giao lưu khác để tạo ra tích lũy. Nhiều người bắt đầu chuyển tải năng lượng của mình cho thế hệ sau trong xã hội như họ sẽ viết sách, dạy học, sáng tạo, nghiên cứu, hoạt động từ thiện nói chung là họ thường muốn đóng một vai trò bận rộn và muốn được giúp đỡ người khác.