Báo cáo Một số giải pháp chủ yếu nhằm tuyên truyền, phổ biến hiến pháp 2013 của nƣớc CHXHCN Việt Nam cho sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh(Phần 1)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Một số giải pháp chủ yếu nhằm tuyên truyền, phổ biến hiến pháp 2013 của nƣớc CHXHCN Việt Nam cho sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh(Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bao_cao_mot_so_giai_phap_chu_yeu_nham_tuyen_truyen_pho_bien.pdf
Nội dung text: Báo cáo Một số giải pháp chủ yếu nhằm tuyên truyền, phổ biến hiến pháp 2013 của nƣớc CHXHCN Việt Nam cho sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh(Phần 1)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN HIẾN PHÁP 2013 CỦA NUỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT S K NAMC 0 0 3 9 5 9 CHO SINH VIÊN TRUỜNG ÐH SPKT TPHCM MÃ SỐ: T2015-135 S KC 0 0 5 6 3 1 Tp. Hồ Chí Minh, 2015
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN HIẾN PHÁP 2013 CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐH SPKT TPHCM Mãsố: T2015-135 Chủnhiệmđềtài: ThSTrần Minh Toàn TP. HCM, 11/2015
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐƠN VỊ: KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN HIẾN PHÁP 2013 CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐH SPKT TPHCM Mãsố: T2015-135 Chủnhiệmđềtài:ThSTrần Minh Toàn TP. HCM, 11/2015
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độclập - Tự do - Hạnhphúc ĐƠN VỊ: KHOA LLCT DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA ĐỀ TÀI VÀ CÁC ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH 1. CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI Họvàtên: Trần Minh Toàn Họcvị: ThS Chứcdanhkhoahọc: GV Nămsinh: 1985 Đơnvịcôngtác: khoa LLCT – ĐH SPKT Di động: 0972.074.318 TP.HCM E-mail: lawyertoan@gmail.com 2. NHỮNG THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Nội dung Đơnvịcôngtácvà Chữk TT Họvàtên nghiêncứucụthểđược lĩnhvựcchuyênmôn ý giao 9. ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH
- MUC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Error! Bookmark not defined. Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA HIẾN PHÁP VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013 CỦA NƢỚC CHXHCNVNError! Bookmark not defined. 1.1 Tư tưởng lập hiến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945Error! Bookmark not defined. 1.2 Bối cảnh lịch sử và việc ban hành Hiến pháp ở Việt NamError! Bookmark not defined. 1.2.1 Hiến pháp năm 1946 Error! Bookmark not defined. 1.2.2 Hiến pháp năm 1959 Error! Bookmark not defined. 1.2.3 Hiến pháp năm 1980 Error! Bookmark not defined. 1.2.4 Hiến pháp năm 1992 Error! Bookmark not defined. 1.2.5 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 Error! Bookmark not defined. 1.2.6 Hiến pháp 2013 Error! Bookmark not defined. Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HIỂU BIẾT HIẾN PHÁP 2013 CỦA NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SPKT TP.HCM Error! Bookmark not defined. 2.1 Thực trạng hiểu biết Hiến pháp 2013 của sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật TP.HCM Error! Bookmark not defined. 2.2 Nguyên nhân của những thực trạng trên Error! Bookmark not defined. 2.3 Một số giải pháp chủ yếu nhằm tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp 2013 của nƣớc CHXHCNVN cho sinh viên trƣờng ĐHSPKT Tp.HCMError! Bookmark not defined. KẾT LUẬN Error! Bookmark not defined. 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độclập - Tự do - Hạnhphúc ĐƠN VỊ: KHOA LLCT Tp. HCM, ngày 29tháng 10năm 2015 THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Thông tin chung: - Tênđềtài: Mộtsốgiảiphápchủyếunhằmtuyêntruyền, phổbiếnHiếnpháp 2013 củanước CHXHCNVN chosinhviêntrường ĐHSPKT Tp.HCM - Mãsố: T2015-135 - Chủnhiệm: GV.ThSTrần Minh Toàn - Cơquanchủtrì: ĐạihọcSưphạmKỹthuậtThànhphốHồChí Minh - Thờigianthựchiện:1/2015 – 11/2015 2. Mụctiêu: Đềtàinghiêncứucó 2 mụctiêusau: Thứnhất, tácgiảlàmrõtìnhhìnhhiểubiếtHiếnpháp 2013 nước CHXHCN Việt Nam củasinhviênTrườngĐạihọcSưphạmKỹthuậtTp.HCM. Thứhai, từthựctrạnghiểubiếtnhữngnội dung liênquanđếnHiếnpháp 2013 nước CHXHCN Việt NamcủasinhviênTrườngĐạihọcSưphạmKỹthuậtTp.HCM, tácgiảsẽđưaramộtsốgiảiphápnhằmnângcaosựhiểubiếthiếnpháptrongsinhviêntừđónângc aohiệuquảtuyêntruyềnphổbiếnhiếnpháp. 3.Tínhmớivàsángtạo: Đâylàđềtàinghiêncứucótínhmớivàtínhthựctiễnrấtcao.Trướcđâychưacócôngtrình nàonghiêncứuvềnội dung đềtàinày, do vậyđảmbảotínhmớivàtínhthựctiễnchoviệctriểnkhaiápdụngtạitrườngĐạihọcSưphạmKỹt huậtTp.HồChí Minh 4.Kếtquảnghiêncứu:
- ĐềtàilàmộtcôngtrìnhhoahọcnghiêncứunhữngthựctrạnghiểubiếtliênquanđếnHiến pháp 2013 củanước CHXHCNVN.Từthựctrạnghiểubiếtvềnhữngnội dung HiếnphápcủasinhviênTrườngĐạihọcSưphạmKỹthuật TP.HCM. Tácgiảsẽđiphântíchnguyênnhâncủathựctrạngtrênvàcónhữnggiảiphápnhằmnângcaosựhi ểubiếtcủasinhviênvềhiếnphápvàhiệuquảtrongcôngtáctuyêntruyềnphổbiếnhiếnphápchos inhviên.Đâylàmộtcôngtrìnhnghiêncứucótínhthựctiễnsâusắcgópphầntăngcườngsựhiểubi ếtphápluậtnóichungvàhiếnphápnóiriêngchosinhviêngópphầnthiếtthựcđưabảnhiếnpháp mớinhấtcủanhànước ta đượcphổbiếnrộngrãitrongnhàtrườnggópphầnxâydựngnhànướcphápquyềnxãhộichủnghĩ a. 5.Sảnphẩm: Sảnphẩmcủaviệcnghiêncứuđềtàilàmộtbáocáovềnội dung đềtài. 6. Hiệuquả, phươngthứcchuyểngiaokếtquảnghiêncứuvàkhảnăngápdụng: Việcnghiêncứuđềtàicókhảnăngứngdụngrấtcao, nhằmmụcđíchgiúpchosinhviênTrườngĐạihọcSưphạmKỹthuật TP.HCM cósựhiểubiếtrõràng, đúngđắnliênquanđếnnhữngnội dung củahiếnphápnăm 2013 củanước CHXHCNVN gópphầnthiếtthựctrongviệcthựcthihiếnphápvàxâydựngnhànướcphápquyềnxãhộichủngh ĩa TrưởngĐơnvị Chủnhiệmđềtài (ký, họvàtên, đóngdấu) (ký, họvàtên) ThSTrần Minh Toàn
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Để thực hiện mục tiêu này, song song với việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là phải đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi nhóm đối tượng, trong đó có học sinh, sinh viên - những công dân trẻ luôn chiếm gần một phần tư dân số cả nước. Đây là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết, mang tính khách quan và hoàn toàn phù hợp với mục tiêu giáo dục toàn diện của chúng ta là “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Để thực hiện đào tạo phát triển toàn diện con người Việt Nam, giáo dục pháp luật là một nội dung không thể thiếu trong chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân. Triển khai thực hiện Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi chung là Hiến pháp), Luật phổ biến, giáo dục pháp luật; tiếp tục thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân; Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX); Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, 1
- giáo dục pháp luật trong nhà trường” (Đề án 1928); Quyết định số 1141/QĐ- BĐHĐA ngày 29 tháng 3 năm 2013 của Trưởng Ban điều hành Đề án 1928 ban hành Kế hoạch triển khai Đề án 1928 giai đoạn 2013 -2016 (sau đây gọi chung là Quyết định số 1141/QĐ-BĐHĐA) nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức, nhà giáo, người lao động, người học trong toàn Ngành giáo dục; góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục. Hiến pháp 2013 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 28 tháng 11 năm 2013 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2014. Để nội dung của hiến pháp được phổ biến sâu rộng trong sinh viên toàn trường nhằm giúp sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM có sự hiểu biết đầy đủ nhất, chính xác và kịp thời nhất những nội dung của hiến pháp năm 2013 là một yêu cầu rất cấp thiết. Do vậy tác giả đã quyết định chọn đề tài: Một số giải pháp chủ yếu nhằm tuyên truyền, phổ biến hiến pháp 2013 của nƣớc CHXHCN Việt Nam cho sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh làm nội dung nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2014-2015. 2. Tình hình nghiên cứu Đây là đề tài nghiên cứu có tính mới và tính thực tiễn rất cao. Trước đây chưa có công trình nào nghiên cứu về nội dung đề tài này, do vậy đảm bảo tính mới và tính thực tiễn cho việc triển khai áp dụng tại trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu có 2 mục tiêu sau: Thứ nhất, tác giả làm rõ tình hình hiểu biết Hiến pháp 2013 nước CHXHCN Việt Nam của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM. Thứ hai, từ thực trạng hiểu biết những nội dung liên quan đến Hiến pháp 2013 nước CHXHCN Việt Nam của sinh viên Trường Đại học Sư phạm 2
- Kỹ thuật Tp.HCM, tác giả sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao sự hiểu biết hiến pháp trong sinh viên từ đó nâng cao hiệu quả tuyên truyền phổ biến hiến pháp. 4. Cách tiếp cận Đề tài được tiếp cận dựa trên các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê Nin quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê- Nin về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tê. Phương pháp nghiên cứu có tính chất bao trùm được quán triệt để thực hiện đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như: Tổng hợp, phân tích, so sánh đối chiếu lịch sử. 6. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng sự hiểu biết và giải pháp nâng cao sự hiểu biết Hiến pháp 2013 nước CHXHCN Việt Nam của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM 6.2 . Phạm vi nghiên cứu Đề tài được giới hạn nghiên cứu liên quan đến Hiến pháp 2013 nước CHXHCN Việt Nam và thực trạng hiểu biết hiến pháp trong sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM. Qua đó tác giả đưa ra các giải pháp để nhằm nâng cao sự hiểu biết cũng như tính hiệu quả trong việc tuyên truyền phổ biến hiến pháp trong sinh viên toàn trường. 7. Nội dung nghiên cứu PHẦN MỞ ĐẦU Chương 1: Thực trạng hiểu biết về Hiến pháp 2013 của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM 3
- Chương 2: Những giải pháp nhằm nâng cao sự hiểu biết nội dung của Hiến pháp 2013 nước CHXHCN Việt Nam cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM. Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo: Chƣơng 1:KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA HIẾN PHÁP VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013 CỦA NƢỚC CHXHCNVN 1.1 Tƣ tƣởng lập hiến trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế nên không có hiến pháp. 4
- Vào những năm đầu thế kỉ XX, do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm 1789, ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa năm 1911 và chính sách Duy tân mà Minh Trị Thiên Hoàng đã áp dụng tại Nhật Bản, trong giới tri thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến. Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này.Khuynh hướng thứ nhất, xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa nhận quyền bảo hộ của chính phủ Pháp. Khuynh hướng thứ hai, chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc, sau đó xây dựng hiến pháp của nhà nước độc lập vì không có độc lập, tự do thì không thể có hiến pháp thực sự. Đầu năm 1919, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã gửi tám điểm yêu sách của nhân dân An Nam cho Hội nghị Versailles của các nước đồng minh trong đó đã thể hiện rõ tư tưởng lập hiến của Người. Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đã dịch và diễn thành lời ca bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” để tuyên truyền trong đồng bào Việt kiều sống trên đất Pháp. Trong tám điều yêu sách, đáng lưu ý là điều thứ 7 - đó là yêu cầu lập hiến, lập pháp cho nhân dân Việt Nam: “Bảy xin hiến pháp ban hành Trăm điều phải có Thần linh pháp quyền”. Năm 1926, Nguyễn Ái Quốc lại cho công bố một bản yêu sách nữa mang đầu đề: “Lời hô hoán cùng Vạn quốc hội”. Bản yêu sách đòi trả quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam và đòi quyền độc lập hoàn toàn và tức khắc ngay cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách tuyên bố: “Nếu được độc lập ngay thì Việt Nam sẽ tình nguyện trả (dần từng năm) một phần nợ mà nước Pháp đã vay Mỹ và Anh trong hồi Âu chiến, Việt Nam sẽ ký Hoà ước liên minh với nước Pháp và sẽ xếp đặt một nền hiến pháp theo lí tưởng dân quyền”. 1.2 Bối cảnh lịch sử và việc ban hành Hiến pháp ở Việt Nam 1.2.1 Hiến pháp năm 1946 Hoàn cảnh ra đời Sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” lịch sử ngày 02/9/1945 khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ; 5
- một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng hiến pháp. Về vấn đề hiến pháp, Người viết: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”.([2]) Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc và Bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng hái tham gia đóng góp ý kiến cho Bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ ước bao đời của họ về độc lập và tự do. Ngày 02/3/1946, trên cơ sở Ban dự thảo Hiến pháp của Chính phủ, Quốc hội Khoá I, kỳ họp thứ nhất đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người đại biểu của nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngày 28/10/1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, kỳ họp thứ hai của Quốc hội Khoá I đã khai mạc.Ngày 09/11/1946, sau hơn 10 ngày làm việc khẩn trương, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta với 240 phiếu thuận, 2 phiếu trống. Ngày 19/12/1946, 10 ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp năm 1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban Thường vụ Quốc hội luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước. Nội dung cơ bản Hiến pháp năm 1946 bao gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 Điều. Lời nói đầu xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.Lời nói đầu còn xác định ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Đó là những nguyên tắc sau đây: 6
- - Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; - Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; - Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp đều được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản trên.Chính ba nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946. Xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 viết: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.Đây là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam.Lần đầu tiên ở nước ta cũng như ở Đông Nam Á, một Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập.Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, hình thức chính thể là hình thức cộng hoà.Đó là bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ.Quy định trên đây cũng đề cao tính dân tộc của Nhà nước. Tuân thủ nguyên tắc “đảm bảo các quyền tự do dân chủ”, Hiến pháp 1946 rất chú trọng đến chế định công dân.Điều đó thể hiện ở chỗ Hiến pháp có 7 chương thì Chương II dành cho chế định công dân. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam được đảm bảo các quyền tự do, dân chủ. Điều 10 Hiến pháp quy định: “Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Phải nói rằng Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ rộng rãi.Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được pháp luật ghi nhận (Điều 6 và Điều 7 Hiến pháp năm 1946).Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phương diện.Với bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, công dân Việt Nam được hưởng quyền bầu cử, nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra khi họ không tỏ ra xứng đáng với danh hiệu đó. Dựa trên nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, hình thức nhà nước, Hiến pháp năm 1946 có nhiều nét độc đáo. Chủ 7
- tịch nước vừa là người đứng đầu Nhà nước, vừa là người đứng đầu Chính phủ, đồng thời có quyền phủ quyết. Điều 31 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận được thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố”. Còn ở Điều 54 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại”. Như vậy, hình thức chính thể của Nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1946 phần nào giống hình thức Cộng hoà tổng thống. Nhưng Chủ tịch nước không phải do cử tri trực tiếp bầu ra mà do Nghị viện nhân dân bầu ra. Mặt khác, Chủ tịch nước chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết.Thủ tướng chọn Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết.Chính phủ chịu sự kiểm soát của Nghị viện.Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức. Những quy định trên cho ta thấy hình thức chính thể của Nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1946 là hình thức kết hợp giữa Cộng hoà tổng thống và Cộng hoà nghị viện. Những nét độc đáo của nó còn thể hiện ở chỗ nó không hề giống hoàn toàn hình thức chính thể của những nước cùng có hình thức pha trộn như Pháp, Phần Lan, Bồ Đào Nha Qua những nét phân tích trên chúng ta thấy rằng Hiến pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kì một bản Hiến pháp nào trên thế giới. Về kỹ thuật lập pháp, Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp cô đọng, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Đó là một bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện. 1.2.2 Hiến pháp năm 1959 Hoàn cảnh ra đời Tính đến năm 1959, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ra đời và phát triển được 14 năm.Đó là một khoảng thời gian có nhiều sự kiện chính trị quan trọng, làm thay đổi tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước. 8
- Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946, thực dân Pháp lại gây ra chiến tranh để xâm lược nước ta một lần nữa.Nhân dân ta lại bước vào cuộc kháng chiến trường kì và gian khổ.Với chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơnevơ thắng lợi, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước còn tạm thời bị chia làm hai miền.Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới này là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.Trong 3 năm (1955 - 1957), ở miền Bắc chúng ta đã hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Năm 1958, chúng ta bắt đầu thực hiện kế hoạch kinh tế 3 năm nhằm phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế và văn hoá, chúng ta đã có những tiến bộ lớn. Đi đôi với những thắng lợi đó, quan hệ giai cấp trong xã hội miền Bắc đã thay đổi.Giai cấp địa chủ phong kiến đã bị đánh đổ.Liên minh giai cấp công nhân và nông dân ngày càng được củng cố và vững mạnh. Hiến pháp năm 1946 đã hoàn thành sứ mệnh của nó nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong Kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa Khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946 và thành lập Ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Sau khi làm xong Bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958, Bản dự thảo được đưa ra thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan Quân, Dân, Chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này Bản dự thảo đã được chỉnh lý lại và ngày 01/4/1959, dự thảo được công bố để toàn dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận này kéo dài trong 4 tháng với sự tham gia sôi nổi tích cực của các tầng lớp nhân dân lao động. Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp. Nội dung cơ bản Hiến pháp năm 1959 gồm có Lời nói đầu và 112 Điều, chia làm 10 chương. Lời nói đầu khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau, khẳng định những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lời nói đầu ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay 9
- là Đảng Cộng sản Việt Nam) đồng thời xác định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Chương I - Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, gồm 8 Điều, quy định các vấn đề cơ bản sau đây:- Hình thức chính thể của Nhà nước là cộng hoà dân chủ (Điều 2). Hiến pháp xác định tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4). - Quy định Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước khác thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 4). - Cũng như Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 khẳng định đất nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia cắt (Điều 1). - Quy định nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ các dân tộc (Điều 3). - Quy định các nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là: Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 5). - Xác định nguyên tắc tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân (Điều 6). Chương II - Chế độ kinh tế và xã hội, gồm 13 Điều quy định những vấn đề liên quan đến nền tảng kinh tế-xã hội của Nhà nước:- Xác định đường lối kinh tế của Nhà nước ta trong giai đoạn này là biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Quy định mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của Nhà nước là không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân (Điều 9). - Quy định các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là: Sở hữu nhà nước (tức là của toàn dân); sở hữu 10
- của hợp tác xã (tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động); sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều 11). - Xác định kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước đảm bảo phát triển ưu tiên. Các hầm mỏ, sông ngòi, những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều thuộc sở hữu của toàn dân (Điều 12). - Quy định việc Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và tư liệu sản xuất khác của nông dân (Điều 14); bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác (Điều 15); bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc (Điều 16); bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác (Điều 18); bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân (Điều 19). So với Hiến pháp năm 1946 thì chương II là một chương hoàn toàn mới. Chương này được xây dựng theo mô hình của Hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ngoài việc quy định kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, Hiến pháp còn quy định Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất. Chương III - Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 21 Điều (từ Điều 22 đến Điều 42). Theo Hiến pháp, công dân Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:- Các quyền về chính trị và tự do dân chủ như: Quyền bầu cử và ứng cử (Điều 23); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 22); quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25); quyền khiếu nại, tố cáo về những hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên, cơ quan nhà nước (Điều 29). - Các quyền về dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội như: Quyền làm việc (Điều 30); quyền nghỉ ngơi (Điều 31); quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32); quyền học tập (Điều 33); quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hoá khác (Điều 34); quyền tự do tín ngưỡng (Điều 26). 11
- - Các quyền về tự do cá nhân như: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 27); không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân; quyền bất khả xâm phạm về nhà ở; quyền bí mật thư tín; quyền tự do cư trú và tự do đi lại. - Các nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp bao gồm: Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỉ luật lao động, trật tự công cộng là những quy tắc sinh hoạt xã hội (Điều 39); nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng (Điều 40); nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật (Điều 41); nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 42). So với Hiến pháp năm 1946, chế định quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp năm 1959 là một bước phát triển mới. Bên cạnh việc quy định các quyền của công dân, Hiến pháp còn xác định nghĩa vụ của Nhà nước trong việc đảm bảo cho các quyền đó được thực hiện. Ngoài những quyền và nghĩa vụ mà Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận, Hiến pháp năm 1959 còn quy định thêm những quyền và nghĩa vụ mới như: Quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động; quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hoá khác; quyền khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên, cơ quan nhà nước; nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng. Chương IV - Quốc hội, bao gồm 18 Điều quy định các vấn đề liên quan đến chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.So với nhiệm kỳ của Nghị viện theo Hiến pháp năm 1946 thì nhiệm kỳ của Quốc hội dài hơn (nhiệm kì của Nghị viện là 3 năm, còn nhiệm kỳ Quốc hội là 4 năm). Hiến pháp năm 1959 quy định quyền hạn của Quốc hội một cách cụ thể hơn. Theo Điều 50 Hiến pháp 1959 thì Quốc hội có những quyền hạn sau đây: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm pháp luật; giám sát việc thi hành Hiến pháp; bầu Chủ tịch và Phó chủ tịch nước; theo đề nghị của Chủ tịch nước Việt Nam quyết định cử Thủ tướng Chính phủ; theo đề nghị của Thủ tướng quyết định cử Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; theo đề nghị của Chủ tịch nước quyết định cử Phó Chủ 12
- tịch nước và các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng; bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; bầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bãi miễn Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước. Thủ tướng, Phó Thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ, Phó Chủ tịch và những thành viên khác của Hội đồng quốc phòng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định kế hoạch kinh tế nhà nước; xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách của nhà nước; ấn định các thứ thuế. Ngoài ra, Quốc hội còn có những quyền hạn quan trọng khác như: Phê chuẩn việc thành lập và bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ, phê chuẩn việc phân vạch địa giới các tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương; quyết định đặc xá; quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; những quyền hạn cần thiết khác do Quốc hội định. Quốc hội có cơ quan thường trực của mình là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội bầu ra. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội gồm có Chủ tịch, các Phó chủ tịch, Tổng thư ký, các uỷ viên. Quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được quy định tại Điều 53. Theo quy định của Hiến pháp chúng ta thấy Ủy ban Thường vụ Quốc hội có các quyền hạn sau đây: Tuyên bố và chủ trì việc tuyển cử đại biểu Quốc hội; triệu tập Quốc hội; giải thích pháp luật; ra pháp lệnh; quyết định việc trưng cầu ý dân; giám sát công tác của Hội đồng Chính phủ, của Tòa án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị định, nghị quyết, chỉ thị của hội đồng Chính phủ trái với Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân trong trường hợp các Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân một cách nghiêm trọng. Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó chánh án, thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm hoặc bãi miễn các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ta ở nước ngoài; quyết định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước ký với nước ngoài (trừ trường hợp mà Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét cần phải trình Quốc hội quyết định). Ngoài 13
- ra, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội còn có thẩm quyền quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao, những hàm và cấp khác; quyết định đặc xá; quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục bộ; quyết định việc giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa phương. Trong thời gian Quốc hội không họp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó Thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; có quyền quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp nước nhà bị xâm lược. Ngoài những quyền hạn được quy định trong Hiến pháp, Quốc hội có thể trao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội những quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết. Theo Hiến pháp năm 1959, ngoài Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội còn thành lập các uỷ ban chuyên trách như Ủy ban Dự án pháp luật, Ủy ban Kế hoạch và ngân sách, Ủy ban Thẩm tra tư cách đại biểu và các uỷ ban khác mà Quốc hội thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 56 và 57). Chương V - Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, bao gồm 10 Điều (từ Điều 61 đến Điều 70).So với Hiến pháp năm 1946 thì đây là một chương mới, theo đó, Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước không nằm trong thành phần của Chính phủ (đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ), Chủ tịch nước chỉ là người đứng đầu nhà nước về mặt đối nội cũng như đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra. Công dân nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa từ 35 tuổi trở lên có quyền ứng cử chức vụ Chủ tịch nước. Như vậy, Hiến pháp năm 1959 quy định điểm mới về tuổi tối thiểu để có thể ứng cử chức vụ Chủ tịch nước là từ 35 tuổi trở lên (không đòi hỏi ứng cử viên phải là đại biểu Quốc hội như Hiến pháp năm 1946). So với Hiến pháp năm 1946, quyền hạn của Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959 hẹp hơn do chức năng của người đứng đầu Chính phủ đã chuyển sang cho Thủ tướng Chính phủ. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng (Điều 65).Khi xét thấy cần thiết thì Chủ tịch nước triệu tập 14
- S K L 0 0 2 1 5 4