Báo cáo Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của thực tiễn đói với nhận thức và vận dụng vào việc học tập của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (Phần 1)

pdf 22 trang phuongnguyen 2170
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của thực tiễn đói với nhận thức và vận dụng vào việc học tập của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_cao_quan_diem_cua_chu_nghia_mac_lenin_ve_vai_tro_cua_thu.pdf

Nội dung text: Báo cáo Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của thực tiễn đói với nhận thức và vận dụng vào việc học tập của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (Phần 1)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ÐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG TRỌNG ÐIỂM QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LEENIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐÓI VỚI NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM HIỆN NAY Mã số: T2015 - 130 Chủ nhiệm đề tài: THS. GV. TẠ THỊ THÙY SKC005581 Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11/2015
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐH SPKT TP.HCM HIỆN NAY Mã số: T2015 - 130 Chủ nhiệm đề tài: ThS. Tạ Thị Thùy TP. HCM, Tháng 11 Năm 2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
  3. THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐH SPKT TP.HCM HIỆN NAY Mã số: T2015 - 130 Chủ nhiệm đề tài: Th.S Tạ Thị Thùy TP. HCM, Tháng 11 Năm 2015
  4. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết: Từ trước đến nay thực tiễn là một trong những vấn đề trung tâm của triết học, nó không chỉ là một phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học Mác-Lênin. V.I Lênin đã đưa ra rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận nhận thức”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói “lý luận mà không có thực tiễn là lý luận suông”. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, chính vì vậy mà việc học luôn phải đi đôi với hành. Một người, dù tài năng đến mấy, nhưng những ý tưởng thiên tài chỉ được phác họa trong đầu và trên trang giấy thì mãi mãi không được công nhận và không có giá trị. Chính trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta đã chỉ ra rằng “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khác quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Điều đó cho thấy mối quan hệ đặc biệt khăng khít giữa nhận thức và thực tiễn, hay nói đơn giản hơn là gữa lý thuyết và thực hành. Như vậy, có thể thấy rằng thực tiễn và nhận thức có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Nhưng trong mối quan hệ đó thực tiễn đóng vai trò quan trọng bởi hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý, để kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đất nước đang trong quá trình mở cửa, hội nhập với thế giới vấn đề đặt ra là cần phải có một nhận thức đúng đắn, xuất phát từ thực tiễn thì mới có thể có những hoạt động và hành động đúng đắn bắt kịp với sự phát triển và không ngừng biến đổi của thế giới hiện đại. Trong khi đó, sinh viên là thế hệ trẻ, là những hạt nhận đóng vai trò quan trọng trong việc kiến thiết và phát triển đất nước, do đó, đòi hỏi sinh viên với
  5. 2 tư cách là thế hệ tương lai phát triển đất nước cần phải có sự nhận thức đúng đắn vai trò của thực tiễn. Đặc biệt là vai trò của thực tiễn đối với việc học tập hiện nay, nhất là với sinh viên chuyên về những ngành khối kỹ thuật thì cần phải thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, phải biết kết hợp giữa việc học lý thuyết trên lớp với việc học thực hành dưới xưởng để có thể năm vững kiến thức bản thân, thấu hiểu vai trò của thực tiễn đối với nhận thức thì mới có thể đạt đến mục đích cuối cùng là áp dụng cho chính bản thân của sinh viên trong việc học tập cũng như trong công việc và cuộc sống sau này, vì thực tiễn luôn luôn thay đổi và đổi mới. 2. Tổng quan nghiên cứu đề tài Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức là vấn đề muôn thủa của con người trong quá trình lao động cũng như hoạt động sản xuất vật chất. Ngay cả trong triết học thì thực tiễn và vai trò của nó cũng luôn có một vị trí quan trọng trong dòng chảy tư tưởng từ thời kỳ cổ đại cho tới thời kỳ hiện đại. Chính vì vậy mà vấn đề về thực tiễn nói chung và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng cũng đã có nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đi tìm hiểu ở những khía cạnh khác nhau. Song việc nghiên cứu tìm hiểu về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và vận dụng vào việc học tập của sinh viên những ngành kỹ thuật nói chung và sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM nói riêng thì hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu. 3. Mục đích của đề tài Tìm hiểu về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đối với việc học tập của sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứ của đề tài
  6. 3 Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng của mối quan hệ giữa thực tiễn với nhận thức, giữa học lý thuyết và thực hành của sinh viên ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh. Đề xuất một số giải pháp nhằm vận dụng có hiệu quả giữa việc học lý thuyết và thực hành đối với sinh viên. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhạn thức và vận dụng quan điểm đó vào việc học của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh. 5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu Cách tiếp cận: Khảo sát trực tiếp sinh viên. Phương pháp nghiên cứu: Lịch sử - logic, phân tích – tổng hợp, quy nạp – diễn dịch, so sánh đối chiếu, điều tra phỏng vấn 6. Hiệu quả Giúp sinh viên hiểu rõ được tầm quan trọng của việc kết hợp giữa việc học lý thuyết và học thực hành. Góp phần vào việc giúp cho sinh viên vận dụng học lý thuyết vào thực hành một cách có hiệu quả. PHẦN NỘI DUNG Chương 1
  7. 4 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC 1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ THỰC TIỄN VÀ NHẬN 1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về phạm trù thực tiễn Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức mácxít mà thực tiễn còn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học Mác – Lênin. Trong lịch sử triết học các nhà triết học trước Mác không phải mọi trào lưu đều đưa ra quan điểm đúng đắn về phạm trù thực tiễn. Chẳng hạn chủ nghĩa duy tâm lại hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người người, chứ không xem nó là hoạt động hiện thực, hoạt động lịch sử xã hội, là hoạt động vật chất cảm tính của con người, mặc dù chủ nghĩa duy tâm đã phần nào nhận thấy được mặt năng động sáng tạo trong hoạt động của con người. Trong khi đó chủ nghĩa duy vật trước Mác đã có công lao to lớn trong việc phát triển thế giới quan duy vật, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết. Chủ nghĩa duy vật trước Mác đẫ hiểu thực tiễn là một hành động vật chất của con người, nhưng lại xem hoạt động đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu. Mặc dù có công lao to lớn nhưng lý luận của họ còn nhiều hạn chế, thiếu sót, trong đó hạn chế lớn nhất là không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan. Mác đã chỉ rõ ra khuyết điểm chủ yếu, từ trước đến nay của mọi chủ nghĩa duy vật kể cả chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc là không thấy được vai trò của thực tiễn. Khắc phục những hạn chế và sai làm đông thời kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tốt hợp lý trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, Mác và Ăngghen đa đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học
  8. 5 về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, hai ông đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận về thực tiễn nói riêng . Lênin nhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Chủ nghĩa Mác – Lênin đưa ra quan điểm về thực tiễn: “Thực tiễn, là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”. Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người, nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thỏa mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất của cải vật chất để nuôi sống mình. Để lao động và lao động có hiệu quả, con người tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Thực tiễn là cái xác định một cách thực tế sự liên hệ gữa sự thật với những điều cần thiết đối với con người. Tuy trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Hoạt động đó chỉ có thể được tiến hành trong các quan hệ xã hội. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó; trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục
  9. 6 giới tự nhiên và làm chủ xã hội của con người. Do đó, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội. Thực tiễn bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt động, bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra được. Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thủy và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật. Là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn, đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày nay càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng và khoa học công nghệ phát triển hiện đại.
  10. 7 Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế được cho nhau song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thủy và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất vật chất của con người. Nói vậy không có nghĩa là các hình thức hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học là hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Ngược lại, chúng có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động sản xuất phát triển. Chẳng hạn, nếu hoạt động chính trị xã hội mang tính chất tiến bộ, cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất phát triển. Còn nếu hoạt động chính trị xã hội mà lạc hậu và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà sai lầm, không khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động sản xuất vật chất. Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức. 1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về phạm trù nhận thức Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng chỉ ra rằng: Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản: thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách
  11. 8 quan, độc lập với ý thức con người; thứ hai, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế gới khách quan, coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể, thừa nhận không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được; thứ ba, khẳng định sự phản ánh đó là quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo, quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn; thứ tư, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức của con người là một quá trình. Đó là quá trình đi từ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận, từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học Nhận thức kinh nghiệm, là trình độ nhận thức đi từ sự quan sát trực tiếp các sụ vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm có hai loại, tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai loại tri thức này có thể bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau. Nhận thức lý luận, là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể, nó trực tiếp gắn chặt với hoạt động thực tiễn, tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ nó chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự
  12. 9 kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do đó, nó chỉ đem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những mối liên hệ mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống của con người, thông qua đó mà nâng cao những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, có tính phổ biến. Nhận thức thông thường, là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tát cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội. Nhận thức khoa học, là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.
  13. 10 Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa đững những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua quá trình tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường, làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới. Nhận thức của con người là một quá trình trong đó có nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau, chúng có nội dung như vai trò khác nhau đối với việc nhận thức sự vật. Từ đó có thể thấy rằng, nhận thức của con người là một quá trình, trong đó có nhiều giai đoạn, trình độ vòng khâu và hình thức khác nhau, chúng có nội dung cũng như vai trò khác nhau đối với việc nhận thức sự vật. V.I.Lênin đã khái quát con đường nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trựu tượng đến thực tiễn – đó chính là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan. Trực quan sinh động còn được gọi là giai đoạn nhận thức cảm tính; đây là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Nhận thức cảm tính được thể hiện dưới 3 hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng. Cảm giác, là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng măt, từng
  14. 11 thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Sự vật hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm giác. Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác quan con người, là sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Chính vì thế mà V.I.Lênin đã viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Tri giác, là tổng hợp nhiều cảm giác; nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp các cảm giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính, nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn. Biểu tượng, là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến mức có thể hiện lên trong ký ức của chúng tangay cả khi sự vật không còn ở trước mắt. Đó chính là những biểu tượng. Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động, kích thích đến trí nhớ con người. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng; sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật. Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, song đã bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ phát triển lên một giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính. Như vậy, cảm giác, tri giác và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức nhận thức cảm tính. Trong nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lấn không bản chất, cả cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài về sự vật. Nhưng ở đây, con người chưa phân biệt được
  15. 12 cái gì là bản chất với không bản chất, đâu là tất yếu với ngẫu nhiên, đâu là cái bên trong với cái bên ngoài. Yêu cầu của nhận thức đòi hỏi phải tách ra và nắm lấy cái bản chất, tất yếu, bên trong, chỉ có chúng mới có vai trò quan trọng cho hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Như vậy, dừng lại ở nhận thức cảm tính sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa một bên là thực trạng chưa phân biệt được đâu là cái bản chất, tất yếu, bên trong, đâu là cái không bản chất, ngẫu nhiên bên ngoài với một nhu cầu tất yếu phải phân biệt được những cái đó thì con người mới có thể nắm được quy luật vận động và phát triển của sự vật. Khi giải quyết mâu thuẫn ấy, nhận thức sẽ vượt lên một trình độ mới, cao hơn về chất, đó là tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng (Nhận thức lý tính), là giai đoạn tiếp theo cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính, nếu chỉ dừng lại ở nhận thức cảm tính thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm giác mà nhận thức được bản chất của sự vật. Muốn hiểu được bản chất của sự vật phải thông qua nhận thức lý tính, là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính được thể hiện với ba hình thức: khái niệm, phán đoán và suy lý. Khái niệm, là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm dẻo, năng động mà còn là “điểm nút” của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán. Phán đoán, là hính thức của tư duy trừ tượng vận dụng các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của hiện thực
  16. 13 khách quan. Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số giản đơn của những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định. Suy lý, là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới bằng phán đoán mới. Tùy theo sự kết hợp các phán đoán theo trật tự nào mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp. Có thể nói, toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy lý và nhờ có suy lý mà con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính với thực tiễn Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực tế chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức; song chúng có những nhiệm vụ và chức năng khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật; giúp cho nhận thức cảm tính có định hướng đúng và trở nên sâu sắc. Tuy nhiên, nếu mới chỉ dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức ấy có chân thực hay không thì con người chưa biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức ấy có chân thực hay không. Để thực hiện điều đó, nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong
  17. 14 quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức suy đến cùng đều xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. Việc đạt tới những tri thức khoa học trong quá trình nhận thức diễn ra theo những cấp độ khác nhau từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận, từ nhận thức thông thường đến nhận thức khoa học, mối cấp độ nhận thức đó có những nội dung và ý nghĩa khác nhau, không đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, dù có diễn ra theo trật tự nào thì việc đạt tới những tri thức về bản chất của sự vật vẫn chưa dừng lại ở đó mà nhận thức phải tiếp tục tìm hiểu xem tri thức đó có phù hợp với thực tiễn không, và điều đó chỉ có thể được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Như vậy, có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá trình vận động, phát triển của nhận thức là từ thực tiễn đến nhận thức – từ nhận thức lại trở về với thực tiễn – từ thực tiễn lại tiếp tục quá trình phát triển nhận thức Quá trình đó lặp đi lặp lại, không có điểm dừng cuối cùng, trình độ của nhận thức và thực tiễn ở chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực tại khách quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức con người trong quá trình phản ánh thực tế khách quan. Quy luật chung của sự nhận thức cũng là một sự biểu hiện cụ thể, sinh động của những quy luật chung trong phép biện chứng duy vật. Sự vận động của quy luật chung trong quá trình vận động, phát triển nhận thức chính là quá trình con người, loài người ngày càng tiến dần tới chân lý. 1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở, mục đích của nhận thức, là động lực của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Trước hết vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được biểu hiện ở chỗ thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
  18. 15 Ph.Ăngghen đã khẳng định:“ Từ trước tới nay khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”. Con người bắt đầu quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chung. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí mà toán học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mácxít ở những năm 40 của thế kỉ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây, nhất là khám phá và giải mã bản đồ gien người cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người Có thể nói, suy cho đến cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực
  19. 16 tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì thế, chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nếu nó xa rời thực tiễn. Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời cũng chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện của nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Song bản thân lý luận, khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Chính vì vậy, thực tiễn là mục đích của nhận thức, vì nhận thức phải quy về phục vụ thực tiễn, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn. Thực tiễn, hiện thực sẽ đặt ra nhiều vấn đề mới và phức tạp đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu của thực
  20. 17 tiễn. Qua việc làm sáng tỏ những cấn đề do thực tiễn đặt ra thì lý luận sẽ có được vai trò quan trọng, góp phần to lớn, đắc lực vào hoạt động thực tiễn. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con người, do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì vậy mà Mác đã nói: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý ”. Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức con người đạt được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý và bác bỏ sai lầm. Tất nhiên, nhận thức khoa học còn có tiêu chuẩn riêng của nó, đó là tiêu chuẩn logic. Nhưng tiêu chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. Phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng; tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà biến đổi và phát triển; thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiểu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, kiếm tra tính chân lý của quá trình nhận thức, điều này có nghĩa thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên
  21. 18 chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển, hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối. Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn V.I.Lênin đã cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận về nhận thức”. Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn, thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của thực tiễn thì lý luận đó có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà V.I.Lênin cho rằng: “Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức con người bằng những hình tượng logic. Những hình tượng này có tính vững chắc của một thiên kiến, có một tính chất công lý, chính vì sự lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy”. Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình thành lý luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú, đa dạng, luôn vận động và biến đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết, lý luận phải đáp ứng thực tiễn. Con người nhận thức hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề con người quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được nâng cao chính nhờ khả năng thông qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận.
  22. S K L 0 0 2 1 5 4