Bảo tồn Di Sản văn hóa và phát triển Du lịch Bền vững: Một Số vấn đề đặt ra ở các tỉnh/thành phố Duyên hải Miền trung
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn Di Sản văn hóa và phát triển Du lịch Bền vững: Một Số vấn đề đặt ra ở các tỉnh/thành phố Duyên hải Miền trung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bao_ton_di_san_van_hoa_va_phat_trien_du_lich_ben_vung_mot_so.pdf
Nội dung text: Bảo tồn Di Sản văn hóa và phát triển Du lịch Bền vững: Một Số vấn đề đặt ra ở các tỉnh/thành phố Duyên hải Miền trung
- Miền Trung - Tây Nguyên Bảo tồn Di sản văn hĩa và phát triển du lịch bền vững: Một số vấn đề đặt ra ở các tỉnh/thành phố duyên hải miền Trung ? Nguyễn Chí Trung* ảo tồn và phát triển là hai khái niệm ngày nay đang được sử dụng rất phổ biến mà hầu như ai cũng biết, đến mức nĩ trở thành tiêu đề, khẩu hiệu ở khắp mọi nơi,B trên mọi lĩnh vực của cuộc sống, hoạt động khoa học, sản xuất và hội họp. Tuy nhiên, trên thực tế bảo tồn cái gì và phát triển như thế nào là vấn đề đặt ra để tạo nên sự thống nhất giữa nội hàm của hai khái niệm: Bảo tồn và Phát triển. Đặc biệt trên lĩnh vực bảo tồn tính chân xác của di sản văn hĩa và phát triển du lịch bền vững. Trong phạm vi của bài viết này, chúng tơi xin được trao đổi thêm về nhận thức xung quanh lĩnh vực này và một số vấn đề từ thực tiễn ở các tỉnh/ thành phố duyên hải miền Trung - Việt Nam (Thừa nhân văn, nơi chúng được sáng tạo ra và tiếp tục lưu Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình truyền, khơng tách rời với đời sống hàng ngày của các Định, Phú Yên, Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận). cộng đồng dân cư. Hay trong một khái niệm cơ đọng Với quan điểm, nhận thức: Di sản văn hĩa là một đĩ là “Bảo tàng sống”. Một ví dụ cho loại hình này cĩ trong những bộ phận quan yếu nhất của các nguồn bảo tàng lịch sử kiến trúc, cư dân đơ thị Khu phố cổ tài nguyên du lịch hay đúng hơn là nếu khơng cĩ di Hội An/Di sản kiến trúc đơ thị - Di sản văn hĩa thế sản thì đừng nĩi đến phát triển du lịch, đồng thời đây giới. Bởi ngày nay mơi trường sinh thái, văn hĩa/nhân cũng là loại sản phẩm du lịch mang sắc thái độc đáo, văn được xem là yếu tố mà con người quan tâm ưu ái đa dạng, mang đậm bản sắc văn hĩa dân tộc và cĩ hàng đầu cho việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển bền tính cạnh tranh cao. vững. Thực ra, những vấn đề nêu trên đã được phát 1. Bảo tồn tính chân xác của di sản văn hĩa với triển từ cuối thế kỷ XX đến nay, khi mà diện mạo của ý niệm: Bảo tàng sinh thái và nhân học (Museum nhiều quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, cĩ of Ecology & Anthropology) sự thay đổi nhanh chĩng, văn minh nơng thơn đang từng bước nhường chỗ cho văn hĩa, văn minh đơ thị. Trước hết cần phải nĩi rằng khái niệm bảo tàng Xu hướng đơ thị hĩa đang trở thành một quá trình tất mà chúng tơi muốn dùng ở đây khơng chỉ là hình yếu đối với mỗi quốc gia, dân tộc, địa phương, vùng thức bảo tàng theo nghĩa “cổ điển” như: bảo tàng lịch miền. Theo đĩ, diễn ra quá trình chuyển từ văn hĩa sử, bảo tàng tự nhiên, bảo tàng mỹ thuật là nơi lưu truyền thống của cư dân nơng nghiệp sang văn hĩa giữ, bảo quản, trưng bày, giới thiệu những tư liệu, đơ thị của cư dân phi nơng nghiệp. Đơ thị hĩa khơng hiện vật liên quan đến quá khứ lịch sử tự nhiên, xã chỉ thay đổi mơi trường sống, nhất là mơi trường văn hội, văn hĩa và con người tại các thiết chế/trụ sở bảo hĩa truyền thống mà cịn kéo theo nhiều vấn đề liên tàng. Mà ở đây, bảo tàng được hiểu theo một khái quan đến sự thích ứng của các nhĩm cư dân trong xã niệm rộng, là nơi giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hội đơ thị. Ở đây, chúng tơi muốn nĩi đến cĩ sự gắn hĩa, thiên nhiên ngay tại/trong mơi trường sinh thái, kết, cân bằng, logic, khoa học trong một thực thể hữu * ThS., Giám đốc Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hĩa Hội An. 38 Phát triển Kinh tếĐà -Nẵng Xã hội
- Miền Trung - Tây Nguyên cơ, khơng thể tách rời giữa sinh thái và con người; tích (bao gồm cả di tích: báu vật, cổ vật, di vật ); biểu sinh thái và nhân văn/văn hĩa - xã hội theo hướng hiện tinh thần thơng qua ngơn ngữ của nghệ thuật Bảo tàng sinh thái và nhân học (Museum of Ecology tạo hình, điêu khắc mang những ý niệm về tâm thức & Anthropology). Đặt ra vấn đề này chúng tơi muốn của cá nhân và cộng đồng ; bao gồm cả những tri nhấn mạnh đến các yếu tố, tính khoa học về bảo thức dân gian, kinh nghiệm, kỹ thuật truyền thống tự tồn và phát triển, cả về mặt khoa học tổ chức quản bao đời được giữ gìn và cấu thành di tích Đặc biệt lý - gĩc độ hành chính, quản lý nhà nước. Nghĩa là nĩ phải được đặt trong bối cảnh, khơng gian cộng về mặt học thuật nĩ phải được triển khai theo hướng hưởng với thiên nhiên, mơi trường và con người. Nĩi bảo tồn - bảo tàng học và như vậy đi theo phải là cách khác, đĩ là sản phẩm của sự gắn kết giá trị văn một hệ thống thiết chế quản lý, ứng xử tương ứng hĩa vật thể và phi vật thể với thiên nhiên. với một “bảo tàng sống”. Cịn nĩi đến sinh thái hay hệ Trong khi việc bảo tồn di sản hiện nay, nhất là các sinh thái là muốn nĩi đến cả sự gắn kết giữa yếu tố cơng trình kiến trúc, di sản đơ thị và di sản làng quê, tự nhiên với con người và văn hĩa nĩi chung trong làng nghề sinh thái đặc thù là hết sức khĩ khăn, phức một thể thống nhất. Về yếu tố phát triển nĩ phải đáp tạp. Bởi di tích kiến trúc và di sản đơ thị, làng quê vốn ứng được nhu cầu cuộc sống của cư dân đương đại là tài sản văn hĩa - sản phẩm của lịch sử đang gắn với và đem lại lợi ích nhiều mặt, nhất là nguồn lợi phát cuộc sống của cư dân đương đại. Hơn nữa, nĩ cũng triển kinh tế cho cộng đồng dân cư sở tại - đĩ là yếu thật mong manh, yếu đuối trước sự khắc nghiệt của tố nhân học. Chính các yếu tố này gắn kết với nhau thiên nhiên bởi sự “già nua” của bản thân di sản và hình thành “bảo tàng sống” hay “bảo tàng sinh thái nhu cầu của sự phát triển, sự thay thế của vật liệu và nhân học”. cơng nghệ hiện đại, cả sức ép của tốc độ phát triển Nĩi đến tính chân xác của di sản hay di tích lịch dịch vụ du lịch, tiến trình đơ thị hĩa Chính vì thế, sử - văn hĩa (theo khái niệm của Luật Di sản Văn hĩa người ta xem hoạt động bảo tồn, tu bổ di tích là một Việt Nam bao gồm cả di tích danh thắng/tự nhiên) bộ mơn khoa học mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh như chúng ta đều biết, di sản luơn chứa đựng thơng vực từ xã hội, kinh tế, kiến trúc, nghệ thuật đến kỹ tin lịch sử, bởi nĩ là: chứng nhân lịch sử; nguồn sử thuật, cả về khoa học quản lý và nĩ ngày càng trở liệu xác thực; và giá trị lịch sử là giá trị trên hết của nên cần thiết trong sự phát triển của xã hội nĩi chung mỗi di sản. Như vậy, dù đĩ là di sản gì: lịch sử, khảo và lĩnh vực kiến trúc, xây dựng đơ thị nĩi riêng. Cũng cổ, hay kiến trúc - nghệ thuật, các di sản đơ thị, làng theo Luật Di sản Văn hĩa Việt Nam, tu bổ di tích là quê/làng nghề truyền thống, các di sản thiên nhiên hoạt động nhằm tu sửa, gia cố, tơn tạo di tích. Và theo thì những thơng tin lịch sử từ di sản (bao gồm cả di chúng tơi, nĩ cũng là hoạt động cĩ ý nghĩa sống cịn sản văn hĩa vật thể và phi vật thể) đều cần phải được đến di tích trong cả chuỗi hoạt động bảo tồn di tích. nâng niu, giữ gìn một cách chu đáo, cẩn trọng. Bởi Bởi muốn tu bổ thì phải hạ giải (tháo dỡ) cục bộ hay di sản văn hĩa chứa đựng những giá trị cơ đọng của tồn bộ, rồi tháo bỏ hay thay thế, lắp dựng lại Nĩ một dân tộc, đất nước, một giai đoạn, một vùng miền, cũng giống như việc “giải phẫu” trong y học vậy. Nếu địa phương. Nĩ được biểu hiện vật thể thơng qua giải phẫu sai, khơng đúng nguyên tắc thì coi như đã ngơn ngữ đường nét kiến trúc, cấu trúc, bố cục, kỹ “giết chết di tích”. thuật, tổ hợp khơng gian tự nhiên gắn với chức năng Xuất phát từ nhận thức như vậy, trong nhiều năm sử dụng và vật dụng được chứa đựng/gắn trong di qua hoạt động bảo tồn di sản ở Việt Nam đã được các Bộ, ngành, các cấp chức năng quan tâm khá đặc biệt. Dựa vào Luật Di sản Văn hĩa Việt Nam, cùng các văn bản dưới luật và các bản Hiến chương, Văn kiện được thơng qua bởi Hội đồng Quốc tế các Di tích và Di chỉ (ICOMOS, thuộc UNESCO) đánh dấu vai trị của cơng tác bảo tồn và trùng tu di tích trên tồn thế giới: Hiến chương Trùng tu hay Hiến chương Athen - văn kiện đầu tiên của lịch sử trùng tu di tích (1931); Hiến chương Venice về bảo tồn, trùng tu các di tích và di chỉ (1964); Văn kiện Nara về tính xác thực (UNESCO,1994); Hiến chương Bura về bảo tồn các di tích giá trị văn hĩa (Australia,1999); Hiến chương về di sản xây cất Phát triển 39 Kinh Đàtế Nẵng- Xã hội
- Miền Trung - Tây Nguyên bản xứ (1994); Nguyên tắc bảo tồn các kiến trúc lịch sảng khối, thích thú cho du khách bởi các thiết bị, sử bằng gỗ (1999); Tuyên ngơn ASEAN về di sản văn tiện nghi hiện đại, khiến cho số lượng du khách trên hĩa (2000); Tuyên bố Hội An (2009) Dựa theo các thế giới tăng lên vượt bậc. Cùng với sự phát triển của văn bản này, quá trình hình thành nội hàm khái niệm khoa học cơng nghệ, với tốc độ đơ thị hĩa đến chĩng về tính chân xác hay nguyên gốc (Authenticity) được mặt, cường độ lao động lớn mà hậu quả là những diễn tiến qua nhiều thời kỳ khác nhau để đi đến thống stress về tâm lý, sinh lý, con người ngày càng cĩ nhu nhất. Thế kỷ XIII, người Pháp sử dụng từ nguyên gốc cầu nghỉ ngơi, thư giãn, khám phá cái đẹp, cái mới mang ý nghĩa L’originel, đến thế kỷ XIV, người Anh sử ẩn chứa trong thiên nhiên, trong những sáng tạo văn dụng từ này với ý nghĩa căn nguyên, sự tồn tại đầu hĩa của nhân loại. tiên/sớm nhất. Thuật ngữ tính nguyên gốc xuất hiện Ngày nay “Du lịch đã trở thành một hoạt động cao trong lời tựa của bản Hiến chương Venice (1964) khi quý, tạo ra một khối lượng cơng việc to lớn cho xã hội, nĩi về việc truyền lại “cho các thế hệ mai sau muơn thúc đẩy sự phát triển của từng khu vực và đĩng gĩp ngàn di tích đĩ với đầy đủ vẻ rực rỡ, huy hồng đích cho sự tăng trưởng của các ngành kinh tế khác như xây thực của chúng”. Đến nay, nguyên tắc khi xác định dựng viễn thơng, giao thơng, thương mại”. 1 Tổ chức Du tính nguyên gốc của di tích được hiểu từ 2 gĩc độ: lịch Thế giới (OMT) đã nêu rõ vai trị, nhiệm vụ của Bản thân di tích và tồn vẹn di tích sau khi tiến hành hoạt động du lịch phải hướng về mục tiêu cơ bản trùng tu và bảo tồn đều được nêu trong các văn kiện, là: cổ xúy và khuyếch trương du lịch nhằm hỗ trợ việc hiến chương. Tính nguyên gốc - tính chân xác của các phát triển kinh tế, tạo sự cảm thơng giữa các dân tộc, di tích sau khi được can thiệp với yêu cầu: Tái hiện lịch duy trì hịa bình, thịnh vượng, tơn trọng lẫn nhau và giữ sử, ngơn ngữ kiến trúc là điều quan trọng để di tích gìn nhân quyền và tự do căn bản của con người, khơng khơng biến dạng, pha tạp, lai căng, tái hiện đúng diện phân biệt chủng tộc, giới tính, ngơn ngữ và tơn giáo. mạo cơng trình như hình thức ban đầu. Tính chân xác Trong Hiến chương Du lịch được thơng qua tại Đại được xác định qua các yếu tố sau: Hình thể (bao gồm: hội đồng 6 của OMT tại Xơ-Phia năm 1985 nêu rõ: “Vì bố cục, kiểu dáng, chi tiết, kết cấu ); chất liệu (tức lợi ích của các thế hệ đương thời và tương lai, bảo vệ mơi là vật liệu, nguyên liệu và với kỹ thuật truyền thống trường du lịch vừa mang tính nhân đạo thiên nhiên, lại để tạo dựng/cấu thành cơng trình di tích); Sắc màu vừa mang tính xã hội, văn hĩa. Mơi trường du lịch đĩ là (màu sắc di tích, kể cả nguyên liệu, chất liệu tạo nên vật sở hữu của tồn thể nhân loại” và trong tuyên bố màu sắc đĩ ); Khơng gian, cảnh quan kiến trúc chung về du lịch thế giới cũng khẳng định: “Sự thỏa truyền thống (vị trí, cảnh quan). mãn của nhu cầu du lịch khơng được làm hại đến các 2. Phát triển du lịch bền vững lợi ích xã hội và kinh tế của dân chúng các vùng du lịch, đến mơi trường và tài nguyên tự nhiên là những yếu Nhân loại ngày nay đang bước vào một thiên niên tố hấp dẫn chính yếu của du lịch cũng như đến các địa kỷ mới của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giao lưu, điểm lịch sử và văn hĩa. Các cộng đồng quốc gia và cả hội nhập ngày càng trở thành nhu cầu rất bức thiết cộng đồng quốc tế phải khai triển những biện pháp cần trên mọi lĩnh vực của đời sống con người đối với thiết để bảo vệ chúng”. 2 Cĩ thể nĩi, sự phát triển của tất cả các quốc gia. Mặt khác, khi đời sống kinh tế, du lịch tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc chấn vật chất được nâng cao thì du lịch càng trở nên một hưng, bảo tồn di sản văn hĩa. Doanh thu từ các hoạt nhu cầu khơng thể thiếu. Tiện nghi vật chất, của cải động du lịch được sử dụng một phần cho việc bảo dường như khơng phải là thước đo duy nhất cho mức tồn di sản văn hĩa như tu bổ di tích, chỉnh lý các bảo phát triển đời sống của mỗi cá nhân. Việc đi du lịch tàng, đồng thời khơi phục và phát huy các di sản văn bao nhiêu lần, bao nhiêu nơi, làm giàu thêm cho tri hĩa phi vật thể, đặc biệt là các ngành nghề thủ cơng thức sống của mình bao nhiêu lại chính là thước đo mỹ nghệ truyền thống, ca múa nhạc, diễn xướng dân quan trọng. Người dân ở nhiều nước đã dành nhiều gian phục vụ du lịch. Ngồi những lợi ích về kinh thời gian và tiền của hơn cho đi tham quan và du lịch. tế, du lịch văn hĩa cịn là một phương tiện truyền tải Từ những nhu cầu khách quan ấy mà ngày nay càng những giá trị văn hĩa của một cộng đồng tới những hình thành nhiều loại hình du lịch khác nhau, với cộng đồng khác hoặc tới những thế hệ khác trong những tên gọi khác nhau như: du lịch tham quan, du bản thân cộng đồng, giúp họ hiểu được và trân trọng lịch nghỉ dưỡng, du lịch cơng vụ, vui chơi giải trí Đặc các giá trị đĩ, nếu là các thế hệ trẻ của cùng một cộng biệt, trong vài chục năm gần đây, sự phát triển của kỹ đồng thì giúp họ hình thành nhân cách và thế giới nghệ hàng khơng, hàng hải đã rút ngắn khoảng thời quan trên nền tảng truyền thống dân tộc. Do vậy, gian đi từ Tây bán cầu sang Đơng bán cầu, đem lại sự 40 Phát triển Kinh tếĐà -Nẵng Xã hội
- Miền Trung - Tây Nguyên một trong những ý nghĩa xã hội quan trọng của du cứu lịch sử - văn hĩa cho rằng: Nơi đây chứa đựng lịch văn hĩa chính là tính giáo dục sâu sắc. nhiều lớp văn hĩa và sắc thái đặc trưng. Đĩ là lớp văn hĩa tiền, sơ sử, lớp văn hĩa Mơn - Khơme, Việt - Chàm, Ngày nay, người ta càng hiểu rõ mối quan hệ nội Việt - Hán; sắc thái văn hĩa vùng miền (biển - đầm, tại của quá trình bảo tồn di sản văn hĩa, thiên nhiên phá, đồng bằng, đồi núi), văn hĩa tộc người (Việt, và phát triển du lịch. Đĩ là mối quan hệ biện chứng Cơtu, Tà Ơi, Bru - Vân Kiều, Chứt, Thổ ), văn hĩa di và trực tiếp, khơng thể tách du lịch ra khỏi di sản. Bởi tích lịch sử và di tích cách mạng. Hơn nữa, di sản văn như đã trình bày di sản văn hĩa là một trong những hĩa nơi đây cịn được gắn kết với cảnh quan thiên bộ phận quan yếu nhất của các nguồn tài nguyên du nhiên vơ cùng đa dạng, đặc sắc như cảnh quan vùng lịch hay đúng hơn là nếu khơng cĩ di sản thì đừng nĩi vịnh, vũng, đầm phá, biển - đảo, bãi biển, sơng - nước, đến phát triển du lịch; Mặt khác, du lịch là phương nguồn nước khống và các giá trị đa dạng sinh học tiện để duy trì, phát triển, làm phong phú đồng thời (khu bảo tồn, khu dự trữ sinh quyển ). truyền bá văn hĩa đi xa hơn trong khơng gian và vĩnh hằng về thời gian. Du lịch gĩp phần khơng nhỏ để Và cũng thật may thay, vượt qua bao thăng trầm giao lưu văn hĩa (một trong những thuộc tính cơ bản biến cố lịch sử, cả sự tàn khốc của chiến tranh, của quá của văn hĩa) do du lịch cĩ thể làm được chức năng trình đơ thị hĩa khu vực các tỉnh/thành phố duyên cầu nối giữa các bộ phận dân cư thuộc các nền văn hải miền Trung - Việt Nam ngày nay từ một vùng miền hĩa khác nhau trên thế giới, đồng thời tạo lập được chịu nhiều thiệt thịi, gần như bị chậm phát triển, ít mối quan hệ trực tiếp giữa quá khứ, hiện tại và tương biến đổi, nhưng hầu như vẫn cịn khá nguyên vẹn lai của mỗi dân tộc. nhiều di sản văn hĩa, thiên nhiên, nhiều làng quê sơng nước, làng nghề ven biển đặc thù, nhiều di sản Như trong Cơng ước quốc tế về du lịch văn hĩa kiến trúc đơ thị độc đáo của Việt Nam. Nơi đây, du nêu rõ: “Du lịch nội địa và quốc tế đến nay là một trong khách hay các nhà nghiên cứu khoa học sẽ bị thu hút, những phương tiện hàng đầu để trao đổi văn hĩa, tạo hấp dẫn, trải nghiệm bởi một thực thể sinh thái và cơ hội cho mỗi con người được trải nghiệm khơng chỉ mơi trường sống của con người vừa cĩ yếu tố của tự những gì quá khứ cịn để lại mà cả cuộc sống và xã hội nhiên, văn hĩa truyền thống, vừa cĩ yếu tố của mơi đương đại của người khác. Du lịch ngày càng được thừa trường, xã hội đương đại. Cĩ thể nĩi: đây là vùng đất nhận rộng rãi là một động lực tích cực cho việc bảo tồn đứng hàng đầu về sở hữu di sản văn hĩa thế giới, di di sản văn hĩa, thiên nhiên. Du lịch cĩ thể nắm bắt các sản thiên nhiên ở Việt Nam và các cửa khẩu quốc tế; đặc trưng về kinh tế của di sản và sử dụng chúng vào cĩ tiềm năng du lịch quan trọng đặc biệt của cả nước, việc bảo vệ bằng cách gây quỹ, giáo dục cộng đồng và với sự đa dạng, phong phú của các nguồn tài nguyên tác dụng đến chính sách. Đây là một bộ phận chủ yếu du lịch tự nhiên và nhân văn phân bố khắp các tỉnh của nền kinh tế quốc gia và khu vực và cĩ thể là một trong khu vực. Việc đẩy mạnh phát triển du lịch ở nhân tố quan trọng trong phát triển, khi được quản lý vùng liên tỉnh này trên cơ sở khai thác cĩ hiệu quả các hữu hiệu”. 3 Làm được những việc này trong phát triển giá trị văn hĩa là một hướng tiếp cận tích cực để bảo du lịch chính là chúng ta đạt đến mục tiêu phát triển tồn và phát huy các giá trị di sản văn hĩa. Nếu các địa du lịch bền vững. phương ở đây biết kết hợp giữa du lịch sinh thái tìm 3. Một số vấn đề đặt ra từ các tỉnh/thành phố hiểu thiên nhiên, du lịch văn hĩa gắn với tham quan duyên hải miền Trung di sản và lễ hội, du lịch cộng đồng gắn với làng quê, Các tỉnh/thành phố duyên hải miền Trung là vùng làng nghề truyền thống và sinh hoạt dân cư chắc lãnh thổ chiếm hơn 1/3 chiều dài bờ biển của cả nước, chắn sẽ tạo được sản phẩm du lịch mang sắc thái độc với vị trí “mặt tiền hướng ra biển Đơng”, cĩ tiềm năng đáo, đa dạng, mang đậm bản sắc văn hĩa dân tộc và về kinh tế biển to lớn. Nơi đây tập trung nhiều giá trị cĩ tính cạnh tranh cao. văn hĩa, tiêu biểu như Cố đơ Huế, Phố cổ Hội An, di Từ gĩc độ khoa học và thực tiễn hoạt động bảo tích Mỹ Sơn, các di vật/cổ vật ở Bảo tàng Điêu khắc tồn di sản văn hĩa với tư cách là sản phẩm phát triển Chăm (Đà Nẵng), quần thể di tích đền/tháp Chăm ở du lịch di sản bền vững ở các tỉnh duyên hải miền Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hịa, Ninh Trung chúng tơi xin nêu, đặt một số vấn đề cụ thể sau: Thuận, Bình Thuận và nhiều di tích kiến trúc nghệ - Xuất phát từ mục tiêu bảo tồn và phát triển thuật, tơn giáo, tín ngưỡng; di tích lịch sử cách mạng; du lịch di sản văn hĩa bền vững, chúng ta cần phải nhiều làng nghề, lễ hội, sinh hoạt văn hĩa truyền thống nhất và kiên trì thực hiện những nguyên tắc: thống phân bố dày đặc khắp Vùng. Nhiều nhà nghiên Vừa bảo tồn tối đa các yếu tố nguyên gốc trong văn Phát triển 41 Kinh Đàtế Nẵng- Xã hội
- Miền Trung - Tây Nguyên hĩa truyền thống, gắn với bảo tồn mơi trường sinh biết kết quả như thế nào? Mặt khác, mua ở đâu loại thái - nhân văn, đồng thời phải giữ gìn mơi trường xã hĩa chất bảo quản này, tính năng và tác dụng của nĩ hội, gắn với sinh hoạt văn hĩa truyền thống; Vừa đáp ra sao? Nĩ cĩ ảnh hưởng gì đến mơi trường sống của ứng tối ưu các nhu cầu dân sinh của cư dân đương con người? hay nĩ cĩ thích ứng với mơi trường khí đại, vừa phát huy giá trị di sản văn hĩa vật thể và hậu của từng vùng hay khơng thì khoa học chưa phi vật thể để phục vụ, phát triển kinh tế du lịch, cải chứng minh, kết luận được. Vì vậy, việc sử dụng lại thiện, nâng cao thu nhập đời sống của nhân dân, vừa các cấu kiện, vật liệu cũ khơng được xử lý vừa khơng bảo vệ và ngày càng làm giàu thêm cho nền văn hĩa đảm bảo an tồn (nhất là đối với di tích dân dụng - cĩ của địa phương, dân tộc; Giải quyết hài hịa mối quan người dân đang sống hoặc đang sử dụng), mà thời hệ giữa trách nhiệm bảo tồn di sản với lợi ích mang gian sử dụng lại rất ngắn, nghĩa là các cấu kiện, vật lại từ việc khai thác, phát huy giá trị của nĩ thơng qua liệu được giữ lại này tiếp tục bị phân hủy, hư hỏng rất du lịch - dịch vụ; Xem “văn hĩa là động lực, mục tiêu” nhanh và chỉ vài năm sau di tích lại xuống cấp, cần cho sự phát triển của kinh tế du lịch và ngược lại phát phải tu bổ gấp, điều chắc chắn là mỗi lần tu bổ thì di triển du lịch phải nhằm mục tiêu đẩy mạnh phát triển tích lại bị mất dần. nền kinh tế bền vững, nâng cao đời sống của nhân Hai là: chất liệu/vật liệu mới theo kỹ thuật truyền dân, hơn nữa phải nhằm mục tiêu bảo tồn di sản văn thống buộc phải sử dụng để thay thế vật liệu/chất hĩa, mơi trường sinh thái. Nghĩa là, bảo tồn di sản liệu cũ/gốc hiện nay rất khĩ hoặc khơng cĩ để mua, văn hĩa và phát triển du lịch phải đặt trong một thực sử dụng. Ví dụ như các cơng trình kiến trúc gỗ thuộc thể hữu cơ, khơng thể tách rời giữa sinh thái và con loại danh mộc thì mua ở đâu khi rừng đã cấm khai người; sinh thái và nhân văn/văn hĩa - xã hội theo thác (tất nhiên để bảo vệ mơi trường). Gạch, ngĩi với hướng Bảo tàng Sinh thái và Nhân học (Museum of kỹ thuật, tiêu chuẩn sản xuất theo cơng nghệ truyền Ecology & Anthropology). thống hiện nay trên thị trường cũng đang rất khan - Việc tu bổ, tơn tạo, phục hồi di tích phải được hiếm, cũng bởi khơng được nung theo cách thủ cơng, quan tâm đặc biệt, tuân thủ nguyên tắc, khoa học. do gây ơ nhiễm và khả năng đất sét cũng khơng cĩ Một thực trạng mà chúng tơi cho rằng khơng chỉ do hạn chế khai thác. Chất liên kết/gắn kết dùng để riêng ở các tỉnh/thành phố duyên hải miền Trung xây, tơ, trát được gọi là vữa vơi truyền thống (tạo mà ở rất nhiều địa phương trong cả nước đang gặp bởi: cát + vơi - nung từ vỏ hến/sị ) + chất keo/nhớt phải. Đĩ là làm thế nào để đảm bảo được tính chân (từ thực vật: lưỡi long, blời, mật mía ngâm lâu ngày) xác - một nguyên tắc tối quan trọng trong tu bổ ngày nay khơng dễ gì sản xuất, kể cả đơn giá áp dụng di tích. Nĩ quan trọng đến mức nếu khơng tuân thủ trong cơng trình tu bổ ra sao cho nên hầu như loại nguyên tắc này thì việc tu bổ di tích xem như đã làm vữa vơi hay chất gắn kết này khơng được sử dụng. mất di tích hay nĩi như GS.TS.KTS. Hồng Đạo Kính là Kể cả những loại vật liệu dầu mù u, dầu rái, sơn ta đã làm trẻ hĩa di tích, làm giả di tích (di tích trở lại cịn dùng để sơn, quét bảo quản các cấu kiện gỗ theo cĩ 1 tuổi). Trong đĩ cĩ những vấn đề đặt ra: cách của cha ơng ta ngày xưa, hiện nay cĩ mấy ai sản xuất, sử dụng. Như vậy, các cơng trình được gọi là tu Một là: chất liệu/vật liệu gốc với kỹ thuật truyền bổ, tơn tạo, hay phục hồi di tích phải sử dụng gỗ khơng thống phải giữ lại tối đa. Trong khi chúng (nhất là đạt yêu cầu về chất lượng lẫn chủng loại. Hay phải loại vật liệu bằng gỗ, gạch) đã bị phân hủy, hết khả sử dụng gạch, ngĩi nung theo cơng nghệ tuynel (kể năng chịu lực, hoặc khơng cịn đủ tính năng để tiếp tục chống chọi với sự khắc nghiệt của thời tiết (mưa, nắng, nĩng, ẩm, bão giĩ ), sự xâm hại của cơn trùng (mối, mọt, cây dại). Ở Nhật Bản hoặc một số nước khác người ta nghiên cứu tạo ra loại hĩa chất để quét lên bề mặt của các vật liệu được giữ lại, chúng cĩ tác dụng chống mối mọt, giúp bảo quản, gia cường, tăng thêm độ bền của các loại vật liệu này. Cịn ở nước ta, một mặt do cơ chế hoặc do chưa được quan tâm đầu tư nghiên cứu khoa học một cách thấu đáo để áp dụng trong thực tiễn tu bổ di tích, mặc dù trong định mức về tu bổ di tích cĩ cho phép áp dụng các loại hĩa chất bảo quản, hoặc đơi nơi cĩ áp dụng mà chưa 42 Phát triển Kinh tếĐà -Nẵng Xã hội
- Miền Trung - Tây Nguyên cả loại gạch ống 6 hay 4 lỗ) khơng cần biết nguyên dù hiện nay đã cĩ Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày gốc của cơng trình dùng gạch, ngĩi như thế nào? Mà 18.9.2012 của Chính phủ quy định thẩm quyền, trình cĩ biết cũng khơng dễ mua. Vữa vơi, thực chất hiện tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, nay là dùng vữa xi măng, chỉ trong trường hợp buộc tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hĩa, danh lam phải dùng để lợp ngĩi âm dương thì mới trộn vào thắng cảnh; và Thơng tư số 18/2012/TT - BVHTTDL, một ít vơi. Vấn đề về giải pháp kỹ thuật và vật liệu để ngày 28.12.2012 của Bộ Văn hĩa, Thể thao và Du lịch tiến hành việc tu bổ, phục hồi các di tích đền/tháp quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, Chăm hiện nay để đảm bảo tính chân xác và khoa học phục hồi di tích. Nhưng trên thực tiễn triển khai ở cấp cũng đang được đặt ra với nhiều giả thuyết, cách giải địa phương cũng cịn nhiều bất cập. quyết chưa phải là đã được thống nhất trong các nhà - Để bảo tồn di sản vững chắc, phát huy du lịch khoa học, các nhà quản lý chuyên mơn và ở từng địa bền vững, điều cốt yếu đáng quan tâm là phải xuất phương. phát từ vấn đề: mỗi di tích - di sản ở mỗi địa phương 4. Về cơ chế quản lý và thủ tục đầu tư ngồi cái chung, đều cĩ những giá trị, nét đặc thù và sự hấp dẫn riêng. Cho nên trong quá trình quản lý, Hoạt động tu bổ di tích hiện nay vẫn đang được bảo tồn và phát huy cần lưu ý xác định và giữ cho áp dụng theo quy trình quản lý đầu tư xây dựng cơ được những giá trị, nét đặc thù riêng của từng di bản, tức là nĩ được ứng xử như các cơng trình xây sản, kể cả phải cĩ cách tổ chức quản lý, bước đi thích dựng mới, hiện đại, nghĩa là đặt tu bổ di tích vào quỹ ứng, phù hợp ở mỗi di sản, mỗi địa phương. Nghĩa đạo của ngành xây dựng cơ bản nĩi chung. Cho nên là khơng được làm biến đổi - đánh mất những giá việc triển khai các hoạt động nghiệp vụ mang tính trị, nét đặc thù riêng cĩ của di tích - di sản ở nơi địa khoa học trong tu bổ di tích rất khĩ thực hiện, rất phương mình. Bởi như chúng ta đã biết, sự sai lầm, khĩ điều chỉnh thiết kế, bổ sung dự tốn, kể cả đơn mất mát về kinh tế, chúng ta cĩ thể làm lại, bù đắp, giá tài chính nào cho việc tổ chức sản xuất hoặc mua mua lại được nhưng về di sản văn hĩa - thiên nhiên các loại vật liệu/chất liệu đặc thù/đặc biệt nêu trên thì khĩ cĩ thể làm lại được, thậm chí cĩ bao nhiêu trong tu bổ di tích Nhất là đối với các di tích thuộc tiền cũng khơng mua được. sở hữu tư nhân tập thể, hoặc di tích do nhân dân tự đĩng gĩp tu bổ thì gần như buơng lỏng việc quản Mặt khác khơng nên áp đặt, thấy ở di sản khác, địa lý, mọi quyết định trong quá trình tu bổ di tích chủ phương khác cĩ cái gì hoặc tổ chức/làm thành cơng yếu do các chủ di tích tự tiến hành, hầu như khơng một việc gì mình cũng bắt chước, đưa về địa phương cĩ sự giám sát thường xuyên hoặc tham gia ý kiến kịp mình, di sản mình để thực hiện một cách rập khuơn thời của cán bộ, cơ quan chuyên mơn/chuyên quản. hoặc việc phục hồi cịn thiếu cơ sở, chưa được nghiên Cĩ chăng cũng chỉ ở mức được cấp giấy phép “xây cứu kỹ Tất cả những hành vi này đều là những biểu dựng” mang tính hình thức ban đầu hoặc để cĩ cơ sở hiện của sự sai lầm khơng cĩ tính chân xác và khơng pháp lý để xử lý, quy trách nhiệm về sau mà thơi. Như bền vững. Nghĩa là, mỗi địa phương cần nhận thức về vậy, để sử dụng vật liệu/chất liệu đúng theo nguyên tài nguyên, sản phẩm du lịch đặc thù của mình, khơng tắc về tính chân xác trong tình hình thực tế như đã bắt chước nhau về sản phẩm (nhất là tình trạng sản phân tích ở trên quả là vấn đề hết sức khĩ, nếu như phẩm hàng thủ cơng - mỹ nghệ, hay việc tổ chức lễ khơng muốn nĩi là khơng thực hiện được. Kể cả tư hội, sự kiện văn hĩa như hiện nay). Học tập ở đây tưởng “thương mại hĩa, hồnh tráng hĩa di tích“ của khơng cĩ nghĩa là bắt chước nhau, làm giống y chang các nhà hảo tâm đầu tư/cúng dường và của một số ít nhau. Nhất là nhiều lễ hội văn hĩa hay những sự kiện người xưng danh là đại diện chủ di tích. Phần lớn kết văn hĩa giống nhau giữa các địa phương nhà nước tổ quả tu bổ di tích này đến khi các cơ quan chuyên mơn chức rất tốn kém, thiếu sự tham gia tổ chức của người biết được thì cũng đều nằm trong tình thế “chuyện đã dân, chủ các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, du rồi” (người được quy trách nhiệm, xử lý - chủ/đại diện lịch và họ cũng xem như đây là việc của nhà nước (Cĩ di tích nhận lỗi bởi do kém hiểu biết, khơng nhận thể nĩi: cĩ tiền thì cĩ lễ, khơng tiền thì vơ lễ - lễ hội). thức được vấn đề) và cũng đồng nghĩa với việc di tích Cần quan tâm đến khơng gian thực của lễ hội, tránh đã “bị bức tử hay bị mất trí nhớ, cĩ xác khơng hồn, di sân khấu hĩa, thương mại hĩa. Chỉ sân khấu hĩa khi tích giả ”. lễ hội, loại hình sinh hoạt văn hĩa đĩ đã bị mất, cả về khơng gian văn hĩa? Việc phục hồi hoặc tái hiện các Giải quyết những vấn đề nêu trên địi hỏi phải loại hình sinh hoạt văn hĩa, lễ hội phải được nghiên cĩ sự quan tâm chỉ đạo của nhiều cấp bộ, ngành từ cứu kỹ lưỡng và tiến hành thận trọng qua bước thử Trung ương xuống các cấp, ngành địa phương. Mặc Phát triển 43 Kinh Đàtế Nẵng- Xã hội
- Miền Trung - Tây Nguyên nghiệm, được sự đồng tình, ủng hộ của đơng đảo trong khu vực, ngoại trừ một số nơi như ở Huế ). người dân địa phương tham gia, tránh gây ngộ nhận, - Trong quá trình phát triển cần lưu ý đến xu hướng hiểu lầm cho thế hệ trẻ và cả người dân đương đại. biến động dân cư theo kiểu nhập cư tạm bợ, “ăn xổi, - Xuất phát từ quan niệm, di sản văn hĩa là của ở thì, khai thác di tích/di sản bằng mọi giá”. Chủ di mọi người dân và việc bảo tồn, giữ gìn di sản văn hĩa tích/di sản đích thực bị phân tán đi các địa phương là quyền lợi và trách nhiệm của tồn dân, đồng thời khác do giải tỏa để thực hiện các dự án hoặc nhường nĩ gắn với lợi ích của cộng đồng dân cư địa phương. chỗ (bán hoặc cho thuê nhà/đất đến nơi khác ở) cho Hơn nữa, việc bảo tồn, phát triển du lịch phải đem lại cư dân ở nơi khác đến làm ăn. Giềng mối xã hội, gia lợi ích cho cộng đồng nên để quản lý, bảo tồn và phát đình, tộc họ lâu đời ở địa phương bị tan vỡ, tệ nạn huy tốt một di sản văn hĩa, địi hỏi phải cĩ sự thống xã hội gia tăng, GDP bình quân đầu người tăng thực nhất điều hành của một cấp quản lý hành chính Nhà chất ở một số ít người hoặc khơng bền vững. Thật nước nhất định, tồn diện và trực tiếp, đủ sức làm đáng đau buồn khi các dự án du lịch, dịch vụ hoặc “nhạc trưởng” - tập hợp cả một hệ thống chính trị và khu cơng nghiệp ra đời, dân cư địa phương phải các cấp, ngành vì mục tiêu bảo tồn di sản, phát huy chuyển đi nơi khác, cịn di tích/di sản ở lại chơ vơ, bị du lịch và làm tốt vai trị gắn kết giữa: Nhà quản lý: bao vây bởi những cơng trình mới và chắc chắn nĩ sẽ các cấp chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước; Nhà dần bị bức tử vì khơng cĩ người dân sống ở đây. Để khoa học: các cơ quan chuyên mơn, cơ quan nghiên hạn chế tình trạng nêu trên, mỗi địa phương trong cứu khoa học trong và ngồi nước; Nhà dân: các chủ/ quy hoạch phát triển cần quan tâm bảo tồn các di sản đại diện di tích, chủ doanh nghiệp - kinh doanh. đơ thị, làng nghề, làng quê sinh thái đặc thù - theo Mối gắn kết này được đặt trong những nguyên tắc, nghĩa bảo tàng sinh thái - nhân học để phát triển du quan hệ logic - biện chứng giữa bảo tồn di sản văn lịch cộng đồng. Ngay cả việc xây dựng nơng thơn mới hĩa (cả vật thể và phi vật thể) với phát huy, phát triển theo 15 tiêu chí chung cũng cần lưu tâm đến những kinh tế, cĩ giao lưu hội nhập; Mọi chủ trương, chính tiêu chí đặc thù đối với loại hình di sản văn hĩa này. sách, định hướng phát triển phải làm rõ được trách Hay việc cơng nhận làng nghề truyến thống theo tiêu nhiệm của từng cấp, ngành, cơ quan, đồng thời phải chí của Bộ Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn hiện gắn chặt với ý thức trách nhiệm của cả cộng đồng, nay cịn khá bất cập. từng người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, cũng - Thực trạng về sự gắn kết giữa phát triển du lịch cĩ nghĩa là phải luơn chú ý gắn chặt với lợi ích của cả với bảo tồn di sản văn hĩa cịn khá nhiều hạn chế, cộng đồng. Đặc biệt phải được thể hiện một cách cụ đáng quan tâm. Theo cảnh báo của Tổng cục Du lịch thể, cơng khai, dân chủ, cơng bằng thơng qua các văn được cơng bố ở các tỉnh/thành phố duyên hải miền bản quy phạm pháp luật. Muốn vậy, mọi vấn đề phải Trung thì phương thức khai thác du lịch chưa thích được nghiên cứu một cách đầy đủ, thận trọng, khoa hợp, thiếu đồng bộ và thiếu sức cạnh tranh, cịn học và được chính cộng đồng người dân địa phương nhiều vấn đề bất cập đặt ra, nhất là tính bền vững cho tham gia gĩp ý, xây dựng. Phải thường xuyên chú mục tiêu bảo tồn và phát triển. Hầu như các doanh trọng đến cơng tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nghiệp du lịch, dịch vụ mới chỉ lo tập trung đầu tư kiến thức hiểu biết về di sản - nhất là cho thế hệ trẻ. cơ sở lưu trú, dịch vụ nhà hàng, mà ít quan tâm tham Phải xây dựng được một mạng lưới tuyên truyền viên, gia, đĩng gĩp việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cộng tác viên bảo tồn di sản - phát huy du lịch xuống cho văn hĩa. Vai trị của các hiệp hội du lịch cịn rất từng người dân, chủ di tích, chủ doanh nghiệp. nhiều hạn chế. Hầu như hoạt động mang tính hình - Để quản lý tốt di sản cần phải được thơng qua thức, đối phĩ, trên thực tế mạnh ai nấy làm thiếu sự hợp tác quốc tế, trong nước và khu vực về mọi mặt: liên kết, thiếu vai trị của hiệp hội, thiếu tính liên kết chuyên viên, đào tạo, nghiên cứu khoa học, trao đổi xâu chuỗi. Cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí sử kinh nghiệm, kỹ thuật, tập huấn, hội thảo, giao lưu dụng hình thức “hoa hồng/bồi dưỡng” làm chỗ dựa và cũng khơng thể thiếu các thiết bị, phương tiện cho “cị” tồn tại, phát triển hoặc gây thiếu lành mạnh kỹ thuật chuyên dùng, đĩ là cơng cụ hỗ trợ đắc lực trong dịch vụ du lịch Về hình thức thì cĩ ký liên kết cho con người. Chú ý đến nguồn nhân lực tại chỗ/địa giữa các tỉnh, các ngành hàng khơng, lữ hành, dịch phương thơng qua nhiều hình thức đào tạo. Nhất là vụ khách sạn nhưng trên thực tế thì cịn xa vời, đội ngũ cán bộ chuyên mơn/chuyên quản (hiện nay vẫn mạnh ai nấy làm. Văn hĩa và du lịch tuy đang ở lực lượng này rất thiếu, quá mỏng và yếu, khơng đủ trong cùng một Bộ, sở, phịng nhưng xem chừng vẫn sức để quản lý hệ thống di sản phong phú, đa dạng khơng cĩ sự gắn kết, mỗi ngành đều cĩ chương trình 44 Phát triển Kinh tếĐà -Nẵng Xã hội
- Miền Trung - Tây Nguyên mục tiêu riêng. Nên chăng, ủy ban nhân dân các cấp cịn cán bộ quản lý, thuyết minh tại di sản/di tích, bảo cần phải làm trọng tài cho việc gắn kết các chương tàng thì kém về ngoại ngữ, thiếu kiến thức về hướng trình phát triển và mục tiêu đầu tư của các ngành: dẫn du lịch nĩi chung. Do đĩ thơng tin đến du khách chương trình về cơ sở hạ tầng du lịch, văn hĩa, giao tham quan rất hời hợt, thiếu chính xác. Nên chăng, thơng, xây dựng nơng thơn mới trên cơ sở các quy Bộ Văn hĩa, Thể thao và Du lịch cần thống nhất chỉ hoạch chung, của từng ngành. đạo cho Cục Di sản Văn hĩa và Tổng cục Du lịch, các Sở Văn hĩa, Thể thao và Du lịch cĩ lộ trình đào tạo, - Cần phải xuất phát từ nhận thức, thế mạnh của cấp chứng chỉ “hướng dẫn viên di sản” cho hướng dẫn du lịch Việt Nam nĩi chung, du lịch các tỉnh/thành viên du lịch và cán bộ/chuyên viên quản lý/thuyết phố duyên hải miền Trung nĩi riêng là du lịch di sản minh tại bảo tàng, di tích (đây là ý kiến đề xuất của tổ văn hĩa (đa văn hĩa sơng nước - biển đảo, đa sắc chức UNESCO khu vực châu Á Thái Bình Dương và đã tộc, trải qua nhiều thế kỷ, nhiều loại hình; cảnh quan được tổ chức thí điểm tại Quảng Nam). thiên nhiên (làng quê, sơng nước, biển đảo, núi đèo ven biển ). Chính vì vậy, yếu tố du lịch trải nghiệm, - Hệ thống quảng bá, kênh thơng tin trên các du lịch trong cộng đồng dân cư/cộng đồng gắn với mạng, thơng tin cấp nhà nước, cấp Vùng cịn rất hạn di sản văn hĩa là sản phẩm du lịch đĩng vai trị chủ chế, mang tính riêng lẻ của các doanh nghiệp. Thiếu yếu và quyết định cho thành cơng của phát triển tầm chiến lược quốc gia - vùng - khu vực. du lịch. Chính người dân địa phương vừa là những Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn để khu vực người chủ, bảo vệ giữ gìn phát huy di sản văn hĩa 9 tỉnh/thành duyên hải miền Trung nĩi riêng và Việt (vật thể, phi vật thể), giữ gìn cảnh quan mơi trường Nam nĩi chung, bảo tồn vững chắc di sản và phát sống. Đồng thời vừa tham gia phát triển du lịch, làm triển du lịch bền vững điều quan trọng trước hết là du lịch. Cần phải hiểu ở gĩc độ địa phương, nếu làm ở mỗi di sản, mỗi địa phương, nhà quản lý; nhà khoa du lịch mà khơng đem lại lợi ích cho cộng đồng cư học; và nhà dân phải cùng đồng hành, cộng đồng dân địa phương, “đuổi” cư dân địa phương đi (bởi các trách nhiệm, gắn chung một lợi ích và trên nguyên tắc dự án, bởi người từ các nơi về thuê đất, thuê nhà làm bảo tồn tính chân xác - nguyên gốc độc đáo, đặc thù du lịch ) thì du lịch đĩ sẽ khơng bền vững. Tuy nhiên vượt trội vốn cĩ của riêng di sản mình để phát triển vấn đề đặt ra là, theo kết quả khảo sát thì khu vực này du lịch; và nên chăng theo hướng Bảo tàng sinh thái cĩ hay khơng cĩ nghề? Đa số nhân lực quản lý ngành và nhân học. Từ quan điểm Nghị quyết Trung ương 5 du lịch là dân khơng chuyên, chủ yếu tận dụng người chúng ta: “Văn hĩa là động lực, mục tiêu cho sự phát địa phương cho nhĩm lao động trực tiếp và thuyên triển của kinh tế du lịch và ngược lại phát triển du lịch chuyển cán bộ từ các ngành khác về làm cơng tác phải nhằm mục tiêu đẩy mạnh phát triển nền kinh tế quản lý. Cơng tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch của bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, hơn nữa phải các tỉnh/thành phố địa phương vẫn chưa được chú nhằm mục tiêu bảo tồn di sản văn hĩa, mơi trường trọng một cách căn cơ, bài bản, lâu dài. Theo đánh sinh thái”. Chúng ta cĩ thể xem đây là tuyên ngơn của giá của Tổng cục Du lịch, nhìn chung phần lớn các địa mục tiêu phát triển du lịch. phương trong Vùng cĩ trình độ học vấn của đội ngũ lao động thấp, lao động mới tốt nghiệp trung học cơ N.C.T. sở trở xuống chiếm tỷ lệ cịn lớn (Quảng Nam chiếm 51,07%), lao động chưa qua đào tạo nghề trong Vùng chiếm tỷ lệ lớn (bình quân cả vùng 56,48%, riêng Đà Nẵng 31,16%). Thực trạng này gây khĩ khăn cho việc đào tạo nghề, nâng cao trình độ kỹ thuật cho nguồn lao động, nhất là trên lĩnh vực du lịch. Việc đào tạo CHÚ THÍCH nguồn nhân lực này là ai, cấp nào hay phải cĩ liên 1. Ernesto Zedillo - Tổng thống Mêhicơ: Phát biểu tại lễ kết đồng trách nhiệm? Nên chăng, cần được đặt ra kỷ niệm ngày du lịch thế giới 27.9.1998 tại Mêhicơ. giải quyết thấu đáo giữa các ngành giáo dục, đào 2. Tổ chức Du lịch Thế giới (OMT): Tuyên bố chung về du tạo nghề, các cấp chính quyền và các doanh nghiệp lịch thế giới tại Hội nghị quốc tế ở Malaysia về bảo vệ mơi trong Vùng. trường, năm 1982. - Thực trạng hướng dẫn, thuyết minh tại di sản/di 3. Hội đồng Quốc tế về Di tích - Di chỉ - ICOMOS: Các tích hiện nay khá tùy tiện, bất cập. Hướng dẫn viên hiến chương và cơng ước quốc tế, xuất bản năm 2001. Bản du lịch thì thiếu kiến thức hiểu biết về di sản/di tích, dịch của Cục Bảo tồn - Bảo tàng. Phát triển 45 Kinh Đàtế Nẵng- Xã hội