Biểu tượng Anh Hùng dân tộc Việt Nam quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn

pdf 49 trang phuongnguyen 2630
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Biểu tượng Anh Hùng dân tộc Việt Nam quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbieu_tuong_anh_hung_dan_toc_viet_nam_quoc_cong_tiet_che_hung.pdf

Nội dung text: Biểu tượng Anh Hùng dân tộc Việt Nam quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn

  1. Biểu tượng Anh Hùng dân tộc Việt Nam quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn
  2. Hình tượng anh hùng giải phóng dân tộc luôn là đề tài không thể thiếu trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt, có những anh hùng được nhân dân tôn thờ trở thành huyền thoại, trở nên BẤT TỬ, những có những vị anh hùng bằng xương bằng thịt đã được cả nhân loại tôn thờ. Một trong những hình tượng tiêu biểu của dân tộc Việt - HƯNG ĐAỌ ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN và là một vị Thánh trong lòng người Việt.
  3. Tóm tắt sơ lược về vị anh hùng đã ba lần đại phá quân Nguyên Mông: 1. Thân thế và sự nghiệp của Hưng Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, ông sinh năm1232/(?) - 1300, là một nhà lãnh đạo nhà quân sự, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Trần Quốc Tuấn là con trai An Sinh Vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú, sinh ra tại Kiếp Bạc, Hải Dương, quê ở Tức Mặc, Mỹ Lộc , Nam Định. Năm 1237, thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho em ruột là vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) dù bà đã có thai
  4. với Trần Liễu được ba tháng, đồng thời giáng Lý Chiêu Hoàng đang là hoàng hậu xuống làm Công chúa. Do có mối hiềm khích, cha của Trần Hưng Đạo đã tìm khắp nơi những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn với mong muốn mai sau con trai sẽ rửa nhục cho mình. Lúc sắp mất, Trần Liễu trăng trối rằng “Con không vì cha lấy được thiên hạ thì cha chết ở dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi trong lòng, nhưng không cho là phải. Đến khi vận nước nguy nan, có quân quyền trong tay, nhưng Trần Quốc Tuấn vẫn một lòng giữ đạo tôi trung.
  5. Cả 3 lần quân Nguyên Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần tin tưởng giao binh quyền để chống giặc. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Quận công tiết chế lãnh đạo toàn bộ quân đội. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng , đuổi quân Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi. Khi đã về già, ông trao lại binh quyền, lui về thái ấp Vạn Kiếp trấn thủ nơi trọng yếu, vua Trần và các trọng thần trong triều đình vẫn thường xuyên về tận nơi ông ở để thỉnh ý về việc trọng đại của đất nước. Truyền thuyết, Huyền sử Hưng Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn Trần Hưng Đạo có rất nhiều truyền thuyết xung quanh những
  6. chiến công và cuộc đời ông. Tiêu biểu phải kể đến truyền thuyết diệt trừ Phạm Nhan: Khi tướng nhà Nguyên là Thoát Hoan kéo quân sang đánh nước Việt lần thứ 2, có mang theo một tỳ tướng tên là Bá Linh, tức Phạm Nhan, có tài yêu thuật. Trần Hưng Đạo lập trận cửa cung phá được, bắt sống Phạm Nhan. Kỳ lạ thay, binh sĩ Việt dùng gươm chém thế nào Phạm Nhan cũng không chết. Trần Hưng Đạo phải dùng Thần Kiếm mới giết được hắn. Tục truyền rằng, khi tên yêu thuật Phạm Nhan chết đi, thường hiện thành ma quỷ về phá rối đàn bà con gái. Dân chúng gọi là "tà Phạm Nhan", phải nhờ đến uy linh của Hưng Đạo Vương mới trừ khử được. Một câu chuyện tiêu biểu được sử sách ghi chép, đó là việc Trần Hưng Đạo bị tên đâm vào đầu, nhưng ông vẫn điềm nhiên ngồi tiếp chuyện với tướng giặc mặt không hề biến sắc: Đầu năm Tân Tỵ (1281), vua Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt lại sai Sài Xuân đem ngàn quân hộ tống nhóm Trần Di Ái về
  7. nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Sài Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa. Quân sĩ ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu " Vua Trần Nhân Tông sai Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Trần Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, nhưng có biết đâu việc gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Xuân cầm mũi tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Trần Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông " 2. Trần Hưng Đạo và 3 lần chiến thắng quân Nguyên Mông
  8. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất Trần Hưng Đạo được phong làm võ quan triều Trần trong cuộc chiến trống quân Nguyên Mông lần thứ nhất, lần này tổng chỉ huy đích thân vua Trần lãnh đạo. Trần Hưng Đạo thống lãnh đội quân biên giới phía Bắc, ông thành công trong việc đánh đuổi quân giặc ra khỏi bờ cõi. Chiến thắng lần này của Trần Hưng Đạo là điếm nhấn để tạo dựng tín nhiệm đối với triều đình nhà Trần đối với ông. Cuộc kháng chiến lần thứ hai Cuộc chiến tranh chống lại quân Nguyên lần thứ hai, Trần Hưng Đạo đã được vua Trần phong cho làm Quốc công tiết
  9. chế thống lĩnh toàn quân. Sau khi thất bại đầu năm 1258, Đế quốc Mông Cổ lâm vào nội chiến (1259 -1264) và chiến tranh với nhà Tống (1267-1279) phương Bắc. Mặc dù rất muốn rửa hận quân Nam nhưng chưa thể thực hiện ngay được. Cho đến nǎm 1279 nhà Tống đại bại, toàn bộ Trung Hoa rơi vào ách thống trị của nhà Nguyên Mông. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt chuẩn bị đem quân sang rửa hận nước ta. Câu nói bất hủ của Trần Hưng Đạo trong hoàn cảnh triều đình nhà Trần còn đang hoang mang trước thế giặc hùng mạnh đã vực dậy tinh thần quyết tâm đánh giặc của quân dân nước ta, và trở nên nổi tiếng: “Nếu muốn hàng, xin bệ hạ chém đầu thần trước”.
  10. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, Trần Hưng Đạo là người khai sinh ba quyết định có ý nghĩa chiến lược rất đúng đắn. Một là, đối với đạo quân 50 vạn tên do Thoát Hoan chỉ huy, tấn công từ mặt Bắc xuống, ta tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, tránh ngọn đòn mạnh nhất của kẻ thù đang lúc hung hăng. Hai là, đối với đạo quân gần một chục vạn tên do Toa Đô chỉ huy, từ Chiêm Thành tiến lên, ta quyết tâm đánh trả, không để cho chúng có cơ hội nhanh chóng nhập cục với đại binh của Thoát Hoan.
  11. Ba là, kiên trì tổ chức hàng loạt những cuộc nghi binh nhằm đánh lạc hướng của kẻ thù và nhằm bảo toàn lực lượng quân đội, vững chí chờ thời cơ thuận tiện nhất để mở một loạt chiến dịch lớn quét sạch quân xâm lăng khỏi bờ cõi. Nhà chiến lược, vị tổng chỉ huy thiên tài của cuộc kháng chiến lần thứ ba Theo Nguyên sử thì trước khi Thoát Hoan xuất quân, chính Hốt Tất Liệt đã ra lệnh rằng: “Không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường”. Một lần nữa, vận nước lại lâm nguy, và cũng một lần nữa, Trần Hưng Đạo được vua Trần tin cậy trao phó trọng trách vạch kế hoạch chiến lược, đồng thời phong ông là tổng chỉ huy toàn bộ lực lượng quân đội đối phó chống quân xâm lược.
  12. Lần thứ ba, quân Nguyên Mông xâm lăng Đại Việt từ tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288. Lần này Trần Hưng Đạo chỉ huy các tướng lĩnh đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên đánh chiếm Thǎng Long. Thoát Hoan hoảng hốt, rút khỏi Thǎng Long, chạy về Vạn Kiếp. Đến đây, bọn giặc lọt vào trận địa mai phục của Trần Hưng Đạo, chúng bị thương vong rất nhiều. Đám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu thoát chạy. Nhưng đến biên giới Lạng Sơn, chúng lại bị quân ta chặn đánh. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng rồi bắt quân lính khiêng chạy về nước. Đầu tháng 4 năm 1288, quân Nguyên bắt đầu buộc phải rút
  13. khỏi nước ta. Chủ tướng của giặc là Thoát Hoan quyết định kế hoạch rút quân: - Kị binh và bộ binh do đích thân Thoát Hoan chỉ huy, từ Vạn Kiếp tiến lên Lạng Sơn, rồi từ đó kéo về Trung Quốc. - Thủy binh do Ô Mã Nhi chỉ huy, được tăng cường thêm quân số và thêm một đạo kị binh đi dọc theo sông để hộ tống, từ Vạn Kiếp tiến ra sông Bạch Đằng rồi vượt vịnh Hạ Long mà về Trung Quốc. Trần Hưng Đạo đã lập mưu lừa giặc vào trận địa phục kích trên sông Bạch Đằng. Ô Mã Nhi cùng tướng lĩnh bại trận và bị bắt sống. Đây là chiến công lừng lẫy nhất của quân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng ở thế kỉ thứ XIII và đây cũng là một trong những trận quyết chiến chiến lược lừng lẫy nhất của lịch sử dân tộc. Trận Bạch Đằng là trận góp phần quan trọng nhất vào việc đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược của quân Nguyên đối với nước ta. Thoát Hoan cũng bị phục kích trên đường rút chạy và bị đánh cho tan tác.
  14. Để có thể lãnh đạo toàn quân toàn dân thực hiện những cuộc chiến chống ngoại xâm hùng mạnh như thế Trần Hưng Đạo ngoài việc là một nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất còn là một người biết thu phục lòng người, có tình có nghĩa, dũng cảm khảng khái đặc biệt sự tận trung vì nghĩa nước mà tạm gác thù riêng, vì chữ trung mà không màng danh lợi. 3. Trần Hưng Đạo trong huyền sử và đức tin của dân tộc Việt Ba mươi năm, ba trận đại cuồng phong bởi vó ngựa hung tàn với tổng cộng trên một triệu quân Nguyên Mông. Đó là thử
  15. thách cam go nhất của lịch sử dựng nước và giữu nước của dân tộc Đại Việt. Đưa Đại Việt thoát khỏi cuộc xâm lăng, mãi mãi thuộc về các thế hệ quân dân kiên cường của thế kỉ XIII, thuộc về các nhà lãnh đạo kiệt xuất thời Trần mà nổi bật hơn cả vẫn là Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn. Với tất cả tâm thành và tài năng kiệt xuất, Trần Hưng Đạo đã có những đóng góp hết sức quan trọng vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Ông đã để lại cho lịch sử những kinh nghiệm vô giá về nghệ thuật xây dựng khối đoàn kết dân tộc, vì nghĩa cả thiêng liêng là đánh giặc giữ nước, mà trên đại thể, chúng ta ghi nhận qua sáu bước tuần tự từ thấp lên cao như sau:
  16. Bước thứ nhất: Khôn khéo hàn gắn những vết rạn nứt trong đội ngũ quý tộc và tướng lĩnh cao cấp. Cuộc xung đột giữa Trần Liễu với vua Trần, mối hiềm nghi của vua Trần đối với Trần Hưng Đạo, cùng sự bất hòa giữa Trần Quang Khải và Trần Khánh Dư với Trần Hưng Đạo v.v vừa là biểu hiện lo ngại của sự rạn vỡ tình anh em ruột thịt và nghĩa thân tộc họ hàng, đồng thời, lại cũng vừa là biểu hiện của sự chia rẽ rất nguy hiểm giữa những người chịu trách nhiệm điều khiển vận mệnh quốc gia. Ông luôn luôn bày tỏ lòng trung thành tuyệt đối của mình đối với nhà vua, xóa dần để rồi cuối cùng đã xóa sạch lòng ngờ vực của nhà vua và của bá quan văn võ trong triều. Bước thứ hai: Tạo lập và ra sức bảo vệ cốt lõi bền vững của khối đoàn kết trong nội bộ quý tộc và tướng lĩnh cao cấp. Trần Hưng Đạo đã tác động một cách rất tích cực và có hiệu quả đến quyết định vô cùng quan trọng của triều Trần: triệu tập hội nghị Bình Than (năm 1282). Đây là cuộc hội nghị của
  17. những người giữ trọng trách lãnh đạo sự nghiệp giữ nước phát động và lãnh đạo một cuộc chiến tranh vệ quốc mang tính nhân dân sâu sắc Bước thứ ba: Trên cơ sở khối đoàn kết của quý tộc và tướng lĩnh cao cấp, nhanh chóng mở rộng và củng cố khối đoàn kết của toàn dân, biến quyết tâm của triều đình thành quyết tâm chung của cả nước. Sau hội nghị Bình Than, khối đoàn kết của quý tộc và tướng lĩnh cao cấp đã được thiết lập một cách vững vàng. Với tất cả uy tín chính trị to lớn của mình, Trần Hưng Đạo đã khôn khéo tác động, góp phần quan trọng vào việc tạo ra một quyết định hết sức độc đáo của triều Trần là triệu tập hội nghị Diên Hồng. Đây là hội nghị các bậc phụ lão, đại diện cho nhân dân các làng xã cả nước. Khác với hội nghị Bình Than, do đặc trưng riêng của thành phần tham dự, hội nghị Diên Hồng không bàn đến những vấn đề có ý nghĩa chiến lược và chiến thuật mà chỉ bàn xem nên đánh hay nên hòa với giặc. Sử cũ chép rằng “Các cụ phụ lão đều hô quyết
  18. đánh, vạn người như một, tiếng vang như cùng bật ra từ một cửa miệng vậy” Bước thứ tư: Khôn khéo tìm mọi biện pháp để kích động mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc của tướng sĩ và của toàn dân, tạo ra khí thế quật cường bừng bừng khắp cả nước. Với Hịch tướng sĩ văn, Trần Hưng Đạo đã có công khơi dậy ngọn lửa quật cường trong lớp lớp binh sĩ và trong đông đảo nhân dân. Bấy giờ, cảm kích trước lời hịch đanh thép của Trần Hưng Đạo binh sĩ đã tự khắc vào cánh tay mình hai chữ sát Thát (nghĩa là giết giặc Thát Đát tức giặc Nguyên Mông). Hịch tướng sĩ văn không chỉ là một
  19. văn kiện quân sự mà còn là một trong những áng thiên cổ hùng văn, có giá trị bất diệt trong lịch sử văn học của nước nhà. Bước thứ năm: Biến nhiệm vụ đánh giặc cứu nước thành một nội dung của pháp luật, ai có công lao sẽ được khen thưởng, ai có tội sẽ bị trừng phạt. Với tư cách là lực lượng chịu trách nhiệm điều khiển vận mệnh quốc gia, triều Trần đã tiến hành một loạt những biện pháp, tổ chức và động viên rất tích cực. Tuy nhiên, tất cả các biện pháp đó chỉ có ý nghĩa đối với những ai giàu thiện chí và nghĩa khí mà thôi. Với những kẻ bạc nhược, triều Trần sẵn sàng nghiêm trị. Một sắc lệnh rất kiên quyết đã kịp thời được ban hành: “Tất cả các quận
  20. huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng”. Sắc lệnh này đã phát huy được tác dụng rất to lớn. Sau này, chỉ có hai làng là Bàng Hà và Ba Điểm (cả hai đều thuộc đất tỉnh Hải Hưng ngày nay) vi phạm sắc lệnh này. Một số quý tộc và quan lại cũng bị trừng trị bởi tội danh này. Bước thứ sáu: Đương thời Trần Hưng Đạo đã sử dụng trí, nhân, nghĩa và tình, trải qua ba cuộc chiến chống Nguyên Mông ông đã tạo dựng cho đất nước những kỳ tướng lập đầy chiến công hiển hách và khi đất nước ổn định ông đều tiến cử các tướng lãnh và đề bạt họ cho triều đình và giúp họ có
  21. những đóng góp to lớn cho đất nước, tiêu biểu như Yết Kiêu, Dã Tượng đặc biệt với Phạm Ngũ Lão, ông còn gả con gái (con nuôi), chứng tỏ cho mọi người hiểu hết về tài sử dụng cũng như đãi ngộ nhân tài cho đất nước của ông. Sáu bước tuần tự, từ phạm vi triều đình đến quy mô cả nước, sắc thái tuy có khác nhau, song, tất cả đều thể hiện một cách sinh động và sâu sắc năng lực xây dựng khối đoàn kết, thể hiện tâm thành ngời sáng của tuyệt đại đa số quý tộc họ Trần mà nổi bật hơn cả là Trần Hưng Đạo. Khi đại thắng quân Nguyên ở trận Bạch Đằng lịch sử, Trần Hưng Đạo đã là một lão tướng, tuổi cũng đã xấp xỉ đến lục tuần. Sử cũ chép rằng, ngày 24 tháng 6 năm Canh Tí (1300), trời bỗng có sao sa. Cũng vào tháng ấy, Trần Hưng Đạo lâm bệnh. Vua Trần lúc bấy giờ là Trần Anh Tông (1293 – 1314) thân chinh đến tận nơi Trần Hưng Đạo để thăm hỏi, đó là biểu hiện của lòng thành giữa vua tôi thể hiện sự đoàn kết và
  22. tình nghĩa. Đáp lại, Trần Hưng Đạo cũng đã nói những lời chân thành nhất với nhà vua. Đây thực sự là cuộc gặp gỡ tương đắc giữa vua sáng với tôi hiền. Nỗi bận tâm suốt đời của Trần Hưng Đạo là làm sao để không ngừng mở rộng và củng cố sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, làm sao để có thể chọn và trọng dụng người hiền tài và làm sao để có thể nuôi dưỡng được sức dân. Khoan sức dân để làm kế rễ sâu gốc vững, đó mới là thượng sách giữ nước! Lời chí tình ấy của Trần Hưng Đạo cũng chính là lời chí tình của tất cả các bậc ưu thời mẫn thế và nặng lòng ái quốc trong khắp mọi thời.
  23. 4. Trần Hưng Đạo biểu tượng dân tộc được tôn thờ Vương triều Trần mà tiêu biểu nhất là anh hùng dân tộc vĩ đại Trần Hưng Ðạo đã đi vào lịch sử, đi vào thế giới huyền thoại, đi vào thế giới tâm linh, trở thành vị Thánh được toàn thể nhân dân Việt thờ phụng. Từ Trần Hưng Ðạo đến Ðức Thánh Trần rồi Ðức Thánh Cha, từ một nhân vật lịch sử "bằng xương bằng thịt" đã trở thành vị Thánh thiêng liêng được thờ phụng rộng rãi và phổ biến nhất trong các vị thần ở Việt Nam. Trần Hưng Đạo là anh hùng kiệt xuất của dân tộc, không chỉ về tài năng quân sự mà còn có đạo đức tiêu biểu của một vị chủ tướng. Ông luôn nêu tấm gương sáng ngời về lòng trung nghĩa, ý thức gạt bỏ mọi hiềm khích riêng tư để đoàn kết tông thất, triều đình và tướng lĩnh, tạo nên một cội nguồn của mọi thắng lợi.
  24. Người dân Việt tôn thờ ông coi ông là Đức Thánh Trần, là Cha. Dân gian có câu: “Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ” chính là để nói đến ngày mất của ông. Trong lịch sử Việt Nam cũng như trên thế giới hiếm thấy người anh hùng dân tộc nào được cả dân chúng và các nhà sử học coi trọng và đề cao đến vậy. Cho đến thời nay tấm gương và những bài học về đối nhân xử thế, những chiến lược giữ nước bình thiên hạ mà Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn áp dụng vẫn còn nguyên giá trị. Việt Nam trong thời điểm hiện tại là một đất nước hòa bình, độc lập nhưng vẫn có nhiều thế lực nước ngoài và phản
  25. động ngày đêm tìm cơ hội gây ảnh hưởng chống phá chế độ nhà nước ta vì vậy những bài học về khối đoàn kết toàn dân, giữa các tầng lớp lãnh đạo hay tinh thần yêu nước của lịch sử cần được phổ biến rộng rãi hơn nữa. Những chiến công của Trần Hưng Đạo được lịch sử thế giới ghi nhận một vị tướng lãnh đạo quân dân một đất nước nhỏ bé chiến thắng đạo quân của một Cường quốc mà vó ngựa trải dài suốt từ châu Á đến châu Âu. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được suy tôn và lập đền thờ và tượng thờ ở nhiều nơi, trong và ngoài nước, nơi nào có con dân đất Việt đều có đền thờ Ngài: Đền Bảo Lộc - Nam Định, Đền Tân Phẩm - Thừa Thiên Huế, Đền Trần Thương - Hà Nam, Đền Đức Thánh Trần - Quận 1 - Tp Hồ Chí Minh, Đền A Sào - Quỳnh Phụ - Thái Bình, Đền Sơn Hả i- Chương Dương - Hoàn Kiếm - Hà Nội, Đền Trần - Nam Định nhưng cũng rất cần một hình thức quảng bá cho hình ảnh của Ngài được phổ biến rộng rãi hơn nữa trong cộng đồng người Việt nói chung và
  26. cho thế giới. Hình tượng Trần Hưng Đạo với kích thước phù hợp để làm vật kỷ niệm, vật trưng bày, đưa hình ảnh của Trần Hưng Đạo nói riêng và văn hóa lịch sử của Việt Nam nói chung đến với mọi công dân, mọi tầng lớp trong xã hội. 5. Hiện trạng những tượng đài Trần Hưng Đạo ở Việt Nam Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được nhân dân tôn sùng và dựng tượng ở nhiều nơi. Nhiều thành phố lớn ở Việt Nam và ở nước ngoài đều dựng đền thờ, dựng tượng của ông. Tiêu biểu phải kể đến như. - Tượng Trần Hưng Đạo ở thành phố Hồ Chí Minh
  27. - Tượng Trần Hưng Đạo ở thành phố Nam Định - Tượng Trần Hưng Đạo ở Quy Nhơn, Bình Định - Tượng Trần Hưng Đạo ở núi Nhồi Thanh Hoá - Tượng Trần Hưng Đạo ở Trường Sa - Tượng Trần Hưng Đạo ở thành phố Nha Trang, Khánh Hòa Những bức tượng của Trần Hưng Đạo đa phần là tượng đài lớn dựng ở các quảng trường, ven sông, biển. những nơi có địa hình và không gian rộng, được xây dựng với tư thế hiên ngang hùng dũng, can trường của một vị tướng tài giỏi, một vị Thánh của dân tộc Việt. Gần đây nhất, bức tượng mang tên Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được dựng ở đảo Song Tử Tây thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Bức tượng dựng trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước sự đe dọa tranh chấp của Trung Quốc. Bức tượng như một minh
  28. chứng cho chủ quyền của dân tộc ta với quần đảo này. Trần Hưng Đạo là Danh tướng tài năng của Việt Nam và thế giới, lịch sử cụ thể và chính xác, đặc biệt đội quân BÁCH CHIÊN BÁCH THẮNG của đế chế Mông Cổ chỉ thảm bại tại Châu Á - chính là Ba lần thảm bại mà dưới tài thao lược của Thánh tướng Trần Hưng Đạo. Những chiến công của Trần Hưng Đạo, cốt cách tinh thần, tấm lòng yêu nước thương dân, hy sinh những mưu lợi cá nhân vì sự nghiệp lớn, vì độc lập tự do của đất nước rất đáng được ghi nhớ và tôn sùng. Tấm gương của vị anh hùng dân tộc vẫn còn uy danh đến ngày nay xứng đáng được trở thành một biểu tượng lịch sử văn hóa của Việt Nam, cũng như một biểu tượng của toàn nhân loại.
  29. Lịch sử đời này qua đời khác, đều vinh danh và tự hào về Ngài, hình tượng Ngài được các danh sĩ thời Trần như Bùi Tông Quán, Phạm Sư Mạnh, Lý Tế Xuyên, Trương Hán Siêu, v.v đều có những sáng tác viết về Trần Hưng Đạo. Các danh sĩ đời sau như Đặng Minh Khiêm (thời Lê), Cao Bá Quát (thời Nguyễn),v.v cũng thường dành cho Ngài những lời đặc biệt kính trọng. Dưới đây giới thiệu hai bài tiêu biểu nhất: Đặng Minh Khiêm (? -1585) viết: Sinh phùng gia hấn thệ thâu trung, Mậu kiến Trùng Hưng đệ nhất công. Một hậu uy do tồi Bắc lỗ, Ỷ thiên trường kiến da minh phong. Dịch nghĩa:
  30. Sinh vào lúc gia đình có sự hiềm khích nhưng vẫn thề giữ đức trung thành, Giúp nên cơ nghiệp Trùng Hưng công lao hàng bậc nhất. Dẫu đã mất mà uy phong còn bẻ gãy giặc Bắc. Thanh kiếm dài tựa ngoài trời thuở xưa, đêm đêm thường rít lên như gió. Cao Bá Quát (1809-1855) viết: Phổ xuất tiên nguyên cái thế hào, Phấn thân tuẫn quốc bất từ lao. Xanh phù nhật cốc khâm hoài nhuệ, Tấn tảo biên trần thủ đoạn cao. Công mãn Nam thiên thùy trúc bạch, Uy dư Đông Hải thiếp ba đào. Phần Dương khánh diễn hồn dư sự, Trường sử Hồ nhi thức tuấn mao. Dịch nghĩa: Là đấng anh hào bậc nhất trong đời, vốn dòng dõi nhà tiên,
  31. Dấn mình vì nước chẳng nề khó nhọc. Nâng đỡ xe mặt trời lòng những hăng hái, Quét sạch bụi ngoài cõi, mưu lược thật cao siêu. Công cao đầy cả trời Nam, lưu truyền sử sách, Uy linh khắp biển Đông, sóng cả yên lặng. Ân trạch ở Phần Dương có sánh cũng bằng thừa. Mãi khiến giặc Hồ phải biết tay tài giỏi . Căn cứ vào những tượng đài về Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn trải khắp ba miền đất nước từ đất liền, đến hải đảo, từ trung tâm văn hóa tín ngưỡng - đền thờ Ngài có mặt hầu khắp các tỉnh thành trong lãnh thổ Việt Nam, tại các quảng trường trung tâm văn hóa, chính trị của thành phố các tỉnh, đến tận những mái trường học, tại các phòng truyền thống của các doanh nghiệp hình tượng của Trần Hưng Đạo luôn được dành một vị trí trang nghiêm, trang trọng nhất để
  32. tỏ lòng biết ơn và ghi nhận những đóng góp vô cùng to lớn của Ngài, dưới sự ủng hộ của toàn Đảng, toàn dân hình tượng Đức Thánh Trần được ghi nhận bằng những tượng đài hoành tráng và trang trọng có mặt ở hầu hết các tỉnh thành để cho công chúng Việt Nam hôm nay, và bạn bè nước ngoài hiểu rõ hơn về những công lao của Ngài. Hình ảnh của Đức Thánh Trần được nhiều nhà điêu khắc, họa sỹ nghiên cứu và phát triển dưới nhiều góc nhìn khác nhau, đa dạng trong kỹ thuật thể hiện, điều đó càng thể hiện về một vị anh hùng được mọi đối tượng tầng lớp nhân dân tôn thờ. Hướng về cội nguồn lịch sử, và tự hào đi lên từ những nền tảng của cha ông là xu hướng, cũng như là mong muốn của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam hiện nay, vì thế việc mong muốn có một hình ảnh đặc trưng làm vật phẩm cho mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là vật phẩm về tiên tổ, về anh
  33. hùng dân tộc là một mong muốn hết sức linh thiêng của công chúng Việt trong thời đại ngày hôm nay. ục thờ cúng, trưng bày, sưu tầm hình tượng Quan Vân Trường (nhân vật trong Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung - Trung Quốc) Văn hóa Trung Hoa có ảnh hưởng lớn đến toàn nhân loại, đặc biệt ở Châu Á trong đó có Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam trải qua nhiều cuộc xâm chiếm của phương Bắc, sự giao thoa văn hóa phần nào có ảnh hưởng lớn đến đời sống, phong tục tập quán của người Việt, ngày nay có nhiều, rất nhiều người cho rằng văn hóa Việt gần như không có, không còn và những hoạt động, tập tục đã phần nào ảnh hưởng và chụi sự chi phối của người Trung Hoa vì thế việc thờ cúng, sưu tầm hình ảnh những điển tích về hình tượng những vị dũng tướng, anh hùng của Trung Hoa đã trở thành
  34. một nét văn hóa định hình từ lâu trong cộng đồng Việt. Chúng ta dành một chút thời gian để xem qua về lịch sử để hiểu thêm một trong những lý do tại sao hình tượng Quan Vũ được tôn sùng như vậy: 1. Vài nét về Tam quốc diễn nghĩa và nhân vật Quan Vũ Tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa (TQDN) được La Quán Trung xây dựng khoảng thế kỷ 14 về thời kỳ chiến tranh giữa 3 nước Thục – Ngụy – Ngô (228 - 280) ở Trung Quốc với ba
  35. phần thực, bảy phần hư cấu. La Quán Trung đem những câu chuyện được lan truyền trong dân gian, qua lời các nghệ nhân kể chuyện rồi từ đó sáng tác, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn và nổi tiếng ở Trung Quốc cũng như trên thế giới, được đánh giá là một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc. Năm 1958, Nhân dân văn học xuất bản xã Bắc Kinh đã chỉnh lý và sửa chữa tác phẩm này và sau đó các bản in hoặc tái bản đều dựa vào đây làm bản chuẩn. TQDN phản ánh cái nhìn của tác giả về thời nội chiến này, nêu rõ sự ủng hộ của LQT đứng về phía Thục Hán, lên án Tào Ngụy, còn Tôn Ngô chỉ là lực lượng trung gian. Tác phẩm phản ánh nguyện vọng của nhân dân về “một ông vua tốt” theo ước vọng phải xuất thân từ hàn vi, yêu thương dân chúng, hiền lành đức độ Đặc biệt trong bối cảnh tác phẩm ra đời khi nhà Nguyên bị Mông Cổ thống trị, tư tưởng thể
  36. hiện khát vọng của đại đa số người dân ủng hộ vị vua có dòng máu hoàng thất người Hán, đánh đuổi ngoại tộc, trấn hưng lại triều Hán. TQDN là tiểu thuyết sử thi, ca ngợi chữ tín, chữ dũng, châm biếm phê phán kẻ nịnh thần, đả kích kẻ phản vong phóng đại các thành tích chiến công để ca ngợi các vị tướng với tài năng và trí dũng. Ngôn ngữ trong TQDN kết hợp giữa Văn ngôn và Bạch thoại, sử dụng ngôn từ thông dụng của nhân dân vì cấu trúc của tác phẩm là từ các giai thoại, câu chuyện dân gian, truyền khẩu ngôn ngữ Kể lấn át ngôn ngữ Miêu tả, vì thế trong chuyện rất ít sử dụng định ngữ và tính từ. Qua đó lối tả trong chuyện được gọi là Bạch miêu. Lối miêu tả khéo léo, đối thoại sinh động, sử dụng rộng rãi khẩu ngữ qua đó tạo cho tác phẩm một vẻ đẹp hấp dẫn, vừa bác học lại vừa dân dã.
  37. TQDN vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 khi chữ quốc ngữ hình thành và phát triển. Năm 1902, đánh dấu cột mốc đầu tiên tác phẩm TQDN đến với độc giả Việt Nam qua bản dịch của Lương Khắc Ninh. Tác phẩm được in trên Nông Cổ Mín Đàm, một trong những tờ báo sớm nhất của báo chí quốc ngữ Việt Nam do Canavagio sáng lập từ tháng 8.1901. Vì vậy quá trình xuất bản và giới thiệu TQDN ở Việt Nam dường như
  38. cũng song hành với sự phát triển chữ quốc ngữ ở VN. Ngay từ đầu TQDN đã hấp dẫn người đọc Việt Nam vì nội dung và cách kể chuyện cuốn hút của La Quán Trung. Kể từ lần dịch đầu tiên đến nay hơn một thế kỷ, TQDN đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam rất đa dạng, với nhiều bản dịch, nhiều khổ in, nhiều bản hiệu đính kỹ lưỡng Đây là một tác phẩm có được đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam yêu thích. Tác phẩm còn đi vào đời sống văn hóa tinh thần bằng nhiều con đường khác như trong các tích trò của nghệ thuật sân khấu, hội họa, thơ ca, văn học Quan Vũ một trong những nhân vật nổi tiếng được ca ngợi trong tác phẩm TQDN, là một trong Ngũ hổ tướng của nhà Thục, là anh em kết nghĩa của Lưu Bị - vua Thục. Được dân gian cũng như Tam Quốc diễn nghĩa mô tả như một vị tướng có tài, biểu tượng của lòng hào hiệp, trượng nghĩa nhưng cũng kiêu căng, ngạo mạn.
  39. Hoàng đế nhà Minh - Vạn Lịch đã chính thức nâng Quan Vũ thành thánh để nhấn mạnh đức tính quả cảm trung thành của ông. Trong TQDN La Quán Trung đã xây dựng một nhân vật Quan Vũ với nhiều đức tính tốt đẹp, chết vì trượng nghĩa, nhưng cả tin. Là một nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng Quan Vũ đã được tiểu thuyết hóa trong TQDN của La Quán Trung và sau này được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, tuồng, chèo, phim ảnh, với những chiến tích và phẩm chất đạo đức được đề cao nâng lên thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian. Quan Vũ được thờ cúng ở nhiều nơi với bức tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm thanh long đao, cưỡi ngựa xích thố. 2. Tục thờ cúng Quan Vũ của người Việt
  40. Ở Việt Nam, hình tượng Quan Vũ được ưu ái, ca ngợi và cũng được người dân thờ cúng như một vị thánh. Tình huynh đệ giữa ông với Lưu Bị, Trương Phi, những chiến công hiển hách, những đức tính tốt đẹp trung nghĩa can trường của ông được La Quán Trung ca ngợi. Xuyên suốt trong TQDN, cụm từ “Kết nghĩa vườn đào” là tượng trưng cho tình nghĩa huynh đệ thắm thiết, keo sơn, không vì phú quý, công danh, khó khăn hoạn nạn mà mờ phai. Chính những điều này khiến nhân vật Quan Vũ nhận được sự yêu mến ngưỡng mộ tôn sùng của đại đa số dân chúng.
  41. Có khá nhiều đền thờ Quan Vũ ở Việt Nam đã có từ nhiều thế kỷ, trải dài từ Bắc đến Nam, tuy nhiên số lượng đền thờ nhân vật này phía Nam nhiều hơn phía Bắc. Lý giải hiện tượng này là bởi vì có một bộ phận lớn người gốc Hoa đã
  42. nhiều thế hệ sinh sống ở miền Nam Việt Nam. Người Hoa lâu rồi hòa cùng dân Việt và thấy rõ những đức tính nghĩa tình nên cũng thờ ông trong nhiều chùa, thờ chung với Phật. Người Việt gọi ông là Hán Thọ Đình Hầu hay phổ biến hơn là Quan Thánh Đế Quân. Theo một số nhà nghiên cứu thì người Hoa cho rằng: “ Quan Công thờ tại gia đình thì là vị thần phù hộ cho gia chủ (nam giới), thờ ở đền miếu là vị thần phù hộ cộng đồng, thờ ở Đạo quán là một trong ba mươi sáu tướng của Huyền Thiên thượng đế chuyên trừ tà ma cứu độ chúng sinh, thờ ở chùa là Già Lam bồ tát hộ trì tam bảo” Hai nhân vật lịch sử Trần Hưng Đạo và Quan Vũ Điểm giống nhau:
  43. Cả 2 nhân vật đều là những vị anh hùng được ca ngợi và tôn sùng lên làm bậc Thánh nhân. Có điều đáng lưu ý, trong thời gian qua trên một số thông tin có những quan điểm so sánh giữa Trần Hưng Đạo và Quan Vân Trường? Một nhân vật như Quan Vũ, có nguồn gốc từ Trung Quốc lại đem so sánh với một vị anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo? Câu trả lời, có lẽ là người dân dù ở bất cứ nơi đâu, quốc gia lãnh thổ nào cũng luôn yêu mến những phẩm chất như trung thành, tín nghĩa, can trường, yêu chính nghĩa, diệt trừ gian tà, người bảo vệ sự bình an cho dân chúng, đất nước Điểm khác nhau:
  44. Quan Vũ là nhân vật được hư cấu khá nhiều, là một dũng tướng trong thời loạn quốc của Trung Hoa và nhiều giai thoại hư cấu, qua miêu tả trong tiểu thuyết TQDN của La Quán Trung và chỉ dừng lại dưới dạng một tác phẩm văn học. Và đặc biệt hình tượng Quan Vũ luôn được diễn tả dưới góc nhìn của một Dũng tướng mà thôi. Trần Hưng Đạo là Danh tướng tài năng của Việt Nam và thế giới, lịch sử cụ thể và chính xác, đặc biệt đội quân BÁCH CHIÊN BÁCH THẮNG của đế chế Mông Cổ chỉ thảm bại tại Châu Á chính là thảm bại mà dưới tài thao lược của Thánh tướng Trần Hưng Đạo. Những chiến công của Trần Hưng Đạo, cốt cách tinh thần, tấm lòng yêu nước thương dân hy sinh những mưu lợi cá nhân vì sự nghiệp lớn, vì độc lập tự do của đất nước rất đáng được ghi nhớ và tôn sùng. Tấm gương của vị anh hùng dân tộc vẫn còn uy danh đến ngày nay xứng đáng được trở thành
  45. một biểu tượng lịch sử văn hóa của Việt Nam, cũng như một biểu tượng của toàn nhân loại. Vậy việc sưu tầm, trưng bày, tôn thờ theo quan niệm của người Việt ta chọn ai?