Báo cáo Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia và việc giáo dục ý thức của sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay (Phần 1)

pdf 22 trang phuongnguyen 1470
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia và việc giáo dục ý thức của sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_cao_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_bao_ve_chu_quyen_quoc_gia_va.pdf

Nội dung text: Báo cáo Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia và việc giáo dục ý thức của sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay (Phần 1)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VIỆTS K C 0 0 3 9 5 9 NAM HIỆN NAY MÃ SỐ: T2014-138 SKC0 0 5 5 2 4 Tp. Hồ Chí Minh, 11/2014
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƢỜNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VIỆT NAM HIỆN NAY Mã số: T2014 -138 Chủ nhiệm đề tài: ThS Nguyễn Thị Phƣợng Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2014
  3. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƢỜNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO VIỆT NAM HIỆN NAY Mã số: T2014 -138 Chủ nhiệm đề tài: ThS Nguyễn Thị Phƣợng Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2014
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN VỊ: KHOA LLCT DANH SÁCH NGƢỜI THAM GIA ĐỀ TÀI VÀ CÁC ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH 1. CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI Họ và tên: Nguyễn Thị Phượng Học vị: Thạc sĩ Chức danh khoa học: Giảng viên Năm sinh: 1984 Đơn vị công tác: Khoa Lý luận chính trị – Đại Di động: 0989.247.288 học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp.HCM E-mail: myspringthu@gmail.com 2. NHỮNG THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Đơn vị công tác và Nội dung nghiên cứu Chữ TT Họ và tên lĩnh vực chuyên môn cụ thể được giao ký - Khoa Lý luận chính trị – Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật NGUYỄN THỊ PHƯỢNG Tp.HCM GV Tư tưởng Hồ Chí Minh 9. ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA 8 1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng hồ chí minh về chủ quyền quốc gia 8 1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến chủ quyền quốc gia 8 1.1.2.Cơ sở lý luận 9 1.1.3. Cơ sở thực tiễn 15 1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia 21 1.2.1. Vai trò, ý nghĩa chủ quyền quốc gia 21 1.2.2. Bảo vệ chủ quyềnquốc gia là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân, toàn quân của mọi cấp, mọi ngành, song cần phải có lực lượng nòng cốt, chuyên trách 31 1.2.3. Phát huy vai trò quần chúng nhân dân bảo vệ chủ quyền quốc gia bằng việc xây dựng thế trận lòng dân 49 1.2.4. Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước, láng giềng là giải pháp hữu hiệu góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền 54 Chƣơng 2: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC SINH VIÊN VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO HIỆN NAY 56 2.1. Tình hình biển đảo hiện nay 56 2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay 58 2.3. Các biện pháp nhằm giáo dục nâng cao ý thức của sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay 65 KẾT LUẬN 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SV Sinh viên ĐH SPKT Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh TT HCM Tư tưởng Hồ Chí Minh
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN VỊ: KHOA LLCT Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 11 năm 2014 THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Thông tin chung: - Tên đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia và việc giáo dục ý thức của sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay”. - Mã số:. - Chủ nhiệm: GV.ThS Nguyễn Thị Phượng. - Cơ quan chủ trì: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. - Thời gian thực hiện: 11/2013 – 11/2014. 2. Mục tiêu: Đề tài nghiên cứu có 2 mục tiêu sau: Thứ nhất, tác giả làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và bài học vận dụng vào chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Thứ hai, nghiên cứu thực trạng và bài học vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia vào chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Để từ thực trạng đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc giáo dục ý thức sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay. Nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đào tạo, góp phần đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật. 3.Tính mới và sáng tạo: Đề tài là một công trình khoa học nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn để làm rõ lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và bài học vận dụng vào chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay, trong đó có sinh viên trường Đại học sư phạm kỹ thuật. Đề tài làm sáng tỏ thực trạng tình hình biển đảo hiện nay, chỉ rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Qua đó, đưa ra các biện pháp nhằm giáo dục và nâng cao ý thức của sinh viên về bảo vệ chủ
  8. quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, nếu thực hiện được các biện pháp đưa ra, đề tài sẽ góp phần vào việc nâng cao nâng cao ý thức của sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay, đồng thời sẽ góp phần trau dồi, rèn luyện, tri thức môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp sinh viên không ngừng học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để trở thành những nhà giáo ưu tú, những công dân tốt. 4. Kết quả nghiên cứu: Kết quả của đề tài nhằm là tài liệu dùng để phục vụ cho công tác tự học tập tự nghiên cứu của sinh viên, công tác giảng dạy, quản lý sinh viên trong nhà trường. Đề xuất những giải pháp cụ thể góp phần tiếp tục đưa ra các biện pháp nhằm giáo dục và nâng cao ý thức của sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay; phát triển mục đích, động cơ, thái độ học tập đúng đắn cho sinh viên góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của giảng viên, sinh viên đối với các môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và giáo dục tư tưởng, đạo đức phong cách sống cho sinh viên trường SPKT nói riêng và thế hệ trẻ nói chung. 5. Sản phẩm: Sản phẩm của việc nghiên cứu đề tài là một báo cáo về nội dung đề tài. 6. Hiệu quả, phƣơng thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả năng áp dụng: Việc nghiên cứu đề tài có khả năng ứng dụng nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của giảng viên và sinh viên trường Đại học Sư Phạm kỹ Thuật Thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. Công trình hoàn thành sẽ được chuyển giao cho Thư viện trường sau khi nghiệm thu xong. Trƣởng Đơn vị Chủ nhiệm đề tài (ký, họ và tên, đóng dấu) (ký, họ và tên)
  9. MỞ ĐẦU 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu - Về tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia: Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (2003), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách này gồm những bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các tướng lĩnh và các nhà khoa học đã công bố trên các sách, báo và hội thảo khoa học. Nội dung cuốn sách đến việc bảo vệ độc lập dân tộc luôn gắn liền với bảo vệ chủ nghĩa xã hội; là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, là xây dựng tiềm lực mọi mặt về chính trị, kinh tế, quân sự gắn với an ninh, đối ngoại, văn hóa xã hội trong đó, các lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc già là nhiệm vụ chung của toàn dân tộc. Một số sách, công trình nghiên cứu ra đời như: Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh(2006), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng dân tộc và chấn hưng đất nước (kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội; Hội đồng lý luận Trung ương (2011), Đảng Cộng sản Việt Nam trách nhiệm trước dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Sự Thật; Vũ Dương Huân (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Nxb. Thanh Niên; PGS, TS. Vũ Đình Hòe, PGS, TS. Bùi Đình Phong (Đồng chủ biên, 2010), Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm 150 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (tháng 2/1998), Nxb. Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn; Đinh Xuân Lâm (2005), Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh, Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Phúc Luân (1999), Chủ tịch Hồ Chí Minh Trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đinh Xuân Lý (2003), Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh, Chính trị Quốc gia, Hà Nội. TS. Phan Ngọc Liên (2008), Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; PGS, TS. Nguyễn Bá Linh (2009), Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1
  10. - Về mặt tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Thời kỳ Đại Việt, từ thời Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn ta có Phủ biên tạp lục năm 1776 của Lê Qúy Đôn, đây là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa và đội Bắc Hải. Thời kỳ Nhà Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909 có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như: Dư địa chí trong bộ Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt địa dư chí(1883). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ biên tạp lục của Lê Qúy Đôn thế kỷ XVIII. Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới và phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tài liệu quý giá, châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang lưu trữ tại kho lưu trữ Trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc Trong bộ sách Đại Nam nhất thống chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại hai lần, khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động của Hoàng Sa và đội bắc Hải do Hoàng Sa kiêm quản Ngoài ra, các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam. - Bên cạnh đó có rất nhiều bài tham luận: Bài tham luận: “Quan điểm của Việt Nam về Trường Sa và Hoàng sa” của Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã phản bác các tuyên bố của phía Trung Quốc rằng Hoàng Sa và Trường Sa vô chủ cho đến năm 1909, và vào năm đó Trung Quốc là nước đầu tiên khám phá ra Hoàng Sa và Trường Sa. TS. Phạm Ngọc Trâm, Quản lý và khai thác biển đảo Việt Nam thời kì đổi mới (1986-2013), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11(276),11-2013; tr.39. Bài viết đã để ra cái nhìn với về chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo; cùng với đó là việc phát triển kinh tế nơi đây. 2
  11. GS.TS. Trần Nghĩa, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, có bài nghiên cứu “Việt Nam với Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Tham luận tại Hội thảo Quốc gia về Biển Đồng lần thứ nhất (tháng 3/2009); Tác giả đưa ra dẫn chứng chứng tỏ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. PGS. TS. Nguyễn Bá Diến, giám đốc Trung tâm Luật biển và Hàng hải Quốc tế, khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; có bài “Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công ước Luật biển 1982”. Ông đã đi sâu phân tích Công ước Luật biển 1982. Gần đây, Trưởng đoàn đại diện Chính phủ nước ta vừa trình báo cáo trước Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc về xác định ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lý tại khu vực phía Bắc biển Đông. Bản báo cáo này một lần nữa khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết mọi bất đồng liên quan đến biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước 1982 và Tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông (DOC). Các học giả Việt Nam đều thống nhất khẳng định về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo đó, Việt Nam là Nhà nước đầu tiên và duy nhất đã thực hiện quyền làm chủ của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách hoà bình, liên tục và lâu dài. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặt khác, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết mọi tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và trên tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002 (DOC) cũng như các nguyên tắc thoả thuận song phương, đa phương nhằm duy trì và bảo vệ tự do giao thương, an ninh hàng hải cũng như sự ổn định và phát triển trong hòa bình của các quốc gia liên quan. Tại cuộc Hội thảo về Biển Đông lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 26 đến ngày 27 tháng 11 năm 2009, Giáo sư Ian Townsend-Gault, một nhà nghiên cứu nổi tiếng người Canada về các tranh chấp tại Biển Đông, cho rằng các nước không cần phải lo ngại về “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc đưa ra bao chiếm gần trọn Biển Đông, vì khi Trung Quốc phê chuẩn UNCLOS, “đường lưỡi bò” đương nhiên trở nên không có giá trị. Vì theo Công ước, chủ quyền quốc gia được tính từ đường cơ sở ven biển vươn ra bao nhiêu hải lý đã được qui định rõ. Hơn nữa 3
  12. “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc vẽ không được giới luật gia quốc tế công nhận. UNCLOS là một văn bản luật pháp quốc tế hiện đại. Một khi phê chuẩn có nghĩa là Trung Quốc phải từ bỏ việc đòi hỏi chủ quyền trong “đường lưỡi bò”. Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) của Đảng về “Chiến lược lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Trước mắt, “chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền biển, đảo nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp uỷ Đảng, các ngành, các tầng lớp nhân dân về vị trí chiến lược của biển, đảo nước ta. Phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển đảo của Tổ quốc”. Chương trình Hội thảo quốc gia lần thứ hai về biển Đông với chủ đề “Tranh chấp chủ quyền tại biển Đông: Lịch sử, địa chính trị và luật pháp quốc tế”. Hội thảo bàn luận về các chứng cứ lịch sử, khoa học khẳng định chủ quyền của Việt Nam, những văn bản pháp lý chứng minh, từ đó nêu ra những mục tiêu cần làm đến năm 2020. Không chỉ dừng lại ở đó, Hội thảo quốc tế về biển Đông lần thứ ba tại Hà Nội vào ngày 4 – 5/11/2011 do Học viện Ngoại giao phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam đồng tổ chức với chủ đề “Biển Đông – Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong khu vực”. Hội thảo tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của biển Đông trong khu vực và trên toàn thế giới; cũng như lợi ích của các bên trong và ngoài biển Đông; nhìn nhận, đánh giá diễn biến, tình hình hiện tại ở biển Đông nhằm đưa ra những nhóm giải pháp tranh chấp và quản lý xung đột ở biển Đông. Đa số những Hội thảo đã diễn ra, dù ở quy mô quốc gia hay mang tầm cỡ quốc tế cũng đều khuyến khích, kêu gọi việc giải quyết tranh chấp cũng như thực hiện quyền tài phán biển bằng con đường hòa bình, hợp tác, phát triển. Việc hợp tác tại khu vực biển Đông cũng chính là con đường dẫn tới hòa bình, ổn định và thịnh vượng. Hội thảo đã tổng hợp nên một quyển kỷ yếu, trong đó đã tập hợp lại rất nhiều bài viết mang tính chất khách quan nhất, rõ ràng nhất đối với cách nhìn nhận về vấn đề biển Đông. Với câu hỏi đặt ra “Nên làm gì?”; có rất nhiều gợi ý cho việc kiềm chế và xử lý tranh chấp như thế nào cũng như từng bước làm giảm tính phức tạp của vấn đề. Theo Tiến sĩ Mark J. Valencia – chuyên gia phân tích chính sách biển, Kaneohe, Hawai, Mỹ nhận định: “Môi trường chính trị ở biển Đông dường 4
  13. như đã thay đổi nhiều so với những thập kỷ 1980 và 1990 do nơi đây là khu vực tập trung xung đột và tranh chấp” Tuy nhiên, đến bây giờ chưa có đề tài nghiên cứu, sâu sắc về “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền dân tộc và bài học vận dụng vào chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay”. 2. Tính cấp thiết của đề tài Độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia là một trong những nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn coi việc giữ nước, bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng; toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải dốc hết sức lực cho việc giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Hồ Chí Minh đã từng dạy: Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 của quân dân Việt Nam đã khẳng định tư tưởng vĩ đại của Người: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” thắng lợi vẻ vang đó là kết qủa tất yếu của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng Sản Việt Nam và lấy tư tưởng Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động Cách Mạng Việt Nam. Với đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện độc lập dân tộc với chủ nghĩ xã hội cách mạng Miền Nam và cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta, dưói sự lãnh đạo của Đảng ta, được sự đồng tình và giúp đỡ to lớn của bầu bạn xa gần trên thế giới, đưa Cách Mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, ngày càng tỏa sáng dưới vòm trời Đông Nam Á. Thế giới ngày nay đã đổi thay, nhận thức con người cũng có những thay đổi nhất định. Nhiều quốc gia dân tộc từng đối đầu, đụng độ nhau, chấp nhận xếp lại hận thù, xem quá khứ thuộc về lịch sử hãy bỏ qua quá khứ, nhìn vào tương lai, bắt tay nhau đi tới, đó là một hiện tượng mới trong xu thế của thời đại ngày nay. Lịch sử Việt Nam còn ghi lại không ít những tấm gương hoà hiếu của tiền nhân, những anh hùng dâ tộc như: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đều tỏ rõ sự khoan dung độ lượng của mình đối với kẻ thù xâm lược khi chúng đã quy hàng hay bại trận. Các anh hùng hào kiệt và danh nhân đất nước có tinh thần yêu nước, có chính sách khôn khéo giữ vững chủ quyền quốc gia, có chủ trương khoan hồng đối với hàng binh và chính sách bang giao hoà hiếu của mình với nước đi xâm lược bị đánh bại. Tự hào về chiến thắng vẻ vang của dân tộc bao nhiêu, nhân dân Việt 5
  14. Nam càng thông cảm sâu sắc bấy nhiêu với các dân tộc bị áp bức và nô dịch đang đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới, bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc mà cha anh ta đã hy sinh biết bao nhiêu xương máu để có được nền độc lập như ngày hôm nay. Ngày nay, với đường lối, chủ trương bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc đúng đắn của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày càng rộng mở, đã khẳng định tinh thần: Đoàn kết - hợp tác - hội nhập quốc tế dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền độc lập dân tộc, bình đẳng và hai bên cùng có lợi nhằm làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh như Nghị quyết Đại Hội VIII của Đảng đã đề ra. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy rằng bên cạnh những thuận lợi thì đất nước ta cũng đang đứng trước những thách thức về bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là những năm gần đây Trung Quốc với tiềm lực hải quân của mình đã có những hành động mạnh bạo xâm phạm chủ quyền Biển, đảo nước ta. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần vận dụng những tư tưởng của cha ông và nhất là tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền để giáo dục cho thế hệ trẻ ý thức và trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ chủ quyền Biển đảo quốc gia. Với những lý do cơ bản trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia và việc giáo dục ý thức của sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay”làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm học 2013 -2014 nhằm làm sáng tỏ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia, trên cơ sở đó tác giả liên hệ vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục ý thức của sinh viên về việc bảo vệ biển đảo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục tiêu nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia. - Tìm hiểu tư tưởng của Hồ chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia. - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia vào việc giáo dục cho sinh viên bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục ý thức cho sinh viên trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo nước ta hiện nay. 6
  15. 4. Cách tiếp cận Để hoàn thành đề tài này tôi sẽ tiếp cận với những nguồn tài liệu cơ bản sau: - Thứ nhất, là các tác phẩm kinh điển, cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Ăngghen – Lênin bàn về vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia. - Thứ hai, là các tác phẩm của Hồ Chí Minh, chủ yếu các bài viết, bài nói của Người về vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia. - Thứ ba, là các công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giáo dục vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia Hồ Chí Minh cho sinh viên. Ngoài ra, các bài viết trên các báo và tạp chí khoa học có chủ đề liên quan về vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về chủ quyền quốc gia. Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích, thống kê tài liệu, tổng hợp, so sánh và một số phương pháp liên ngành khác. 6.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia và việc vận dụng tư tưởng đó vào giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới Việt Nam hiện nay cho sinh viên trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia. Biện pháp nâng cao ý thức sinh viên trường trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và nội dung giáo dục ý thức cho sinh viên về vấn đề biển đảo hiện nay. 7. Nội dung nghiên cứu Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung đề tài gồm có 2 chương: Chương1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc giáo dục ý thức sinh viên về bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay. 7
  16. Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA 1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng hồ chí minh về chủ quyền quốc gia 1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến chủ quyền quốc gia 1.1.1.1.Khái quát về chủ quyền quốc gia * Chủ quyền Theo từ điển Tiếng Việt, Chủ quyền là quyền làm chủ một nước về tất cả các mặt: tôn trọng chủ quyền giữ vững chủ quyền chủ quyền bị vi phạm. * Khái niệm lãnh thổ quốc gia - Lãnh thổ quốc gia: Là một phần của trái đất. Bao gồm: vùng đất, vùng nước, vùng trời trên vùng đất và vùng nước, cũng như lòng đất dưới chúng thuộc chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của một quốc gia nhất định. - Các bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia. Vùng đất: Gồm phần đất lục địa, các đảo và các quân đảo thuộc chủ quyền quốc gia. Vùng nước: Vùng nước quốc gia là toàn bộ các phần nước nằm trong đường biên giới quốc gia. Gồm: Vùng nước nội địa: gồm biển nội địa ,các ao hồ,sông suối (kể cả tự nhiên hay nhân tạo). Vùng nước biên giới : gồm biển nội địa ,các ao hồ,sông suối trên khu vực biên giới giữa các quốc gia . Vùng nước nội thuỷ: được xác định một bên là bời biển và một bên khác là đường cơ sở của quốc gia ven biển. Vùng nước lãnh hải: là vùng biển nằm ngoài và tiếp liền với vùng nội thuỷ của quốc gia. Bề rộng của lãnh hải theo công ước luật biển năm 1982 do quốc gia tự quy định nhưng không vươt quá 12 hải lí tính từ đường cơ sở. Vùng lòng đất: là toàn bộ phần nằm dưới vùng đất và vùng nước thuộc chủ quyền quốc gia.Theo nguyên tắc chung được mặc nhiên thừa nhận thì vùng lòng đất được kéo dài tới tận tâm trái đất. Vùng trời: là khoảng không bao trùm lên vùng đất vá vùng nước của quốc gia. Vùng lãnh thổ đặc biệt: Tàu thuyền ,máy bay ,các phương tiện mang cờ dấu hiệu riêng biệt và hợp pháp của quốc gia ,hoạt động trên vùng biển quốc tế, vùng 8
  17. nam cưc, khoảng không vũ trụ ngoài phạm vi lãnh thổ qốc gia minh được thừa nhận như một phần lãnh thổ quốc gia. * Khái niệm chủ quyền quốc gia. - Khái niệm: Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao, tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình. Đó là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, quốc gia có quyền đặt ra quy chế pháp li đối với lãnh thổ. Nhà nước có quyền chiếm hữu,sử dụng và định đoạt đối với lãnh thổ thông qua hoạt động của nhà nước nhự lập pháp và tư pháp. -Nội dung chủ quyền quốc gia. Lãnh thổ quốc gia thuộc chủ quyền hoàn toàn riêng biệt của một quốc gia. Quốc gia có quyền tự lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với cộng đồng cư dân sồng trên lãnh thổ mà không có sự can thiệp áp đặt dưới bất kì hình thức nào từ bên ngoài. Quốc gia có quyền tự do lựa chọn phương hướng phát triển đất nước, thực hiện những cải cách kinh tế, xã hội phù hợp với đặc điểm quốc gia.Các quốc gia khác các tổ chức quốc tế phải có nghĩa vụ tôn trọng sự lựa chọn đó. Quốc gia tự quy định chế độ pháp lí đối với từng vùng lãnh thổ. Quốc gia có quyền sở hữu hoàn toàn tài nguyên thiên nhiên trên lãnh thổ của mình. Quốc gia thực hiện quyền tài phán(xét xử) đối với những người thuộc phạm vi lãnh thổ của mình( trừ những trường hợp pháp luật quốc gia , hoặc điều ước quốc tế ma quốc gia đó tham gia là thành viên có quy định khác). Quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thích hợp đối với những Công ty đầu tư trên lãnh thổ mình. Quốc gia có quyền và nghĩa vụ bảo vệ, cải tạo lãnh tổ quốc gia theo nguyên tắc chung quốc tế,có quyền thay đổi lãnh thổ phù hợp với pháp luật và lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó. 1.1.2.Cơ sở lý luận Khái quát kinh nghiệm của lịch sử, C.Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới”[7;259]. Muốn lật đổ ách thống trị của giai cấp tư bản với bộ máy bạo lực phản các mạng ngày càng to lớn và tàn bạo của chúng, giai cấp vô sản và nhân dân lao động nhất thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng ngày càng to lớn của mình để chống lại bạo lực phản cách mạng. 9
  18. Hơn thế nữa, sau khi thiếp lập được chuyên chính vô sản, quyền lãnh đạo chính trị của giai cấp vô sản đối với toàn xã hội, thì bạo lực cách mạng vẫn có ý nghĩa rất quan trọng để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, tiếp tục đấu tranh từng bước thực hiện mục tiêu lý tưởng triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Dựa vào kinh nghiệm của Công xã Pari, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản nhất thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng để bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng còn non trẻ chống thế lực tư bản chủ nghĩa của nước mình chưa cam chịu thất bại và cả sức mạnh của chủ nghĩa tư bản các nước khác tiếp tục chống phá cách mạng vô sản. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen về vũ trang bảo vệ những thành quả cách mạng của giai cấp vô sản, V.I.Lênin đã giải quyết rất sâu sắc những vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng về vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời đại lịch sử mới – thời đại chủ nghĩa đế quốc, cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. V.I.Lênin phân tích rất sâu sắc bản chất, đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc, chỉ rõ giai đoạn đế quốc chủ nghĩa nổi bật lên xu hướng quân sự hóa, quân phiệt hóa mọi mặt đời sống xã hội, đầy đọa nhân dân lao động toàn thế giới trong thảm họa triền miên của các cuộc chiến tranh chinh phục thuộc địa, chiến tranh giữa các thế lực đế quốc giành giật và phân chia lại thế giới. Trong cuộc đua tranh phát triển hỗn độn giữa các thế lực đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin đã phát hiện ra quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa đế quốc thế giới. Người đã đưa ra một dự đoán thiên tài về khả năng cách mạng vô sản có thể nổ ra và thành công trước tiên ở một số nước, thậm chí ở một nước tư bản riêng lẻ. V.I.Lênin viết: “chủ nghĩa xã hội không thể đồng thời thắng lợi trong tất cả các nước. Trước hết, nó thắng lợi trong một nước, hoặc trong một số nước, trong khi các nước khác, trong một thời gian đó, vẫn còn là những nước tư bản hay tiểu tư sản. Tình trạng đó không những sẽ gây ra những va chạm, mà còn làm cho giai cấp tư sản các nước khác trực tiếp muốn tiêu diệt giai cấp vô sản chiến thắng của nước xã hội chủ nghĩa.Trong những trường hợp đó, về phía chúng ta chiến tranh là chính đáng và chính nghĩa. Đó là một cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giải phóng các dân tộc khác khỏi ách giai cấp tư sản” [24; 173]. 10
  19. V.I.Lênin khẳng định tính chất tất yếu lịch sử giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã giành được thắng lợi phải vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chống lại mọi mưu toan xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. V.I.Lênin phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đề cập nổi bật tư tưởng vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, coi đó là bộ phận không thể tách rời của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người đã phân tích rất sâu sắc nhiều vấn đề về vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao soi sáng con đường cách mạng lâu dài của giai cấp vô sản ở mỗi nước đấu tranh giành chính quyền, củng cố vững chắc chính quyền cách mạng để lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho đến thắng lợi cuối cùng, góp sức vào sự nghiệp của giai cấp vô sản thế giới, triệt để xóa bỏ chế độ người bóc lột người. V.I.Lênin là người đầu tiên nêu lên khái niệm “bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Ông chỉ rõ Tổ quốc là một khái niệm lịch sử. Yếu tố lãnh thổ và ngôn ngữ là những yếu tố quan trọng của Tổ quốc, bản chất của Tổ quốc cũng do chế độ kinh tế, chính trị, xã hội quyết định. V.I.Lênin khẳng định bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quy luật khách quan trong quá trình hình thành và phát triển Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là nhiệm vụ chiến lược trọng yếu thường xuyên của Đảng Cộng sản chính quyền Xô Viết và của toàn dân. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện, trong đó tập trung chủ yếu là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Tổ quốc là một hiện tượng có tính lịch sử, trong mỗi giai đoạn phát triển được đặc trưng bởi chế độ xã hội chủ nghĩa nhất định. Bản chất chính trị - xã hội của bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trước hết và tập trung ở bảo vệ chế độ xã hội đặc trưng của Tổ quốc trong giai đoạn lịch sử - cụ thể nhất định. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dẫn đến sự ra đời của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa- một Tổ quốc kiểu mới trong lịch sử nhân loại được đặc trưng bởi chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ xã hội đồn thời làm chủ Tổ quốc. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa bao gồm bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự ổn định và sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Chúng ta tán thành “Bảo vệ Tổ quốc” là một cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ 11
  20. quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc, bảo vệ nước Cộng hòa Xô-viết, với tính cách là một đơn vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”.[24; 102] V.I.Lênin nhấn mạnh phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng Cộng sản đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin đã chỉ ra sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sức mạnh tổng hợp, cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, đặc biệt, trong điều kiện còn có những khó khăn nhất định về vật chất, về vũ khí trang bị kỹ thuật, Người đã đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng và phát huy sức mạnh tinh thần trong chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin cho rằng: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”[24; 102]. Đoàn kết quốc tế là một trong những nội dung nổi bật trong học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin. Người xác định nội dung trọng tâm của đoàn kết quốc tế là luôn gương cao ngọn cờ hòa bình, lên án chiến tranh xâm lược tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc, tích cựu đấu tranh bênh vực và bảo vệ quyền lợi chân chính của các dân tộc và coi đó là những vấn đề có tính nguyên tắc đối với một Đảng cộng sản chân chính. Quan điểm về đoàn kết quốc tế trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin còn được thể hiện ở lập trường và quan điểm của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa trong giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc đó là: tôn trọng quyền dân tộc tự quyết; thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc; đoàn kết giai cấp công nhân các nước và đoàn kết các dân tộc trên thế giới. Trong học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin đã đề cập khá toàn diện đến khả năng phòng thủ đất nước, đặc biệt là vấn đề xây dựng và củng cố quốc phòng cả về tiềm lực và thế trận quốc phòng. Người khẳng định: “chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà”[24; 480 – 481]. V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến xây dựng Hồng quân vững mạnh làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định: “Sự vững bền của nước cộng hòa trong cuộc chiến đấu chống đế quốc, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Nga và trên toàn thế giối đều tùy thuộc vào sự tăng cường quân đội”[24; 102], 12
  21. phải luôn chú trọng xây dựng Hồng quân như chăm lo đến con ngươi trong mắt mình. Vì để tiến hành chiến tranh chống lại kẻ thù có quân đội chính quy được trang bị và huấn luyện đẩy đủ thì phải thành lập quân đội công nông thường trực, chính quy, được trang bị và huấn luyện tốt. Về phương thức chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin luôn coi trọng kết hợp chặt chẽ những vấn đề chiến lược về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, dựa chắc trên cơ sở xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để xử lý tốt các tình huống trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cần kiên định những nguyên tắc chiến lược, đồng thời khôn khéo, linh hoạt về mưu lược và kế sách. Bên cạnh đó,V.I.Lênin trung thành với quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc; mối quan hệ giữa dân tộc với vấn đề giai cấp; từ phân tích sâu sắc xu hướng phát triển của phong trào dân tộc và tổng kết kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, trong Cương lĩnh dân tộc do V.I.Lênin khởi xướng đã chỉ rõ: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc Vấn đề dân tộc là vấn đề là vấn đề rất phức tạp từ khi con người hình thành cho tới nay. Vì vậy, trong quá trình hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chú ý đến vấn đề dân tộc. Tiếp nhận có chọn lọc những quan điểm tiến bộ của các nhà tư tưởng, chính trị trước đó, hai ông đã sử dụng thuận ngữ “dân tộc” và “xã hội” những thuật ngữ này được sử dụng phổ biến rộng rãi vào đầu thế kỷ XIX theo nghĩa “ xã hội công dân”. Nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển dân tộc có tính khách quan của nó: Xu hướng thứ nhất: Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia đân tộc độc lập. Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn hoá trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc, xoá bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau. 13
  22. S K L 0 0 2 1 5 4