Báo cáo tổng hợp Định hướng phát triển thương mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức của Việt Nam

pdf 144 trang phuongnguyen 2180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo tổng hợp Định hướng phát triển thương mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_cao_tong_hop_dinh_huong_phat_trien_thuong_mai_trong_qua.pdf

Nội dung text: Báo cáo tổng hợp Định hướng phát triển thương mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức của Việt Nam

  1. Bộ th−ơng mại Đề tài khoa học cấp bộ Mã số: 2004-78-008 Báo cáo tổng hợp định h−ớng phát triển th−ơng mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức của Việt Nam 5897 21/6/2006 Hà Nội 12/2005
  2. Mục lục Nội dung Trang Lời nói đầu 4 Phần thứ nhất Một số vấn đề lý luận về phát triển th−ơng mại trong nền 7 kinh tế tri thức I. Khái niệm, đặc tr−ng và vai trò của kinh tế tri thức đối với phát 7 triển kinh tế - xã hội. 1. Khái niệm và đặc tr−ng của kinh tế tri thức 7 2. Vai trò của kinh tế tri thức đối với phát triển kinh tế - x∙ hội 13 2.1. Tri thức và tăng tr−ởng kinh tế 13 2.2. Kinh tế tri thức thúc đẩy qúa trình toàn cầu hóa kinh tế 14 II. Vai trò và mối quan hệ giữa phát triển th−ơng mại và kinh tế 18 tri thức 1. Tác động của kinh tế tri thức đối với phát triển th−ơng mại 18 2. Vai trò của th−ơng mại đối với phát triển kinh tế tri thức 22 III. Đặc tr−ng của th−ơng mại trong nền kinh tế tri thức 26 IV. Kinh nghiệm phát triển th−ơng mại trong quá trình hình thành 33 nền kinh tế tri thức ở một số n−ớc và bài học cho Việt Nam 1. Kinh nghiệm của một số n−ớc 33 2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 38 Phần thứ hai Thực trạng trình độ và khả năng đáp ứng của th−ơng mại 42 Việt Nam trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam I. Khái quát thực trạng phát triển kinh tế và khả năng hình thành 42 nền kinh tế tri thức ở Việt Nam 1
  3. II. Thực trạng trình độ và khả năng đáp ứng của th−ơng mại Việt 53 Nam trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam Phần thứ ba Định h−ớng phát triển th−ơng mại trong quá trình hình 70 thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam và các giải pháp thực hiện I. Dự báo bối cảnh và các nhân tố tác động đến phát triển th−ơng 70 mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam thời kỳ đến năm 2010, 2020. 1. Bối cảnh trong n−ớc: 70 2. Bối cảnh quốc tế : 71 II. Mục tiêu, quan điểm phát triển th−ơng mại trong quá trình hình 74 thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam thời kỳ đến năm 2010, 2020 1. Mục tiêu 74 2. Các quan điểm 74 III. Định h−ớng phát triển th−ơng mại trong quá trình hình thành 76 nền kinh tế tri thức ở Việt Nam thời kỳ đến năm 2010, 2020. 1. Phát triển th−ơng mại Việt Nam dựa trên nền tảng của sự phát triển 76 tri thức, tăng c−ờng hàm l−ợng tri thức trong mỗi hoạt động của ngành. 2. Phát triển th−ơng mại điện tử là trọng tâm của các hoạt động 81 th−ơng mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam 3. Phát triển th−ơng mại Việt Nam theo h−ớng ngày càng hội nhập sâu, 84 rộng vào nền th−ơng mại thế giới 4. Phát triển mạnh th−ơng mại dịch vụ trong mối quan hệ với phát 87 triển th−ơng mại hàng hóa và vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ 5. Phát triển th−ơng mại theo h−ớng văn minh hiện đại, chú trọng đến 89 bảo vệ lợi ích của ng−ời tiêu dùng và bảo vệ môi tr−ờng 2
  4. 6. Quản lý Nhà n−ớc về th−ơng mại phải dựa vào và gắn kết 92 chặt chẽ với xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử IV. Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển th−ơng mại trong 95 quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam thời kỳ đến năm 2010, 2020. 1. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành th−ơng mại Việt Nam 95 2. Giải pháp về đầu t− hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng th−ơng 101 mại 3. Giải pháp đổi mới quản lý Nhà n−ớc về th−ơng mại 103 4. Giải pháp hợp tác quốc tế về th−ơng mại 105 V. Một số kiến nghị 109 Kiến nghị với Chính phủ 109 Kiến nghị với Bộ Th−ơng mại 110 Một số khuyến nghị với hiệp hội, các doanh nghiệp 111 Kết luận 112 Tài liệu tham khảo 113 3
  5. Lời nói đầu Từ cuối thế kỷ XX và sang thế kỷ XXI, với sự hình thành nền kinh tế tri thức đã đ−a nhân loại b−ớc sang thời đại văn minh mới - văn minh trí tuệ; trong đó việc sáng tạo và khai thác tri thức sẽ là phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải, nâng cao chất l−ợng cuộc sống; trí thức đã trở thành nhân tố quan trọng nhất, đóng góp vào tăng tr−ởng kinh tế và phát triển xã hội của các quốc gia. Bằng sử dụng tri thức mới đã đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo giá trị gia tăng cao, nâng cao chất l−ợng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng tr−ởng và bảo đảm sự phát triển bền vững. ở các n−ớc thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), kinh tế tri thức đã chiếm hơn 50% GDP, công nhân trí thức chiếm hơn 60% lực l−ợng lao động; đối với một số n−ớc đang phát triển, kinh tế tri thức cũng mang lại nhiều thành quả đáng kể. Để rút ngắn khoảng cách, con đ−ờng tất yếu của Việt Nam cũng nh− các n−ớc đang phát triển là phải ra sức tranh thủ tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, từng b−ớc xây dựng và phát triển các yếu tố của nền kinh tế tri thức trong mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa ph−ơng để tạo đòn bẩy trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n−ớc với thời gian ngắn nhất. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung −ơng Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "phát huy những lợi thế của đất n−ớc, tận dụng mọi khả năng để đạt đ−ợc trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng b−ớc phát triển kinh tế tri thức". Hiện nay, ở n−ớc ta tuy kinh tế tri thức mới ở thời kỳ đầu trong quá trình hình thành và phát triển, nh−ng đã đạt đ−ợc những thành tựu đáng kể và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Là một bộ phận cấu thành trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, lĩnh vực th−ơng mại n−ớc ta cũng đang b−ớc đầu chuyển động từ l−u thông, trao đổi và phân phối các hàng hoá là sản phẩm của nền kinh tế tài nguyên sang l−u thông, trao đổi và phân phối các sản phẩm của nền kinh tế tri thức. Th−ơng mại, nhất là th−ơng mại điện tử đang vừa là tác nhân vừa là hệ quả tất yếu của nền kinh tế tri thức. Một mặt, th−ơng mại góp phần thúc đẩy hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức. Mặt khác, sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với sự phát triển của th−ơng mại nhằm đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Việc nghiên cứu đề tài "Định h−ớng phát triển 4
  6. th−ơng mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam" là hết sức cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng mang tính chiến l−ợc. * Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về kinh tế tri thức và phát triển th−ơng mại trong nền kinh tế tri thức. - Đánh giá thực trạng trình độ và khả năng đáp ứng của th−ơng mại Việt Nam trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. - Đề xuất định h−ớng phát triển th−ơng mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam thời kỳ đến năm 2010, 2020 và các giải pháp để thực hiện các định h−ớng đó. * Đối t−ợng và phạm vi nghiên cứu : - Đối t−ợng nghiên cứu Là các hoạt động th−ơng mại và định h−ớng phát triển th−ơng mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam thời kỳ đến năm 2010, 2020 cùng với các giải pháp thực hiện các định h−ớng đó. - Giới hạn phạm vi nghiên cứu: + Lĩnh vực nghiên cứu: Th−ơng mại hàng hoá, th−ơng mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ liên quan đến th−ơng mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam + Về không gian: Trên phạm vi toàn quốc, trong đó trọng tâm là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. + Về thời gian: Số liệu đánh giá hiện trạng từ 1990 và định h−ớng phát triển th−ơng mại thời kỳ đến năm 2010, 2020 * Ph−ơng pháp nghiên cứu: - Khảo sát thực tế tại một số đơn vị hoạt động th−ơng mại điển hình trên phạm vi cả n−ớc, đặc biệt là ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. - Ph−ơng pháp hệ thống hoá và khái quát hoá - Ph−ơng pháp tổng hợp và phân tích - Ph−ơng pháp so sánh - Ph−ơng pháp chuyên gia - Các ph−ơng pháp khác 5
  7. *Nội dung nghiên cứu: Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung báo cáo tổng hợp gồm 3 phần chính: Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận về phát triển th−ơng mại trong nền kinh tế tri thức . Phần thứ hai: Thực trạng trình độ và khả năng đáp ứng của th−ơng mại Việt Nam trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Phần thứ ba: Định h−ớng phát triển th−ơng mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam và các giải pháp thực hiện. 6
  8. Phần thứ nhất Một số vấn đề lý luận về phát triển th−ơng mại trong nền kinh tế tri thức I. Khái niệm, đặc tr−ng và vai trò của kinh tế tri thức đối với phát triển kinh tế - xã hội. 1. Khái niệm và đặc tr−ng của kinh tế tri thức Theo quan niệm truyền thống, tri thức là "những điều hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện t−ợng tự nhiên hoặc xã hội". Tri thức hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Sự phát triển của tri thức luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học và công nghệ. Trong nền sản xuất xã hội, dù ở trình độ phát triển nào, sản phẩm do con ng−ời tạo ra ít nhiều đều chứa đựng những yếu tố của tri thức. Sự biến đổi ý nghĩa của tri thức đã trải qua ba giai đoạn: - Cách mạng công nghiệp: Trong khoảng 100 năm, thời kỳ 1700 - 1800, tri thức đ−ợc áp dụng vào các công cụ sản xuất, ph−ơng thức sản xuất và cho các sản phẩm. Qua đó đã tạo ra cuộc cách mạng công nghiệp. - Cách mạng về năng suất: Giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX, kết thúc vào thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tri thức đ−ợc áp dụng trong tổ chức lao động đã làm tăng nhanh năng suất lao động. Giai đoạn này tạo ra cuộc cách mạng về năng suất kéo dài trong suốt 75 năm, năng suất lao động đã tăng khoảng 50 lần ở các n−ớc đang phát triển. - Cách mạng về quản lý: Giai đoạn cuối cùng, tri thức đ−ợc áp dụng cho chính bản thân tri thức. Đó là cuộc cách mạng về quản lý, tri thức trở thành một nhân tố sản xuất, làm giảm vai trò của cả vốn và sức lao động. Định nghĩa về quản lý đ−ợc thay đổi từ quan niệm đơn giản là chịu trách nhiệm với cấp d−ới chuyển thành quan niệm chịu trách nhiệm vận dụng tri thức sao cho hiệu quả. Sự thay đổi đó làm cho loài ng−ời nhận thức tri thức là nguồn lực cơ bản. Tất nhiên đất đai, lao động và vốn là rất quan trọng, nhất thiết phải có, bởi vì nếu không có chúng, tri thức chẳng có nghĩa gì. Nh−ng khi công việc quản lý có hiệu quả bằng việc vận dụng tri thức vào tri thức thì chúng đ−ợc coi là một nguồn lực khác có sức mạnh quan trọng. 7
  9. Ba cuộc cách mạng trên đã làm thay đổi ý nghĩa của tri thức. Đó là quá trình chuyển từ số ít sang số nhiều, từ chỗ đ−ợc ứng dụng trong phạm vi nhỏ hẹp sang việc ứng dụng trong các hoạt động sản xuất và kinh doanh trên quy mô toàn cầu. Khái niệm "kinh tế tri thức" đ−ợc Liên hợp quốc chính thức sử dụng từ đầu những năm 1990. Đó là nền kinh tế chủ yếu dựa vào khoa học và tri thức, cốt lõi của nền kinh tế tri thức chính là công nghệ cao. Trong thực tế khái niệm này còn đ−ợc gọi bằng nhiều tên khác nhau nh− " nền kinh tế số", "nền kinh tế thông tin", "nền kinh tế mới" với những cách giải thích khác nhau, nh−ng về cơ bản đều nhấn mạnh vai trò của tri thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1995, Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đ−a ra khái niệm tổng hợp về kinh tế tri thức, đó là những nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức thông tin. Đến năm 2000, theo định nghĩa của tổ chức OECD và APEC đã điều chỉnh lại " Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó có sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng tr−ởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế ". Đây là khái niệm đ−ợc sử dụng phổ biến nhất hiện nay ở các n−ớc trên thế giới. Đối với Việt Nam, cho đến nay qua nhiều cuộc hội thảo quốc gia vẫn ch−a đi đến khái niệm thống nhất về kinh tế tri thức, nh−ng nhiều nhà kinh tế học n−ớc ta đều cho rằng sử dụng khái niệm về kinh tế tri thức của tổ chức OECD và APEC là hợp lý và đang bắt đầu tiếp cận, nghiên cứu các giải pháp để làm thế nào xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Dựa trên cơ sở trình độ phát triển của lực l−ợng sản xuất, nhiều nhà khoa học đã chia sự phát triển nền sản xuất xã hội thành ba trình độ phát triển với những đặc tr−ng rất khác nhau: - Nền kinh tế nông nghiệp - Nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế nông nghiệp có đặc tr−ng chủ yếu là sức lao động cơ bắp của con ng−ời và tài nguyên thiên nhiên là cơ sở chủ yếu tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu đơn giản và thấp kém của con ng−ời. Còn trong nền kinh tế công nghiệp, vai trò của tri thức đã chiếm vị trí quan trọng hơn từ những kinh nghiệm hoạt động thực tế đến sự khám phá những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và t− duy để đ−a ra những sáng chế, phát minh nhằm tăng năng suất, chất l−ợng và hiệu quả Nền kinh tế tri thức có những đặc tr−ng sau: 8
  10. Thứ nhất, tri thức khoa học và công nghệ, kỹ năng của con ng−ời trở thành lực l−ợng sản xuất quan trọng hàng đầu. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức khoa học và công nghệ của con ng−ời đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của mọi biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội thông qua việc tạo ra những ngành sản xuất mới đóng vai trò mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế, tạo ra những ph−ơng pháp sản xuất mới, những vật liệu và năng l−ợng mới với những −u thế v−ợt trội so với những công cụ, nguyên liệu, năng l−ợng và ph−ơng pháp truyền thống do cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra. Sự cống hiến của tri thức công nghệ đối với tăng tr−ởng kinh tế ngày càng lớn. Nếu nh− thập kỷ 50, đóng góp của khoa học, công nghệ cho nền kinh tế chiếm tỷ trọng 30% thì b−ớc sang nền kinh tế tri thức, tỷ lệ đóng góp của nó tới 80%. Điều đó nói lên rằng, phần lớn các sản phẩm của xã hội đều do khoa học công nghệ mang lại, nếu không muốn nói rằng tất cả các sản phẩm đó đều đã có sự tác động ở mức độ nhất định bởi các yếu tố khoa học công nghệ. Trong nền kinh tế mới, tăng tr−ởng kinh tế chủ yếu do quá trình chuyển hoá từ tiêu hao của cải vật chất sang tiêu hao tri thức và giá trị gia tăng của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ do tri thức tạo ra không ngừng đ−ợc nâng lên. Rất nhiều ngành trong nông nghiệp và công nghiệp đang trở thành những ngành hoạt động cần có tri thức. Do đó phần đông lao động trong các n−ớc công nghiệp có trình độ chuyên môn và nghề nghiệp cao. ở Hoa Kỳ, đến 60% công nhân là công nhân tri thức và 80% số nghề mới xuất hiện là do tri thức tạo ra. Nếu nh− tr−ớc đây các nền kinh tế cố gắng duy trì các ngành nghề truyền thống thì nền kinh tế tri thức h−ớng đến tạo ra các nghề mới ứng dụng tri thức và công nghệ. Do đó uy quyền và vị trí của tri thức ngày càng đ−ợc đề cao. Thứ hai, sự phát triển mạnh mẽ và ứng dụng rộng rãi với hiệu quả cao của công nghệ thông tin. Sự phát triển công nghệ thông tin là một trong những biểu hiện rõ nhất của sự phát triển trí tuệ con ng−ời, đồng thời nó cũng là ph−ơng tiện quan trọng hàng đầu cho sự phát triển trí tuệ. Tại các n−ớc công nghiệp đang có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp và kinh tế công nghiệp sang kinh tế thông tin. Ngành truyền thông bao gồm hệ thống thiết kế, truyền và xử lý thông tin đang chiếm vị trí cao trong nền kinh tế quốc dân. ở Hoa Kỳ, ngành thông tin không những là ngành công nghiệp lớn nhất mà còn là ngành có tốc độ tăng tr−ởng cao nhất. Mức chi tiêu cho việc sử dụng các sản phẩm thông tin đang ở mức hàng đầu, bởi vì tiêu dùng cho các sản phẩm đồ điện gia dụng, ô tô hàng năm chỉ tăng 1%, trong khi mức cho máy tính, điện thoại, các hoạt động vui chơi giải trí trên các ph−ơng tiện thông tin tại Hoa Kỳ hàng năm tăng 12% những năm gần đây. Điều đặc biệt làm cho con ng−ời chú ý tới là 9
  11. các ứng dụng của công nghệ thông tin trong kinh tế - xã hội đã xuất hiện hầu khắp, d−ới dạng điện tử hoá và số hoá. Trong điều kiện của nền kinh tế cũ, sự vận động của thông tin mang tính vật chất d−ới dạng tiền mặt, hoá đơn, chứng từ, báo cáo, séc thì trong điều kiện của nền kinh tế tri thức, thông tin đ−ợc truyền và trao đổi d−ới dạng số. Tốc độ truyền tải nhanh đến mức chỉ thua tốc độ ánh sáng, thông tin đã làm nhịp độ cuộc sống, hoạt động sản xuất kinh doanh “sôi động” hẳn lên. Mấy năm gần đây th−ơng mại điện tử phát triển nhanh. Ngày càng có nhiều th−ơng phẩm đ−ợc bán, mua thông qua mạng l−ới thông tin điện tử và việc thanh toán các khoản tiền cũng thông qua các ph−ơng tiện này. ở những n−ớc công nghiệp phát triển nh− Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số quốc gia Châu Âu, nhịp độ tăng hoạt động th−ơng mại điện tử những năm đầu thế kỷ XXI dự báo sẽ từ 2 đến 3 lần một năm. Thứ ba, nền kinh tế tri thức lấy thị tr−ờng toàn cầu làm h−ớng hoạt động chính. Công nghệ thông tin, nhất là mạng Internet làm cho không gian trở nên nhỏ bé. Tri thức, công nghệ, vốn, hàng hoá, lao động, cách quản lý không bị bó hẹp trong biên giới một quốc gia, giúp cho hoạt động kinh tế mang tính toàn cầu. Mối quan hệ kinh tế, công nghiệp, th−ơng mại xuyên quốc gia giữa các n−ớc, các khu vực và các doanh nghiệp thúc đẩy kinh tế toàn cầu phát triển, tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu không phải chỉ có các công ty xuyên quốc gia, mà ngay cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều tiếp cận đến thị tr−ờng thông qua các công ty lớn trung gian. Ngày càng có nhiều công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Tây Âu bị cuốn hút vào làn sóng toàn cầu hoá. Giá trị xuất nhập khẩu của các công ty xuyên quốc gia chiếm tới 2/3 tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả thế giới. Nhờ đ−ợc trang bị các thiết bị thông tin hiện đại, công tác quản lý, việc thiết kế và tiêu thụ sản phẩm, khoảng cách giữa ng−ời sản xuất và ng−ời tiêu dùng đều đ−ợc rút ngắn và trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Mặc dù các khâu trung gian và biên chế giảm nh−ng hiệu quả sản xuất vẫn đ−ợc nâng lên. Mọi ng−ời có thể làm việc ở các địa điểm khác nhau tại các công ty con, nh−ng mối liên kết trong mạng l−ới các công ty rất chặt chẽ. Bằng ph−ơng pháp giả định thông qua các số liệu tính toán giúp cho các nhà quản lý đ−a ra các ph−ơng án sản xuất, các quyết định đúng đắn mà không phải đến tận nơi sản xuất. Các xí nghiệp nòng cốt của các n−ớc công nghiệp chuyển sang phục vụ các nhu cầu cá biệt, không chạy theo số l−ợng mà h−ớng vào mục tiêu chất l−ợng. ở mọi ngành công nghiệp, cách thức sản xuất ra hàng hoá chính xác và có chất l−ợng cao là t−ơng tự nhau, các hoạt động chứa đựng hàm l−ợng tri thức cao, lợi nhuận cao đang đ−ợc chuyên môn hoá. 10
  12. Thứ t−, tri thức và những phát minh khoa học và công nghệ sản sinh từ tri thức ở trình độ cao là yếu tố cơ bản tạo nên lợi thế cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của quốc gia. Việc phát huy lợi thế so sánh là điều kiện quan trọng bảo đảm hiệu quả của việc mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế. Tri thức tạo nên lợi thế cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của quốc gia, nên sáng tạo đ−ợc coi là động lực của sự phát triển và đầu t− vào nghiên cứu, phát minh ngày càng đ−ợc coi trọng. Trong điều kiện cạnh tranh, sự đổi mới công nghệ, sự năng động, nhạy bén với sự thay đổi là yếu tố cơ bản tạo nên năng lực cạnh tranh, bảo đảm nền tảng vững chắc cho sự tồn tại và phát triển của mỗi chủ thể. Điều đó cho thấy khoa học thực sự trở thành lực l−ợng sản xuất hàng đầu, tri thức khoa học là yếu tố quan trọng nhất tạo nên lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Thứ năm, nền kinh tế tri thức mang đặc tính tăng tr−ởng bền vững, làm mờ nhạt các chu kỳ kinh tế. Các c−ờng quốc kinh tế nh− Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số n−ớc trong EU có lúc tăng tr−ởng khá, có lúc trì trệ, nh−ng khi quan sát kỹ ng−ời ta thấy chu kỳ kinh tế đã có những thay đổi khác hẳn so với tr−ớc: - Thời kỳ tăng tr−ởng kinh tế đ−ợc kéo dài hơn. Thí dụ Hoa Kỳ, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, đã xuất hiện 9 chu kỳ kinh tế. Thập kỷ 80, thời gian mở rộng của chu kỳ kinh tế là 92 tháng, thập kỷ 90 là106 tháng. Theo dự báo, kinh tế Hoa Kỳ có thể rơi vào thời kỳ suy thoái, nh−ng thời gian suy thoái sẽ rút ngắn, bởi vì chu kỳ kinh tế trong thời kỳ tăng tr−ởng ở giai đoạn sau v−ợt qua giai đoạn tr−ớc. Thời gian thu hẹp của chu kỳ tức là thời kỳ suy thoái kinh tế đ−ợc rút ngắn lại. Suy thoái trong thời kỳ đầu thập kỷ 90 ở Hoa Kỳ chỉ kéo dài trong vòng 8 tháng, đó là thời kỳ suy thoái ngắn nhất và nhẹ nhất sau chiến tranh với mức giảm GDP là 1,1% và giảm sản xuất công nghiệp 5,1%. - Trong thời kỳ mở rộng hoặc bột phát không xảy ra những thay đổi thất th−ờng, tính dao động và mức độ thiệt hại của nền kinh tế là không đáng kể. Điều hiếm thấy là trong thời kỳ mở rộng tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát ở Hoa Kỳ đều ở mức thấp. - Mở rộng quy mô kinh tế song song với mức tăng đầu t− cho các xí nghiệp kéo theo sự tăng tr−ởng về việc làm. Từ đầu thập kỷ 1990 đến nay mức tăng tr−ởng việc làm hàng năm tại Hoa Kỳ là hơn 2%, gấp 2 lần so với mức tăng trung bình trong thời kỳ 1970-1980. Mức tăng tr−ởng việc làm có chuyên môn cao ở hầu khắp các ngành đã làm cho kinh tế Hoa Kỳ tăng 11
  13. tr−ởng bền vững. Qua đây cho thấy, quan hệ kinh tế quốc tế sẽ phát triển một cách ổn định, làm giảm nguy cơ về khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới. Thứ sáu, chủ quyền về lãnh thổ quốc gia cần phải đ−ợc nhận thức, quan niệm sát thực và linh hoạt. Bởi vì, ngày càng có nhiều hãng trong n−ớc chuyển ra n−ớc ngoài sản xuất, đất đai trở nên kém giá trị hơn so với công nghệ. áp lực về tri thức và vốn đầu t− trực tiếp n−ớc ngoài làm cho chức năng Nhà n−ớc, đặc biệt là các quốc gia nghèo phải đ−ợc xác định lại. Những quốc gia mạnh về công nghệ, quân sự và kinh tế sẽ chiếm phần lớn tổng giá trị sản l−ợng của nền kinh tế toàn cầu. Phần lớn giá trị đó nằm trong tay các công ty xuyên quốc gia. Kết cục là ở mọi n−ớc, dù giầu hay nghèo, chức năng của Chính phủ đều bị thu hẹp lại. Khác tr−ớc, Nhà n−ớc không còn chức năng điều khiển các nguồn lực mà tập trung vào chức năng đàm phán để lợi dụng các cơ hội vì mục tiêu phát triển kinh tế. Nh− vậy, chiến l−ợc kinh tế có vị trí rất quan trọng không kém chiến l−ợc quân sự và ở mỗi cơ quan đại sứ tại n−ớc ngoài họ không chỉ làm chức năng ngoại giao mà còn có chức năng kinh tế, nh− xúc tiến th−ơng mại, thu hút FDI. Gần đây khái niệm Nhà n−ớc ảo, công ty ảo, đã đ−ợc nêu ra. Trụ sở của các công ty ảo rất xa, ít ai biết đến, những công ty đó biết đầu t−, biết tiêu thụ sản phẩm vào những nơi có lợi nhất. Khác với công ty ảo quan tâm đến sản xuất, Nhà n−ớc ảo quan tâm tới các chiến l−ợc chung và quan tâm vào đầu t− phát triển nhân lực. Để đánh giá các nền kinh tế theo góc độ của kinh tế tri thức, phần lớn các nhà nghiên cứu đã sử dụng hệ thống chỉ tiêu Ma trận đánh giá tri thức (KAM - Knowledge Assessment Matrix) do Tổ chức Ngân hàng Thế giới (WB) xây dựng. Hệ thống này bao gồm 61 chỉ tiêu đánh giá cơ cấu và tính chất kinh tế - xã hội của một quốc gia về trình độ kinh tế tri thức. Cụ thể là 7 chỉ tiêu đo l−ờng chế độ kinh tế, 7 chỉ tiêu đo l−ờng thể chế, 14 chỉ tiêu đo l−ờng nguồn lực con ng−ời, 12 chỉ tiêu đo l−ờng hệ thống đổi mới và 13 chỉ tiêu đo l−ờng kết cấu hạ tầng thông tin. Tất cả các chỉ tiêu này đều có thang điểm 10. Mục tiêu của KAM là xác định các vấn đề và cơ hội mà một n−ớc phải đối mặt trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế tri thức, cũng nh− những trọng tâm chính sách và đầu t− trong t−ơng lai. Theo WB, bộ 61 chỉ tiêu này nhằm đo l−ờng bốn mảng tiền đề hay điều kiện thiết yếu nhằm phát triển một nền kinh tế tri thức đ−ợc WB tổng kết từ thực tế xây dựng nền kinh tế tri thức ở các n−ớc phát triển và đang phát triển, đó là: - Một môi tr−ờng kinh tế và thể chế cung cấp nhiều sự khuyến khích đối với việc sử dụng có hiệu quả những tri thức mới và thúc đẩy sự nẩy nở tinh thần kinh doanh. 12
  14. - Một hệ thống giáo dục và đào tạo sản sinh ra lực l−ợng lao động lành nghề, có kỹ năng và năng động để sản xuất, chia sẻ và sử dụng tốt tri thức. - Một kết cấu hạ tầng thông tin năng động để tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên lạc, truyền bá và xử lý hữu hiệu thông tin. - Một hệ thống đổi mới có hiệu quả gồm các hãng, các trung tâm nghiên cứu, các tr−ờng đại học, các nhà t− vấn và các tổ chức khác để khai thác khối tri thức toàn cầu, cập nhật và đồng hoá chúng nhằm phục vụ cho những nhu cầu địa ph−ơng. 2. Vai trò của kinh tế tri thức đối với phát triển kinh tế - x∙ hội 2.1. Tri thức và tăng tr−ởng kinh tế Sự ra đời và phát triển kinh tế tri thức luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học và công nghệ cao cùng với hiệu quả to lớn do biết ứng dụng những công nghệ đó vào đời sống kinh tế - xã hội. Trong mỗi nền kinh tế, năng suất, chất l−ợng và hiệu quả phụ thuộc vào nhiều nhân tố, nh−ng nhân tố giữ vai trò quyết định là trình độ phát triển khoa học và công nghệ gắn liền với nó là năng lực con ng−ời. - Sự phát triển kinh tế tri thức tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia cũng nh− cơ cấu kinh tế toàn cầu. Ngày nay lợi thế của một n−ớc so với n−ớc khác trong một số ngành hoặc trong buôn bán không thể xem xét lâu dài trên quan điểm tĩnh trong điều kiện các yếu tố về cung lao động, đất đai và tài nguyên là không thay đổi. Một khi tri thức và tiềm năng của tri thức đã đ−ợc tính đến thì lợi thế động t−ơng đối mà các quốc gia tạo ra cho chính bản thân họ là rất quan trọng. Và nh− vậy theo quan điểm lợi thế động thì các n−ớc đang phát triển sẽ là những n−ớc nhập khẩu tri thức phụ thuộc vào các chính sách khuyến khích nhập khẩu tri thức, chính sách đó có tác động mạnh đến việc cải thiện mức sống. Những n−ớc rút ngắn khoảng cách về mức sống, chủ yếu do họ biết tranh thủ các cơ hội, nắm bắt đ−ợc phần lợi nhuận lớn của tri thức - nhân tố đ−a lại phúc lợi cho các n−ớc công nghiệp. Các n−ớc đang phát triển có những cơ hội to lớn hơn để tăng tr−ởng nhanh và có thể đuổi kịp các n−ớc công nghiệp. Nắm vững lấy cơ hội này, trong nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh và có thể đuổi kịp các n−ớc công nghiệp, các n−ớc đang phát triển không tự giới hạn việc tích luỹ nguồn vốn vật chất và không ngừng mở mang giáo dục dân chúng. Điều cơ bản là phải có ý t−ởng mới, biết nắm bắt lợi ích của công nghệ hiện đại, có nghĩa là mở rộng sức mạnh và tầm vóc tri thức của quốc gia. 13
  15. - Sự phát triển kinh tế tri thức tạo nên những biến đổi xã hội sâu sắc. Trong nền kinh tế tri thức, với những thành tựu mới của khoa học và công nghệ dẫn đến sự biến đổi to lớn về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động xã hội. Trình độ của ng−ời lao động đ−ợc nâng cao t−ơng ứng với trình độ của khoa học và công nghệ. Lao động trong các ngành đại diện cho kinh tế tri thức có sự gia tăng về tỷ trọng và là lực l−ợng chủ yếu tạo ra giá trị gia tăng. Điều kiện lao động cũng có sự thay đổi theo h−ớng môi tr−ờng lao động đ−ợc cải thiện, ng−ời lao động có điều kiện phát triển toàn diện hơn. Tuy nhiên với sự phát triển của kinh tế tri thức cũng làm gia tăng sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các quốc gia. Những n−ớc không khuyến khích đầu t− vào việc sử dụng tri thức có hiệu quả từ kho tàng tri thức toàn cầu sẽ bị tụt hậu xa hơn so với những n−ớc thành công trong việc biết khuyến khích đầu t− để sử dụng nó. 2.2. Kinh tế tri thức thúc đẩy qúa trình toàn cầu hóa kinh tế Các xu h−ớng toàn cầu hoá và những thay đổi lớn trong quá trình đổi mới nền kinh tế là hai hiện t−ợng song hành, có quan hệ khăng khít với nhau và quyết định nền kinh tế toàn cầu ngày nay. Các doanh nghiệp, các khu vực kinh tế của Nhà n−ớc đang phải đối mặt với áp lực cạnh tranh trên thị tr−ờng thế giới ngày càng khốc liệt. Điều đó không chỉ liên quan đến các sản phẩm hàng hoá mà còn cả trong các lĩnh vực th−ơng mại, dịch vụ. áp lực đó tạo ra sự đổi mới, là tác nhân làm thay đổi các hình thức tổ chức và đổi mới công nghệ trong các lĩnh vực chế tạo và dịch vụ. Những phát minh quan trọng trong giao thông, truyền thông và những tiến bộ v−ợt bậc trong công nghệ thông tin là ba yếu tố quan trọng của quá trình toàn cầu hoá. Những đặc điểm và tác dụng của toàn cầu hoá sẽ giúp chúng ta hiểu đ−ợc về sự đổi mới của nền kinh tế thế giới và quá trình phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức trong vài thập kỷ gần đây. - Tự do hoá thị tr−ờng tài chính và sự luân chuyển vốn là quá trình chủ yếu của các n−ớc đang phát triển diễn ra vào đầu thập kỷ 80. Từ năm 1990, OECD cho phép các doanh nghiệp trong n−ớc tiếp cận các dòng vốn n−ớc ngoài, hoặc đầu t− vào lĩnh vực tài chính ra bên ngoài, đồng thời mở cửa thị tr−ờng tài chính cho các công ty n−ớc ngoài cạnh tranh. Một số thoả −ớc của OECD và EU đã thúc đẩy nhanh quá trình tự do hoá tài chính. Điều lệ về tự do hoá dòng vốn của OECD đã có tác dụng đo đ−ợc mức độ tự do hoá tài chính và so sánh mức độ tự do hoá tài chính giữa các quốc gia với nhau. Sức mạnh của vốn tài chính đ−ợc phản ánh qua mức tăng tr−ởng kinh tế, tỷ suất lợi nhuận thực tế và thúc đẩy cạnh tranh. Tuy nhiên, muốn đạt đ−ợc lợi ích lâu dài thì các 14
  16. công ty phải đổi mới và theo đuổi mục tiêu đầu t− cao hơn cho nghiên cứu và triển khai (R&D), có nghĩa là đầu t− vào tri thức. - Tự do hoá về th−ơng mại cũng là một h−ớng chủ yếu của kinh tế thế giới trong suốt ba thập kỷ gần đây. Hội nghị bàn tròn của GATT đ−ợc tổ chức vào năm 1994 tại Urugoay đã đạt đ−ợc những b−ớc tiến mới. Một là tăng c−ờng hoạt động th−ơng mại trong sản xuất hàng hoá, hai là chỉ hạn chế hoạt động th−ơng mại trong một số lĩnh vực dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và hàng nông sản. Mặc dù hội nghị có thành công, những sự khác biệt trong xu h−ớng tự do hoá th−ơng mại giữa các quốc gia rất lớn do quy mô và trình độ phát triển của các nền kinh tế rất khác nhau. Nên ở một số n−ớc đã hình thành các khu th−ơng mại tự do, thí dụ NAFTA, AFTA. Thực tế khách quan trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới đã có tác động tích cực đến mỗi quốc gia. - Tốc độ gia tăng thông tin trên thị tr−ờng thế giới cùng với cơ sở vật chất của công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng đã giúp cho quá trình trao đổi thông tin toàn cầu tăng đáng kể từ thập kỷ 80. Hơn hai thập kỷ gần đây đã có sự hoàn thiện về cơ sở hạ tầng giao thông với sự ra đời của mạng l−ới giao thông nhanh hơn, trực tiếp hơn bằng đủ mọi ph−ơng tiện (đ−ờng bộ, đ−ờng thuỷ và đ−ờng hàng không). Lý do khuyến khích cho quá trình vận chuyển phát triển, một mặt là do công nghệ trong lĩnh vực giao thông tiến bộ nhanh, mặt khác do tự do hoá trong lĩnh vực giao thông để tiếp cận đến các thị tr−ờng thế giới. Các xu h−ớng này cho thấy khả năng tiếp cận luôn luôn đ−ợc coi là yếu tố chủ yếu, then chốt để phát triển kinh tế. Từ giữa thập kỷ 80 hệ thống máy tính đã đem lại những thay đổi lớn lao cho nơi làm việc, cho cuộc sống riêng t−, cho hoạt động th−ơng mại, cho bộ máy xã hội. Sự sáng tạo và quá trình tiếp thị nhanh chóng các sản phẩm phần mềm của máy tính đã làm nền tảng cho sự hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng về thông tin và viễn thông. Sự phát triển của hệ thống vệ tinh, cáp quang, các Anten tinh xảo và điện thoại di động là trung tâm của những thay đổi về hệ thống hạ tầng cơ sở thông tin. Hạ tầng cơ sở và công nghệ thông tin có quan hệ với nhau, củng cố cho nhau để tạo ra b−ớc phát triển nhảy vọt mà sản phẩm của nó là hệ thống truyền tin mới, mạng Internet. Các quyết định chính trị của các quốc gia công nghiệp là phát triển những xa lộ thông tin viễn thông nhằm đón đầu xu h−ớng phát triển của nền kinh tế tri thức. Tiến tới một xã hội thông tin là xu thế tất yếu, là một quá trình cần đẩy nhanh, mặc dầu có thể nhìn thấy tr−ớc một thảm họa phân cực đang xảy ra giữa các nhóm xã hội, giữa các tầng lớp khác nhau trong xã hội tr−ớc các cơ 15
  17. hội đ−ợc giáo dục để thu đ−ợc tri thức và tr−ớc các cơ hội đ−ợc tiếp cận khoa học, công nghệ hiện đại. - Các xu h−ớng toàn cầu hoá tác động mạnh đến kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá; đồng thời làm tăng tính cạnh tranh trên thị tr−ờng quốc tế. Sự mở rộng thị tr−ờng sản phẩm và dịch vụ ảnh h−ởng đến số l−ợng ng−ời mua, ng−ời bán và sự năng động cạnh tranh trên mỗi thị tr−ờng. Toàn cầu hoá có quan hệ khăng khít với quá trình đổi mới. Quá trình đổi mới đã diễn ra mau chóng trong hai thập kỷ qua cùng nhịp độ với tốc độ thay đổi về công nghệ. - Những thay đổi trong quá trình đổi mới bao gồm việc nghiên cứu và triển khai đến khía cạnh tổ chức sản xuất và đ−a sản phẩm ra thị tr−ờng tiêu thụ là một quá trình có ảnh h−ởng lớn đến sự thay đổi công nghệ và lợi ích kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá sự đổi mới công nghệ đ−ợc gia tăng theo các h−ớng chính: + Tăng tốc độ nhờ có sự góp sức một cách rộng khắp mọi nơi của công nghệ thông tin và truyền thông đã làm cho công nghệ thay đổi nhanh. + Những sản phẩm mới ngày càng chứa đựng hàm l−ợng công nghệ cao và công nghệ cao lại dựa vào các thành quả khoa học khác nhau. Lợi ích kinh tế áp đặt các nhà sản xuất là rút ngắn vòng đời sản phẩm và đ−a nhanh vào thị tr−ờng tiêu thụ. Cho nên các hãng tăng c−ờng hợp tác với nhau trong lĩnh vực nghiên cứu và điều đó khiến cho vai trò mạng l−ới công nghiệp đ−ợc nâng cao. + Tích hợp các chức năng và tổ chức mạng l−ới trong nội bộ công ty. Khả năng linh hoạt, liên kết giữa các bộ phận, chăm lo cho các phòng thí nghiệm, cố gắng thực hiện các ý đồ của ng−ời lãnh đạo chính là chìa khoá cho sự thành công trong quá trình đổi mới. + Cộng tác với các trung tâm sản xuất kiến thức. Trên cơ sở những tiến bộ trong kiến thức và khoa học, công nghệ sẽ là những cơ hội hỗ trợ cho các doanh nghiệp thành công. Muốn vậy các công ty phải cộng tác với các tr−ờng đại học và các trung tâm nghiên cứu. Quá trình toàn cầu hoá và bản chất của việc sáng tạo, tiếp thu tri thức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. - Sản xuất và phổ biến kiến thức trong điều kiện kinh tế xã hội mới đã thu hút sự chú ý của nhiều ng−ời. Quan điểm về nền kinh tế tri thức đã có chỗ đứng vững chắc. Bởi vì tỷ lệ những ng−ời sản xuất ra hàng hoá hữu hình ngày càng giảm, so với số ng−ời tạo ra tri thức và phổ biến tri thức. Lề lối sản xuất theo truyền thống cũ đã mất dần, trong thời đại kinh tế tri thức thì mở mang hiểu biết, mở mang các lĩnh vực chuyên môn làm cho những ng−ời có trình độ chuyên môn trở thành nguồn lực quý giá của các doanh nghiệp và các quốc 16
  18. gia. Tri thức là nguồn lực kinh tế, do đó việc sản sinh và truyền bá nó hiện nay rất thuận tiện nhờ công nghệ thông tin và truyền thông, nh−ng bị phụ thuộc nhiều vào các bối cảnh chính trị xã hội. - Sáng tạo kiến thức và toàn cầu hoá giúp cho con ng−ời có cơ hội tiếp cận tri thức. Trong hai thập kỷ gần đây các n−ớc OECD đã có đầu t− thích đáng vào R&D và giáo dục, đào tạo để tạo ra tri thức mới, thúc đẩy tăng tr−ởng bền vững. Tuy nhiên đang có sự phân cực giữa các tầng lớp xã hội, giữa những ng−ời tiếp thu học hỏi nhanh và những ng−ời tiếp thu học hỏi chậm. Nh−ng cho dù có sự phân cực, quá trình sản sinh ra tri thức và việc tiếp thu các kỹ năng đang tăng lên trên quy mô toàn cầu với các lý do sau: + Kiến thức đổi mới rất nhanh, do đó ai ở trong nhóm những ng−ời sản sinh ra tri thức thì ng−ời đó có khả năng làm chủ và tiếp thu nhanh và sâu tri thức. Lý do này giải thích tại sao các c−ờng quốc đều cố gắng tạo ra các khu công nghệ cao theo mô hình “thung lũng Silicon” là nơi tập trung các nhà khoa học nghiên cứu, thí nghiệm nhằm phát triển khoa học và công nghệ mới. Tại các khu công nghệ này có sự liên minh giữa các sản phẩm công nghệ và các ngành công nghiệp với mục đích chính là mau chóng tạo ra công nghệ mới. + Yêu cầu bắt buộc cần phải đầu t− mức cao hơn cho R&D để có khả năng hấp thụ, diễn giải những kiến thức hệ thống hoá. Việc hệ thống hoá đã làm tăng khả năng chuyển hoá kiến thức thành các loại hàng hoá trên thị tr−ờng. Và những hàng hoá này sẽ có giá trị nếu nó nằm trong tay những ng−ời hiểu biết. + Nhu cầu về sản xuất lại luôn đòi hỏi hệ thống hoá các tri thức về kỹ năng, thí dụ nh− việc tạo ra hệ thống thông tin quản lý. Thực tế cho thấy nhiều hoạt động kinh tế đang v−ơn rộng ra khỏi biên giới các quốc gia, chúng liên kết với nhau để tạo ra sức mạnh. Trong hoàn cảnh đó nhu cầu hệ thống hoá về kiến thức là tất yếu. Kết quả nghiên cứu hệ thống đổi mới công nghệ Châu Âu cho thấy xu thế toàn cầu hoá phát triển nhanh chóng và đúng h−ớng. Rất nhiều n−ớc đã khai thác công nghệ từ một số n−ớc sản sinh ra trong quá trình toàn cầu hoá. Việc hợp tác về công nghệ cũng tăng lên, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho việc tiếp cận các công nghệ. Tốc độ tạo ra công nghệ mới và nhịp độ phát triển toàn cầu hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tóm lại, kinh tế tri thức trở thành động lực thúc đẩy toàn cầu hoá phát triển mạnh hơn và ng−ợc lại, toàn cầu hoá là động lực tạo ra các công nghệ mới, nền tảng của kinh tế tri thức. 17
  19. II. Vai trò và mối quan hệ giữa phát triển th−ơng mại và kinh tế tri thức 1. Tác động của kinh tế tri thức đối với phát triển th−ơng mại 1.1. Kinh tế tri thức góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa các hoạt động th−ơng mại. Trong nền kinh tế tri thức, vấn đề không chỉ là việc sản xuất ra tri thức mà còn là việc sử dụng và truyền bá tri thức. Sử dụng và truyền bá này tất yếu phải thông qua các hoạt động th−ơng mại. Do tác động của các công nghệ hiện đại, các hệ thống th−ơng mại truyền thống đang đ−ợc cơ cấu lại cùng với việc tái cơ cấu nền kinh tế thế giới, từ đó đang xuất hiện những hệ thống th−ơng mại mới, hệ thống th−ơng mại tự động (automatic trading systems), là đối thủ cạnh tranh của các hệ thống th−ơng mại truyền thống. Trong bối cảnh đó, các giao dịch th−ơng mại truyền thống đang đ−ợc thay thế bởi các giao dịch bằng công nghệ điện tử. Th−ơng mại điện tử ngày càng v−ợt qua biên giới quốc gia và giúp cho các hoạt động xuất và nhập khẩu đ−ợc tiến hành trôi chảy nhất, khắc phục đ−ợc những hạn chế về chi phí, khoảng cách địa lý, tạo điều kiện sử dụng tối đa các cơ sở hạ tầng sẵn có. Kinh tế tri thức đang tạo ra một mô hình kinh doanh mới, một mô hình đang đòi hỏi một sự kết hợp làm việc theo nhóm, nhấn mạnh đến hoạt động đổi mới liên tục trong sản phẩm thông qua việc thay đổi cách thức sản xuất, sử dụng công nghệ mới và ph−ơng pháp mới để khuyến khích trí tuệ của con ng−ời. Mô hình mới này cũng đang đòi hỏi một ph−ơng thức kinh doanh mới, theo đó các sản phẩm sản xuất hàng loạt trở nên không hấp dẫn do sự thay đổi đa dạng của thị hiếu và nhu cầu, nó đòi hỏi phải có biện pháp cá thể hoá sản phẩm và đa dạng hoá các hình thức dịch vụ. Nó cũng đòi hỏi một chiến l−ợc th−ơng mại mới theo h−ớng lựa chọn chi phí thấp nhất cho hoạt động sản xuất, tiếp thị, dịch vụ khách hàng, l−u thông phân phối sản phẩm. 1.2. Kinh tế tri thức đang tạo ra nhiều sản phẩm có hàm l−ợng kỹ thuật và công nghệ cao đ−a vào trong l−u thông. Trong thời đại ngày nay, tri thức đang trở thành một lực l−ợng sản xuất trực tiếp và chủ yếu trong hệ thống sản xuất xã hội. Khả năng khai thác tri thức đang trở thành một ph−ơng thức chủ yếu thay cho khai thác tài nguyên thiên nhiên đã bị cạn kiệt. Các công nghệ cao cũng cho phép khai thác tài nguyên ở mức độ thấp hơn nh−ng tạo ra sản phẩm giá trị cao hơn. Có thể nói nguồn tri thức và vốn trí tuệ đang tạo ra sự khác biệt của lợi thế cạnh tranh hơn là các nguồn nguyên vật liệu và vốn vật chất. Thông qua việc khai thác tri thức, mỗi 18
  20. doanh nghiệp có thể sản xuất đ−ợc nhiều sản phẩm hơn và sản phẩm có tính cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, vì nền tảng tri thức không bao giờ tĩnh tại mà liên tục phát triển, nên một nền kinh tế dựa trên tri thức phải đầu t− mạnh vào việc phát triển công nghệ mới, nhằm duy trì và tăng c−ờng vai trò tiên phong của nền kinh tế tri thức. Nh−ng chỉ chú trọng đầu t− vào việc sáng tạo công nghệ mới thôi thì ch−a đủ, bởi vì công nghệ hiện đại cần phải mang tính kinh tế để các cá nhân và doanh nghiệp khai thác trên khía cạnh thuơng mại nhằm tạo ra các sản phẩm mới hoặc cải tiến sản phẩm và dịch vụ trên thị tr−ờng. Để khuyến khích đầu t− vào những lĩnh vực tri thức mang tính kinh tế và để tối đa hoá tốc độ khai thác th−ơng mại của nó, thì một nền kinh tế tri thức phải hỗ trợ cho sự ra đời một thị tr−ờng th−ơng mại hoạt động một cách hiệu quả để khai thác và phổ biến các sáng kiến mới. Có nghĩa là nền kinh tế tri thức đang là động lực để phát triển thêm nhiều sản phẩm và đ−a chúng tới thị tr−ờng toàn cầu, và đến l−ợt nó, thị tr−ờng th−ơng mại toàn cầu lại giúp cho các hoạt động trao đổi tri thức hoạt động hiệu quả hơn. 1.3. Kinh tế tri thức giúp cho việc mở rộng không gian hoạt động và rút ngắn thời gian của các chu trình kinh doanh th−ơng mại. Nền kinh tế tri thức lấy thị tr−ờng toàn cầu làm phạm vi hoạt động. Tri thức và thông tin qua mạng Internet đ−a hoạt động kinh tế v−ợt khỏi biên giới quốc gia và tạo ra một không gian hoạt động th−ơng mại rộng lớn hơn. Vốn, hàng hoá - dịch vụ, kỹ năng quản lý, sức lao động, thông tin, công nghệ đều hoạt động trên tầm xuyên quốc gia. Các mối quan hệ kinh tế, th−ơng mại, đầu t− giữa các n−ớc, các doanh nghiệp đã và đang liên kết chặt chẽ với nhau, và theo đó mức độ cạnh tranh trên thị tr−ờng ngày càng quyết liệt hơn. Tr−ớc sự phát triển của các công nghệ thông tin, giấc mơ về cạnh tranh hoàn hảo đang dần trở thành hiện thực. Với một loại sản phẩm, khách hàng ngày nay có thể lựa chọn giữa những mức giá khác nhau đ−ợc đ−a ra bởi các khách hàng khác nhau trên mạng. Các thị tr−ờng mới xuất hiện, giá cả giảm xuống. Khi các nhà kinh doanh có thể l−u thông sản phẩm của mình thông qua mạng internet, thì lợi thế th−ờng đến với những công ty có giá trị gia tăng lớn nhất, nhãn hiệu nổi tiếng nhất và kỹ thuật tinh xảo nhất. Cạnh tranh đ−ợc đẩy mạnh do những công nghệ này đang mở cửa các thị tr−ờng với quy mô ngày càng lớn. Các sản phẩm có thành phần tri thức cao sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn và có tiềm năng tăng tr−ởng lớn hơn. Cạnh tranh và đổi mới luôn đi cùng với nhau. Sản phẩm và các quá trình sản xuất có thể nhanh chóng bị bắt ch−ớc và lợi thế cạnh tranh có thể nhanh chóng bị loại bỏ. Tri thức lan truyền nhanh hơn, nh−ng để cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải có khả năng đổi mới sản 19
  21. phẩm nhanh hơn đối thủ của mình. Chính nhờ vậy mà vòng đời của một sản phẩm trong l−u thông đ−ợc rút ngắn lại rất nhiều so với tr−ớc đây. 1.4. Kinh tế tri thức làm tăng quá trình phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ th−ơng mại giữa các n−ớc. Kinh tế tri thức ra đời đồng thời với quá trình toàn cầu hoá. Điều đó cũng có nghĩa là phạm vi và tốc độ truyền bá của nền kinh tế tri thức ra phạm vi toàn cầu đ−ợc mở rộng nhanh hơn. Toàn cầu hoá thị tr−ờng, mà tr−ớc hết là toàn cầu hoá thông tin, khiến thị tr−ờng của các quốc gia đ−ợc mở rộng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tốt hơn các lợi thế so sánh vốn có và đón bắt những cơ hội mới do kinh tế tri thức và tiến trình toàn cầu hoá mang lại. Đối với các n−ớc đang phát triển, đồng thời cũng là các n−ớc nghèo, th−ờng bị hạn chế về các nguồn lực, nhất là vốn, công nghệ, bí quyết quản lý, họ không thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá hoặc nâng cấp nền kinh tế của mình và chuyển nền kinh tế sang một cơ cấu có hàm l−ợng công nghệ và vốn cao hơn nếu chỉ dựa vào nội lực của mình. Nhận thức đ−ợc điều đó, nhiều n−ớc đang phát triển đã có những chiến l−ợc, chính sách khác nhau để khắc phục những hạn chế này bằng cách thực hiện chính sách th−ơng mại mở cửa, thúc đẩy xuất khẩu ra thị tr−ờng thế giới. Nhờ đó các n−ớc đang phát triển ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Sự năng động của một số n−ớc đang phát triển tiến hành công nghiệp hoá nh− NIEs, ASEAN đều nhờ có sự đóng góp không nhỏ của vốn, khoa học công nghệ và bí quyết quản lý đ−ợc du nhập từ ngoài vào thông qua việc mở rộng trao đổi th−ơng mại và đầu t− quốc tế. Tốc độ phát triển của khoa học công nghệ ngày nay rất nhanh. Những lợi thế về công nghệ đang góp phần cắt giảm chi phí sản xuất, khuyến khích đầu t− R&D trên tất cả các lĩnh vực. Các ngành nghề sản xuất mới, đặc biệt là công nghiệp điện tử đang tăng lên nhanh chóng từ thập kỷ 90 cho đến nay, và trên hệ thống sản xuất toàn cầu đang xuất hiện những nhà sản xuất mới có mức đầu t− cao hơn cho công nghệ. Cho đến nay phần lớn công nghệ mới đ−ợc tạo ra ở các n−ớc công nghiệp tiên tiến nh− Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu. Do chu kỳ phát triển nhanh chóng của sản phẩm trong thời đại kinh tế tri thức, trên thế giới đang hình thành một hệ thống mua bán và chuyển giao công nghệ, trong đó công nghệ tiên tiến nhất do các công ty xuyên quốc gia lớn nắm giữ (chiếm trên 90% công nghệ hiện đại của thế giới), và công nghệ kém hiện đại hơn đ−ợc chuyển giao sang các n−ớc có trình độ phát triển thấp hơn. Sự chuyển nh−ợng công nghệ đó cứ tiếp diễn, tuỳ thuộc vào trình độ tiếp nhận của từng quốc gia. Nó tạo nên một mạng l−ới phân phối theo “chuỗi” trong hệ thống sản xuất và th−ơng mại quốc tế. Trong chuỗi hàng hoá toàn cầu, Mỹ, nhật Bản, Châu Âu là những nhà trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm có hàm l−ợng 20
  22. công nghệ cao nhất. Do chi phí sản xuất trong n−ớc ngày càng tăng, các công ty của các n−ớc này đã liên kết với các nhà thầu phụ ở các n−ớc đang phát triển nh− NIEs, ASEAN, ấn Độ để sản xuất sản phẩm ở những n−ớc này nhằm tận dụng chi phí rẻ, sau đó lại xuất khẩu trở lại n−ớc chủ nhà. Bằng việc mở rộng đầu t− và th−ơng mại ra khỏi biên giới quốc gia, bên cạnh việc làm lợi cho chính mình, các n−ớc công nghiệp tiên tiến đồng thời đã đem lại nhiều cơ hội cho các n−ớc đang phát triển đi sau. Trong hệ thống sản xuất và th−ơng mại theo “chuỗi” này, các Công ty xuyên quốc gia của Mỹ, Nhật Bản và EU sử dụng các công nghệ sản xuất tự động hiện đại nhất, tạo ra những thế hệ sản phẩm có hàm l−ợng R&D cao nhất, rồi dần chuyển giao các công nghệ thấp hơn cho các n−ớc đi sau. Hàng kế tiếp thứ hai trong “chuỗi” giá trị hàng hoá tri thức trên thế giới là các NIEs Châu á với công nghệ sản xuất tự động t−ơng đối hiện đại, nh−ng đầu vào sản phẩm chứa đựng hàm l−ợng R&D ít hơn, tập trung phát triển các sản phẩm linh kiện và thành phẩm. Sau đó là các n−ớc ASEAN với những dây chuyền sản xuất chứa hàm l−ợng lao động cao hơn, công nghệ thấp hơn. Chuỗi hàng hoá này cứ thế tiếp nối ở những n−ớc đang phát triển đi sau. Những đặc tr−ng này cho thấy một bức tranh phức tạp, đa dạng và luôn thay đổi trong hệ thống sản xuất và trao đổi quốc tế. Nó góp phần thúc đẩy tốc độ tự do hoá th−ơng mại và toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng hơn bao giờ hết. Trong mạng l−ới sản xuất và trao đổi hàng hoá quốc tế đang diễn ra xu h−ớng quan hệ phụ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc. Bên cạnh sự phân công lao động phát triển theo chiều rộng, nền kinh tế tri thức đang tạo nên một mạng l−ới phân công lao động theo chiều sâu. Kinh tế tri thức, với những sản phẩm tinh xảo và hiện đại, mang nặng đặc tính cá thể, khó có thể sao chép trên quy mô toàn thế giới. Ngay ở những n−ớc phát triển nh− Mỹ, Nhật Bản và EU, quá trình chuyên môn hoá sản phẩm cũng đang đ−ợc chuyên sâu, và những n−ớc này đang có xu h−ớng hợp tác trao đổi th−ơng mại với nhau trên cơ sở cùng cạnh tranh và phát triển. Nhật Bản nổi tiếng với hàng điện tử tiêu dùng, Mỹ nổi tiếng kiểm soát thị tr−ờng thế giới về công nghệ máy tính, EU v−ợt qua hai n−ớc trên và nắm giữ vị trí quan trọng trên thị tr−ờng thế giới trong ngành viễn thông Do đó sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong trao đổi th−ơng mại ngày càng tăng, nhằm tìm kiếm những cơ hội tốt nhất để cải tiến chất l−ợng sản phẩm. Trong môi tr−ờng th−ơng mại thế giới ngày càng đ−ợc tự do hoá và tăng tính phụ thuộc đó, những n−ớc đi sau luôn phải chịu những áp lực rất lớn trong việc đón bắt những công nghệ và tri thức hiện đại của thế giới. Nhiều n−ớc đã tìm ra đ−ợc những cách đi phù hợp và đang có tốc độ đuổi bắt trình độ phát triển của thế giới một cách ngoạn mục nh− Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, ấn Độ. Tuy nhiên, còn nhiều quốc gia đang phát triển vẫn nằm ngoài “chuỗi” 21
  23. hàng hoá tri thức toàn cầu và đang có nguy cơ bị phụ thuộc, khai thác, bóc lột và khống chế kinh tế. Nền kinh tế tri thức đem lại nhiều cơ hội cho những n−ớc có trình độ phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, giúp họ hội nhập sâu hơn vào quá trình toàn cầu hoá, nh−ng nó cũng bỏ lại sau l−ng những n−ớc nghèo, trình độ phát triển kinh tế lạc hậu, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém. 2. Vai trò của th−ơng mại đối với phát triển kinh tế tri thức 2.1. Th−ơng mại mở đ−ờng cho giai đoạn phát triển mới của kinh tế tri thức Theo quan niệm truyền thống, thị tr−ờng là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán, trong đó một doanh nghiệp, một quốc gia muốn bán những hàng hoá mà mình sản xuất ra và mua những hàng hoá mà doanh nghiệp và đất n−ớc đang cần đến. Hầu hết các n−ớc trên thế giới đều quan niệm nh− thế và cho đến thời đại ngày nay các n−ớc đã đ−a ra những luật chơi chung để xây dựng một khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho các hoạt động mua - bán đó. Xét về lợi ích kinh tế, thị tr−ờng thế giới trong thời đại toàn cầu hoá là nơi phân chia lợi ích giữa ba nhóm n−ớc và công ty: Các n−ớc phát triển, các n−ớc đang phát triển và các công ty xuyên quốc gia. Trong nền kinh tế tri thức, th−ơng mại thế giới đang chuyển dần từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về trình độ công nghệ, trong một số ngành, lĩnh vực, ba nhóm lợi ích đó đang có xu h−ớng cạnh tranh lẫn nhau rất quyết liệt nhằm chiếm giữ thị phần và giành −u thế công nghệ. Trong bối cảnh đó, chính sách bảo hộ th−ơng mại cũng đã có những thay đổi theo h−ớng bảo hộ công nghệ. Hiện nay, sự độc quyền về công nghệ của các quốc gia phát triển nh− Mỹ, EU, Nhật Bản và các Công ty xuyên quốc gia lớn đang tạo ra những hàng rào bảo hộ các ngành công nghệ cao, gây trở ngại cho các quốc gia đi sau trong quá trình rút ngắn khoảng cách phát triển, nhất là rút ngắn khoảng cách phát triển công nghệ. Tuy nhiên, sự độc quyền công nghệ hiện đại ấy đang phải đối mặt với quá trình tự do hoá th−ơng mại đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Đối với các n−ớc phát triển, tự do hoá th−ơng mại giúp các n−ớc này xâm nhập thị tr−ờng các n−ớc đang phát triển, tận dụng những lợi thế so sánh truyền thống vốn ch−a đ−ợc khai thác triệt để và gây ảnh h−ởng chi phối đến sự phát triển kinh tế của một số n−ớc đó. Còn đối với các n−ớc đang phát triển, tự do hoá th−ơng mại đồng nghĩa với mở cửa thị tr−ờng cho hàng hoá n−ớc ngoài xâm nhập vào thị tr−ờng trong n−ớc. Cái đ−ợc và cái mất còn nhiều vấn đề cần phải bàn, nh−ng nhìn chung nhờ th−ơng mại đ−ợc mở rộng, các n−ớc này đã khắc phục đ−ợc tình trạng thiếu hàng hoá, thiếu công nghệ, cải thiện đ−ợc năng suất lao động, thu 22
  24. hút nhiều vốn phục vụ quá trình phát triển. Còn đối với các công ty xuyên quốc gia, tự do hoá th−ơng mại đồng nghĩa với sự bành tr−ớng ngày càng lớn trong nền kinh tế toàn cầu. Hiện nay, các tập đoàn th−ơng mại lớn th−ờng chiếm vị trí chi phối và thâm nhập sâu vào các kênh th−ơng mại của các nền kinh tế thế giới, nhất là các nền kinh tế mới tham gia vào hệ thống th−ơng mại toàn cầu. Sự bành tr−ớng của các công ty xuyên quốc gia đã tạo ra một mạng l−ới kinh doanh toàn cầu lấy công ty mẹ làm trung tâm, mở rộng ra khắp thế giới. Hàng trăm, hàng nghìn mạng l−ới của các công ty xuyên quốc gia đã và đang tạo thành một mạng l−ới kinh tế toàn cầu khổng lồ, bao trùm lên tất cả các quốc gia và các khu vực. Các công ty xuyên quốc gia này hiện đang nắm giữ 9/10 thành quả khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới, chiếm khoảng 2/3 tổng giá trị th−ơng mại và 4/5 nguồn vốn đầu t− trực tiếp n−ớc ngoài trên thế giới. Chính các công ty này đang là đầu tầu trong việc thúc đẩy xu h−ớng tự do hoá th−ơng mại và truyền bá nền kinh tế tri thức ra toàn thế giới. 2.2. Th−ơng mại thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức Trong thời đại của khoa học công nghệ mới, th−ơng mại là nơi chuyển tải và thúc đẩy sự phát triển của khoa học cộng nghệ. D−ới tác động của thành tựu khoa học công nghệ và các học thuyết kinh tế quốc tế, nhất là lý thuyết về lợi thế so sánh giữa các quốc gia, quá trình phân công lao động quốc tế đã phát triển ngày càng sâu sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của th−ơng mại quốc tế hiện nay là hệ quả tất yếu của quá trình phân công lao động quốc tế mới. Cùng với điều đó, th−ơng mại quốc tế trong một ngành sản xuất và trong một dây chuyền giá trị đã không ngừng phát triển và tạo điều kiện để các nền kinh tế kém phát triển và đang phát triển tham gia tích cực vào hệ thống th−ơng mại toàn cầu. Đối với các n−ớc đang phát triển đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá, việc tham gia vào hệ thống th−ơng mại quốc tế trong một ngành sản xuất là rất cần thiết. Nó giúp cho đất n−ớc đó phát huy đ−ợc những lợi thế so sánh vốn có, đồng thời cũng buộc các n−ớc này phải thực hiện các nguyên tắc tự do hoá th−ơng mại, mở cửa thị tr−ờng cả trong lĩnh vực th−ơng mại hàng hoá, th−ơng mại dịch cụ, bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách đầu t−. Hội nhập giúp các doanh nghiệp mở rộng các quan hệ, tiếp cận ph−ơng thức quản lý tiên tiến, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại của thế giới và tham gia vào cuộc cạnh tranh đang diễn ra gay gắt giữa các quốc gia trên thế giới. Hoạt động th−ơng mại quốc tế ngày nay không chỉ bao hàm quan hệ th−ơng mại hàng hoá và đầu t−, mà còn bao hàm cả các hoạt động hợp tác khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ giữa các n−ớc. Ngay 23
  25. trong quan hệ trao đổi hàng hoá cũng chứa đựng sự chuyển giao và phát triển khoa học và công nghệ. Hội nhập sâu hơn vào hệ thống th−ơng mại thế giới, các n−ớc có cơ hội thuận lợi trong tiếp nhận chuyển giao và phát triển năng lực khoa học - công nghệ để khai thác tiềm năng to lớn của đất n−ớc thông qua các kênh nh−: + Tiếp nhận công nghệ sản xuất tiên tiến thông qua mua bán, nhập khẩu công nghệ, các hợp đồng chuyển giao công nghệ của các dự án đầu t− n−ớc ngoài. + Tham gia nhiều hơn vào các ch−ơng trình hợp tác khoa học - công nghệ đa ph−ơng và song ph−ơng. + Tăng thêm nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng c−ờng năng lực quản lý khi gia nhập các thể chế quốc tế đa ph−ơng và song ph−ơng giành cho các n−ớc nghèo và kém phát triển. + Có điều kiện thuận lợi trong chuyển giao công nghệ + Có cơ hội tiếp cận các nguồn công nghệ mới, học hỏi và trao đổi công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến thông qua trao đổi chuyên gia Điều này góp phần thuận lợi cho việc xây dựng và hình thành nền kinh tế tri thức ở các n−ớc, nhất là đối với các n−ớc đang phát triển. Mở rộng tự do hoá th−ơng mại cũng giúp cho các n−ớc đang phát triển có cơ hội tiếp cận các thị tr−ờng của những n−ớc công nghiệp tiên tiến nh− Mỹ, Nhật Bản, EU. Đây là những n−ớc có dung l−ợng thị tr−ờng lớn, có cơ chế thị tr−ờng hiện đại và là nơi nắm giữ hầu hết những công nghệ và tri thức nguồn của nền kinh tế tri thức. Thị tr−ờng các n−ớc phát triển này đặc điểm nổi bật là: nó đòi hỏi các sản phẩm nhập khẩu từ n−ớc ngoài phải có tính quy chuẩn và thống nhất cao. Đây cũng là những thị tr−ờng có c−ờng độ cạnh tranh rất lớn, trong đó giá cả và chất l−ợng là hai yếu tố cơ bản nhất, tiếp đến là các yếu tố khác nh− bao bì, mẫu mã, nguồn gốc xuất xứ, nhãn hiệu sản phẩm Trên những thị tr−ờng này, hàng hoá của các n−ớc trên thế giới đ−ợc cạnh tranh bình đẳng, trong đó những sản phẩm hàm chứa tri thức luôn có −u thế cạnh tranh lớn hơn. D−ới sức ép mở rộng sản phẩm xuất khẩu ra thị tr−ờng bên ngoài, đặc biệt là sang thị tr−ờng các n−ớc công nghiệp phát triển để thu ngoại tệ, tìm kiếm công nghệ hiện đại phục vụ cho tăng tr−ởng kinh tế trong n−ớc, các n−ớc ngày càng phải nâng cấp các cơ sở sản xuất trong n−ớc của mình, đầu t− thêm công nghệ mới, nâng cao chất l−ợng sản phẩm xuất khẩu để có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Chính những sức ép đó góp phần hoàn thiện dần nền kinh tế tri thức ở các n−ớc để bắt kịp xu thế mới của thời đại. 24
  26. 2.3. Th−ơng mại là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế tri thức Trong nền kinh tế tri thức, các yếu tố đầu vào của sản xuất bao gồm lao động, đất đai, vốn, công nghệ, thiết bị, tri thức và thông tin. Do những −u điểm v−ợt trội, nền kinh tế tri thức đang tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và ngày càng đa dạng của cuộc sống, của công nghiệp tri thức và vốn tri thức. Cơ sở của kinh tế tri thức là lấy công nghệ cao, lực l−ợng lao động có tri thức và công nghệ thông tin làm nền tảng. Trong khi đó, hoạt động th−ơng mại là một bộ phận của mọi nền kinh tế, bất kể đó là nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp hay kinh tế tri thức. Chính sách th−ơng mại đóng vai trò rất quan trọng đối với các quốc gia. Nó giúp các chính phủ có thể sử dụng các chính sách và biện pháp của mình để định h−ớng chiến l−ợc sản phẩm và thị tr−ờng, lựa chọn những sản phẩm và công nghệ phù hợp với thời đại mới để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất n−ớc. Mục tiêu cơ bản của chính sách th−ơng mại là h−ớng tới việc sử dụng và phân bổ các nguồn lực trong và ngoài n−ớc một cách hiệu quả nhất, và nhiệm vụ chủ yếu của chính sách th−ơng mại là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp trong n−ớc mở rộng buôn bán với n−ớc ngoài, thông qua đàm phán quốc tế để đạt đựơc sự mở rộng thị tr−ờng thế giới, bảo hộ hợp lý sản xuất trong n−ớc, hạn chế những cạnh tranh bất lợi từ bên ngoài. Thực tế cho thấy, trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, những n−ớc nghèo vốn và công nghệ nh− Nhật bản, Hàn Quốc, nếu có chính sách th−ơng mại phù hợp và thay đổi thích ứng với từng thời kỳ phát triển, đất n−ớc đó có thể phát huy đ−ợc nội lực trong n−ớc, tăng tr−ởng kinh tế nhanh, hiện đại hoá đ−ợc những cơ sở sản xuất trong n−ớc. Kinh nghiệm đó đã đ−ợc các quốc gia Châu á khác nh− Malaixia, Thái Lan, Philippin, Trung Quốc, ấn Độ, Việt Nam tiếp thu, vận dụng, nhờ đó đã đạt đ−ợc những thành công nhất định trong phát triển kinh tế. Trong một thế giới toàn cầu hoá với sự lan nhanh của làn sóng công nghệ cao, chính sách th−ơng mại phù hợp là yếu tố quan trọng nhất góp phần giúp các n−ớc tận dụng cao độ các cơ hội tiếp cận luồng hàng hoá và công nghệ mới nhất trên thế giới, tạo điều kiện cho các n−ớc đang phát triển có những b−ớc phát triển cao hơn trên cơ sở tiếp nhận và vận dụng hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài kết hợp việc phát huy cao độ các nguồn lực trong n−ớc. Có thể nói, trong một nền kinh tế tri thức, th−ơng mại là cầu nối đầu tiên giúp kinh tế có thể mở rộng đ−ợc quy mô và nâng cao đ−ợc trình độ phát triển. Và tất nhiên, khi kinh tế ngày càng phát triển, th−ơng mại sẽ càng có nhiều đóng góp hơn nữa trong việc bổ sung, nâng cao và tăng thêm chất l−ợng cho nền kinh tế tri thức. 25
  27. III. Đặc tr−ng của th−ơng mại trong nền kinh tế tri thức Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế tri thức, hoạt động th−ơng mại mang những đặc tr−ng sau: Thứ nhất, th−ơng mại phát triển dựa trên nền tảng thông tin và tri thức. Trong thời đại toàn cầu hoá với sự phát triển mạnh của khoa học và công nghệ cao, lý thuyết về lợi thế so sánh cổ điển đã có nhiều thay đổi. Những lợi thế so sánh tự nhiên dựa trên cơ sở của lao động, tài nguyên và vốn đ−ợc phát huy trong suốt thế lỷ XIX và gần hết thế kỷ XX, tạo nên sự giàu có và tăng tr−ởng kinh tế cho nhiều n−ớc trên thế giới nh− Mỹ, Nhật, Châu Âu, một số nền kinh tế mới nổi Châu á nhờ mở rộng phạm vi hoạt động th−ơng mại, nay đang dần nh−ờng chỗ cho các lợi thế gắn liền với tri thức, làm thay đổi rất nhiều bản chất và nội dung của các hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động th−ơng mại. Về sản xuất, tính chu kỳ "truyền thống" của sản phẩm đã bị phá vỡ. Việc phát minh ra sản phẩm mới có công nghệ cao là hết sức quan trọng, tạo nên lợi thế cho những n−ớc có tiềm năng về công nghệ và nguồn nhân lực đ−ợc đào tạo. Về lĩnh vực th−ơng mại, lợi thế so sánh vẫn phát huy tác dụng nh−ng ở mức độ cao hơn. Giá cả của các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực không qua đào tạo ngày càng giảm. Sức mạnh của vốn (t− bản) cũng bị hạn chế. Trong khi đó tri thức và kỹ năng đang trở thành các nguồn lực có lợi thế so sánh −u việt nhất của các quốc gia và công ty. Ngày nay, yếu tố có tính quyết định nhất đến sự tăng năng suất, nâng cao sức cạnh tranh, đồng thời cũng là yếu tố quyết định sự giàu có của các quốc gia không còn là tài nguyên thiên nhiên, lao động và vốn nh− tr−ớc đây, mà là tri thức. Nếu nh− th−ơng mại toàn cầu là động lực để mở rộng các cơ hội sản xuất kinh doanh, thì tri thức khoa học và công nghệ mới lại là động lực làm cho cơ hội sản xuất kinh doanh mở rộng thêm. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ kỹ thuật số đang làm thay đổi diện mạo của thế giới, góp phần xây dựng thêm nền tảng của th−ơng mại toàn cầu. Chúng tạo ra những ngành kinh doanh mới và định dạng lại những ngành nghề hiện có. Khả năng kỳ diệu của Internet đang góp phần xoá bỏ hệ thống tiếp thị và phân phối truyền thống, tạo ra tiềm năng mới cho kinh doanh trên mạng. Nhờ sử dụng công nghệ thông tin, các doanh nghiệp sản xuất và các đối tác th−ơng mại đã đ−ợc nối mạng. Điều quan trọng hơn là các doanh nghiệp và các đối tác th−ơng mại đã điều chỉnh nhanh chóng cơ cấu kinh tế bằng cách sử dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất l−ợng dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm để tạo năng lực cạnh tranh mới. Đây chính là yếu tố cơ bản phân biệt sự khác nhau giữa các quốc gia phát triển hay đang phát triển, là nguồn lực mới tạo ra lợi thế so sánh bền vững và dài hạn. 26
  28. Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức với những −u điểm của nó đang tạo ra ảnh h−ởng rất lớn đến hoạt động th−ơng mại quốc tế. Kinh tế tri thức cùng với xu thế tự do hoá th−ơng mại đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu đã làm biến đổi cả cơ cấu hàng hoá th−ơng mại quốc tế, các hàng hoá đó giờ đây không chỉ bao gồm những sản phẩm nông - công nghiệp truyền thống, mà đ−ợc bổ xung thêm những sản phẩm kỹ thuật cao, công nghệ dịch vụ, ngoại tệ, cổ phiếu, chứng khoán, sản phẩm vô hình Sự tăng nhanh về tỷ trọng của loại hàng hoá mang yếu tố tri thức trên thị tr−ờng thế giới đã khiến các quốc gia phải thay đổi ph−ơng thức đầu t− trong phát triển th−ơng mại, một mặt tiếp tục đầu t− để phát huy các lợi thế so sánh tĩnh, sẵn có, mặt khác tăng c−ờng đầu t− để phát triển các lợi thế động, h−ớng tới t−ơng lai, nhằm nắm bắt và tận dụng những lợi thế so sánh mới để mở rộng hoạt động th−ơng mại và tạo ra sự phát triển rút ngắn, nhất là đối với các n−ớc công nghiệp hóa sau để đuổi kịp các n−ớc phát triển. Cùng với sự thay đổi cơ cấu sản phẩm trong hoạt động th−ơng mại, đội ngũ những ng−ời trực tiếp tham gia quá trình trao đổi th−ơng mại cũng có những thay đổi theo chiều h−ớng tiến bộ hơn, đ−ợc đào tạo cơ bản hơn. Ph−ơng thức kinh doanh th−ơng mại thời đại kinh tế tri thức đang đòi hỏi gia tăng lực l−ợng lao động tri thức trong cả các lĩnh vực sản xuất, th−ơng mại, đầu t−, nghiên cứu khoa học Công cụ mà các nhân viên th−ơng mại phải sử dụng ngày nay là máy tính, các ph−ơng tiện Internet và các thiết bị hiện đại khác để thu thập, phân tích, xử lý, tổng hợp số liệu, truyền đạt thông tin. Những ng−ời này đang cần có trình độ giáo dục cao hơn, có kiến thức khoa học tốt hơn, có kỹ năng quản lý hiện đại hơn, do vậy, cùng với việc phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực sản xuất, việc đào tạo và đào tạo lại lực l−ợng lao động trong ngành th−ơng mại là nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế tri thức. Thứ hai, th−ơng mại điện tử trở thành ph−ơng thức hoạt động chủ yếu trong nền kinh tế tri thức. So với ph−ơng thức hoạt động th−ơng mại truyền thống, th−ơng mại điện tử đang đem lại nhiều lợi ích hơn cho những n−ớc, các đối t−ợng tham gia th−ơng mại nh− đối với Chính phủ, doanh nghiệp và ng−ời tiêu dùng, do vậy, th−ơng mại điện tử đang trở thành ph−ơng thức kinh doanh chi phối các hoạt động th−ơng mại toàn cầu. Th−ơng mại điện tử là một loại hoạt động th−ơng mại đ−ợc thực hiện thông qua việc sử dụng các ph−ơng tiện điện tử, nhất là mạng Internet. Th−ơng mại điện tử có đặc tính: chi phí đầu t− thấp, phù hợp với mọi quy mô doanh nghiệp; sử dụng kỹ thuật số trong toàn bộ quá trình giao dịch; các giao dịch diễn ra liên tục, không có thời gian trễ; thông tin 27
  29. nhanh, chính xác và cập nhật; tự động hoá các giao dịch giữa ng−ời và máy; quá trình thanh toán đ−ợc thực hiện thông qua việc ứng dụng các ph−ơng tiện điện tử; quá trình giao hàng đ−ợc thực hiện bằng điện tử với các mặt hàng đ−ợc số hoá Những lợi ích to lớn của th−ơng mại điện tử trong hoạt động th−ơng mại thế giới đã dẫn tới sự phổ biến rộng rãi của mạng Internet, đến nay đã có 186 quốc gia trên thế giới sử dụng mạng Internet vào hoạt động th−ơng mại, tạo ra nguồn doanh thu lớn cho hoạt động th−ơng mại và kết nối các n−ớc vào xu thế toàn cầu hoá nhanh hơn, mạnh hơn. Theo số liệu của cơ quan Th−ơng mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD), Năm 1998, giá trị giao dịch th−ơng mại điện tử đạt 31 tỷ USD, năm 2000 tăng lên 278,18 tỷ USD, năm 2003 đạt 1408 tỷ USD và năm 2004 đạt 2400 tỷ USD. Giao dịch th−ơng mại qua mạng hiện đang chiếm từ 10-15% kim ngạch buôn bán của toàn thế giới và có khả năng sẽ còn tăng nhanh hơn vào những năm tới do lợi ích to lớn mà nó đem lại. Thứ ba, không gian cho hoạt động th−ơng mại đ−ợc mở rộng mang tính toàn cầu cao. Xu h−ớng tự do hoá th−ơng mại trên thế giới đang lan rộng ở nhiều tầng nấc: song ph−ơng, đa ph−ơng và khu vực. Sự thay đổi của cơ cấu th−ơng mại thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của th−ơng mại điện tử đang làm cho quá trình tự do hoá th−ơng mại diễn ra nhanh hơn, rộng hơn. Th−ơng mại thế giới không chỉ gia tăng giữa các n−ớc phát triển với các n−ớc đang phát triển, giữa các n−ớc công nghiệp phát triển với nhau, giữa các n−ớc đang phát triển với nhau, mà trao đổi th−ơng mại nội bộ ngành và giữa các ngành cũng trở nên phổ biến nhằm khai thác lợi thế kinh tế một cách tốt nhất để cạnh tranh và phát triển. Sự bổ sung cho nhau, hợp tác với nhau và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các thị tr−ờng, các sản phẩm, các n−ớc đang làm mở rộng thị tr−ờng toàn cầu. Hầu hết các hoạt động th−ơng mại giờ đây phải tuân theo luật chơi chung của các thể chế kinh tế và th−ơng mại quốc tế nh− Tổ chức th−ơng mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Trong bối cảnh đó, các luật lệ và rào cản quốc gia khác hoặc trái với luật chơi chung rất khó có thể đ−ợc thừa nhận, nếu không muốn nói là sẽ bị phủ nhận. Tri thức và thông tin sẽ chảy đến nơi có nhu cầu cao nhất và rào cản thấp nhất. Sự bành tr−ớng của các công ty xuyên quốc gia d−ới nhiều hình thức đang là nhân tố tích cực trong việc thay đổi ph−ơng thức và lực l−ợng kinh doanh th−ơng mại, theo đó thị tr−ờng nôị địa phải đ−ợc đối xử nh− một bộ phận của thị tr−ờng thế giới, tự do hoá xuất khẩu và nhập khẩu đ−ợc khuyến khích đồng thời, các n−ớc tham gia th−ơng mại thế giới ngày càng đ−ợc đối xử bình đẳng hơn, tự do hơn. Cơ chế th−ơng mại dựa trên quan hệ lệ thuộc - cai trị - bóc lột tr−ớc đây đang đ−ợc thay thế bằng cơ chế tham dự - bình đẳng, trong đó mỗi 28
  30. khu vực, mỗi Chính phủ, mỗi doanh nhân và mỗi cá nhân đều có lợi thế trong phát triển các quan hệ th−ơng mại. Tuy nhiên, năng lực hội nhập hệ thống th−ơng mại thế giới phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi Chính phủ và doanh nhân nhằm tận dụng những điều kiện phát triển mới do nền kinh tế tri thức mang lại. So với những năm giữa thế kỷ XX, giá trị trao đổi trên thị tr−ờng toàn cầu hiện nay đã tăng 12 lần và sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn trong xu thế toàn cầu hoá và kinh tế tri thức. Cùng với việc mở rộng thị tr−ờng, giá cả sản phẩm cũng đang có sự thay đổi. Những sản phẩm hoặc dịch vụ đ−ợc tăng c−ờng tri thức có thể có mức giá cao hơn những sản phẩm t−ơng đ−ơng nh−ng gắn với tri thức hoặc c−ờng độ tri thức thấp. Cùng với việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới đang ngày càng tăng lên nhanh chóng ch−a từng có nh− hiện nay, tốc độ biến đổi giá cả của các sản phẩm càng mới lại càng nhanh. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ tin học và truyền thông đang làm rút ngắn thời gian chọn lọc, đánh giá, sử dụng, sáng tạo thông tin, khiến giá trị sử dụng tri thức cũng bị rút ngắn nhanh chóng. Với sự ra đời của các sản phẩm mới, giá cả sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm công nghệ cao, càng có xu h−ớng giảm đi. Một quy luật giá cả mới trong nền kinh tế tri thức đang hình thành, đó là: sản phẩm càng hiện đại thì tốc độ biến đổi giá cả của nó càng cao. Thực tiễn cho thấy, trong vòng 30 năm từ 1960 đến 1990 giá máy vi tính đã giảm 125 lần, còn sự sụt giảm giá cả các thiết bị phần mềm tin học trong thập kỷ 1990 thì nhanh đến mức tính theo từng năm chứ không phải một vài chục năm. Cạnh tranh giá cả trong nền kinh tế tri thức tr−ớc hết là cạnh tranh thời gian và tốc độ đổi mới công nghệ trong các sản phẩm. Xu thế toàn cầu hoá cũng khiến các thị tr−ờng và sản phẩm mang tính toàn cầu hơn. Những sản phẩm của hãng máy tính của một n−ớc này sẽ đ−ợc toàn thế giới biết đến nhanh chóng và so sánh với những sản phẩm của các n−ớc khác. Điều này tác động trực tiếp đến sự cạnh tranh giá cả và chất l−ợng sản phẩm, dẫn tới xu h−ớng sản phẩm trên thị tr−ờng ngày càng hiện đại hơn, trong khi giá cả ngày càng giảm mạnh. Thứ t−, hàng hóa đ−ợc trao đổi, mua bán trong nền kinh tế tri thức sẽ đa dạng và phong phú hơn nh−ng chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng rút ngắn. Nền kinh tế tri thức không còn có yếu tố khan hiếm nh− nền kinh tế hàng hoá truyền thống, mà có tính phong phú nhiều hơn. Không giống nh− hầu hết các nguồn lực bị mất đi sau khi sử dụng, thông tin và tri thức có thể đ−ợc chia sẻ, và trong thực tế ngày càng tăng lên thông qua sử dụng. Trong nền kinh tế tri thức, chiến l−ợc kinh doanh mới là mua các khái niệm mới và khả năng tạo ra chúng, chứ không phải là mua máy móc thiết bị mới. Giá trị gia tăng ngày càng đ−ợc tạo ra bởi những yếu tố vô hình nh− sáng chế, phát minh, thiết kế mẫu mã, tiếp thị, nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ tài chính, quản lý kinh doanh. 29
  31. Năng lực của nền kinh tế tri thức không những tạo cho sản phẩm l−u thông trên thị tr−ờng thế giới mang tính đa dạng, từ hàng hoá truyền thống đến hàng hoá dịch vụ, hàng hoá trí tuệ, mà còn làm cho chu kỳ sống của một sản phẩm chế tạo ngày càng rút ngắn, hiện nay còn khoảng từ 1 đến 3 năm so với trên 10 năm tr−ớc đây. Quá trình đổi mới công nghệ, nâng cao chất l−ợng, mẫu mã, kiểu dáng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Thế giới ngày càng sản xuất ra nhiều các thiết bị thông minh nh− máy tính, phần mềm, vật liệu mới, trong đó có những vật liệu nh− composite, gốm, vật liệu siêu dẫn, vật liệu năng l−ợng mới và các sản phẩm mang tính tự động cao. Ng−ời ta hy vọng rằng ngành công nghệ thông tin sẽ thay thế ngành dầu lửa và trở thành ngành công nghiệp số 1 trên thế giới trong thời gian tới. Cùng với sự thay đổi các nhân tố đầu vào cho sản xuất, hiện đang diễn ra sự thay đổi to lớn trong tiêu dùng và điều đó có ảnh h−ởng đến tăng tr−ởng kinh tế. Tiêu dùng trong thời đại kinh tế tri thức ngày càng đa dạng, cá tính hoá, nghệ thuật hoá. Do vậy, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và vi điện tử, ngành chế tạo sẽ xuất hiện những đặc điểm mới là thay đổi mẫu mã nhanh, trí tuệ hoá các sản phẩm, phân bố rộng, toàn cầu hoá sản phẩm nhanh hơn. Nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm dựa vào tri thức đang tăng lên nhanh chóng, hoạt động buôn bán bằng sáng chế và công nghệ đang trở thành một trong những hoạt động th−ơng mại có tốc độ tăng tr−ởng nhanh nhất trên thế giới. Sự nổi lên của nền kinh tế tri thức đang ảnh h−ởng đến sự phát triển kinh tế trên nhiều khía cạnh. Cách thức tăng tr−ởng kinh tế sẽ thay đổi to lớn, cơ cấu kinh tế sẽ thay đổi cơ bản, và các ngành công nghiệp nh− máy tính, phần mềm, công nghệ nguyên tử, công nghệ sinh học sẽ ngày càng có vị trí cao hơn trong nền kinh tế quốc dân. Tri thức và công nghệ sẽ là những nhân tố quyết định trong phân công quốc tế, cạnh tranh quốc tế sẽ gay gắt hơn. Các đ−ờng biên giới của cạnh tranh sẽ mở rộng từ việc đầu t− chế biến sâu các sản phẩm chứa đựng nhiều hàm l−ợng lao động tài nguyên, đến các sản phẩm điện tử, tin học, viễn thông chứa hàm l−ợng công nghệ cao hơn, thậm chí tới cả các sản phẩm trí tuệ. Theo đánh giá của các nhà khoa học trên thế giới: với các sản phẩm nông nghiệp vào những năm 1960, phần giá trị do công nghệ tạo ra chiếm 40%, phần do ng−ời sản xuất tạo ra là 60%; còn đến những năm 1980 thì tỷ lệ t−ơng ứng là 60% và 40%, vào những năm 1990 tỷ lệ này t−ơng ứng là 80% và 20%. Các chỉ số này cho thấy đã có sự hoán vị lợi thế so sánh giữa tài nguyên, lao động và khoa học - công nghệ trên thị tr−ờng hàng hoá thế giới. Thứ năm, quá trình hoạt động th−ơng mại trong nền kinh tế tri thức đ−ợc rút ngắn lại. 30
  32. Nhờ tạo khả năng tiếp cận thông tin nhanh, nền kinh tế tri thức đang giúp cho các thị tr−ờng hoạt động hiệu quả hơn. Bên cạnh việc mở rộng quy mô thị tr−ờng, kinh tế tri thức còn tạo ra đ−ợc những sản phẩm gọn nhẹ đến mức mọi cá nhân đều có thể có đ−ợc, do vậy khả năng tiêu dùng sản phẩm cũng ngày càng tăng. Do những ảnh h−ởng truyền bá nhanh của công nghệ thông tin và sự áp dụng công nghệ hiện đại, số l−ợng sản phẩm tri thức ngày càng mở rộng, kích cỡ sản phẩm gọn nhẹ có thể chuyển đến bất kỳ vị trí nào, khách hàng dễ tìm đ−ợc những sản phẩm có giá cả thấp nhất với khả năng hữu dụng cao nhất, thoả mãn đ−ợc các nhu cầu luôn thay đổi của con ng−ời. Công nghệ thông tin giúp cho việc phân bổ các nguồn lực đạt hiệu quả cao nhất. Các thông tin về điều kiện thị tr−ờng, thời tiết, sở thích, thị hiếu của từng cá nhân, từng dân tộc giúp cho hoạt động th−ơng mại giảm đ−ợc chi phí, tránh đ−ợc rủi ro và rút ngắn đ−ợc những khoảng thời gian kinh doanh không cần thiết. Nhờ hệ thống th−ơng mại điện tử, ng−ời tiêu dùng có thể giao dịch trực tiếp với ng−ời sản xuất qua mạng internet và máy tính, các công đoạn từ khâu lựa chọn hàng hóa đến thanh toán và giao hàng đều có thể thực hiện trên máy trực tuyến nên thời gian của các chu trình kinh doanh th−ơng mại đ−ợc rút ngắn nhiều. Với công nghệ thông tin, thế giới đang đ−ợc thu hẹp lại, khoảng cách về thời gian và không gian đ−ợc rút ngắn, t− duy kinh tế và kinh doanh th−ơng mại cổ điển đang đ−ợc thay thế bằng một t− duy hiện đại hơn, linh hoạt hơn, rộng mở và tốc độ cao hơn. Thứ sáu, Công tác quản lý Nhà n−ớc về th−ơng mại trong nền kinh tế tri thức thay đổi theo h−ớng linh hoạt, năng động và đ−ợc thực hiện dựa trên nền tảng chính phủ điện tử. Quản lý nhà n−ớc trong hoạt động th−ơng mại bao gồm các vấn đề nh− tạo lập môi tr−ờng pháp lý, chính sách kích thích sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị tr−ờng quốc tế. Môi tr−ờng pháp lý và chính sách phù hợp thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong n−ớc mở rộng thị tr−ờng ra bên ngoài nhằm tăng quy mô xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh trên thị tr−ờng thế giới, đồng thời bảo hộ hợp lý thị tr−ờng trong n−ớc tr−ớc sự xâm nhập của hàng hoá và dịch vụ n−ớc ngoài. Một chính sách kích thích sản xuất tốt không chỉ đóng vai trò thúc đẩy năng lực sản xuất, đảm bảo đầu vào, đầu ra cho quá trình sản xuất mở rộng, mà còn đóng vai trò khai thác đúng tiềm năng và lợi thế trong n−ớc, thúc đẩy việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ một cách hiệu quả. Nền kinh tế tri thức đòi hỏi công tác quản lý Nhà n−ớc về th−ơng mại phải năng động và hiệu quả hơn. Trong xu thế tự do hoá th−ơng mại ngày càng mạnh mẽ cũng nh− sức cạnh tranh trên thị tr−ờng hàng hoá thế giới ngày càng 31
  33. tăng nhanh, cơ chế th−ơng mại của các n−ớc buộc phải đáp ứng các yêu cầu cắt giảm thuế quan, tự do hoá từng b−ớc, huỷ bỏ hàng loạt các chính sách biện pháp không thích ứng nh− bán phá giá, không đảm bảo an toàn thực phẩm Nhà n−ớc buộc phải có sự chuyển đổi cơ cấu xuất - nhập khẩu theo h−ớng tăng c−ờng tỷ trọng hàng chế biến sâu, có giá trị gia tăng và hàm l−ợng kỹ thuật cao. Ngoài thị tr−ờng hàng hoá, hàng loạt các thị tr−ờng khác nh− thị tr−ờng dịch vụ, thị tr−ờng vốn, thị tr−ờng đầu t−, thị tr−ờng chuyển giao công nghệ, thị tr−ờng tài chính - tiền tệ trong thời đại kinh tế tri thức cũng cần đ−ợc thiết lập để tạo môi tr−ờng cho hoạt động th−ơng mại đạt đ−ợc hiệu quả nhất. Sự xuất hiện của th−ơng mại điện tử đang làm cho nền th−ơng mại thế giới trở nên năng động hơn, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của tất cả các n−ớc, đặc biệt là các n−ớc đang phát triển. Vì vậy, nền kinh tế tri thức đang đặt ra vấn đề cần đầu t− mạnh hơn cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật, kinh tế, quản lý, xây dựng chính sách phát triển khoa học công nghệ, xây dựng hệ thống th−ơng mại điện tử để có thể tham gia hiệu quả hơn vào quá trình phân công lao động quốc tế mới. Toàn cầu hoá đang tạo ra làn sóng truyền bá và chuyển giao trên quy mô lớn những thành quả mới, những đột phá sáng tạo về khoa học - công nghệ, về tổ chức quản lý, về kinh doanh, đ−a kiến thức và kinh nghiệm đến với từng quốc gia, từng gia đình, từng con ng−ời, dọn đ−ờng cho các quốc gia thực hiện công nghiệp hoá cũng nh− thực hiện b−ớc chuyển sang kinh tế tri thức. Tác động lớn nhất của nền kinh tế dựa trên tri thức là nó dẫn tới việc tái tổ chức hệ thống sản xuất toàn cầu. Trong nền kinh tế tri thức, Nhà n−ớc đồng thời là ng−ời sản xuất, ng−ời l−u giữ và sử dụng tri thức, ng−ời trao đổi sản phẩm tri thức ra thế giới bên ngoài. Do vậy, Nhà n−ớc cần phải có những kỹ năng quản lý nhằm đáp ứng đ−ợc những đòi hỏi để thực hiện đ−ợc cả ba vai trò trên. Những ng−ời làm công tác quản lý cần phải có những kiến thức hiểu biết tốt nhất về những công nghệ, những thị tr−ờng công nghệ cụ thể để nhận ra những cơ hội cho hoạt động th−ơng mại của n−ớc mình, đồng thời phải có sự phối hợp các chính sách phát triển kinh tế nhuần nhuyễn nhất để xác định chính xác những sản phẩm, thị tr−ờng đang có lợi thế và những sản phẩm thị tr−ờng đang cần bổ sung nhằm hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế tri thức không chấp nhận một cơ chế quản lý th−ơng mại r−ờm rà, chậm chạp, với quy mô cồng kềnh, trái lại nó đòi hỏi một cơ chế gọn nhẹ, tin học hoá, số hoá và một đội ngũ cán bộ quản lý giàu tri thức. Để đáp ứng đ−ợc những đòi hỏi trên, công tác quản lý Nhà n−ớc về th−ơng mại cần đ−ợc hiện đại hóa và thực hiện theo hệ thống mạng dựa trên nền tảng chính phủ điện tử. 32
  34. IV. Kinh nghiệm phát triển th−ơng mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở một số n−ớc và bài học cho Việt Nam 1. Kinh nghiệm của một số n−ớc 1.1. Kinh nghiệm của một số n−ớc phát triển. Các n−ớc công nghiệp phát triển là khu vực có trình độ phát triển kinh tế và th−ơng mại cao nhất thế giới. Trong hơn một thập kỷ qua, các n−ớc công nghiệp phát triển đã h−ớng mạnh hoạt động th−ơng mại của mình dựa trên những nền tảng của nền kinh tế tri thức. Đây là một điều tất yếu bởi trong cơ cấu kinh tế của các n−ớc này, kinh tế tri thức đang chiếm tỷ lệ thống trị, khoảng trên d−ới 60% GDP của mỗi n−ớc. N−ớc Mỹ, là n−ớc có những b−ớc khởi đầu thành công nhất trong việc tiến đến nền kinh tế tri thức với các ngành công nghệ cao, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong GDP. Đây là nền kinh tế có xu h−ớng toàn cầu hóa mạnh đ−ợc quản lý và vận hành theo một cơ chế hết sức năng động. Việc sử dụng internet ở Mỹ cũng cao hơn các n−ớc khác, đặc biệt là chính phủ điện tử hoạt động rất có hiệu quả. Ngay từ giữa thập niên 70, n−ớc Mỹ đã đầu t− vào sản xuất máy vi tính và công nghệ phần mềm, nh−ng chỉ đến năm 1995 - 1996 năng suất của nền kinh tế Mỹ mới bắt đầu tăng lên nhờ công nghệ thông tin. Tỷ lệ đóng góp của ngành điện tử tin học trong tăng tr−ởng GDP giai đoạn 1997-2000 là 45%, so với 14% trong ngành xây dựng và 4% của ngành xe hơi. nếu tính cả những ngành có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến công nghệ thông tin thì đóng góp này lên tới 80% GDP. Tỷ trọng xuất nhập khẩu và tỷ lệ đóng góp của các sản phẩm công nghệ cao vào GDP của Mỹ ngày càng lớn. Gần 1/3 tăng tr−ởng GDP của Mỹ hàng năm là nhờ xuất khẩu các mặt hàng đ−ợc sản xuất ở các khu công nghệ cao và nhờ năng suất cao ở Mỹ. Th−ơng mại hoá số l−ợng lớn các thành quả khoa học kỹ thuật cao để thúc đẩy tăng tr−ởng, trong đó ngành sản xuất phần mềm có hàm l−ợng tri thức cao đ−ợc coi là nhân tố chính của nguồn gốc tăng tr−ởng kinh tế Mỹ. Các n−ớc EU, hiện nay, những yếu tố của nền kinh tế tri thức cũng đã phát triển và đạt đ−ợc mức khá cao trong nhiều n−ớc. Tỷ trọng xuất khẩu các hàng hoá công nghệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1970 - 1994 đã tăng từ 12,8% lên 36,2% ở Đức; từ 17,1% lên 36,2% ở Anh; và từ 14% lên 24,2% ở Pháp. Năm 1994, tỷ trọng giá trị gia tăng của các ngành dựa trên tri thức trong toàn bộ khu vực kinh doanh ở EU là 48,4%. Đến năm 1997 thị tr−ờng công nghệ thông tin và viễn thông chiếm 5% GDP của EU, thấp hơn tỷ lệ 7,6% của Mỹ, nh−ng cao hơn tỷ lệ 4,4% của Nhật Bản. Nhờ áp dụng công nghệ mới trong sản xuất, trên thị tr−ờng th−ơng mại quốc tế các sản phẩm mới 33
  35. của EU nh− thiết bị viễn thông, chất dẻo, thực phẩm, ô tô, máy móc, th−ơng mại dịch vụ xuất hiện ngày càng nhiều; trong khi đó các sản phẩm sơ cấp nh− hàng dệt may, sản phẩm chế biến thô ngày càng có xu h−ớng tăng tr−ởng chậm lại và chiếm tỷ lệ nhỏ trong kim ngạch ngoại th−ơng. Nhật Bản, cũng đạt đ−ợc những kết quả đáng kể trong việc tiến đến nền kinh tế tri thức. Theo số liệu của OECD, những ngành dựa trên tri thức của Nhật hiện chiếm hơn 53 % GDP và trở thành những ngành trụ cột của nền kinh tế. ở Nhật Bản gia đình nào cũng có máy vi tính với hơn 70 triệu ng−ời tham gia truy cập Internet. Việc sử dụng Internet và th−ơng mại điện tử đang phát triển rất nhanh và công nghệ thông tin đ−ợc coi là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Nhật. Các sản phẩm của nền kinh tế tri thức cũng giành đ−ợc những vị trí quan trọng trên thị tr−ờng th−ơng mại thế giới. Trong thập kỷ 1990, sản l−ợng máy tính cá nhân ở Mỹ chiếm 50% sản l−ợng của các n−ớc G7 cộng lại, trong khi đó Nhật Bản chiếm 30%, chỉ đứng sau Mỹ. Tuy nhiên, những khó khăn kinh tế và sự cải cách cơ cấu kinh tế trì trệ ở trong n−ớc vào nửa cuối thập kỷ 1990 của Nhật Bản đã khiến các sản phẩm kinh tế tri thức của n−ớc này giảm sút khả năng cạnh tranh so với các n−ớc công nghiệp tiên tiến khác và so với cả những n−ớc mới công nghiệp hoá ở Châu á. Giai đoạn 1996- 1999, trong khi th−ơng mại hàng hoá liên quan đến công nghệ thông tin trên toàn thế giới tăng mạnh, thì thị phần của Nhật Bản trên thị tr−ờng thế giới về các sản phẩm này lại có xu h−ớng giảm sút. Trong cùng giai đoạn trên, doanh số bán các sản phẩm công nghệ thông tin của Nhật Bản giảm trung bình 0,4%/năm, trong khi doanh số bán sản phẩm công nghệ thông tin hàng năm của Mỹ tăng 6,2%, EU tăng 5,6%, Trung Quốc tăng 19,3%, Hàn Quốc tăng 9,3%, Đài Loan tăng 9%. Năm 2000, Nhật Bản đứng thứ 14 trên thế giới về sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghệ thông tin, trong khi Mỹ đứng thứ 1, Singapo thứ 6, Đài Loan thứ 13. Nguyên nhân dẫn đến sự thành công trong việc chuyển đổi cơ cấu sản phẩm th−ơng mại hàng hoá trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở các n−ớc công nghiệp phát triển chủ yếu là: Thứ nhất, những n−ớc này đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với nền kinh tế tri thức. Mặc dù so với các n−ớc Mỹ và EU, Nhật Bản có nguy cơ đình trệ trong cải cách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp hơn với nền kinh tế tri thức, nh−ng nhìn chung các n−ớc công nghiệp phát triển, kể cả Nhật bản, đã xây dựng đ−ợc những cơ sở vật chất hiện đại, là cái nôi của nền kinh tế tri thức. Những n−ớc này đều có nền công nghiệp sản xuất hiện đại đứng hàng đầu thế giới, có hệ thống các ngành dịch vụ phát triển, có cơ sở hạ tầng vận tải viễn thông hiện đại, một nền nông nghiệp năng suất cao. Đây là 34
  36. điều kiện rất thuận lợi để hoạt động th−ơng mại của các n−ớc này có sự chuyển h−ớng phù hợp với thời đại mới. Thứ hai, đây là những n−ớc có nền kinh tế thị tr−ờng hiện đại và mở cửa thực sự. Mỹ là một nền kinh tế tự do hàng đầu thế giới, EU là một khu vực kinh tế có mức độ liên kết chặt chẽ, thống nhất và có mức độ tự do hoá th−ơng mại cao, trong khi Nhật Bản cũng là một n−ớc có nền kinh tế thị tr−ờng mở cửa. Đây là những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi để các n−ớc này đẩy nhanh việc trao đổi sản phẩm tri thức, góp phần thúc đẩy nghiên cứu và trao đổi công nghệ mới. Thứ ba, đây là những n−ớc có sự tiến bộ nhất về R&D, với lực l−ợng lao động có trình độ cao, kể cả trình độ khoa học và trình độ quản lý. ở Mỹ, chi tiêu của Chính phủ cho R&D chiếm 0,78% GDP vào năm 1998, trong khi ở EU tỷ lệ chi tiêu này là 0,7% GDP và ở Nhật Bản là 0,59% GDP. Cũng trong năm này, chi tiêu của khu vực doanh nghiệp cho R&D ở Mỹ chiếm 2,04% GDP, ở EU 1,20% GDP, và ở Nhật Bản là 2,18% GDP. Tại các n−ớc này, có tới 60-70% lực l−ợng lao động là đội ngũ trí thức. Đây là những n−ớc có lực l−ợng lao động có chất l−ợng giáo dục cao, có đội ngũ cán bộ khoa học hùng hậu và đ−ợc cấp bằng phát minh sáng chế nhiều nhất thế giới. Thứ t−, đây là những n−ớc tập trung nhiều Công ty xuyên quốc gia nổi tiếng thế giới. Các công ty này nắm bắt hầu hết tri thức, công nghệ, luồng vốn và các kênh trao đổi hàng hoá trên toàn cầu. Thứ năm, các n−ớc này có tốc độ phát triển th−ơng mại điện tử mạnh nhất thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi hàng hoá trong thời đại kinh tế tri thức. Tại Mỹ, kể từ tháng 1/1991 khi Mỹ bắt đầu mở cửa mạng Internet ra toàn công chúng, đất n−ớc này đã nhanh chóng thúc đẩy cuộc cách mạng tin học, th−ơng mại và điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Kể từ đó, kinh tế Mỹ tăng tr−ởng liên tục, năng suất lao động của Mỹ tăng gấp đôi so với thập kỷ 1970 và 1980 Năm 2003, tổng giá trị giao dịch th−ơng mại điện tử toàn cầu đạt 1.408 tỷ USD, trong đó Mỹ chiếm 44% tổng kim ngạch, Châu Âu chiếm 31,2%, Nhật Bản 15,3%. Số ng−ời sử dụng Internet ở Mỹ năm 2000 là 136 triệu ng−ời, chiếm khoảng 45% tổng số ng−ời sử dụng Internet trên toàn thế giới. Nguyên nhân khiến mạng Internet trở nên phổ biến ở Mỹ là chi phí truy cập mạng thấp hơn nhiều các n−ớc Châu Âu và Nhật Bản, tỷ lệ máy chủ trên số dân cao hơn nhiều so với các n−ớc (170 máy chủ trên 1 triệu dân, trong khi ở Anh là 55, Đức 34,5 và Nhật Bản 15). Đầu t− cho tin học năm 1997 ở Mỹ chiếm 3,9% tổng vốn đầu t−, trong khi ở Nhật là 12,5%. Th−ơng mại điện tử ở Tây Âu cũng tăng trung bình 120%/năm trong thập kỷ 1990 và tỷ lệ sử dụng Internet ở Châu Âu đạt 37% vào năm 2000. 35
  37. 1.2. Kinh nghiệm của một số n−ớc đang phát triển Trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức, th−ơng mại hàng hoá của các n−ớc đang phát triển cũng đang có sự chuyển h−ớng tích cực nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển với các n−ớc công nghiệp tiên tiến. Tỷ trọng sản phẩm có hàm l−ợng tri thức cao trong trao đổi th−ơng mại quốc tế của các n−ớc này cũng đang có xu h−ớng tăng lên. Tuy nhiên, mỗi quốc gia đều có một cách đi riêng nhằm khuyếch tr−ơng và phổ biến sản phẩm có hàm l−ợng tri thức cao của mình trên thị tr−ờng thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả hơn. Hàn Quốc, đã đầu t− khá mạnh cho các lĩnh vực công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin nên n−ớc này có cơ sở hạ tầng công nghệ phát triển hơn nhiều so với các n−ớc trong khu vực. Chính phủ Hàn Quốc đã có chiến l−ợc h−ớng tới nền kinh tế tri thức từ rất sớm với −u tiên đầu t− cho R&D và phát triển nguồn nhân lực. Do đầu t− mạnh vào công nghệ thông tin, đất n−ớc này đã trở thành 1 trong 10 c−ờng quốc về công nghệ thông tin trên thế giới vào năm 2002. Thành tựu điển hình của Hàn Quốc trong nghiên cứu phát triển công nghệ thông tin là xây dựng mạng thông tin siêu cao tốc trong n−ớc, th−ơng mại hoá công nghệ thông tin, sản xuất chất bán dẫn mật độ cao Trong giai đoạn 1990 - 2001, kim ngạch xuất nhập khẩu các sản phẩm công nghệ thông tin của Hàn Quốc ra thị tr−ờng thế giới tăng 4 lần, trong đó xuất khẩu tăng từ 9,2 tỷ USD lên 38,5 tỷ USD, nhập khẩu từ 7,5 tỷ USD lên 27,3 tỷ USD. Sự tăng lên nhanh chóng của công nghệ thông tin đang góp phần quan trọng trong việc đ−a chỉ số GDP của Hàn Quốc tăng nhanh từ 8,1% năm 1996 lên 12,9% năm 2001, cao nhất trong các n−ớc OECD. Hàn Quốc đã đầu t− rất mạnh cho R&D, khoảng 2,1% GDP, trong khi các n−ớc OECD khác trung bình là 1,38% GDP. Để tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, Hàn Quốc đã xây dựng một thị tr−ờng dịch vụ Internet tốc độ cao hàng đầu thế giới. Hiện nay Hàn Quốc đứng thứ 30 trên thế giới về sức cạnh tranh khoa học công nghệ. Năm 2003 kim ngạch ngoại th−ơng thực hiện bằng th−ơng mại điện tử của Hàn Quốc chiếm 30%, gấp 6 lần năm 1999. Đài Loan, Chính phủ Đài Loan đã nhận thức rõ đ−ợc tầm quan trọng của nền kinh tế tri thức dựa trên công nghệ cao và công nghệ thông tin nên đã có nhiều biện pháp và chính sách để xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế này. Đài Loan đã lựa chọn ph−ơng thức v−ơn lên chiếm lĩnh thị tr−ờng hàng hoá tri thức bằng cách tập trung thu hút đầu t− n−ớc ngoài vào ngành công nghiệp máy tính, sau đó h−ớng mạnh ra xuất khẩu. Hiện nay, Đài Loan là khu vực xuất khẩu máy tính đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Nhật Bản. Các sản phẩm đem lại doanh số cao là màn hình máy tính, máy tính xách tay, máy tính để 36
  38. bàn, bàn phím, chuột Các sản phẩm công nghệ cao chiếm gần 10% xuất khẩu của Đài Loan trong giai đoạn 1991-2000. Tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm tin học hàng đầu của Đài Loan trên thị tr−ờng thế giới là Video Card (chiếm 75% số l−ợng xuất khẩu trên thế giới), chuột (72%), màn hình (54%), bộ nguồn (63%), bàn phím (60%) Giống nh− một số n−ớc Châu á khác đang chuyển dần nền kinh tế của mình sang nền kinh tế tri thức, nh−ng ấn Độ đã lựa chọn một cách đi riêng biệt. Là một n−ớc có trình độ phát triển kinh tế đi sau Hàn Quốc, Đài Loan 2-3 thập kỷ, ấn Độ đã lựa chọn ph−ơng thức rút ngắn quá trình phát triển các ngành công nghệ mới bằng cách tập trung trọng tâm vào sản xuất và xuất khẩu phần mềm. Năm 2002, gia công xuất khẩu phần mềm và dịch vụ của ấn Độ đạt 8 tỷ USD, dẫn đầu ngành công nghiệp phần mềm ở Châu á. Mặc dù là n−ớc công nghiệp hoá đi sau, nh−ng ngành gia công xuất khẩu phần mềm của ấn Độ bắt đầu từ những năm 1980, đi tr−ớc các n−ớc khác trong khu vực từ 10-15 năm. Các công ty ấn Độ đ−ợc coi là đi tiên phong trong việc đ−a ra khái miệm về ngành gia công xuất khẩu phần mềm và đ−ợc công nhận là ng−ời phát minh ra ngành này. Ngày nay, các công ty xuất khẩu phần mềm ấn Độ đ−ợc coi là những nhà cung cấp dịch vụ tr−ởng thành nhất, có mặt trên toàn cầu và cạnh tranh đ−ợc với các công ty lớn của Mỹ trên thế giới. Trong giai đoạn 1991- 2000, xuất khẩu phần mềm của ấn Độ tăng t−ởng 50%/năm, đ−a n−ớc này trở thành trung tâm xuất khẩu phần mềm lớn nhất Châu á với hơn 250 công ty trong và ngoài nuớc. Trung Quốc bắt đầu thời kỳ cải cách và mở cửa kinh tế từ năm 1979, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp và cơ chế tập trung, bao cấp. Trong hơn hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã có những chính sách đón bắt nền kinh tế tri thức một cách nhanh chóng và hiệu quả. Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành xây dựng chiến l−ợc cho việc phát triển kinh tế tri thức gồm 5 điểm: Hiện đại hóa chế độ kinh tế và thể chế, tăng c−ờng giáo dục và học tập, xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin, ứng dụng công nghệ mới trong mọi ngành kinh tế và tăng c−ờng năng lực nghiên cứu triển khai. Trung Quốc đã rất coi trọng phát triển các ngành nghề kỹ thuật cao và chọn công nghiệp kỹ thuật thông tin làm ngành công nghiệp chiến l−ợc. Nhờ đó mà từ một n−ớc không có một sản phẩm xuất khẩu nào chứa hàm l−ợng tri thức trong thập kỷ 1980, cho đến nay Trung Quốc đã nổi tiếng thế giới với các sản phẩm tin học và điện tử. Sản xuất máy tính cá nhân ở Trung Quốc hàng năm tăng tr−ởng khoảng 40%, đạt doanh thu xuất khẩu 19 tỷ USD trong tổng số 23 tỷ USD của toàn thị tr−ờng trên thế giới. Hiện tại Trung Quốc đang chuyển từ tập trung sản xuất phần cứng sang ngành dịch vụ và sau đó là phần mềm. Kinh tế tri thức chiếm khoảng 10% GDP ở Trung Quốc hiện nay. Năm 1994 tỷ trọng sản phẩm công nghệ thông 37
  39. tin chiếm 10% kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc, năm 2000 tăng lên 18%, dần thay thế hàng dệt may, trở thành ngành hàng xuất khẩu lớn nhất. Để thuận lợi cho th−ơng mại hàng hoá phát triển, từ đó tác động trở lại tăng tr−ởng và phát triển kinh tế, Trung Quốc đã chú trọng phát triển nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng viễn thông. Năm 1999, số ng−ời sử dụng Internet là 17 triệu, chiếm 1,5% dân số, và con số này đang tăng nhanh trong những năm gần đây. Dự báo đến năm 2010 xuất khẩu sản phẩm công nghệ thông tin của Trung Quốc có thể sẽ đạt 400 tỷ USD, cao hơn Nhật khoảng 30%, v−ợt kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm này của ba n−ớc Malaixia, Singapore và Đài Loan cộng lại, trở thành n−ớc xuất khẩu sản phẩm công nghệ thông tin lớn nhất thế giới. Nguyên nhân chính khiến xuất khẩu các sản phẩm tri thức ở Châu á tăng nhanh và đuổi bắt hiệu quả làn sóng th−ơng mại hàng hoá trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức ở Mỹ và Châu Âu là do: + Tuy hầu hết các n−ớc trong khu vực đều có một xuất phát điểm kinh tế và kỹ thuật khá thấp, nh−ng đã có những chiến l−ợc phát triển kinh tế hợp lý cho từng thời kỳ. Mỗi n−ớc đều có những chiến l−ợc phát triển kinh tế tri thức riêng biệt và hiệu quả, có những chính sách th−ơng mại mang tính cạnh tranh và hội nhập t−ơng đối cao, vì vậy các sản phẩm trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức của các n−ớc này có khả năng cạnh tranh đ−ợc trên thị tr−ờng thế giới. + Các n−ớc đang phát triển Châu á đang tiến dần đến một nền kinh tế thị tr−ờng hoàn chỉnh, đồng bộ, thật sự mở cửa, với một thị tr−ờng tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán trong n−ớc và quốc tế cao. + Các n−ớc này đã chú trọng đầu t− cho giáo dục và đào tạo, nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực để có thể đáp ứng đ−ợc các nhu cầu mới của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. + Các n−ớc này đang cố gắng xây dựng một cơ sở hạ tầng thông tin phát triển, có khả năng chuyển tải mọi thông tin một cách nhanh chóng đến mọi ng−ời dân, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc truyền bá kinh tế tri thức. 2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Qua kinh nghiệm phát triển th−ơng mại trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức của một số n−ớc trên thế giới, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá sau đây mà Việt Nam có thể tham khảo: 2.1. Mỗi n−ớc cần có một kế hoạch, một chiến l−ợc tổng thể về phát triển kinh tế dựa trên tri thức. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Nhà n−ớc luôn có một vai trò tối quan trọng để khởi x−ớng và thúc đẩy những mầm mống của kinh tế tri thức. Thời gian dự tính thực hiện chiến l−ợc h−ớng tới nền kinh tế tri thức của Hàn Quốc là 20 năm, của Anh là 10 năm, Singapore là 10 năm, cũng nh− 38
  40. bối cảnh ra đời của các chiến l−ợc này. Việt Nam cần nhanh chóng phải có một chiến l−ợc hoặc một tầm nhìn tổng quan cho quá trình biến môi tr−ờng kinh tế - xã hội của đất n−ớc trở nên thân thiện hơn với sự đổi mới, sáng tạo và tiếp thu tri thức trong n−ớc và ngoài n−ớc. Chiến l−ợc phát triển kinh tế tri thức không phải là chiến l−ợc về công nghệ cao hay một chiến l−ợc về công nghệ thông tin và viễn thông. Nếu không có một môi tr−ờng kinh tế - xã hội phù hợp thì những khoản đầu t− khổng lồ dành cho công nghệ cao ở một n−ớc nghèo nàn, lạc hậu nh− Việt Nam sẽ khó phát huy tác dụng tích cực. Hầu hết các chiến l−ợc h−ớng về kinh tế tri thức của các n−ớc đều nhấn mạnh vào “tinh thần kinh doanh”. Tuy nhiên, biện pháp chính sách thiết yếu để xây dựng kinh tế tri thức này hiện ch−a đ−ợc quan tâm đủ mức ở Việt Nam. Để từng b−ớc xây dựng kinh tế tri thức, không thể không xây dựng một văn hoá “tinh thần kinh doanh” rộng khắp. Thay vào đó, mục tiêu phát triển h−ớng tới kinh tế tri thức là tăng c−ờng việc sử dụng hữu hiệu mọi tri thức trong nền kinh tế và xã hội. Điều này đòi hỏi có sự t−ơng tác tốt hơn giữa các chính sách, thể chế, công nghệ, ng−ời dân và Chính phủ, chiến l−ợc này sẽ mang tri thức tới mọi ng−ời dân, từ những ng−ời nông dân cho tới những nhà khoa học, từ doanh nghiệp cho tới Chính phủ để đạt đ−ợc chất l−ợng cuộc sống cao hơn. 2.2. Hoạt động th−ơng mại trong nền kinh tế tri thức đòi hỏi phải có những quan điểm và giải pháp mới về chiến l−ợc sản phẩm, chiến l−ợc thị tr−ờng và ph−ơng thức hội nhập. Lý luận và thực tiễn hoạt động th−ơng mại của các n−ớc cho thấy, trong thời đại ngày nay, những lý thuyết cơ bản của lợi thế so sánh vẫn còn hiệu lực, tuy nhiên đã có sự thay đổi về chất. Thông qua thị tr−ờng sản phẩm ở hầu hết các n−ớc đã nghiên cứu trên đây có thể thấy, khoa học và công nghệ đang trở thành lợi thế so sánh trực tiếp, nó có tính chất quyết định đến khả năng trao đổi và cạnh tranh của sản phẩm trên thị tr−ờng. Trong khi đó ở nhiều n−ớc đang phát triển đi sau, nguồn tài nguyên ch−a đ−ợc khai thác và chi phí lao động rẻ vẫn đang chiếm hàm l−ợng cao trong sản phẩm. Một số n−ớc đã biết kết hợp những lợi thế này với những tiến bộ của khoa học công nghệ để tạo nên sự thần kỳ trong xuất khẩu hàng hoá, chiếm lĩnh thị tr−ờng thế giới nh− ấn Độ và Trung Quốc. Vấn đề ở đây là, trong quan điểm phát triển th−ơng mại của mình, Chính phủ các n−ớc đã phân biệt rất rõ ràng đâu là những sản phẩm cần phát huy lợi thế so sánh tĩnh và đâu là những sản phẩm cần đầu t− để tạo ra các lợi thế so sánh động cho t−ơng lai. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai vấn đề này là rất khó, nó đòi hỏi phải có sự phát huy nội lực trong n−ớc, có những chính sách xuất nhập khẩu hợp lý và có những b−ớc mở cửa thị tr−ờng năng động 39
  41. nhằm tự do hoá th−ơng mại một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất, nh−ng đã có không ít n−ớc đang phát triển làm đ−ợc thì Việt Nam không có lý do gì để không làm đ−ợc. Tuy nhiên, để thực hiện tốt những công việc đó, tr−ớc hết phải có một sự đánh giá đầy đủ về tầm quan trọng của khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế và có những chiến l−ợc phát triển kinh tế - th−ơng mại mang tính chất dài hạn và toàn diện hơn. Kinh nghiệm này là vô cùng quý giá đối với Việt Nam, bởi cho đến nay cơ cấu th−ơng mại của chúng ta vẫn còn nhiều bất cập cần tháo gỡ và những b−ớc đi hội nhập kinh tế quốc tế còn chậm chạp, ch−a đem lại hiệu quả cao. 2.3. Đầu t− cho khoa học - công nghệ và chú trọng phát triển nguồn nhân lực đang là chìa khoá để phát triển nền kinh tế tri thức nói chung, hoạt động th−ơng mại nói riêng. Kinh nghiệm của các n−ớc trên cho thấy những n−ớc hội nhập thành công vào xu thế toàn cầu hoá là những n−ớc có chi phí đầu t− cho R&D cao, có đội ngũ lao động trí thức chiếm tỷ trọng lớn. Mức độ đầu t− cho khoa học - công nghệ và chất l−ợng nguồn nhân lực là yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh nổi trội trong nền kinh tế tri thức, nó quyết định n−ớc nào sẽ đón bắt nền kinh tế tri thức tốt nhất (nh− Mỹ và EU chẳng hạn). Sự đầu t− cho khoa học công nghệ và nguồn nhân lực phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố nh− tiềm lực kinh tế, trình độ phát triển, năng lực hấp thụ tri thức của ng−ời lao động và chính sách của Chính phủ. So với Mỹ hay các n−ớc Châu Âu, ấn Độ là một n−ớc có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn, khả năng tài chính kém, nguồn lực lao động tri thức thấp do phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Nh−ng ấn Độ đã gây ảnh h−ởng lớn đến thị tr−ờng công nghệ thông tin thế giới nhờ xuất khẩu phần mềm. Chính sách và sự đầu t− đúng đắn, có hiệu quả cao của Chính phủ ấn Độ là tập trung nâng cao chất l−ợng giáo dục - đào tạo và phát triển khoa học - công nghệ, đã giúp n−ớc này bứt lên khỏi hàng ngũ những n−ớc kém phát triển và đạt đ−ợc những thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn của thế giới, góp phần quan trọng đem lại thành công cho quá trình phát triển nền kinh tế tri thức. Đối với Việt Nam, chúng ta đã nhận thức đ−ợc tầm quan trọng của khoa học - công nghệ và phát triển giáo dục - đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học, song xu h−ớng thiên về số l−ợng mà bỏ qua chất l−ợng đầu t− đang tạo ra những trở ngại rất lớn để có thể tiếp cận tốt hơn nền kinh tế tri thức. N−ớc ta, cần phát triển các kết cấu hạ tầng tối cần thiết về công nghệ thông tin và nguồn nhân lực của kinh tế tri thức. Nhà n−ớc cần can thiệp cải cách mạnh mẽ hai lĩnh vực then chốt của kinh tế tri thức, đó là 40
  42. giáo dục và nghiên cứu khoa học. Thất bại trong những lĩnh vực này sẽ dẫn đến sự phát triển chậm trong tất cả các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, mọi sự can thiệp của nhà n−ớc vào các lĩnh vực này đều phải dựa trên định h−ớng thị tr−ờng và có sự tham gia chặt chẽ của nhân dân, tức là bao gồm cả khu vực t− nhân. 2.4. Để hoạt động th−ơng mại trong nền kinh tế tri thức phát huy hiệu quả, cần phát triển ngành công nghệ thông tin vững mạnh và hệ thống th−ơng mại điện tử hiện đại. Công nghệ thông tin đóng vai trò chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế tri thức và một hệ thống th−ơng mại điện tử hiện đại sẽ giúp thị tr−ờng hàng hoá trong n−ớc tiếp cận thuận lợi hơn với thị tr−ờng sản phẩm tri thức từ bên ngoài. ở những n−ớc ch−a xã hội hoá công nghệ thông tin và th−ơng mại điện tử, nền kinh tế tri thức d−ờng nh− đến chậm hơn những n−ớc đã hoàn thiện phát triển hệ thống này. Kinh nghiệm của các n−ớc cho thấy, kể cả Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu cho đến các quốc gia đang phát triển, Chính phủ các n−ớc đều chú trọng đầu t− cho phát triển công nghệ thông tin và hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho nền kinh tế tri thức. Mỗi n−ớc có những cách thức tiến hành khác nhau, tuy nhiên lợi ích của việc phát triển công nghệ thông tin và th−ơng mại điện tử đang làm gia tăng năng suất lao động của các n−ớc, góp phần rất lớn vào tăng tr−ởng xuất khẩu, tăng tr−ởng kinh tế và tạo việc làm. Đối với một n−ớc đang phát triển nh− Việt Nam, việc phát triển công nghệ thông tin và th−ơng mại điện tử cần phải nhanh và rộng hơn, hạn chế sự chậm chạp và kém chất l−ợng làm cản trở đến hoạt động th−ơng mại nói riêng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung. 2.5. Xây dựng và hoàn thiện chính sách và thể chế. Mở rộng từng b−ớc cho cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ viễn thông. Về lâu dài, phải xoá bỏ hạn chế đối với các dịch vụ đ−ờng dài và quốc tế. Trong t−ơng lai trung hạn, cho phép các liên doanh hoạt động trong các dịch vụ chính (trừ các dịch vụ nội hạt, đ−ờng dài và quốc tế cố định): mở cửa hoàn toàn thị tr−ờng khai thác và cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng. Ban hành các chính sách và cơ chế để tạo thuận lợi cho việc trao đổi thông tin, đặc biệt là các dịch vụ thông tin trên mạng; có các chính sách hỗ trợ để phổ cập các dịch vụ viễn thông đến đông đảo công chúng, hỗ trợ về c−ớc phí cho các tr−ờng đại học, tổ chức nghiên cứu phát triển. Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn, quy chế quản lý; ban hành các tiêu chuẩn (về mạng, thiết bị) để thuận tiện cho việc kết nối; ban hành các quy chế để có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ thông tin, các nguồn cung cấp thông tin của Nhà n−ớc và phát triển th−ơng mại điện tử. 41