Báo cáo thực tập tour xuyên Việt: Các điểm du lịch
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo thực tập tour xuyên Việt: Các điểm du lịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bao_cao_thuc_tap_tour_xuyen_viet_cac_diem_du_lich.pdf
Nội dung text: Báo cáo thực tập tour xuyên Việt: Các điểm du lịch
- TRƯỜNG CĐ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VÀ DU LỊCH SÀI GÒN BÁO CÁO THỰC TẬP TOUR XUYÊN VIỆT NĂM HỌC : 2007 – 2011
- CÁC ĐIỂM DU LỊCH Bãi biển Cà Ná Nằm sát quốc lộ 1A,cách Trung tâm Tp Phan Rang 32km về phía Nam. Là một bãi biển đẹp nằm thoai thoải bên vách núi. Biển ở đây mang một nét hoang sơ với cát trắng, nước biển trong xanh, có nhiều bãi san hô. Bên cạnh bãi biển có cô số tảng đá cao xếp chồng lên nhau. Sự xắp xếp của đá và cảnh vật ở đây đã làm cho bãi biển trở thành một thủy cung trên cạn.Nơi có tiềm năng phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, du lịch biển, du lịch sinh thái . Khuyết điểm: Nằm cách biệt với Trung tâm Tp,điều kiện con khó khăn chưa đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch, cơ sở vật chất còn kém và chưa có sự đồng bộ. Hướng Gỉai quyết: Cần có những giải pháp đồng bộ như vấn đề quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển du lịch biển; đầu tư phát triển các loại hình du lịch biển; vấn đề môi trường biển; củng cố và mở rộng thị trường khách du lịch tàu biển; xây dựng một chương trình đào tạo mới, đào tạo lại nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch biển; vấn đề cạnh tranh trong
- phát triển du lịch; sự tham gia của cộng đồng và hoạt động phát triển du lịch; vấn đề quản lý tổng hợp sự phát triển của các ngành kinh tế biển Về nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ phục vụ du khách nghỉ dưỡng biển, yếu tố quan trọng nhất trong việc thu hút khách du lịch biển là tạo sự khác biệt. Vấn đề ở đây là phải tạo hình ảnh biển VN có gì khác biệt so với biển nước khác. Nếu chỉ đơn thuần nhấn mạnh về tiện nghi của một khu resort nghỉ dưỡng 5 sao thì người ta có thể tìm thấy ở Hawaii, Bali hay Phuket Do đó bên cạnh dịch vụ cao cấp, cần đem đến cho du khách thú thưởng ngoạn những nét văn hóa truyền thống, các chương trình tham quan tìm hiểu cuộc sống thường ngày của người dân địa phương, các nét độc đáo về ẩm thực, di tích lịch sử, những lời ca, điệu múa tại nơi đang nghỉ dưỡng. Cà Ná, một cái tên ấn tượng trên bản đồ du lịch Việt Nam và thế giới, nơi có núi, có rừng, có biển, và cả một nền văn hóa Chăm độc đáo. Vẻ đẹp thiên nhiên kết hợp với nét đẹp văn hoá đã tạo nên một thiên đường du lịch, thu hút nhiều du khách. Bãi biển Đại Lãnh nằm giữa 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Từ TP Tuy Hòa đi vào vượt qua Đèo Cả, là con đèo lớn , là ranh giới giữa Phú Yên và Khánh Hòa. Du khách sẽ thấy hiện ra ngay dưới chân mình một bãi biển khá rộng dài với nước biển xanh biếc ánh mặt trời. Bãi tắm Đại
- Lãnh có nước biển trong xanh, từ Đại Lãnh du khách có thể đi thuyền máythăm những làng chài ở khải lương, Đầm môn hay cảng vung rô là những địa danh nổi tiếng thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm quan. Khu lưu niệm Phạm Văn Đồng , ông sinh ngày 01/3/1906 thuộc xã Đức Tân huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi. Từ năm 1925 -1926 tham gia phong trào học sinh bãi khóa, lớp huấn luyện cách mạng do Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châuvà được kết nạp vào hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên. Đến 1927 về nước hoạt động cách mạng ở Sài Gòn. Tháng 3/1929 được bầu làm bí thư Kỳ Bộ Nam Kỳ và tham gia Ban Lãnh Đạo Đảng Ủy của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên. Năm 1936 bị kết án 10 năm tù và đầy ra côn đảo. Đầu 1937 ra Hà Nội hoạt động công khai. Năm 1941 về nước xây dựng điện căn cứ cách mạng ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Tháng 8/1945 dự đại hội quốc dân Tân Trào, được bầu vào Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng.
- Tháng 9/1945 làm Bộ Trưởng Bộ Tài Chính, chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tháng 1/1946 được bầu làm đại biểu quốc hội khóa II. Tháng 3/1946làm phó ủy ban thường trực quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tháng 4/1946 làm trưởng phái đoàn thân thiện của quốc hội đi thăm Cộng Hòa Pháp.
- Thánh 1/1947 được bổ xung làm ủy viêndự khuyết Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng. Tháng 8/1949 được làm phó Thủ Tướng nước VNDCCH. Tháng 5/1954 làm trưởng đoàn đại biểu chính phủ VNDCCH dự hội nghị Giơnevơ về Đông Dương. Tháng 9/1954 làm phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao. Trưởng ban đối ngoại TW Đảng. Từ tháng 12/1986 – 12/1997 là cố vấn Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Việt Nam. Và ông mất vào ngày 29/4/2000 tại thủ đô Hà Nội.
- Bệnh xá Đặng Thùy Trâm Công trình được xây dựng tại xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi do KTS Nguyễn Ngọc Dũng và các cộng sự thực hiện trong năm 2006. Khu đất xây dựng có diện tích 2.600 m2, với diện tích sử dụng chia cho từng tầng gồm có (tầng 1: 505 m2; tầng lửng: 144 m2; và tầng 2: 397 m2). Sân vườn và hồ nước cũng chiếm một diện tích khá lớn, khoảng hơn 1.500 m2 và 300 m2 đất dành cho giao thông. Khu bệnh xá có lối đi riêng, mái che với nhiều chỗ nghỉ ngơi, thư giãn, các tầng với các khu khám bệnh, xét nghiệm được bố trí hợp lý.
- Khu truyền thống có lối đi riêng. Toàn bộ mặt tiền được che kính trong suốt, bố trí tượng, hình ảnh, kỷ vật để tái tạo không gian khu bệnh xá xưa. Những bức tượng điêu khắc trong khuôn viên là các điểm nhấn thú vị của công trình. Khu thư giãn được bao bọc bởi cây xanh, hồ sen, tạo nét đặc trưng cho công trình. Kết cấu chịu lực chính của công trình là bê tông cốt thép, phù hợp với miền trung quanh năm chịu nhiều thiên tai. Khu phố cổ Hội An Vị trí: Thuộc Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. là một thành phố nhỏ nằm ở miền Trung Việt Nam, thuộc tỉnh Quảng Nam. Thành phố Hội An nằm bên bờ sông Thu Bồn Ðặc điểm: Với những giá trị nổi trội mạng tính toàn cầu.Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO đã công nhận Đô thị cổ Hội An là Di sản văn hoá thế giới tại kì họp thứ 23 năm 1999. Nơi đây xưa kia đã có một thời nổi tiếng với tên gọi Faifoo mà các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc v.v đã biết đến từ thế kỷ 16, 17. Từ thời đó, thương cảng Hội An đã thịnh vượng, là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông Nam Á, một trong những trạm đỗ chính của thương thuyền vùng Viễn Ðông.
- Giờ đây thương cảng không còn nữa nhưng kiến trúc của thành phố nơi vẫn giữ được, những dãy phố cổ gần như nguyên vẹn, đó là loại nhà hình ống xuyên suốt từ phố nọ sang phố kia. Trong đó có một dãy phố nằm sát ngay bờ sông Hoài. Nhà ở đây toàn bằng gỗ quý, trong nhà treo hoành phi, câu đối, cột nhà trạm trổ hoa văn rất cầu kỳ Hội An là một bảo tàng sống, khu phố cổ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới. Ngoài những giá trị văn hoá qua kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ một nền tảng văn hoá phi vật thể khá đồ sộ. Cuộc sống thường nhật của cư dân với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hoá đang được bảo tồn và phát huy cùng với cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, các làng nghề truyền thống, các món ăn đặc sản làm cho Hội An ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách. HOA ÐĂNG PHỐ CỔ Thương cảng Hội An với tên gọi xưa kia là cảng Ðại Chiêm được hình thành khi những thương gia nước ngoài, nhất là người Nhật Bản và người Trung Quốc từng bước thiết lập cơ ngơi để sinh sống cũng như buôn bán lâu dài.
- Khung cảnh và ánh sáng kỳ ảo trong khu phố cổ quyện với giọng ca Bài Chòi, Hò Khoan, Giã Gạo vẳng lên từ con thuyền đậu dưới bến sông, dưới mái hiên, nơi đầu phố Thị xã nhỏ bé nằm trên đất Quảng Nam này từng là nơi chứng kiến hai cuộc giao thoa văn hoá lớn trong lịch sử dân tộc Việt: Lần thứ nhất cách đây hơn 5 thế kỷ, khi nước đại Việt tiến về phương Nam mở mang bờ cõi, và lần thứ hai cách đây hai thế kỷ, khi người phương tây theo các chiến thuyền và thương thuyền đặt chân lên mảnh đất này với ý đồ truyền bá và thôn tính. Cả hai sự kiện lớn đó đều kéo theo tương tác văn hoá lớn lao và nền văn hóa Việt đã vượt qua thử thách đồng hoá để tự cải biến và tồn tại cùng thời cuộc. Giờ đây, du khách tới Hội An, ngoài việc khám phá sự bình dị chân thật trong tâm hồn người dân phố Hội, sẽ mất nhiều thời gian chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính và tĩnh lặng của các mái ngói phủ rêu xanh mướt và nét chạm trổ tinh vi trong những căn nhà gỗ đã tồn tại từ hơn ba trăm vòng quay xuân hạ thu đông. Bước chân vào khu phố cổ, du khách sẽ ngỡ ngàng trước một thế giới biệt lập, tách khỏi mọi dòng chẩy và sức phá huỷ của thời gian. Không có tiếng động cơ gầm rú cũng chẳng có những thương hiệu rực rỡ đèn mầu. Tất cả đã lùi xa sau lưng, cả không gian và thời gian đều lắng đọng trong những nếp nhà gỗ cổ xưa. Cầu chùa, dẫy nhà cổ hai tằng quay lưng phía bến sông Hoài, Hội quán
- Quảng Ðông, Phúc Kiến đang lặng lẽ tồn tại để con người hoài niệm về một thời quá khứ. Ðặc biệt, khu phỗ cổ mạng một vẻ lãng mạng, sâu lắng và bình yên dưới ánh đèn lồng huyền ảo mỗi đêm 14 âm lịch hàng tháng. Xưa kia, nếu như người Việt quen dùng đĩa đèn dầu lạc, thì người Nhật Bản và Trung Hoa đã đưa tới Hội An thói quen sử dụng đèn lồng. Sáng kiến khôi phục việc thắp đèn lồng thay cho ánh sáng điện từ mùa thu năm1998 đã mang lại hiệu quả không ngờ ngay từ buổi đầu tiên. Vào mỗi đêm 14 âm lịch, mọi sinh hoạt của thị xã bình yên này được quay trở về với tập quán của hơn 300 năm trước, và khu phố cổ nằm trong giới hạn của bốn con đường Trần Phú, Nguyễn Thái Học, Lê Lợi, Bạch Ðằng đã hàng loạt tắt đèn và treo trước hiên nhà những ngọn đèn lồng huyền ảo. Dù toả sáng nhờ ngọn điện thông thường, song ánh sáng của đèn lồng mờ dịu và phảnh phất dấu ấn của thời gian xưa cũ. Những chiếc đèn tròn, lục lăng theo phong cách Trung Hoa treo dưới mái hiên và hai bên cửa ra vào, đèn quả trám hoặc ống dài kiểu Nhật Bản phất giấy trắng lơ lửng dọc theo hàng cột, đèn trụ vuông, đèn quả trám to nhỏ các cỡ tất cả đã tạo lên một thế giới lung linh, huyền ảo. Trong đêm hoa đăng, phố cổ đã tự nguyện ngừng sử dụng các thiết bị điện như TV, đèn đường, đèn neon nhưng người dân Hội An không thấy đó là điều bất tiên cho cuộc sống của mình. Cường độ ánh sáng giảm đi, song chất men say của thị xã lãng mạn đã bốc mạnh trong mỗi con người khi đi qua phố cổ.
- Trong ngôi nhà cổ rêu phong, bóng người phụ nữ áo dài thời trước cặm cụi làm việc dưới ánh đèn lồng được tạo thành từ chiếc nơm cá giản dị, bên vỉa hè, hai người già râu tóc bạc phơ đang chìm đắm vào suy nghĩ với ván cờ tướng thắp sáng bởi ngọn nến lung linh Dường như con người đang được sống với dĩ vãng khi mà những phiền toái của cuộc sống hiện tại chưa hiện hữu. Trong bầu không khí cổ tích đó, hãy kiểm nghiệm sự hiện hưu bằng việc nếm một vài món ăn phong vị xứ Quảng như bánh Bo, bánh Vạc, Cao lầu tại các nhà hàng còn giữ nguyên hình ảnh đầu thế kỷ. Tại tiệm ăn FaiFo trên đường Trân Phú, những chiếc đèn lồng nhỏ xíu hình dáng cổ điển chiếu một nguồn ánh sáng vàng ấm áp, hoà điệu cùng cặp đèn lớn có dán lời cầu ước chữ Hán theo phong tục cổ xưa trước mái hiên. Ðộc đáo hơn là cách bài trí của tiệm cafe có tên "Treated". Tại đây, người chủ đã khoét thủng trần gỗ và lồng vào những chiếc rá tre vo gạo bình dị. Hàng lỗ thủng đều đặn của rá tre đã tạo ra một nguồn ánh sáng ngộ nghĩnh và độc đáo. Có phải người chủ nào cũng đủ cam đảm khoét thủng trần gỗ của nhà mình ra ? Hiện diện trên phố Hội An là vô số các cửa hàng bầy bán các loại đèn lồng làm kỷ niệm. Tuỳ theo chất liệu vải bọc ngoài mà ngọn đèn đưa tới những loại ánh sáng khác nhau. Ðó có thể là mầu đỏ may mắn,
- mầu vàng tươi vui, mầu gấm huyết diụ kiêu sa hay sắc xanh lãnh lẽo. Tuy nhiên khó so sánh được với những chiếc đèn lồng có tuổi hàng thế kỷ đang được các gia đình sinh sống lâu đời ở đây gìn giữ và chỉ chưng ra trong đêm hội hoa đăng. Những ngọn đèn này được chế tác từ gỗ quý, chạm trổ cầu kỳ và trên mỗi tấm kính là một tác phẩm hội hoạ thật sự. Các tích truyện cổ nổi tiếng được nghệ nhân xưa vẽ trên kính, sinh động và hoàn hảo như một bức tranh đắt giá. Mỗi khi ngọn nến bên trong toả sáng, cảnh mây trắng, trời xanh hoặc nước biếc sẽ liên tục quay tròn, hắt bóng các chi tiết lên mặt kính. Khung cảnh và ánh sáng kỳ ảo trong khu phố cổ quyện với giọng ca bài chòi, hò khoan, giã gạo vẳng lên từ con thuyền đậy dưới bến sông, dưới mái hiên, nơi đầu phố tạo ra sức cuốn hút kỳ lạ đối với du khách. Không quá trang nghiêm như Cố Ðô Huế, không quá sôi động như chợ Lớn, nét cổ truyền nơi đây mang một vẻ thuần khiết, thu hút những tâm hồn ưa chuộng lãng mạn của những ngày xa xưa.
- THÀNH CỔ LOA VÀ ĐỀN THỜ AN DƯƠNG VƯƠNG Đây là công trinh cổ nhất vào bậc nhất cùa Việt Nam đươc vua Thuc Phán An Dương Vương xây dưng từ thấ kỷ 3 trươc công nguyên để làm kinh đô nước Âu Lạc(tên nước Vuệt Nam thời đó .Thành đươc xây dưng theo kiểu xoán ốc gồm ba vòng thanh:thành ngoài,thành giửa,thành trong,.Dưới chân thành có vòng hào sâu ngập nươc` thuyền bẻ có thể đi lại được. Từ loa mất 18km để dến huyện Đông Anh và ban sẻ thấy dấu tích còn lai của ba vòng thành xua bằng dất nơi mà các nhà khào cồ tim đươc hang vạn mủi tên đồng ,lưỡi cày ,rìu sắt ,xương thú vật Qua cổng làng, cũng là cổng thành trong là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xưa, nên trong Cạnh đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Miếu am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng thương "trái tim lầm chỗ để lên đầu". Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền là dựng trên nền nội cung ngày trước. Ðền này mới được làm lại hồi đầu thế kỷ 20, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần hoặc Lê sơ.
- Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại đền. Trước đền là giếng Ngọc,tương truyền là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần! Vị trí: Thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Ðặc điểm: Là một trong những thành cổ nhất Việt Nam. Ðây là toà thành cổ vào bậc nhất Việt Nam được vua Thục An Dương Vương xây từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên để làm kinh đô nước Âu Lạc (tên nước Việt Nam thời đó). Nay thuộc huyện Ðông Anh, ngoại thành Hà Nội. Thành được xây dựng kiểu vòng ốc (nên gọi là Loa thành) tương truyền có tới 9 vòng, dưới thành ngoài là hào sâu ngập nước thuyền bè đi lại được. Ngày nay ở Cổ Loa còn lại 3 vòng thành đất: thành ngoài (chu vi 8km), thành giữa (hình đa giác, chu vi 6,5km) và thành trong (hình chữ nhật, chu vi 1,6km). Thân thành ngày nay còn có chiều cao trung bình từ 4-5m, có chỗ còn cao tới 12m, chân thành rộng tới 20-30m. Các cửa của 3 vòng thành cũng được bố trí rất khéo, không hề nằm cùng trên một trục thẳng mà lệch chéo đi rất nhiều. Do đó đường nối hai cửa
- thành ở cùng một hướng đều là một đường quanh co, lại có ụ phòng ngự ở hai bên nên gây rất nhiều trở ngại cho quân địch khi tiến đánh thành. Từ trung tâm thành phố, đi 18km đến xã Cổ Loa thuộc huyện Ðông Anh, bạn sẽ tìm thấy vết tích còn lại của ba vòng thành xưa bằng đất và nơi các nhà khảo cổ tìm được hàng vạn mũi tên đồng, lưỡi cày, rìu sắt, xương thú vật Qua cổng làng, cũng là cổng thành trong là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xưa, nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy". Cạnh đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Miếu am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng thương "trái tim lầm chỗ để lên đầu". Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu. Ai cũng bảo đó là tượng Mỵ Châu. Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền là dựng trên nền nội cung ngày trước. Ðền này mới được làm lại hồi đầu thế kỷ 20, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời
- Trần hoặc Lê sơ. Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại đền. Trước đền là giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần! Thành Cổ Loa gắn liền với những truyền thuyết kỳ thú về việc vua An Dương Vương xây thành ốc; về chiếc nỏ thần Kim Quy; về mối tình bi thảm Mỵ Châu - Trọng Thuỷ Từ bao đời nay, ngôi thành cổ này cùng với những nhân vật lịch sử được huyền thoại hoá đã đi vào tiềm thức của người dân Việt. Đây là toà thành cổ vào bậc nhất Việt Nam, được vua Thục An Dương Vương xây từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên để làm kinh đô
- nước Âu Lạc (tên nước ta thời đó), nay thuộc huyện Ðông Anh, ngoại thành Hà Nội. Thành được xây dựng kiểu vòng ốc (nên gọi là Loa thành) tương truyền có tới 9 vòng, dưới thành ngoài là hào sâu ngập nước thuyền bè đi lại được. Ngày nay ở Cổ Loa còn lại 3 vòng thành đất: Thành Ngoài (8km), Thành Giữa (hình đa giác, chu vi 6,5km) và Thành Trong (hình chữ nhật, chu vi 1,6km). Thân thành ngày nay còn có chiều cao trung bình từ 4-5m, có chỗ còn cao tới 12m, chân thành rộng tới 20-30m. Các cửa của 3 vòng thành cũng được bố trí rất khéo; không hề nằm cùng trên một trục thẳng mà lệch chéo đi rất nhiều. Do đó đường nối hai cửa thành ở cùng một hướng đều là một đường quanh co, lại có ụ phòng ngự ở hai bên nên gây rất nhiều trở ngại cho quân địch khi tiến đánh thành. Qua các giai đoạn lịch sử, Cổ Loa có rất nhiều tên: Loa thành (thành ốc), thành Côn Lôn, thành Tư Long, Cửu thành, Thành Việt Vương, thành Khả Lũ, Cổ Loa thành. Đến thế kỷ thứ X, thời kỳ Ngô Quyền làm vua, Cổ Loa lại trở thành kinh đô lần thứ hai. Từ trung tâm thành phố, đi 18 km đến xã Cổ Loa thuộc huyện Ðông Anh, bạn sẽ tìm thấy vết tích còn lại của ba vòng thành xưa bằng đất và nơi các nhà khảo cổ tìm được hàng vạn mũi tên đồng, lưỡi cày, rìu sắt, xương thú vật
- Cổng Thành trong Qua cổng làng, cũng là cổng Thành trong là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xưa nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy". Cạnh đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Miếu am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng thương "trái tim lầm chỗ để lên đầu". Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu, người ta bảo đó là tượng Mỵ Châu. Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, được coi là dựng trên nền nội cung ngày trước. Ðền này mới làm lại hồi đầu thế kỷ XX, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần hoặc Lê sơ. Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại đền. Trước đền là Giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận và nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần! Năm 1962, Cổ Loa được xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá cấp nhà nước. Nó có đầy đủ các loại hình di tích: Đình, đền, chùa, am, miếu,
- trong đó hàm chứa biết bao giá trị văn hoá Việt Nam qua rất nhiều thế hệ. Trong khu vực Thành Nội còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật: Khu đền Thượng thờ An Dương Vương, khu đình Ngự triều di quy, am thờ Mỵ Châu và chùa Bảo Sơn với hàng trăm pho tượng Các nhà khảo cổ học còn trưng bày ở đây rất nhiều hiện vật quý giá của người Việt cổ đã khai quật được trong lòng đất Cổ Loa: trống đồng Cổ Loa, tiền đồng, rìu đồng, hàng nghìn mũi tên đồng, khuôn đúc đồng, lưỡi cày, các vật dụng bằng gốm, đất nung, Di tích thành Cổ Loa sắp biến mất Cổng đền Thượng, nơI thờ vua An Dương Vương.
- (SGGP) Đến nay, sau 10 năm được Chính phủ cũng như thành phố Hà Nội chủ trương cải tạo, tu sửa, tòa thành ốc hiếm có trên thế giới với niên đại từ thế kỷ III trước Công nguyên vẫn đã và đang bị xâm hại khủng khiếp. Nguy cơ xóa sổ Cổ Loa là một trong những khu di tích khảo cổ lớn nhất hội tụ các giai đoạn lịch sử đồ đá, đồ đồng, sắt. Là thủ đô với hệ thống vòng thành hoàn chỉnh và cổ nhất của Việt Nam. Kiến trúc thành hình xoáy ốc duy nhất trên thế giới với hệ thống sông hào là sự phối hợp hài hòa giữa các mô, con trạch đất, đồng lầy tự nhiên và nhân tạo, có hệ thống các công trình kiến trúc và các làng cổ có giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật lớn. Song giờ đây, cảm nhận về Cổ Loa với nhiều người đến thăm chỉ là những vết tích, đình đền lụn vụn, nằm xen giữa những kiến trúc hiện đại. Chung tình trạng với rất nhiều khu di tích khác ở nước ta, thành Cổ Loa hôm nay khác xa so với hình hài một Cổ Loa xưa được thể hiện trên bản đồ hay các tư liệu lịch sử. Mấy năm qua, các cơ quan chức năng của TP Hà Nội đã tiến hành trùng tu một số công trình kiến trúc như Đình Ngự Triều Di Quy, Am Mỵ Châu, Đền An Dương Vương với sự bề thế, vững chãi; song nó vẫn bị chìm nghỉm trong cơn lốc đô thị hóa ở nơi này.
- Nếu ở thành ngoại, trên một đoạn tường thành dài từng được coi là một trong những dấu vết khá nguyên vẹn còn sót lại thì giờ đây nó đã được “cải tạo”, cắm biển “vườn cây du lịch”. Và một điểm nhấn nhức nhối là tòa biệt thự rộng hàng trăm mét vuông đã xây xong phần thô chỉ Một ngõ nhỏ đi lại của chờ hoàn thiện chiếm toàn bộ phần chân người dân ngay trong khu sườn thành. Dẫn khách thực địa, những vực trung tâm của di tích Cổ điểm được coi là nóng nhất trong việc Loa. (SGGP) xâm hại di tích, nhân viên của ban quản lý còn phải rất e dè tránh mặt vì “sợ có kẻ trả thù”. Hào nước ở phần thành trung cũng nhanh chóng được lấp kín và mọc lên hàng chục ngôi nhà kiên cố, hiện đại. Song đau xót nhất phải kể tới phần đồi đất nằm ngay gần UBND xã Cổ Loa, được coi là trung tâm của di tích đang bị các hộ kinh doanh dịch vụ cà phê, giải khát lấn đất từng ngày. Mỗi mét đất đồi được bạt đi lại chèn thêm một kiốt mới Nếu tình trạng này không thay đổi, chắc chỉ độ vài năm nữa, thành Cổ Loa sẽ bị xóa sổ. Bảo tồn: Quá chậm
- Nói về tiến độ bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích quốc gia thành Cổ Loa, ông Nguyễn Văn Quang, Phó chủ tịch UBND huyện Đông Anh, thành viên Ban chỉ đạo xây dựng dự án Cổ Loa, nhận xét: "Chậm!". Còn ông Nguyễn Trọng Tuấn, Chánh Văn phòng của Ban Chỉ đạo kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, thì sử dụng hai từ “quá chậm!”. Từ tháng 9/1994, TP Hà Nội đã chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành khảo sát hiện trạng di tích, lập dự án quy hoạch di tích thành Cổ Loa. Giữa năm 1995, Hà Nội tiếp tục chỉ đạo lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi cho dự án đầu tư bảo tồn, tôn tạo và khai thác di tích thành Cổ Loa. Những tưởng rằng sau đó, sẽ có những động thái quan trọng thúc đẩy tiến độ bảo tồn khu di tích thành Cổ Loa. Nhưng mọi chuyện lại không hẳn vậy. Đầu năm 2001, UBND thành phố Hà Nội phê duyệt quy hoạch tổng thể chi tiết khu di tích thành Cổ Loa lên tới hơn 800 ha, trong khi đó, tại văn bản thông qua của Chính phủ lại chỉ có hơn 400 ha. Chính vì thế, khi TP Hà Nội trình lên Chính phủ Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Cổ Loa thì không được chấp nhận. Từ năm 1999, Hà Nội tiếp tục xây dựng dự án chi tiết và xin ý kiến các cơ quan bộ, ngành liên quan xem xét, thẩm định để sau đó trình Chính phủ phê duyệt, nhưng đến nay, công việc chuẩn bị này vẫn chưa hoàn tất.
- Song song, mấy năm qua, Sở Du lịch Hà Nội cũng đầu tư nâng cấp mấy kilômét đường nhựa dẫn vào di tích và hai bãi đỗ xe, song đến nay việc này vẫn dang dở. Vậy là kể từ khi Chính phủ thông qua Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án bảo tồn, phát huy giá trị di tích thành Cổ Loa và kể từ khi Hà Nội có chủ trương bảo tồn, khai thác thành Cổ Loa, đã 10 năm trôi qua, nhưng tất cả vẫn “giậm chân tại chỗ”. Rưng rưng Loa Thành (VOV) - Mỗi người Việt Nam, từ thuở thiếu thời, mấy ai không một lần vanh vách đọc: “Thành Cổ Loa xưa, vua An Dương Vương có người con gái tên là Mị Châu ”. Bài học thơ ấu đó, không dừng lại ở chuyện trả bài trên lớp, còn theo ta suốt cuộc đời, để mỗi lần ngẫm ngợi, ta dễ cảm thấy một nỗi tự hào thầm kín về đất nước linh thiêng và hào hoa hay đôi lúc lại ngậm ngùi xót xa, tiếc nuối cho nàng công chúa có “trái tim lầm chỗ để trên đầu” nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu” Để rồi, dù không phải lần đầu đặt chân tới miền đất đầy huyền tích ấy, ta vẫn thấy lòng mình trào lên nỗi niềm rưng rưng xúc cảm Thành Cổ Loa không phải là cổ tích! Trải qua hàng nghìn năm với bao biến thiên lịch sử, cố đô của nước Âu Lạc vẫn trầm mặc, uy nghi trên nền xưa, lối cũ và câu chuyện “thực như mơ, mơ như thực” về
- thần Kim Quy, về nỏ thần, về mối tình Mị Châu – Trọng Thủy vẫn là bài học đầy đau xót về kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ nửa sau thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Thành Cổ Loa được An Dương Vương – Thục Phán dựng lên bên tả ngạn sông Hoàng Giang để làm kinh đô nước Âu Lạc (nay thuộc địa phận huyện Đông Anh, Hà Nội). Câu chuyện dựng thành được gắn với huyền thoại thần Kim Quy giúp vua diệt tinh Bạch Kê và ban tặng móng thần dùng làm lẫy nỏ chống giặc ngoại xâm. Triệu Đà – chúa đất Nam Hải, mấy lần mưu tính đánh Âu Lạc không thành, đã giả kết mối bang giao thuận hòa, lập mưu cho con trai mình là Trọng Thủy làm rể vua Thục rồi lừa lấy mất nỏ thần. Khi Triệu Đà kéo quân sang đánh, An Dương Vương vì thất thế, phải dắt Mỵ Châu chạy về phía Nam. Nhưng càng chạy, quân địch càng đuổi theo ráo riết, bởi Mị Châu đã ngây thơ vặt lông ngỗng từ áo khoác, rắc suốt dọc đường đi với tâm nguyện giúp chồng tìm được mình mà không biết đã vô tình chỉ đường cho giặc đuổi tới. Chạy đến cửa biển vùng Diễn Châu, đúng lúc cùng đường, vua được thần Kim Quy hiện lên, báo cho biết rằng: “Kẻ thù ngồi sau lưng đó!”. Tỉnh ngộ, An Dương Vương rút kiếm chém đầu con gái rồi trẫm mình xuống biển. Đau xót và ân hận trước cái chết của vợ, Trọng Thủy đã gieo mình xuống giếng trong Loa thành tự vẫn.
- Một góc Thành Cổ Loa xưa Sau sự kiện An Dương Vương mất nước, Thành Cổ Loa trở thành miền đất u tịch cho mãi đến thời đại của Ngô Quyền (939 – 944). Sau khi đánh tan giặc Nam Hán, Ngô Quyền chính thức xưng vương, chọn cố đô Âu Lạc làm nơi định đô và cho xây dựng nơi thiết triều của mình ngay trên nền thiết triều cũ. Một số kiến trúc xưa của thời kỳ Âu Lạc vì thế cũng có ít nhiều thay đổi, song hầu hết vẫn mang đậm dấu ấn của quá khứ xa xưa. Để tưởng nhớ vua An Dương Vương của nước Âu Lạc, trong khu vực nội thành, nhân dân đã xây dựng nhiều công trình tưởng niệm như: Đền Thượng (nơi thờ vua), đình Ngự triều di quy Những di tích này, được xác định xuất hiện từ thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, đến nay vẫn còn tồn tại gần như nguyện vẹn với rất nhiều di vật quý giá như: Tượng An Dương Vương bằng đồng phiến đá mô phỏng hình Mị Châu
- bị chặt đầu; bức hoành phi khắc 4 chữ hán “Ngự triều di quy”; đôi rồng đá đời Trần; hai con ngựa hồng, ngựa bạch Không chỉ gắn với nhiều huyền tích, Thành Cổ Loa đặc biệt nổi tiếng, là di sản văn hóa quan trọng và đặc sắc của đất nước, bởi đây là di tích kiến trúc quân sự cổ bậc nhất còn tồn tại ở nước ta, là di tích kinh đô cổ thứ hai của đất nước (chỉ đứng sau Phong Châu của nước Văn Lang) với nhiều thành lũy lớn chứng tỏ sự phát triển vượt bậc về tổ chức quân sự và trình độ xây dựng thành lũy. Thành Cổ Loa xưa không chỉ có chức năng là quân thành mà còn là thị thành và kinh thành của người Việt cổ. Chính vì vậy, bên cạnh yêu cầu đảm bảo yếu tố quân sự, Thành còn phải phù hợp, tạo thuận lợi cho người dân sinh sống và buôn bán, trao đổi. Theo sử cũ, Thành Cổ Loa được xây dựng theo hình xoắn ốc với 9 vòng xoáy. Tuy nhiên, không kể những ụ công sự và những đoạn lũy thành riêng lẻ, thì Thành Cổ Loa ngày nay chỉ có 3 vòng thành được đắp bằng đất, chân kè đá, với tổng chu kỳ các vòng thành là 16 km. Trên cả ba vòng thành có tổng cộng 72 ụ công sự (hay còn gọi là ụ hỏa hồi – nơi trữ rơm rạ để khi cần thì đốt lửa báo hiệu). Cửa của ba vòng Thành đều được bố trí lệch chéo nhau tạo nên một đường quanh co ở những vị trí tiếp nối giữa hai cửa Thành, gây nhiều khó khăn cho quân địch khi tìm cách tiến đánh. Phía ngoài mỗi lũy Thành lại có hào sâu, rộng, hệ thống hào nối tiếp nhau tạo thành mạng lưới giao thông giúp thuyền bè đi lại
- dễ dàng, có bến neo đậu rộng lớn chứa được cả trăm thuyền, bè Được đánh giá là cố đô có hệ thống vòng thành hoàn chỉnh và cổ nhất ở Việt Nam, lũy Thành dạng xoắn ốc của di tích Cổ Loa còn là kiểu kiến trúc hiếm có trên thế giới. Bởi các giá trị đó, từ năm 1962, di tích Thành Cổ Loa đã được Nhà nước xếp hạng Di tích cấp quốc gia, được bảo vệ và đầu tư tôn tạo. Cổ Loa bây giờ còn là khu di tích khảo cổ lớn, nơi có nhiều di chỉ khảo cổ được phát hiện, là minh chứng cho sự tồn tại của các giai đoạn lịch sử: Đồ đồng, đồ đá, đồ sắt với hàng vạn dị vật có giá trị như: Mũi tên đồng (gắn với truyền thuyết nỏ thần), trống đồng, rìu, bộ sưu tập lưỡi cày đồng Từ năm 1995 cho đến nay, nhiều công trình, hạng mục thuộc di tích Thành Cổ Loa đã được Nhà nước quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo như: Trùng tu hệ thống cửa, sàn thiết yếu ở đình Ngự triều di quy, cột gỗ ở Đền thượng; đại tu am Mị Châu, cổng Ngọ Môn Đặc biệt, hướng tới Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Trung tâm Bảo tồn, tôn tạo di tích Cổ Loa – Thành cổ Hà nội và huyện Đông Anh đang gấp rút hoàn thành Dự án Quy hoạch tổng thể khu di tích Cổ Loa để trình lên Thủ tướng Chính phủ và UBND thành phố. Từ nay cho đến thời điểm đó, các công trình, các hạng mục ở trong khu vực di tích Cổ Loa có dấu hiệu xuống cấp như: Đình Cậu Cả, điểm xóm Vang sẽ được lập kế hoạch đầu tư tu bổ, tôn tạo. Trong đó, riêng trong năm 2009, Trung tâm Bảo tồn, tôn tạo di tích Cổ Loa – Thành cổ Hà Nội và huyện Đông
- Anh sẽ tập trung sửa sang, cải tạo trụ sở UBND xã Cổ Loa (cũ) để làm nhà trưng bày hiện vật, di vật khảo cổ được ở quanh khu vực di tích, thay thế cho việc trưng bày hiện vật tạm bợ hiện nay tại sàn đình Ngự Triều Di Quy, tập trung cải tạo sàn đình – nơi thiết triều của hai triều vua trước: An Dương Vương và Ngô Quyền Những việc làm khẩn trương nhưng đầy cẩn trọng này của Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa – thành cổ Hà Nội và huyện Đông Anh đều không nằm ngoài mục đích bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích Thành Cổ Loa, gìn giữ một cách nguyên vẹn nhất những giá trị lịch sử, văn hóa vật thể và phi vật thể quý giá của di tích./.
- Bãi biển Cửa Đại còn có tên là bãi biển đại chiêm, nằm cách Hội An 4km, đây là một bãi biển đẹp với dải cát trăng mịn, nước trắng mịn. Bãi biển Cửa Đại hiện nay là trung tâm du lịch lớn với nhiều dịch vụ vui chơi, giải trí , tắm biển thể thao nghỉ dưỡng. Du khách đến đây sẽ có cảm khó quên về cảnh đẹp ở nơi đây. Ngũ Hành Sơn – Non Nước Ngũ Hành Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm giữa hai thành phố nổi tiếng là Hội An và Đà Nẵng. Đây là nhóm gồm 5 cụm núi đá hoa cương nổi trên bãi cát trắng, trông giống như những hòn đảo ở trên cạn Xưa nay người ta đã gọi với nhiều tên khác nhau: Bạch Hoa Ngũ Chỉ Sơn, Ngũ Uẩn Sơn, Phổ Đà Sơn, núi Cẩm Thạch, núi đá Hội An Tên phổ biến ngày nay là Ngũ Hành Sơn. Năm 1837, vua Minh Mạng ngự du và nhận ra thế đứng của 5 ngọn núi ở đây theo phương vị ngũ hành của thuyết kinh dịch Đông Phương, nên đã đặt tên 5 ngọn núi là Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn và cho khắc tên vào núi. Trong số đó Thủy Sơn là ngọn núi lớn nhất và đẹp nhất. Thủy Sơn nằm trên một khoảng đất rộng chừng 15 ha, có hình dáng một khối đá dựng đứng, đỉnh núi kéo dài chia thành ba ngọn: Thượng Thai, Trung Thai và Hạ Thai tạo thành hình sao Tam Thai, vì vậy trên
- ngọn núi này có một ngôi chùa cũng mang tên Tam Thai. Thắng cảnh Ngũ Hành Sơn có rất nhiều hang động: Hoa Nghiêm, Linh Nham, Thiên Phước Địa, Vân Nguyệt, Tam Thanh, Âm Phủ, Chiêm Thành, Vân Thông, Tàng Chơn trong số đó động Huyền Không là động đẹp nhất. Động có hình thuỗn với chu vi 20 - 30m, vòm động cao khoảng 30m, nền động bằng phẳng và sạch sẽ. Vào trong hang ta thấy có những luồng ánh sáng từ trên cao chiếu qua lỗ trống trên vòm động càng tăng thêm vẻ lung linh huyền ảo. Trong động có chùa Trang Nghiêm với hang Vú Đá và Hốc Đá. Trên vách động nổi bật một pho tượng Phật rêu phong với thời gian, vẻ trầm tư mặc tưởng trong thế giới tĩnh lặng. Cảnh trí nơi đây tạo cho ta cảm giác như đang sống giữa thế giới vừa hư vừa thực, huyền ảo lạ lùng. Ngũ Hành Sơn cái đẹp không chỉ ở bản thân 5 ngọn núi nhỏ mà còn ở những cảnh đẹp chung quanh khi ta được đứng trên 1 trong 5 ngọn núi phóng tầm nhìn. Đời Minh Mạng năm thứ 18 đã dựng bia Vọng Hải Đài cạnh chùa Linh Ứng để đánh dấu một chỗ ngoạn cảnh đẹp khi phóng tầm nhìn ra biển đông. Màu trời xanh diệu mắt, tiếp giáp màu biển xanh ngọc bích trải dài như vô tận. Ở hướng ngược lại, Ngũ Hành Sơn trông xuống một dòng sông. Nước ở đây trở thành một dải lụa trắng mềm mại, nằm uốn lượn ven chân núi, ôm lấy len vào những cánh đồng
- ruộng xanh rờn khá hiếm hoi ở các vùng châu thổ miền Trung. Ngũ Hành Sơn, cũng nước, cũng đất, cũng đá, cũng cây, cũng trời, cũng bể như nhiều nơi khác trên nước Việt, nhưng dường như có một bàn tay khéo léo xếp đặt nơi đây khiến vùng non nước này bỗng trở nên hữu tình, kỳ ảo. Lảng vảng chất huyền ảo cổ sơ như vẫn thân ái gần gũi với đời thường bởi bao giờ cũng như bây giờ, người con của vùng đất Ngũ Hành này vẫn sống thanh thản với non nước, cỏ cây. Ngày nay, khi đến tham quan thắng cảnh Ngũ Hành Sơn du khách được chứng kiến nhiều cảnh quan mới do bàn tay con người tôn tạo. Ngoài ngọn Thủy Sơn với hai đường lên đỉnh núi bằng hàng ngàn bậc đá ốp lát, du khách còn có thể tìm đến ngọn Thổ Sơn với những rừng thông, rừng tùng ngày đêm vi vu trong gió, hoặc có thể đi du thuyền trên sông Sen trước mặt chùa Quan Thế Âm và thưởng thức chén chè hạt sen thơm ngát cùng các món đặc sản chế biến từ sen ngay trên thuyền giữa trời nước mênh mông. Du khách có thể về thăm thắng tích Ngũ Hành Sơn vào bất cứ thời gian nào trong năm, nhưng đông vui nhất là vào dịp lễ hội Quan Thế Âm, dân gian thường gọi là lễ hội vía Bà.
- “Mùa xuân mười chín tháng hai, Quan Âm lễ hội ai ai cũng về”. Được du khách tham quan nhiều nhất là Thuỷ Sơn – cao 106 mét – cao nhất trong Ngũ Hành Sơn. Núi có 3 ngọn là Thượng Thai, Trung Thai và Hạ Thai. Hầu hết chùa chiền và hang động đều tập trung ở đây. Khách có thể lên đỉnh Thuỷ Sơn theo hai đường: leo 156 bậc tam cấp phía Tây Nam lên chùa Tam Thai (ở ngọn Thượng Thai) hoặc 108 bậc tam cấp phía Đông đến chùa Linh Ứng (ở ngọn Hạ Thai). Chùa Tam Thai từ xưa được xem là Quốc tự và là di tích Phật giáo. Chùa được Vua Minh Mạng cho tu sửa lại vào năm 1825, đồng thời đúc 9 tượng và 3 chuông lớn đặt trong chùa. Đến nay, ngôi chùa vẫn còn nguyên vẹn với nét uy nghiêm, cổ kính của kiến trúc thuần Việt. Từ chùa Tam Thai, du khách có thể tham quan những ngôi chùa nhỏ hơn bao quanh như chùa Từ Tâm, Tam Tâm, Phổ Đồng và Vọng Giang Đài. Từ Vọng Giang Đài, có thể nhìn bao quát cả vùng đồng quê của Đà Nẵng, Quảng Nam với các con sông Trường, Cẩm Lệ. Lấy chùa Tam Thai làm tâm điểm, du khách đi tham quan những hang động nổi tiếng của Thuỷ Sơn. Vòng sau lưng chùa Tam Thai, men theo một con đường đất, có một cổng vôi cổ kính khắc 3 chữ “Huyền Không Quan”. Đây là hang động lộ thiên, với mái động hình vòm, trên có 5 lỗ lớn nhỏ có thể trông thấy bầu trời, trên vách động có bọt đá tạo nên
- những hình tượng ngộ nghĩnh. Đi về phía Đông, du khách sẽ gặp cụm hang động của ngọn Trung Thai gồm Thiên Phước Địa, hang Vân Nguyệt và động Vân Thông. Đáng chú ý nhất là động Vân Thông có hình tròn như đường ống chếch lên phía ngọn núi. Trong động có một tượng Phật rất lớn. Phía cuối động có đường thông ra ngoài khá to, nên ánh sáng từ đỉnh rọi vào trong động tạo thành ánh hào quang cho tượng Phật. Ngọn Hạ Thai của Thuỷ Sơn có chùa Linh Ứng – có quy mô và bề dày lịch sử không kém chùa Tam Thai – và Vọng Hải Đài, động Tàng Chân, động Ngũ Cốc, động Âm Phủ, Giếng Tiên. Vọng Hải Đài nằm bên phải chùa Linh Ứng, giúp du khách ngắm được cả một vùng trời biển và sinh hoạt nhộn nhịp của ngư dân. Đến Ngũ Hành Sơn, khách đừng bỏ qua dịp tham quan Kim Sơn. Núi nằm bên bờ Trường Giang (còn có tên Lộ Cảnh Giang hoặc Cổ Cò). Kim Sơn có Bến Ngự – nơi ngày xưa Vua chúa neo thuyền cập bến khi du hành và một hang động vô cùng đặc biệt: trên vách động có tượng Quan Thế Âm Bồ Tát được thiên nhiên tạo nên từ thạch nhũ. Tượng có một lớp nhũ đá lấp lánh như dải kim tuyến phủ từ bờ vai đến gót chân, dưới chân tượng là một con rồng đang cuộn mình giữa những làn sóng, phía sau còn có hai hình tượng nhỏ giống Thiện Tài đồng tử và chim Khổng Tước. Có thể nói đây là bức phù điêu tuyệt đẹp mà thiên nhiên tặng cho Kim Sơn. Được phát hiện vào năm 1950, động được các vị cao tăng cho mở rộng lối vào và xây dựng chùa Quán Thế Âm dựa lưng vào
- ngọn Kim Sơn, ngoảnh mặt ra khúc sông đầy hoa sen. Tại đây, vào 19 tháng 2 âm lịch hằng năm có Hội Quán Âm được tổ chức quy mô và tôn nghiêm. Nhận Xét Hàng rong ở đây nhiều nhưng được sự quản lí tốt nên không xảy ra tình trang ép khách cũng như ăn xin,Đà Nẵng đã hoàn thành tốt việc đưa vào khai thác điểm du lịch này Bãi biển Mỹ Khê nằm trên quốc lộ 24B cách thị xã Quảng Ngãi hơn 10km. mỹ khê là bờ biển dài và rộng, với không gian mênh mông và bãi cát mịn, độ dốc thoải, được che chắn kín đáo, phía sau là rặng phi lao xanh bạc ngạt, bên cạnh là con sông kinh mang vị ngọt của thượng nguồn, đổ về và vị mặn của biển, đem lại nhiều đặc sản phong phú. Bãi biển Sơn Trà là một hòn đảo trấn ngự ngoài biển. đó là khối núi gồm ba hòn nhô lên. Phía Nam như hình con nghê nhìn ra biển gọi là hòn Nghệ, hình phía Tây hình dạng như mỏ diều hâu họi là hình Mỏ Diều. Hòn phía bắc vươn dài ra như cỏ một con ngựa gọi là núi Cổ Ngựa, những dòng nươc ven biển Đông tải phù sa của nhiều sông bồi dần Trà Đảo thành một bán đảo như hình một chiếc nấm gọi là bán đảo Sơn Trà.
- Đèo Hải Vân nằm giữa TP Đà Nẵng và TP Huế khi xưa vua Thánh Tông đã từng đến đây, ngưỡng mộ trước phong cảnh hùng vĩ , hữu tình nên đã gọi nơi đây là “Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan” xưa kia vua Chiêm thành là Chế Mân đã dâng 2 mảnh đất là Châu ô và Châu Lý cho vua Trần Anh Tông để làm lễ cưới công chúa Huyền Trân thì Đèo Hải Vân đứng làm danh giới cho Đại Việt và chiêm thành. Nhà hồ đem quân đi đánh chiêm thành vua chiêm là Ba Đích lại phải cắt đất Chiêm Đông và Cổ Lũy để cầu hòa. Từ ấy Hải Vân mới thuộc về Việt Nam.
- Lăng Khải Định Nằm cách Tp. Huế 10km về phía Nam, lăng Khải Định có diện tích nhỏ hơn so với lăng của các vua tiền nhiệm nhưng công phu, lộng lẫy hơn; kết hợp tinh xảo hai nền kiến trúc, văn hoá Đông - Tây. Lăng khởi công ngày 04/9/1920 và kéo dài 11 năm mới hoàn thành. Theo Trung tâm bảo tồn Di tích Cố đô Huế, tổng thể của lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc Vào lăng phải vượt qua hệ thống của 37 bậc với thành bậc đắp rồng to lớn nhất cả nước, trên sân có hai dãy Tả - Hữu tòng tự, ở hai bên xây kiểu chồng diêm hai lớp, tám mái, song các vì kèo lại bằng xi măng cốt thép. Vượt 29 bậc nữa lên tầng sân bái đình, ở giữa có nhà bia Bát giác xây bê tông cốt thép hoà trộn cổ kim, trong đó có bia đá. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng cùng nhìn vào giữa sân. Ngoài tượng như ở các lăng khác, còn có thêm 6 cặp tượng linh túc vệ, từng đôi tượng cùng loại ở cạnh nhau được làm đối xứng và cùng đối xứng với đôi tượng phía đối diện. Các tượng này làm bằng chất liệu đá hiếm trong lăng Khải Ðịnh và đều có khí sắc. Hai cột trụ biểu cao toQua 3 lớp nền là đến điện thờ. Từ sân lên cửa điện còn phải qua 15 bậc nữa. Ðiện Khải Thành là phòng chính của cung Thiên Ðịnh, có nhiều phòng liên hoàn.
- Các điện tường phẳng được trang trí dày đặc bằng nghệ thuật khảm kính sứ. Cùng với tranh trên tường, dưới nền lát gạch men hoa và trên trần vẽ Cửu long ẩn hiện trong mây. Cả không gian 6 mặt đã tạo nên một thế giới nghệ thuật. Lăng Khải Ðịnh thực sự là một công trình có giá trị nghệ thuật và kiến trúc. Nó làm phong phú và đa dạng thêm quần thể lăng tẩm ở Huế Lăng Tự Đức được xây dựng trong một bối cảnh lịch sử cực kỳ khó khăn của đất nước và cũng chính bản thân nhà vua. Lăng khởi công 1864- 1867 hoàn thành, trên diện tích khoảng 12ha. Toàn bộ lăng được bao quanh bằng một bức tường dày uốn lượn theo địa hình đồi núi. Chùa Thiên Mụ là một trong những kiến trúc tôn giáo cổ nhất và đẹp nhất ở Huế. Chùa được xây dựng trên đồi Hà Khê,
- bên tả ngạn sông Hương, cách trung tâm TP Huế 5km. cuhà được xây dựng vào đầu TK 17, gắn liền với một huyền thoại bà Tiên, vì vậy chùa có tên là Thiên Mụ. kiến trúc của chùa cũng như nhiều ngôi chùa khácở Việt Nam nhưng đáng chú ý là ngọn tháp Phước Duyên. Chùa Từ Hiếu Vị trí: Chùa tọa lạc tại núi Dương Xuân, xã Thủy Xuân, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Đặc điểm: Chùa được xây theo kiểu chữ “khẩu”, chùa chính ba căn, hai chái. Chính điện phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ.Năm 1843, hoà thượng Nhất Ðịnh nguyên tăng chùa Giác Hoàng đã đến đây khai sơn thảo am nhỏ để tịnh tu và nuôi dưỡng mẹ. Năm 1848, hòa thượng Cương Kỷ bắt đầu xây dựng qui mô bởi sự hỷ tự của triều đình và các quan thái giám, các phật tử, chùa Từ Hiếu trở thành một ngôi chùa lớn. Chùa được xây theo kiểu chữ khẩu, chùa chính ba căn, hai chái. Chính điện phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu Đường, ở giữa thờ Đức Thánh Quan, bên trái thờ Hương Linh Phật Tử tại gia, bên phải thờ các vị thái giám , bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là Hữu Ái Nhật (nhà khách).
- Cổng chùa xây theo kiểu vòm cuốn hai tầng, phía trên chính giữa thờ tượng Hộ pháp. Trong cổng tam quan có hồ bán nguyệt thả hoa sen, hoa súng và cá cảnh. Hai bên sân có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa. Chợ Đông Ba Địa chỉ: 13 Trần Hưng Đạo, Huế Chợ Đông Ba là trung tâm thương mại lớn nhất ở Huế, được xây dựng vào năm 1899 dưới thời vua Thành Thái. Chợ nằm ở bên bờ sông Hương, về phía tây nam của kinh thành. Mặt tiền chợ nằm trên đường Trần Hưng Đạo, hồi trước gọi là phố Trường Tiền, phố chính của Huế.Chợ Đông Ba có một lịch sử xưa hơn. Thoạt đầu, nó tọa lạc gần cửa Đông Ba và có tên là Quy Giả thị, hình thành hồi đầu thế kỷ 19, dưới
- thời vua Gia Long. "Quy Giả" là người trở về, có nghĩa là chợ do những người trước đó đi tản cư lúc có chiến tranh với quân Trịnh và tiếp đó là Tây Sơn nay trở về lập nên. Đến năm 1885, lúc kinh đô thất thủ, chợ bị quân Pháp đốt sạch. Năm 1887 vua Đồng Khánh cho xây lại chợ. Nhưng sau đó vua Thành Thái đã dời chợ đến địa điểm sát với bờ sông, gọi là "giại” Chợ Đông Ba lúc bấy giờ gồm bốn dãy lầu đúc mái bằng, xếp thành một hình vuông, ở giữa có một tháp cao có đặt đồng hồ có bốn mặt, đến giờ thì gõ chuông nên gọi là lầu chuông. Năm 1968 và năm 1972, chợ bị đốt phá. Đến năm 1986, chợ được sửa sang lại như ngày nay. Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc của phương Tây kết hợp một cách tài tinh với kiến trúc thành quạch phương Đông. Kinh thành gồm 3 vòng thành: phòng thành, hoành thành và tử cấm thành. Bên trong các lớp thành cao hào sâu là một tổng thể với hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ. Tất cả những công trình này được
- xây dựng xung quanh một trục chính, theo hướng Nam Bắc. khởi đầu là kỳ đài, tiếp đến là ngọ môn, sân Đại Triều Nghi, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Can Thành, cung Khôn Thái, điện Kiến Trungvà vhấm hết ở cửa Hòa Bình. Phòng thành là vòng thành ngoài cùng , có 11 cửa đường bộ và 2 cửa đường thủy, có 24 pháo đài. Hoành thành là cửa thứ 2 có tên là đại nội, có 4 cửa: Ngọ Môn(Nam), Hòa Bình(Bắc), Hiển Nhơn(Đông), Chương Đức(Tây). Tử Cấm Thành là vòng thành trong cùng có 10 cửa ra vào. Đây là nơi ở và làm việc của Vua và gia đình.
- Thánh địa La Vang cách thành cổ Quảng Trị 6km về phía tây, đây là nơi cứu rỗi các linh hồn của đông bào Thiên Chúa Giáo dưới thời vua Cảnh Thịnh. Tương truyền rằng Đức Mẹ Maria đã hiện ra nơi đây vào 1798. Năm 1945 nhà thờ La Vang được xây dưng. Thời trước đây là một nhà thờ lớn nguy nga, lộng lẫy được tòa thánh Vatican phong là:” Tiểu Vương Cung Thánh Đường La Vang.” Năm 1998 nhân kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra, trung tâm Thánh Mẫu La Vang đã được trùng tu như : tượng lễ đài, đường đi, nhà khách. Hàng năm thì có nhiều du khách đến hành hương và bái tạ. Thành cổ Quảng Trị vào năm Gia Long thứ 8(1809), lúc đầu thành là 4 bức tường thô sơ, đến năm Minh Mạng thứ 4(1823)thành mới được đắp bằng đất. Đến năm 1827 thành được xây dựng bằng gạch. Thành cổ Quảng trị được cả thế giới biết đến với trận đánh 81 ngày đêm, 81 ngày đêm đó đã đi vào lịch sử dân tộc một trang vàng chói lọi. Chợ Đông Hà là một kkhu chợ lớn của khu vực miền Trung, buôn bán đầy đủ các loại mặt hàng phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của những người dân xung quang đây và cho khách du lịch.
- Nghĩa Trang Liệt Sĩ Trường Sơn ở xã vĩnh Trường huyện Giơ Linh, cách Đông Hà 30km. Nghĩa trang được xây dưng từ 1975 đến 1977, diện tích cũ là 140 000 ha, nhưng ngày nay quy hoạch lại là 21 000 ha. Nghĩa trang có tổng cộng 10 324 mộ , được chia lam 5 khu mộ chính. Có đài tưởng niệm cao 16,5m. Đài tổ quốc ghi công có 3 mặt, biểu tượng của 3 nước Đông Dương dựa vào nhau đánh Mỹ. bên trái là nhà bia và tượng đài cao 10m, bên phải là các chiến sĩ vận tải giơ tay cao chỉ về phía nam, bên trái là chiến sĩ công binhgiơ cao khẩu AK như báo hiệu đương đã thông, sau lưng là nhưng chiến sĩ phòng không giương máy tiêu biểu cho lực lượng bảo vệ đường. hàng năm thì vào ngày 20/5 là ngày tương niệm của các chiến sĩ đã hy sinh cho tổ quốc thân thương của chúng ta. Địa đạo Vĩnh Mốc là một công trình độc đáo trong hàng chục công trình địa đạo lớn, nhỏ ở khu vực Vĩnh Linh(Quảng Trị), được xây dựng từ 1965- 1966. Địa Đạo Vĩnh Mốc là bức ảnh thu nhỏ của một lang
- quê, được xây dựng và kiến tạo trong lòng đất vừa là nơi sinh hoạt, ăn ở, hội họp và là nơi tránh bom đạn an toàn cho nhân dân Đến với địa đạo Vĩnh Mốc hôm nay các bạn như được sông lại một thời oanh liệt hào hùng với nhũng con người đã làm nên những kỳ tích đó. Ngã ba Đồng Lộc Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc có tổng diện tích 50ha nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo, mặt đường giống như một lòng máng. Tất cả mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải vượt qua ngã ba Đồng Lộc. Ngã ba Đồng Lộc được coi như cổ họng, vượt qua được sẽ phân tán toả ra nhiều tuyến đường khác nhau đi vào nam. Ngã ba Đồng Lộc là trọng điểm có tầm quan trọng chiến lược nên trong chiến tranh phá hoại kẻ địch âm mưu ném bom huỷ diệt nhằm chặn đứt sự chi viện sức người, sức của, vũ khí, súng đạn, lương thực của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Chỉ tính riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng 10/1968 không quân địch đã trút xuống đây 48.600 quả bom các loại .
- Nơi đây còn in đậm những sự tích anh hùng trong đó phải kể đến đó là 10 cô gái TNXP đã hi sinh tại ngã 3 Đồng Lộc này .Sự hi sinh của họ đã minh chứng cho lòng dũng cảm , sự quyết tâm của tuổi trẻ Việt Nam . Để ghi sâu tội ác và ghi lại chiến tích của 10 cô gái tại trọng điểm lịch sử này Quốc hội và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng danh hiệu anh hùng cho 10 cô gái hy sinh tại ngã ba Đồng Lộc . Đến với Nghệ An chúng ta sẽ được đi tham quan quê ngoại và quê nội của chủ tịch Hồ Chí Minh, những làng quê thật là bình dị nhưng lại mang nhiều nét quyến rũ. Làng chùa là nơi Bác Hồ đã cất tiêng khóc chào đời và được ông bà ngoại, cha me nuôi dạytrong nhưng năm ấu thơ của Người. sau khi chúng ta thăm quan xong chung ta sẽ được đi tham quan tiếp đó là làng sen quê nội của Người, khi đi vào làng chúng ta sẽ bắt gặp những
- hồ sen nằm 2 bên đường làng, quả nhiên là một quang cảnh đẹp không thể quên được khi đến nơi đây. Và ở tại đây thì Bác Hồ của chúng ta đã sống thời niên thiếu của ngày mình được 5 năm. Ngôi nhà trông rất đơn sơ và giản dị nhưng lại mang đầy ý nghĩa của cả gia đình. Khi chúng ta tới đây sẽ được nghe các chị hướng dẫn nói về cuộc sống của gia đình nhà Bác, nghe rất cảm động và không thể nào quên được những hình ảnh cũng như những lời mà các chị hướng dẫn ơ đây đã thuyết minh cho chúng ta nghe. khi ra về chúng ta cảm thấy trong lòng mình xao động, lưu luyến với những gì mà Bác Hồ của chúng ta đã từng trải qua trong suốt cuộc đời. Nhà thờ Phát Diệm Vị trí: Nhà thờ Phát Diệm thuộc thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Là nhà thờ mang đậm kiến trúc phương Đông , kết hợp văn hóa giữa Việt Nam và nước ngoài. Nhà thờ Phát Diệm cách Hà Nội 120km về phía nam, được xây dựng vào những năm 1875 - 1898. Phát Diệm có nghĩa là phát sinh ra cái đẹp, tên Phát Diệm do Nguyễn Công Trứ đặt. Nhà thờ được xây dựng trong suốt thời gian 24 năm liên tục, với trình độ kỹ thuật và điều kiện giao thông của những năm cuối thế kỷ 19 thì chỉ việc vận chuyển hàng nghìn tấn đá, có những phiến nặng 20 tấn, hàng trăm cây gỗ lim về tới Phát Diệm để xây nhà thờ cũng là một kỳ công. Kim Sơn vốn là vùng đất mới khai khẩn, trước đây rất lầy lội, để
- xử lý độ lún của khu đất trước khi xây dựng người ta đã chuyển cả một quả núi nhỏ cách 40km về Phát Diệm.Ðây là một quần thể kiến trúc phương Ðông gồm có (từ hướng nam đi vào): Ao hồ. Phương Ðình, Nhà thờ lớn với bốn nhà thờ cạnh ở hai bên, ba hang đá nhân tạo, nhà thờ đá.Phương Ðình là khu vực đầu tiên trong quy hoạch kiến trúc của nhà thờ Phát Diệm. Ðây là một công trình kiến trúc cao 25m, rộng 17m, dài 24m gồm ba tầng được xây dựng bằng đá phiến, lớn nhất là tầng dưới cùng được xây dựng bằng đá xanh. Nghệ thuật xây dựng Phương Ðình rất đáng khâm phục, với kỹ nghệ thủ công những người thợ địa phương đã ghép những phiến đá nặng hàng nghìn cân, mức độ chính xác rất cao. Các vòm cửa bằng đá được lắp ghép đến trình độ tinh xảo. Giữa Phương Ðình đặt một sập làm bằng đá nguyên khối( thể hiện rõ nét đẹp trong văn hóa VN), phía ngoài và bên trong là những bức phù điêu được khắc chạm trên đá hình ảnh chúa Jêsu và các vị thánh rất đẹp với những đường nét thanh thoát. Tầng thứ hai của Phương Ðình treo một trống lớn. Tầng ba treo một quả chuông cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng gần 2000 kg, quả chuông lớn ở Phương Ðình được đúc vào năm 1890. Mái của Phương Ðình có năm vòm, bốn vòm ở bốn góc thấp hơn, vòm cao nhất là vòm ở giữa tầng ba. Mái của Phương Ðình ở nhà thờ Phát Diệm không cao vút kiểu ngọn tháp như những nhà thờ khác mà là mái cong thấp cổ kính như mái đình, mái chùa.
- Nhà thờ lớn là nhà thờ chính được xây dựng năm 1891, có năm lối vào vòm đá được chạm trổ. Nhà thờ lớn dài 74m, rộng 21m, cao 15m, có bốn mái. Trong nhà thờ có 6 hàng cột gỗ lim nguyên khối, hai hàng cột giữa cao tới 11m, chu vi 2,35m, mỗi cột nặng khoảng 12 tấn.Gian thượng của thánh đường có một bàn thờ lớn làm bằng một phiến đá nguyên khối dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, nặng khoảng 20 tấn. Mặt trước và hai bên được chạm trổ các loài hoa đặc trưng của bốn mùa làm cho bàn thờ như được phủ một chiếc khăn màu thạch sáng. Hai phía bên nhà thờ có bốn nhà thờ nhỏ được kiến trúc theo một phong cách riêng. Nhà thờ đá: nhà thờ đá còn được gọi là nhà thờ dâng kính trái tim Ðức Mẹ. Gọi là nhà thờ đá vì tất cả mọi thứ ở nhà thờ này đều được làm bằng đá, từ nền, tường, cột, chấn song cửa Phía trong được chạm nhiều bức phù điêu đẹp, đặc biệt là bức chạm tứ quý: tùng, trúc,cúc, mai tượng trưng cho thời tiết và vẻ đẹp riêng của bốn mùa trong một năm. Ðường nét khắc họa những con vật như sư tử, phượng sống động đến lạ thường.
- Cố Đô Hoa Lư : vào năm 1010 vua Lý Thái Tổ rời độ từ Hoa Lư về Thăng Long. Ngày nay kinh đô Hoa Lư đã trở thành Cố Đô. 1000 năm trôi qua, những cung điện dát vàng, bạc từ thời Lê không còn nữa chỉ còn lại di tích của tòa thành rộng 300 ha, nằm trọn vẹn trong xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ngày nay. Thành được chia thành 2 khu vực : Thành Nội và Thành Ngoại. Thành Ngoại nằm ở phía đông rộng 140 ha gồm các thôn Yên Thượng, Yên Trung, Yên Hạ, Yên Thành. Thành ngoại có sáu tường thành: tường thành thứ nhất từ Núi Đầm sang núi Thanh Lâu gọi là thành Đông, tường thành thứ hai nối từ Thanh Lâu ra núi Cột Cờ, tường thành thứ ba từ cột cờ sang núi Chẽ gọi là thành Đông Bắc, tường thành thứ tư nối từ Chẽ sang núi Chợ, chắn ở phía bắc, tường thành thứ năm có hai đoạn chắn ở phía Nam gọi là thành Vân. Thành Nội nằm ở phía tây rộng tương khu Thành Nội là địa phận thôn Chi Phong xã Trường Yên. Hai thành được ngăn cách với nhau bằng một lối đi hiểm trở là Quên Vông. Thành nội có năm tường thành: tường thành thứ nhất nối từ Hàm Sà sang núi Cánh Hàn gọi là thành Dền, tường thành thứ hai nối từ núi Cánh Hàn sang núi Nghẽn, tường
- thành thứ ba từ núi Chùa Thủ sang núi Thanh Lâu gọi là Thành Lầu, tường thành thứ tư nối từ núi Mang Sơn sang núi Cổ Tượng gọi là thành Bồ, tường thành thứ năm nối từ núi Mang Sơn sang núi Đầu Giải, gọi là thành Bim. Tam Cốc – Bích Động thuộc xã Ninh Hải huyện Hoa Lư. Để đi vào Tam Cốc chỉ có một con đường duy nhất là bằng đường thủy với bến Văn Lâm là bến chính sẽ đưa du khách vào tham quan. Khi chúng ta bắt đầu xuống thuyền và đi vào bên trong động chung ta sẽ bắt gặp hai bên trồng rất nhiều sen, cảnh đẹp của núi non hùng vĩ ở đây tưởng tượng như chốn thần tiên, có cảnh trời mây sông nước thật là thú vị và huyền ảo. tôi thấy có cảm giác như tất cả những vẻ đẹp giao thoa của đất trời đã hội tụ về nơi đây. Khi chúng ta ngồi trên thuyênn2 chung ta sẽ nhìn thấy những dãy núi đá hai bên và cửa hang chung ta thấy các vết lõm sâu và rộng hình hộp ngang đều nhu nhau co vết kẽ du khách sẽ nhận ra rằng nơi đây ngày xưa chính là biển cả mênh mông, song biển vỗ không ngừng hàng triệu năm, bào mòn khoét sâu núi đá tạo nên những kỳ quan tuyệt tác như vậy.
- Chùa Phổ Minh tọa lạc ở thôn Tức Mạc, xã Lộc Vượng ngoại thành nam định về phía tây bắc. ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý đã được vương triều trần mở rộng vào 1262 đây là một ngôi chùa có quy mô lớn. trong chùa có nhà thủy tạ, có hồ sen, nhiều cây cổ thụ sum xuê. Trước cửa chùa có đỉnh đồng nặng trên 7 tấn. đặc biệt là có ngôi tháp được xây dựng trước cửa bái đường vào 1305, đây là loại tháp trang trí hình cánh sen, trọng lươnbg5 tháp khoảng 700 tấn trên 1 diện tích nhỏ 30m2 lại ở vùng chiêm chũng nhưng vẫn đứng suốt 7 TK qua.
- This image cannot currently be displayed. Vịnh Hạ Long Vịnh Hạ Long nằm ở vùng đông bắc Việt Nam, là một phần bờ tây vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Được UNESCO 2 lần công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới. Sự tích vịnh Hạ Long kể rằng: Ngày xưa, khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ, vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra vô số châu ngọc và thoắt biến thành muôn ngàn đảo đá trên biển, như bức tường thành vững chắc, bất ngờ chặn bước tiến của thuyền giặc. Đoàn thuyền của giặc đang lao nhanh, bị chặn đột ngột đâm vào các đảo đá và đâm vào nhau vỡ tan tành.Sau khi giặc tan, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến. Vị trí Rồng Mẹ xuống là Hạ Long, Rồng Con xuống là Bái Tử Long. Đuôi đàn Rồng quẫy nước trắng xoá là Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay) thành bãi cát mịn và dài hơn chục ki lô mét.
- Phía tây nam vịnh giáp đảo Cát Bà, phía tây giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, với tổng diện tích 1553 km2 gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đến đây các bạn sẽ được đến thăm đảo tuần Châu là một trong những hòn đảo thuộc Vịnh Hạ Long. Đảo có diện ticvh1 khoảng 3km, ở đảo có trồng nhiều rau xanh là nguồn cung cấp rau xanh cho TP Hạ Long. Tru7óc đây muốn ra đảo hoặc từ đảo vào phải đi bằng tàu. Hiện nay thi con đường nối liền đảo và đất liền đã được hình thành với chiều dài 2,8km, giúp cho việc đi lại thuận lợi hơn. Biến đảo tuần Châu trở thành 1 đảo du lịch tham quan đặc sắc của quần thể Vinh Hạ Long. Động Thiên Cung được phát hiện 1945 do một người ngư dân phát hiện. động Thiên Cung có hình chữ nhật cao trên 20m, rộng khoảng 25m và
- dài trên 120m đường vào động rất nhỏ nhưng bên trong thì rất rộng và thoáng đãng. Hiện nay động đã được thắp bsang bằng một hệ thống ánh sáng tuyệt đẹp, khi vào trong động nhìn lên phía trên trần động co những thạch nhũng như hình ngọc Hoàng, Thiên Lôi, nam Tào, Bắt Đẩu với rau trắng như mây, trên vách những cô tiên nữ xinh xắn, lộng lẫy, như đang ca múa. Có thể nói rằng khi tới đây du khách đang lạc vào chốn bồng lai, đang tham dự, chiêm ngưỡng một buổi yến tiệc cực kỳ lộng lẫy và sang trọng trong cung điện nhà trời. Hang Đầu Gỗ nằm trên đảo đầu gỗ, giữa non nước mây trời tuyệt mỹ của Vịnh Hạ Long. Một hang đá mang tên vô cùng mộc mạc dân dã đó chính là hang đầu gỗ. sách đại Nam nhất thống trí có ghi” Hòn Canh Độc Lưng Đảo có động rộng rãi và có thể chứa vài nghàn người, gần hang có hòn cạnh gà, hòn mòn, hòn la
- Ải Chi Lăng là một vị trí hiểm yếu nhất trên con đường từ pha lũy đến đông quan, cách phà lũy khoảng 60km. toàn bộ khu vực này nằm trong một thung lũng nhỏ, hình bầu duuc5, dài khoảng 4km, phía tây là núi đá vôi, phía đông là dãy núi thái hòa và bảo đài trùng trùng điệp điệp. một lần chảo hẹp lại có 5 ngọn núi nhỏ : Hàm Quỷ, Ná Nông, Nà k2 Lân và mỹ ân. Hai là phía bắc nam mặt núi khép lại tạo thành hai cửa ải rất hiểm trở. ải chi lăng không chỉ là một di tích lịch sử, mà ngày nay còn là một điểm du lịch trên quốc lộ 1A từ Hà Nội đi Lạng Sơn. Ải Chi Lăng cấu thành từ một thung lũng hẹp ép giữa hai dãy núi, phía Đông là dãy núi đất Bảo Đài-Thái Họa và phía Tây là núi đá Kai Kinh (Cai Kinh) dựng đứng. Con sông Thương ngoằn nghoèo chảy dọc theo thung lũng, bên con đường quốc lộ số 1A mà trước kia là đường cái quan lên biên giới, xuôi về kinh đô. Con đường sắt xuyên Việt với ga trung tâm là ga Trăm Năm (cách Hà Nội 105 km), được xây dựng từ thời Pháp thuộc tạo thuận lợi cho thông thương lên vùng Đông Bắc Việt Nam và ít nhiều làm giảm tính chất hiểm địa của cửa ải. Những ngọn núi thấp rải rác dọc thung lũng và trấn ven đường cái quan như núi Hàm Quỷ, núi Phượng Hoàng, núi Kỳ Lân, núi Mã Yên. Đóng khóa hai đầu của thung lũng, nơi hai vòng cung núi đất phía Đông và núi đá phía Tây khép lại, là lũy Ải Quỷ phía Bắc và núi Ngõ Thề phía Nam, khoanh kín trong lòng một ải quan dài 5km, rộng khoảng 3km.
- Tại Ải Chi Lăng còn có Thành Chi Lăng ở vào cây số 109 tính từ Hà Nội và tới cây số thứ 154 thì tới tỉnh lỵ Lạng Sơn, theo Đi thăm đất nước của Hoàng Đạo Thúy. Theo Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Thành cổ tại Ải Chi Lăng do quân Minh đắp trong thời gian xâm lược Việt nam có chu vi 154 trượng và cao 5 thước, nay chỉ còn nền cũ. Ở gần cửa Nam của thành còn phiến đá khắc 5 chữ Hoàng tráng nhị thập đội ( Nơi trú đóng của đội quân Hoàng tráng thứ 20 ). Phía Nam Ải Chi Lăng có hai khối đá lớn, một khối có hình dáng giống như thanh kiếm khổng lồ gọi là Lê Tổ Kiếm ( Thanh kiếm của vua Lê Thái Tổ) và một tượng đá có hình dáng như một người quỳ gối và bị cụt đầu gọi là Liễu Thăng Thạch ( Tức đá Liễu Thăng, ám chỉ tướng Liễu Thăng bị Lê Sát chém cụt đầu tại ải ).
- Chùa Bái Đính Chùa Bái Đính là một quần thể chùa nằm trên núi Bái Đính ở xã Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình. Quần thể chùa này gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Chùa Bái Đính là một siêu chùa thuộc khu di tích cố đô Hoa Lư[1], với nhiều kỷ lục được xác lập. Kiến trúc hoành tráng, đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc truyền thống của chùa Bái Đính phù hợp với tâm lý hiếu kỳ, tò mò của người Việt hiện đại. Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng. Chùa Bái Đính được các báo giới tôn vinh là ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á.[2] Mặc dù đang trong quá trình xây dựng nhưng chùa Bái Đính đã thu hút rất đông du khách về thăm quan, chiêm bái[3]. Chùa khánh thành giai đoạn 1 vào ngày 17 tháng 5 năm 2008[4] nhân dịp cùng với khu di tích Yên Tử, vịnh Hạ long (Quảng Ninh) đón đoàn đại biểu các nước về dự đại lễ Phật Đản thế giới lần đầu tiên diễn ra tại Việt Nam[5].
- Khu chùa Bái Đính mới Kiến trúc Toàn cảnh sân điện tam thế Chùa Bái Đính mới (Bái Đính tân tự) có diện tích rộng 700 ha, nằm trên đồi Ba Rau, gần sông Hoàng Long. Đây là một công trình lớn gồm nhiều hạng mục, được xây dựng trong nhiều giai đoạn khác nhau. Kiến trúc chùa nổi bật với những hình khối lớn, hoành tráng nhưng mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt Nam như sử dụng nguyên vật liệu chính ở địa phương (đá xanh Ninh Bình, gỗ tứ thiết), ngói men Bát Tràng màu nâu sẫm Điều khác biệt nhất ở kiến trúc chùa Bái Đính thể hiện ở vòm mái màu nâu sẫm cong vút hình đuôi chim phượng, nó không giống với nét thẳng thô của chùa Trung Quốc. Các chi tiết trang chí kiến trúc chùa cũng mang đậm dấu ấn của các làng nghề nổi tiếng như đúc đồng Ý Yên, chế tạc đá Ninh Vân, mộc Phú Lộc, thêu Ninh Hải .v.v. Tam quan
- Bên trong cổng tam quan Xây dựng toàn bằng gỗ tứ thiết cao tới đỉnh 16,5 m. Điều độc đáo là có 4 cột cái bằng gỗ tứ thiết, mỗi cột cao 13,85 m, đường kính 0,85 m, nặng khoảng 10 tấn. Tam quan có 3 tầng mái uốn cong ở bốn phía, lợp bằng ngói men ống Bát Tràng màu nâu sẫm. Đây là một tam quan lớn, đồ sộ, đều dựng bằng gỗ. Trong tam quan đặt 10 pho tượng bằng đồng, gồm 2 pho hai tượng Hộ pháp lớn cao 5,5 m, nặng 12 tấn, và 8 pho tượng Kim Cương nhỏ hơn; tượng Kim Cương được đúc theo phong cách tượng chùa Tây Phương. Tháp chuông
- Tháp chuông chùa Bái Đính Tháp chuông được xây dựng bằng bê tông cốt thép giả gỗ, kiến trúc theo kiểu tháp chuông cổ, hình bát giác, cao 22 m. Đường kính trong tháp là 17 m, tính phủ bì đến chân đế đường kính là 49 m. Tháp chuông cao 3 tầng, có 3 tầng mái cong, gồm 24 mái với 24 mái đao cong vút lên. Tháp chuông treo một quả chuông nặng 36 tấn đúc tại Huế. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Đại hồng chung lớn nhất Việt Nam (Phá kỷ lục Việt Nam)”, ngày 12 tháng 12 năm 2007. Điện Quan Thế Âm Xây dựng toàn bằng gỗ tứ thiết, 100% kiến trúc bằng gỗ. Điện cao 14,8 m, dài 41,8 m, rộng 17,4 m, gồm 7 gian. Gian giữa của điện, trên bệ cao, đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát thiên thủ thiên nhãn, có gần 1.000 mắt và 1.000 tay, đúc bằng đồng tại Ý Yên, nặng 80 tấn, cao 9,57 m. Đây cũng là một pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng lớn nhất ở Việt Nam, được tạo tác theo kiểu pho tượng của chùa Bút Tháp.
- Điện Pháp Chủ Pho tượng kỷ lục 100 tấn Xây dựng toàn bằng bê tông cốt thép giả gỗ rất đồ sộ, hoành tráng, cao 30 m, chiều dài 47,6 m, chiều rộng 43,3 m, gồm 2 tầng mái cong. Điện có 5 gian, gian giữa rất rộng dài đến 13,5 m, 4 gian hai bên, mỗi gian dài 8 m. Điều đặc biệt ở chùa Pháp chủ là ở gian giữa trên bệ cao, đặt một pho tượng lớn bằng đồng nguyên khối, cao 10 m, nặng 100 tấn. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam” ngày 4 tháng 5 năm 2006. Trong điện treo 3 bức hoành phi và 3 cửa võng. Đây là bức hoành phi và cửa võng lớn nhất Việt Nam, mới chỉ có ở chùa Bái Đính. Điện Tam Thế
- 3 pho tượng kỷ lục Tọa lạc ở trên đồi cao, so với mặt nước biển là 76 m. Đây là một toà rất cao, rộng, đồ sộ, hoành tráng nhất ở khu chùa Bái Đính. Tòa nằm trên đồi cao nhất vùng, cao tới 34 m, dài 59,1 m, rộng hơn 40 m, diện tích trong nhà khoảng 3.000 m2. Trong điện Tam Thế cũng treo 3 bức hoành phi và 3 cửa võng lớn và đặt 3 pho tượng Tam Thế bằng đồng nguyên khối, mỗi tượng cao 7,2 m, nặng 50 tấn, tạo theo kiểu tượng Tam thế chùa Tây Phương. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Ngôi chùa có bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam”, ngày 12 tháng 12 năm 2007. Hành lang La Hán
- 500 vị La Hán bằng đá cao 2 m Gồm 234 gian, ở hai phía Đông Tây, có chiều dài 1.052 m. Trong các gian nhà hành lang đó đặt 500 tượng La Hán bằng đá nguyên khối to, mỗi tượng cao 2,4 m, nặng khoảng 4 tấn, do bàn tay các nghệ nhân làng nghề đá xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình chế tác. Ở Việt Nam chưa có một ngôi chùa nào có nhiều tượng La Hán bằng đá như ở chùa Bái Đính. Giếng ngọc Đó là giếng ngọc của chùa Bái Đính cũ được xây dựng lại nằm gần chân núi Bái Đính mà cách đây gần 1.000 năm Thiền sư Nguyễn Minh Không đã lấy nước để sắc thuốc chữa bệnh cho dân và chữa bệnh cho Thái tử Dương Hoán. Giếng xây lại hình mặt nguyệt, rất rộng, có đường kính 30 m, độ sâu của nước là 6 m, không bao giờ cạn nước. Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông, có diện tích 6.000 m², 4 góc là 4 lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Ngôi chùa có giếng lớn nhất Việt Nam”, ngày 12 tháng 12 năm 2007. Những kỷ lục Việt Nam Chùa Bái Đính được báo giới biết đến là một ngôi chùa nổi tiếng với những kỷ lục được xác lập bởi trung tâm kỷ lục Việt Nam. Tính đến ngày 6/6/2009 ngôi chùa này đã có 6 kỷ lục được công nhận. Những kỷ lục của chùa Bái Đính được xác lập gồm:
- Khu chùa rộng nhất Việt Nam: 107ha. Riêng mặt bằng điện thờ Tam Thế và điện Pháp Chủ có diện tích lên tới 1.000 m². Tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á: Tượng Phật Tổ Như Lai nặng 100 tấn. Ba pho Tam Thế mỗi pho nặng 50 tấn. Hai quả chuông lớn nhất Đông Nam Á: 36 và 27 tấn. Chùa có nhiều tượng La Hán nhất Việt Nam: 500 vị bằng đá xanh cao khoảng 2m. Khu chùa có giếng lớn nhất Việt Nam. Số cây bồ đề nhiều nhất Việt Nam: 100 cây bồ đề được chiết từ cây bồ đề Ấn Độ. Lễ rước xá lợi Phật kỷ lục Việt Nam: bắt đầu từ 6h sáng đến 16h chiều ngày 6/6/2009 từ TPHCM ra đến chùa Quán Sứ ở Hà Nội, sau đó đến chùa Bái Đính tại Ninh Bình. Đây cũng là lần đầu tiên giáo hội Phật giáo đã phải thuê riêng một chuyên cơ để cung nghinh xá lợi nhà Phật. Sự kiện văn hóa Với vai trò là một trung tâm phật giáo, khu chùa Bái Đính là nơi diễn ra nhiều sự kiện văn hóa lớn: Ngày 17/5/2008, chùa Bái Đính cùng với chùa Yên Tử và vịnh Hạ Long là những địa điểm để các đại biểu các nước tham quan, chiêm
- bái trong đại lễ Phật đản thế giới tổ chức lần đầu tại Việt Nam. Trong ngày, các vị đã làm lễ hô thần nhập tượng, chính thức khánh thành giai đoạn I khu chùa. Ngày 25/6/2008 Quốc Vương Cam Phu Chia Norodom Sihamoni thăm chùa Bái Đính. Ông đã tặng chùa Bái Đính bức tượng Di đà bằng chất liệu đá Campuchia, cao 1,2 mét, đặt tại điện Tam Thế và trồng cây lưu niệm tại chùa.[15] Ngày 18/1/2009 chủ tịch Quốc hội Cam Pu Chia cũng đến thăm quan khu chùa. Ngày 6/6/2009 Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử hành đại lễ cung nghinh ngọc xá lợi Phật từ thành phố Hồ Chí Minh về thờ tại chùa Bái Đính và chùa Quán Sứ. Đây là sự kiện văn hóa, tôn giáo rất đặc biệt và lộ trình rước ngọc xá lợi được bảo vệ nghiêm ngặt để đưa 16 viên ngọc xá lợi Phật và xá lợi các Thánh Tăng có nguồn gốc và lịch sử lưu giữ suốt hơn 2500 năm ở nhiều quốc gia như Ấn Độ, Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan.[16] Ba trong số hàng chục ngàn viên xá lợi Phật (phần còn lại của Đức Phật sau khi hỏa thiêu) được Hòa thượng Pháp sư Tịnh Giác (Visuddhisaro Mahathera), cố vấn tối cao Giáo hội Phật giáo Hoàng gia Thái Lan hiến tặng chùa Bái Đính (Ninh Bình).[17]
- Hình ảnh khi xây dựng Khu chùa Bái Đính cổ Hang tối ở chùa Bái Đính cổ Cổng hang sáng ở chùa Bái Đính cổ
- Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm cách Điện tam thế của khu chùa mới khoảng 800 m men theo sườn núi. Khu chùa này nằm giữa một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một ngôi chùa cổ, đền thờ thánh Nguyễn ở giữa, hang động sáng thờ Phật và hang động tối thờ Tiên ở hai bên và đền thờ thần Cao Sơn ở sát cuối cửa sau của hang sáng. Hang sáng, hang tối Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba: bên phải là động thờ Phật, bên trái là động thờ Tiên. Phía trên cửa động Phật có 4 chữ đại tự khắc trên đá do Lê Thánh Tông[18] ban tặng có nghĩa là: “Lưu Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối động sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền thờ thần Cao Sơn. Quay trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới Động Tiên (Hang Tối). Động Tiên lớn hơn động Phật nhiều lần, gồm 7 “buồng” tức là 7 hang, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Trong động Tiên có giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống Bà Chúa Thượng Ngàn được đặt thờ giữa hang chính với các tượng bằng đá được sơn son thiếp vàng.
- Đền thờ thánh Nguyễn Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không là người khai sáng ra lịch sử chùa Bái Đính. Ông là một thiền sư, pháp sư tài danh được nhân dân tôn sùng gọi là đức thánh Nguyễn. Núi chùa Bái Đính nằm cách quê hương đức thánh Nguyễn Minh Không gần 2km, tương truyền khi ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra các hang động đẹp dựng chùa thờ phật. Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đỉnh núi, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng. Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ảnh xạ của thời đại nhà Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho vua, sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật Giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường, dị đoan nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này.
- Đền thờ thần Cao Sơn Đi hết hang sáng có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây xưa là đền thờ thần Cao Sơn. Đền có kiến trúc gần giống với đền thánh Nguyễn, cũng xây tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở huyện Phụng Hóa (Nho Quan, Ninh Bình). Vị thần này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn. Theo như thần phả của đền Núi Hầu (xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, Ninh Bình) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi vâng mệnh vua anh (Hùng Vương thứ nhất) đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ[19]. [sửa] Sự kiện lịch sử Núi chùa Bái Đính cũng là nơi Đinh Bộ Lĩnh lập đàn tế trời bên sông Hoàng Long, Bái Đính cũng là địa bàn tranh chấp giữa 2 tập đoàn
- phong kiến Lê - Trịnh với nhà Mạc, nơi đây còn gắn với lễ tế cờ khi vua Quang Trung ra Thăng Long đại phá quân Thanh. Bái Đính cũng là một di tích cách mạng thuộc chiến khu Quỳnh Lưu, nơi lãnh đạo đảng tuyên truyền cách mạng tới nhân dân. Lễ hội chùa Bái Đính Ngày mồng 6 tháng giêng là khai hội chùa Bái Đính. Lễ hội chùa Bái Đính sẽ diễn ra trong suốt mùa xuân. Trước ngày mở hội, trong thời gian đón tết, tất cả các động, chùa, đền trên núi Bái Đính đều khói hương nghi ngút, cờ hội được treo lên khiến không khí lễ hội bao trùm cả vùng quê chiêm trũng. Về phần lễ ở chùa Bái Đính diễn ra tương đối trang trọng vì ở đây không chỉ thờ các vị sơn thần, phật tổ, bà chúa thượng ngàn mà còn gắn với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc với các danh nhân đức thánh Nguyễn, Đinh Bộ Lĩnh. Phần lễ ở chùa Bái Đính gồm tổng hòa toàn thể hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Du khách đến lễ hội chùa Bái Đính còn có thể leo núi thăm hang, với đông đảo mọi người tham gia và hưởng ứng. Cuộc hành hương ấy tạo ra trong con người tâm lý kỳ vọng, sự thanh thản trong tâm hồn và đức hướng thiện. Các hoạt động hội diễn ra sôi động với đấu vật, ném còn, đánh bài, kéo co, các trò chơi dân gian ngày tết
- Chùa Bái Đính (Ninh Bình): Nơi tôn trí Ngọc Xá lợi Phật Chùa tọa lạc trên núi Bái Đính, thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Chùa Bái Đính cũ ở độ cao gần 200m, tương truyền được dựng vào thời Lý. Một số tài liệu ngày nay cho biết Thiền sư Nguyễn Minh Không đã vào núi Bái Đính tìm thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Thiền sư đã phát hiện động Tối, động Sáng là những hang động đẹp và dựng chùa ở đây. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 1997. Dựa lưng vào núi Bái Đính, nhìn ra thung lũng chùa rộng khoảng 3 ha, Khu chùa Bái Đính mới đang được Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Xuân Trường đầu tư và thi công với quy mô hoành tráng trên diện tích 107 ha với nhiều công trình kiến trúc to lớn đạt kỷ lục quốc gia. Khu chùa nằm trong tổng thể dự án xây dựng Trung tâm du lịch văn hóa Tràng An rộng gần 2.000 ha do ông Nguyễn Xuân Trường làm chủ đầu tư.