Báo cáo Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương

doc 82 trang phuongnguyen 2830
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbao_cao_le_hoi_o_huyen_tho_xuan_thanh_hoa_voi_viec_phat_trie.doc

Nội dung text: Báo cáo Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương

  1. 1 BÁO CÁO THỰC TẬP Đề tài: Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương
  2. 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3 3.1. Mục đích nghiên cứu 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 4.1. Đối tượng nghiên cứu 3 4.2. Phạm vi nghiên cứu 3 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4 5.1. Nguồn tư liệu 4 5.2. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Đóng góp của đề tài 5 6.1. Về mặt khoa học 5 6.2. Về mặt thực tiễn 5 7. Bố cục đề tài 5 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 6 1.1.1. Các khái niệm cơ bản về du lịch 6 1.1.1.1. Khái niệm du lịch 6 1.1.1.2. Khái niệm khách du lịch 6 1.1.1.3. Một số khái niệm khác 6 1.1.2. Các loại hình du lịch 8 1.1.2.1. Khái niệm 8 1.1.2.2. Phân loại các loại hình du lịch 8 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến du lịch 9 1.1.3.1. Tài nguyên du lịch 9 1.1.3.2. Các điều kiện phát triển du lịch 9 1.1.4. Tác động của du lịch đến kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường 11 1.1.4.1. Tác động đến kinh tế 11 1.1.4.2. Tác động đến văn hoá - xã hội 13 1.1.4.3. Tác động đến môi trường 14 1.2. Khái quát về lễ hội 15 1.2.1. Khái niệm lễ hội 15 1.2.1.1. Khái niệm “lễ” 15 1.2.1.2. Khái niệm “hội” 15 1.2.1.3. Mối quan hệ giữa “lễ” và “hội” 16 1.2.2. Phân loại lễ hội 16 1.2.2.1. Căn cứ theo mục đích tổ chức 17 1.2.2.2. Căn cứ vào thời gian hình thành và phát triển của lễ hội 17 1.2.3. Chức năng, vai trò và tác động của lễ hội 18 1.2.3.1. Chức năng của lễ hội 18 1.2.3.2. Vai trò của lễ hội 19 1.2.3.3. Tác động của lễ hội 20 1.3. Mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch 21 1.3.1. Tác động của lễ hội đến du lịch 21 1.3.2. Tác động của du lịch đến lễ hội 22 CHƯƠNG 2: LỄ HỘI Ở HUYỆN THỌ XUÂN - THANH HÓA 23 2.1. Huyện Thọ Xuân và tiềm năng du lịch 23 2.1.1. Khái quát huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa 23 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên 23 2.1.1.2. Lịch sử hình thành huyện 25
  3. 3 2.1.1.3. Điều kiện kinh tế, xã hội 27 2.1.1.4. Đặc điểm văn hóa, dân cư 30 2.1.2. Tiềm năng du lịch Thọ Xuân - Thanh Hóa 30 2.1.2.1. Tiềm năng du lịch tự nhiên 30 2.1.2.2. Tiềm năng du lịch nhân văn 32 “Nguồn: Địa chí huyện Thọ Xuân” 33 2.2. Lễ hội ở huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa 37 2.2.1. Hệ thống lễ hội ở huyện Thọ Xuân 37 2.2.1.1. Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với xã hội 38 2.2.1.2. Lễ hội tôn giáo và văn hóa 39 2.2.2. Một số lễ hội tiêu biểu ở huyện Thọ Xuân 39 2.2.2.1. Lễ hội Lam Kinh 39 2.2.2.2. Lễ hội Lê Hoàn 44 2.2.2.3. Lễ hội làng Xuân Phả 46 2.2.3. Giá trị của lễ hội ở huyện Thọ Xuân 52 2.2.3.1. Lễ hội có giá trị cố kết cộng đồng 52 2.2.3.2. Lễ hội đáp ứng nhu cầu về đời sống tinh thần 53 2.2.3.3. Lễ hội thể hiện tưởng nhớ người có công với dân tộc 54 2.2.3.4. Lễ hội thể hiện khiếu thẩm mĩ của cộng đồng 55 2.2.3.5. Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa 56 2.2.3.6. Lễ hội tạo điều kiện cho du lịch địa phương phát triển 57 3.1.1. Thực trạng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật 58 3.1.3. Thực trạng lượng khách du lịch tham gia lễ hội 61 3.1.4. Hiện trạng giữ gìn vệ sinh môi trường tại các lễ hội 62 3.1.5. Nhận xét 63 3.2. Giải pháp 66 3.2.1. Giải pháp bảo tồn các giá trị của lễ hội huyện Thọ Xuân 66 3.2.1.1. Đầu tư trùng tu các di tích gắn với lễ hội 66 3.2.1.2. Đưa cộng đồng trở thành chủ thể của lễ hội 66 3.2.1.3. Khôi phục và giữ gìn những giá trị truyền thống của lễ hội 67 3.2.2. Giải pháp cho phát triển du lịch lễ hội huyện Thọ Xuân 68 3.2.2.1. Xây dựng cơ sở cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cho du lịch 68 3.2.2.2. Đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch lễ hội huyện 68 3.2.2.3. Mở rộng quy mô tổ chức lễ hội 69 3.2.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá 70 3.2.2.5. Bảo vệ tài nguyên và môi trường 71 3.2.1.6. Kết hợp lễ hội với các tài nguyên du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa để xây dựng tuyến du lịch 71 KẾT LUẬN 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
  4. 4 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, với bao biến đổi thăng trầm đã đúc kết lại thành một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc. Trong đó, không thể không nhắc đến lễ hội - một nét sinh hoạt văn hóa dân gian. Đây cũng là thành tố quan trọng góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng trong thống nhất của dân tộc Việt Nam. Lễ hội không chỉ là loại hình văn hóa dân gian mà còn là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn có vai trò quan trọng, là vật hút của ngành du lịch. Hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước đã và đang vận dụng nguồn tài nguyên nhân văn này đưa vào hoạt động du lịch, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển và nâng các lễ hội lên tầm cao mới. Theo thống kê năm 2004 của Cục Văn hóa Thông tin cơ sở và Bộ Văn hóa Thông tin, cả nước có 8902 lễ hội lớn nhỏ và được phân bố rộng khắp. Ở địa phương nào cũng có lễ hội đặc trưng tiêu biểu của mình. Nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hoá, Thọ Xuân là vùng đất “địa linh nhân kiệt” có vị thế chiến lược trọng yếu trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước tỉnh Thanh nói riêng, cả nước nói chung. Nơi đây không chỉ sản sinh ra những con người kiệt suất cho dân tộc như: Lê Hoàn, Lê Lợi, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, mà còn là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa độc đáo, điển hình là các lễ hội truyền thống của địa phương gắn liền với các vị vua của dân tộc và văn nghệ dân gian của con người, mảnh đất nơi đây. Tuy nhiên, việc tổ chức lễ hội ở đây mới chỉ dừng lại ở quy mô là những lễ hội dân gian mang ý nghĩa văn hóa thuần túy, mà chưa có sự mở rộng hoạt động của các lễ hội thành vật hút của ngành du lịch, hay có cũng chỉ làm một cách hời hợt. Bên cạnh đó, vẫn chưa có sự kết hợp giữa các lễ hội nơi đây với những tài nguyên du lịch khác của địa phương để phát triển mạnh mẽ hoạt động du lịch. Hay nói cách khác, việc sử dụng tài nguyên văn hóa - lễ hội đưa vào khai thác trong du lịch của huyện Thọ Xuân còn hạn chế, chưa thực sự được chú trọng. Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn đề tài “Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương”, làm báo cáo khóa luận tốt nghiệp ra trường của mình, nhằm góp công sức nhỏ bé của mình vào việc giới thiệu, bảo tồn và khai thác những giá trị văn hóa của lễ hội để phát triển du lịch của địa phương.
  5. 5 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nhiều người từ lâu đã biết đến Thọ Xuân với những vị anh hùng của dân tộc như Lê Lợi, Lê Hoàn, với những di tích Lam Kinh, đền thờ Lê Hoàn, hay những trò diễn xướng dân gian xưa kia dùng để tiến vua, và gắn liền là hệ thống lễ hội đặc sắc và phong phú. Tuy nhiên, chúng ta chủ yếu mới chỉ có những bài viết nghiên cứu đơn lẻ từng lễ hội mà vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu tổng quát về các lễ hội và đưa ra những định hướng phát triển du lịch cụ thể cho các lễ hội của huyện. Trong “Non nước Việt Nam”, tác giả Vũ Thế Bình có đề cập đến Lễ hội Lam Kinh ở Thanh Hóa và vẫn chưa đi sâu nghiên cứu xem hoạt động du lịch của lễ hội như thế nào và cũng chưa có sự liên hệ với các lễ hội khác để xây dựng nên hệ thống lễ hội phục vụ du lịch trên địa bàn huyện Thọ Xuân. Về các lễ hội ở huyện Thọ Xuân cũng có khá nhiều bài viết của các cá nhân, cơ quan văn hóa đăng trên các trang báo điện tử nhưng hết sức sơ lược, ngắn gọn như: Lễ hội Lê Hoàn có các bài viết như: Đỗ Phương Thảo với “Lễ hội Lê Hoàn và huyền thoại về ông vua trọng nông” (kinhtenongthon.com.vn); tác giả hoabovai với “Lễ hội Lê Hoàn - âm vang tiếng gọi cội nguồn” (tuoitrethanhhoa.com); hay “Lễ Hội Lê Hoàn ở Thanh Hoá” (slpc.wordpress.com); Viết về lễ hội Lam Kinh có: Đỗ Như Chung với Lễ hội Lam Kinh từ lễ hội cung đình đến lễ hội dân gian”; Thiên Lam với “Lễ hội Lam Kinh mang đậm nét văn hoá thời Lê” (tin247.com); Lễ hội Xuân Phả cũng có những bài viết như: “Trò Xuân Phả những điệu múa mặt nạ dị kỳ” (viettems.com) của Huy Thông (2009); “Lễ hội Làng Xuân Phả” (2008), (thanhhoafc.net/forum/showthread.php?t=4700); “Phục dựng lễ hội Xuân Phả/Video” (viettems.com) của Bùi Quang Thắng (2010); Tuy nhiên, những bài viết này chỉ tiến hành mô tả khái quát lại các lễ hội, mà không đi sâu vào phân tích những ý nghĩa, vai trò của từng lễ hội, không đánh giá tiềm năng du lịch của từng lễ hội ở mỗi địa phương. Mặc dù vậy, đây cũng là những nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để chúng tôi tiến hành nghiên cứu và hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này.
  6. 6 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khi nhắc đến lễ hội ở huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa người ta chỉ biết đến một số lễ hội mang tầm quốc gia như Lễ hội Lam Kinh mà không biết đến những lễ hội khác như: Lễ hội Lê Hoàn, lễ hội làng Xuân Phả, là những lễ hội cũng có nhiều giá trị đang được bảo tồn và có thể phát triển du lịch. Do đó, khóa luận hoàn thành là nguồn tài liệu góp phần giới thiệu rộng rãi với mọi người những giá trị văn hóa mà các lễ hội tại huyện Thọ Xuân hiện đang lưu truyền. Là người con của địa phương, việc tìm hiểu về đặc điểm và thực trạng hoạt động của các lễ hội tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa, giúp bản thân tác giả hiểu rõ hơn về các lễ hội truyền thống văn hóa trên mảnh đất quê hương mình. Đồng thời, với việc nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp nhằm: Tác động vào ý thức của người dân địa phương trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa; đưa lễ hội của địa phương trở thành tài nguyên phục vụ cho hoạt động du lịch, góp phần nâng cao thu nhập và hiệu quả kinh tế của huyện. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động du lịch và lễ hội, trên cơ sở đó đánh giá tác động của hoạt động du lịch đối với kinh tế - xã hội, văn hóa (lễ hội) và môi trường. Tìm hiểu về các lễ hội tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa, đồng thời đưa ra giải pháp, kiến nghị để lễ hội truyền thống của địa phương trở thành lễ hội phục vụ du lịch mà không làm mất đi tính linh thiêng của lễ hội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là một số lễ hội truyền thống tiêu biểu có thể phát triển để phục vụ hoạt động du lịch trên địa bàn huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tìm hiểu khái quát về đặc điểm địa lí, lịch sử, kinh tế - xã hội, văn hóa con người của huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa, qua đó hiểu được tác động của nó đối
  7. 7 với lễ hội ở đây. Nghiên cứu một số lễ hội văn hóa tiêu biểu như: Lễ hội Lam Kinh, lễ hội Lê Hoàn, lễ hội làng Xuân Phả thuộc địa bàn huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa ở các mặt nội dung, hình thức từ khi các lễ hội này ra đời và phát triển đến nay. Ngoài ra, đề tài tìm hiểu thực trạng thu hút khách du lịch tại các lễ hội và phương thức khai thác các lễ hội này đưa vào hoạt động du lịch tại địa phương. Đồng thời đưa ra một số giải pháp phát triển du lịch tại lễ hội ở huyện Thọ Xuân. 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu Để thực hiện khóa luận này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các nguồn tư liệu sau: - Tài liệu thành văn: Sách chuyên ngành, các công trình nghiên cứu, khóa luận tốt nghiệp, bài viết, sách báo, tạp chí, văn bản, - Tài liệu điền dã thu thập được thông qua việc đi thực tế các lễ hội tiêu biểu tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa và phỏng vấn các cán bộ văn hóa, những người cao tuổi tại địa phương. Đây là nguồn tài liệu quan trọng góp phần không nhỏ vào sự thành công của đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Khi thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp này, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, đó là: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, tổng hợp các tư liệu, thông tin liên quan đến đề tài giúp chủ thể khái quát hóa, mô hình hóa các vấn đề nghiên cứu đạt được mục tiêu đề ra. - Phương pháp thống kê: Các số liệu, tư liệu được sưu tầm ở nhiều nguồn khác nhau và thời gian dài ngắn cũng không giống nhau vì thế các tài liệu đó cần được thống kê lại và xử lý có hệ thống, phục vụ cho quá trình nghiên cứu đạt được kết quả cao. - Phương pháp khảo sát thực địa: Sử dụng phương pháp này để lấy được các số liệu, thông tin phục vụ cho việc trình bày luận cứ, đồng thời kiểm nghiệm độ chính xác, để kết quả nghiên cứu có tính thuyết phục. Phương pháp này đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến độ chính xác của đề tài.
  8. 8 - Phương pháp phỏng vấn: Đưa ra những câu hỏi đối thoại liên quan đến lễ hội của địa phương đối với những vị khách tham gia lễ hội, những người quản lý, cán bộ văn hóa, những người cao tuổi, người làm du lịch để thu thập thêm thông tin. - Phương pháp chuyên gia: Việc tranh thủ ý kiến của lãnh đạo, chính quyền, cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa lễ hội là những kinh nghiệm quý báu để vận dụng vào nghiên cứu. Công việc này rút ngắn quá trình điều tra phức tạp, đồng thời bổ sung cho phương pháp điều tra cộng đồng. 6. Đóng góp của đề tài 6.1. Về mặt khoa học Nghiên cứu lễ hội tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa góp phần xây dựng bức tranh tổng thể về lễ hội văn hóa tiêu biểu trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội (nhất là về du lịch) của địa phương. 6.2. Về mặt thực tiễn Đề tài hoàn thành sẽ góp phần giới thiệu, quảng bá hình ảnh lễ hội của Thọ Xuân. Đồng thời để các cơ quan chính quyền địa phương quan tâm chú trọng phát triển du lịch ở các lễ hội hơn nữa. Bên cạnh đó, đề tài đưa ra những đề xuất định hướng trong việc bảo tồn giữ gìn và khai thác giá trị văn hóa để phát triển du lịch. Lễ hội ở huyện Thọ Xuân là mảng đề tài hiện nay còn ít người nghiên cứu, nên nguồn tài liệu vẫn chưa phong phú. Do đó, sau khi đề tài hoàn thành đây sẽ là nguồn tài liệu thành văn hữu ích cho những ai có nhu cầu nghiên cứu về mảng đề tài lễ hội ở các địa phương. 7. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo đề tài kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận chung Chương 2: Lễ hội ở huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa Chương 3: Khai thác lễ hội ở huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa vào việc phát triển du lịch địa phương
  9. 9 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 1.1. Khái quát về du lịch 1.1.1. Các khái niệm cơ bản về du lịch 1.1.1.1. Khái niệm du lịch Bàn về du lịch có rất nhiều quan niệm khác nhau, mỗi định nghĩa đứng trên một góc độ, một lập trường quan điểm như: Theo Liên hiệp Quốc tế các tổ chức lữ hành chính thức: Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống, ; Nhìn từ góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác. Nhìn chung, các khái niệm về du lịch là không giống nhau, tuỳ thuộc góc độ của chủ thể và tuỳ thuộc các mốc thời gian mà khái niệm về du lịch có sự khác nhau. Đối với Việt Nam, theo Luật du lịch năm 2006 định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [37, 9]. 1.1.1.2. Khái niệm khách du lịch Theo Luật Du lịch Việt Nam (2006): Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. Khách du lịch được phân loại theo hai tiêu chí: Phạm vi lãnh thổ và loại hình du lịch. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ có du khách: Quốc tế và nội địa. Phân theo loại hình du lịch thì có du khách du lịch sinh thái và du khách du lịch văn hóa. 1.1.1.3. Một số khái niệm khác * Sản phẩm du lịch Sản phẩm du lịch là sự kết hợp hàng hóa và dịch vụ trên cơ sở khai thác hợp lý tài nguyên du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cho du khách trong hoạt động du lịch. Sản phẩm du lịch = tài nguyên du lịch + hàng hóa và dịch vụ du lịch. Dựa trên các thành phần cơ bản của sản phẩm du lịch và tùy thuộc vào đặc trưng đặc thù của mỗi nước, các nhà du lịch đưa ra một số mô hình: 4S, 3H và 6S.
  10. 10 * Điểm du lịch Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút du khách đến tham quan du lịch. * Khu du lịch Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch với ưu thế nổi bật về cảnh quan thiên nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du khách, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường. * Tuyến du lịch Tuyến du lịch là lộ trình nối các điểm du lịch, khu du lịch khác nhau về chức năng nhằm đáp ứng cho nhu cầu đi tham quan du lịch của du khách. * Đơn vị cung ứng du lịch Là một cơ sở kinh doanh cung cấp cho du khách một phần hoặc toàn bộ sản phẩm du lịch. Đơn vị cung ứng du lịch bao gồm: Điểm vui chơi giải trí cung ứng các loại hình và dịch vụ vui chơi giải trí; khách sạn cung ứng dịch vụ lưu trú, ăn uống; nhà hàng chuyên dịch vụ ăn uống cho du khách; * Tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du khách. * Lữ hành Lữ hành là việc thực hiện chuyến đi du lịch theo kế hoạch, lộ trình, chương trình định trước. * Cơ sở lưu trú du lịch Là cơ sở kinh doanh buồng, giường và các dịch vụ khác phục vụ du khách. Cơ sở lưu trú du lịch bao gồm khách sạn, làng du lịch, biệt thự, căn hộ, lều, bãi cắm trại cho thuê, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú chủ yếu.
  11. 11 1.1.2. Các loại hình du lịch 1.1.2.1. Khái niệm Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc điểm giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự, hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách phân phối, một cách tổ chức như nhau hoặc được xếp chung theo một giá bán nào đó. 1.1.2.2. Phân loại các loại hình du lịch Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các loại du lịch khác nhau. Trong các ấn phẩm về du lịch đã được phát hành, khi phân các loại hình du lịch các tiêu thức phân loại thường được sử dụng như sau: * Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch Dựa vào tiêu chí này, du lịch được chia thành hai loại: Loại hình du lịch quốc tế, đây là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm ở lãnh thổ các quốc gia khác nhau, bao gồm có du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế bị động; loại hình du lịch nội địa: Là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia. * Căn cứ vào nhu cầu và động cơ làm nảy sinh hoạt động du lịch Căn cứ vào tiêu chí này, người ta chia ra thành các loại hình: Du lịch chữa bệnh; du lịch nghỉ ngơi, giải trí; du lịch thể thao; du lịch văn hoá; du lịch lịch sử; du lịch sinh thái; du lịch công vụ; du lịch tôn giáo; du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương; du lịch quá cảnh. Các loại hình du lịch kể trên thường không thể hiện nguyên một dạng nào đầy đủ và rõ rệt, ta thường gặp sự kết hợp của một vài thể loại một lúc như du lịch nghỉ ngơi và du lịch văn hoá, du lịch công vụ với du lịch văn hoá, * Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi Căn cứ vào hình thức chuyến đi người ta chia thành: Du lịch theo đoàn và du lịch cá nhân. Ngoài ra, còn căn cứ vào các tiêu chí khác như: Phương tiện giao thông được sử dụng, phương tiện lưu trú, thời gian đi du lịch của khách, vị trí địa lí của nơi đến đi du lịch, mà tương ứng nhiều loại hình khác nhau.
  12. 12 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến du lịch 1.1.3.1. Tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản trong việc kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên phân bố không đồng đều trên lãnh thổ. Có những tài nguyên giàu giá trị thu hút nhưng được phân bố ở những điểm du lịch để phát triển kinh doanh du lịch được. Như vậy, không phải nơi nào giàu tài nguyên du lịch cũng có thể phát triển thành điểm du lịch để phát triển kinh doanh du lịch được, nhưng nhìn chung, việc phát triển kinh doanh du lịch chỉ có thể được thực hiện tại những nơi có tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch được chia thành tài nguyên du lịch tự nhiên (TNDLTN) và tài nguyên du lịch nhân văn (TNDLNV). TNDLTN là tổng thể tự nhiên các thành phần của nó có thể góp phần khôi phục và phát triển thể lực, trí tuệ con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ và được lôi cuốn vào phục vụ cho nhu cầu cũng như sản xuất dịch vụ du lịch. Các thành phần của tự nhiên với tư cách là tài nguyên du lịch có tác động mạnh nhất đến hoạt động du lịch là: Địa hình, khí hậu, nguồn nước và thực - động vật. TNDLNV nói một cách ngắn gọn, là các đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra trong suốt quá trình tồn tại và có giá trị phục vụ cho nhu cầu du lịch. TNDLNV có các đặc điểm sau: Có tác dụng nhận thức nhiều hơn, tác dụng giải trí không điển hình hoặc chỉ có ý nghĩa thứ yếu, việc tìm hiểu các đối tượng nhân tạo thường diễn ra trong thời gian ngắn; số người quan tâm tới TNDLNV thường có văn hoá cao hơn, thu nhập và yêu cầu cao hơn; thường tập trung ở các điểm quần cư và thành phố lớn; đại bộ phận không có tính mùa vụ (trừ các lễ hội), không bị phụ thuộc nhiều vào các điều kiện khí hậu và các điều kiện tự nhiên khác; sở thích của những người tìm đến TNDLNV rất phức tạp và rất khác nhau. TNDLNV bao gồm: Các di tích lịch sử lịch sử - văn hoá, các lễ hội, các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hoá - thể thao và hoạt động nhận thức khác. 1.1.3.2. Các điều kiện phát triển du lịch * Điều kiện về chế độ chính trị - xã hội Du lịch chỉ có thể phát triển được trong hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia và các dân tộc. Ở những nước và những vùng có chế độ chính trị ổn định, tình hình trật tự an toàn xã hội đảm bảo tạo lực hút rất lớn lượng du khách đến tham quan du lịch.
  13. 13 Ngược lại, ở những nước, những vùng có sự bất ổn về chính trị, xung đột, chiến tranh sẽ gây ảnh hưởng rất xấu hoặc dẫn đến sự ngừng trệ các hoạt động du lịch. Các hiện tượng thiên tai như bão, lũ lụt, động đất, hoặc các bệnh dịch như sida, tả, lỵ, sốt rét cũng gây ảnh hưởng xấu đến phát triển du lịch. Một xã hội văn minh, lịch sự, có những nét đẹp trong phong tục tập quán cũng là yếu tốt hấp dẫn du khách do đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh du lịch. Đôi khi bản thân chế độ chính trị hiện tại cũng trở thành đối tượng thăm viếng của du khách bởi họ muốn có những nhận xét khách quan nhất về nó. * Điều kiện kinh tế Ngành du lịch của một quốc gia hay vùng phát triển tỉ lệ thuận với trình độ phát triển kinh tế của quốc gia hay vùng đó. Thu nhập bình quân đầu người là chỉ số tác động trực tiếp đến lượng nhu cầu trong du lịch. Các nhà kinh tế đã thống kê rằng ở các nước có nền kinh tế phát triển, nếu thu nhập tăng lên 1% thì chi phí của nhân dân dành cho du lịch tăng lên 1,5%. Mức thu nhập là nhân tố kinh tế quan trọng nhất ảnh hưởng tới nhu cầu du lịch. * Điều kiện giao thông vận tải Giao thông du lịch có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của ngành du lịch. Sự phát triển của giao thông vận tải thể hiện trên hai mặt: Phát triển về số lượng hình thành nhiều loại giao thông và sự tăng lên một cách nhanh chóng số lượng phương tiện vận chuyển, tạo khả năng vận chuyển số lượng lớn du khách trên thế giới đi du lịch. Phát triển về chất lượng của phương tiện giao thông vận tải tốc độ vận chuyển, đảm bảo an toàn trong vận chuyển, đảm bảo tiện nghi trong vận chuyển, vận chuyển với giá rẻ. * Chính sách phát triển du lịch Chiến lược và chính sách phát triển du lịch của một quốc gia, vùng có ý nghĩa cực kì quan trọng, nó tạo động lực thúc đẩy sự phát triển du lịch. Chiến lược phát triển du lịch xác định phương hướng phát triển du lịch dài ngày, đề cập đến những vấn đề tổng thể của phát triển du lịch như chiến lược sản phẩm du lịch, chiến lược nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch, chiến lược giữ gìn tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, môi trường, chiến lược đầu tư du lịch, chiến lược giáo dục và đào tạo du lịch, chiến lược thị trường du lịch.
  14. 14 * Thời gian rỗi Các chuyến đi du lịch đều được thực hiện trong thời gian nhàn rỗi của con người (ngày nghỉ cuối tuần, kì nghỉ phép, thời gian nghỉ lễ, thời gian rỗi trước và sau khi thực hiện công vụ). Mặc dù, có khả năng chi tiêu, có nhu cầu, con người cũng không đi du lịch được nếu không có thời gian rỗi. * Sự sẵn sàng đón tiếp du khách Các cơ sở vật chất - kĩ thuật và cơ sở hạ tầng là toàn bộ phương tiện vật chất tham gia vào việc tạo ra và thực hiện dịch vụ hàng hóa du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của du khách. Thành phần của cơ sở vật chất kĩ thuật bao gồm các cơ sở công trình kĩ thuật thuộc ngành du lịch; các cơ sở, công trình thuộc ngành khác có tham gia vào hoạt động du lịch như giao thông, thương nghiệp, dịch vụ công cộng; tài nguyên du lịch là thành phần đặc biệt của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, chúng cũng là phương tiện vật chất để thỏa mãn nhu cầu của du khách. Ngoài cơ sở vật chất - kỹ thuật, điều kiện kinh tế, tổ chức thì lực lượng lao động cũng góp phần quan trọng trong việc đón tiếp khách. Bởi du lịch là một ngành sử dụng lực lượng lao động to lớn. Trong du lịch bao gồm nhiều ngành nghề và trình độ chuyên môn hết sức khác nhau. Mặt khác, quá trình cung ứng dịch vụ du lịch là quá trình tiếp xúc trực tiếp giữa khách hàng và nhân viên cung ứng, vì vậy thái độ và trình độ của nhân viên sẽ quyết định chất lượng phục vụ và hiệu quả kinh doanh. Cho dù các yếu tố trên đều ảnh hưởng đến sự phát triển kinh doanh du lịch thì tài nguyên du lịch vẫn là yếu tố quan trọng, là cơ sở cho việc phát triển kinh doanh du lịch. Đặc biệt, ngày nay xu hướng du lịch văn hoá đang phát triển mạnh, tài nguyên du lịch văn hoá đang được khai thác triệt để. Vì vậy, khi khai thác tài nguyên du lịch, chúng ta cần phải đảm bảo có một sự tương xứng giữa khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch đồng thời bảo vệ môi trường. 1.1.4. Tác động của du lịch đến kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường 1.1.4.1. Tác động đến kinh tế * Tác động tích cực Du lịch phát triển sẽ góp phần làm tăng GDP và GNP cho nền kinh tế địa phương làm du lịch. Khi du lịch quốc tế phát triển, khách du lịch mang ngoại tệ đến đổi và chi tiêu ở khu du lịch để tiêu thụ các sản phẩm du lịch từ đó góp phần làm tăng
  15. 15 tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng và của đất nước du lịch, điều đó cũng có nghĩa là hoạt động xuất khẩu tăng do đó góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, đồng thời tăng GDP và GNP. Du lịch phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của các địa phương làm du lịch. Du lịch phát triển sẽ góp phần tạo công ăn việc làm cho cư dân địa phương, qua đó nâng cao đời sống, nâng cao thu nhập cho họ và gia đình họ. Không những thế, thông qua công việc, qua giao lưu tiếp xúc trình độ văn hoá của con người ngày càng phát triển, phong phú, nền văn hoá giữa các địa phương, các dân tộc được giao thoa học hỏi lẫn nhau. Đối với các nhà sản xuất, kinh doanh thì du lịch phát triển sẽ góp phần tăng thu nhập, tăng lợi nhuận, còn đối với chính quyền sở tại thì du lịch phát triển sẽ góp phần tăng thu nhập từ thuế, từ đó lại quay trở lại phát triển du lịch địa phương. Du lịch phát triển sẽ góp phần kích thích đầu tư. Khi du lịch phát triển thu nhập của các chủ thể sẽ tăng, từ đó họ quay trở lại đầu tư phát triển du lịch. Đối với chính quyền sở tại, với Nhà nước thì đó là đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đối với các doanh nghiệp thì đó là đầu tư mở rộng, đầu tư làm mới các doanh nghiệp. Đối với cư dân địa phương thì đó là đầu tư phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, các phong tục tập quán, Du lịch phát triển góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Khi du lịch phát triển nhu cầu hàng hoá, dịch vụ tăng, từ đó đòi hỏi phải có một lực lượng lao động lớn, nhất là khi mà ngành du lịch là ngành kinh tế dịch vụ chỉ đáp ứng chủ yếu là du lịch và thức ăn, do đó nó đòi hỏi nhiều lao động và trong nhiều trường hợp không thể cơ giới hoá được như các ngành sản xuất vật chất khác. Do vậy, việc phát triển du lịch là tạo thêm nhiều chỗ làm và tạo điều kiện tăng thu nhập cho nhân dân địa phương. Du lịch quốc tế còn là phương tiện tuyên truyền và quảng cáo không mất tiền cho đất nước du lịch chủ nhà. Khi khách đến du lịch, khách có điều kiện làm quen với một số mặt hàng ở đó và mua các hàng hoá ấy về nước mình. Theo cách này, du lịch quốc tế góp phần tuyên truyền cho nền sản xuất của nước du lịch chủ nhà. Du lịch tác động gián tiếp tạo hiệu quả số nhân trong du lịch. Du lịch phát triển, tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ tăng qua đó tạo thu nhập cho các chủ thể trong nền kinh tế; du lịch phát triển, nhu cầu tái sản xuất, đầu tư tăng qua đó tăng hiệu quả số nhân về vốn; du lịch phát triển còn làm tăng nhu cầu lao động qua đó góp phần tăng hiệu quả số nhân về lao động.
  16. 16 * Tác động tiêu cực Bên cạnh các mặt tích cực đó sự phát triển của du lịch cũng có những mặt trái gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển kinh tế xã hội của nơi làm du lịch. Du lịch phát triển, sẽ góp phần làm tăng số lượng tiền lưu thông, qua đó làm cho đồng tiền mất giá, từ đó dẫn đến lạm phát. Du lịch phát triển sẽ gây ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của cư dân địa phương nơi làm du lịch. Khi du lịch phát triển, các sản phẩm dịch vụ có giá trị sử dụng cao, do đó cư dân địa phương phải sống với mức sống cao hơn so với mức sống xã hội cho phép (chi phí trên một đơn vị sản phẩm lớn hơn mức cơ bản) và họ phải phụ thuộc vào nhu cầu của khách du lịch từ nơi khác đến. 1.1.4.2. Tác động đến văn hoá - xã hội * Tác động tích cực Du lịch quốc tế phát triển góp phần mở rộng, củng cố các mối quan hệ kinh tế quốc tế trên các hướng: Ký hợp đồng trao đổi khách giữa các nước, tham gia các tổ chức quốc tế về du lịch, hợp tác quốc tế về giao thông, vận chuyển khách trong du lịch, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xây dựng, phát triển, tuyên truyền, quảng bá du lịch. Du lịch góp phần phục hồi sức khoẻ và tăng cường sức sống cho người dân. Trong một chừng mực nào đó, du lịch có tác động hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người, nhất là đối với các bệnh như tim mạch, thần kinh, du lịch rất có hiệu quả. Trong thời gian đi du lịch, khách thường sử dụng các dịch vụ, hàng hoá và thường tiếp xúc với cư dân địa phương. Thông qua các cuộc giao tiếp đó, trình độ văn hóa của khách và người bản xứ được nâng cao, đồng thời giúp họ xích lại gần nhau hơn, đoàn kết hơn và làm phong phú thêm khả năng thẩm mỹ của con người khi họ được tham quan các kho tàng, các danh thắng, của đất nước. Du lịch phát triển góp phần khai thác, bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, góp phần bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường tự nhiên. Du lịch quốc tế có vai trò quan trọng trong việc giáo dục tinh thần quốc tế, cho các dân tộc, làm cho mọi người gần gũi nhau hơn, góp phần bình thường hoá quan hệ quốc tế, góp phần cũng cố hoà bình quốc tế và tăng thêm tình hữu nghị giữa các dân tộc anh em.
  17. 17 * Tác động tiêu cực Du lịch phát triển cũng có thể tác động không tốt đến văn hoá - xã hội, nhất là thuần phong mỹ tục của dân tộc. Do nhìn nhận đạo đức khác nhau, một số du khách không thấy hành động, cử chỉ, cách ăn mặc của mình là không phù hợp với phong tục, truyền thống của cư dân nơi du lịch. Sự học hỏi theo mốt của một bộ phận cư dân bản xứ, đặc biệt là giới thanh thiếu niên. Không những thế, khi du lịch phát triển, vì mục đích kinh tế trước mắt, các hoạt động văn hoá, tinh thần được trình diễn một cách thiếu tự nhiên hoặc chuyên nghiệp, hoặc mang ra làm trò cười cho du khách. Du lịch phát triển, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, mại dâm, lan tràn nhanh chóng, gây ảnh hưởng tới trật tự, an ninh nơi làm du lịch. Du lịch là con đường mà các thế lực phản động thường hay sử dụng để tuyên truyền, kích động. Đội lốt du khách chúng thâm nhập sâu vào nước đến để móc nối xây dựng cơ sở. 1.1.4.3. Tác động đến môi trường * Tác động tích cực Hoạt động du lịch tạo ra hiệu quả tốt đối với việc sử dụng hợp lý và bảo vệ tối ưu các nguồn tài nguyên và môi trường. Biểu hiện rõ rệt nhất của hoạt động du lịch là vấn đề bảo tồn môi trường. Du lịch góp phần tích cực vào việc bảo vệ tồn các vườn quốc gia, các khu bảo tồn tự nhiên, các khu rừng văn hóa - lịch sử - môi trường, tu bổ, bảo vệ hệ thống đền đài lịch sử kiến trúc mỹ thuật. Du lịch góp phần tích cực tu sửa phát triển cảnh quan đô thị, cảnh quan tại các điểm du lịch như tu sửa nhà cửa cũ thành những cơ sở du lịch mới, cải thiện môi trường cho cả du khách và cư dân địa phương bằng cách gia tăng phương tiện vệ sinh, cung cấp nước, đường sá, thông tin, năng lượng, nhà cửa đưa đến sự kiểm soát ở các điểm du lịch nhằm bảo vệ môi trường. * Tác động tiêu cực Cường độ hoạt động du lịch ở một vùng, một địa phương càng mạnh thì tác động môi trường càng lớn và dẫn đến sự xung đột giữa du lịch và môi trường. Tác động tiêu cực thể hiện trên các mặt sau: Gia tăng mức độ tắc nghẽn giao thông, gia tăng ô nhiễm không khí, nước, tiếng ồn, thay đổi cảnh quan thiên nhiên và sự thay đổi sự quân bình môi sinh đối với môi trường sống của sinh vật, gia tăng chi phí ngăn ngừa, tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm ở địa phương, chi phí tạo ra các khu vực bảo
  18. 18 tồn trên lãnh thổ của khu nghỉ dưỡng, chi phí thực hiện các dự án cải thiện, chi phí thực hiện việc bảo tồn, lịch sử và văn hóa. Tóm lại, với những gì du lịch làm được cho kinh tế văn hóa xã hội sẽ là nền tảng để du lịch ngày càng phát triển hơn. Tuy nhiên, nó cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường, vì vậy, việc khai thác và bảo vệ môi trường phải luôn luôn gắn liền với nhau. Hai vấn đề này tác động qua lại lẫn nhau và đều nhằm mục đích làm giàu đẹp cho đất nước. 1.2. Khái quát về lễ hội 1.2.1. Khái niệm lễ hội 1.2.1.1. Khái niệm “lễ” “Lễ” theo từ điển tiếng Việt là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó. Trong thực tế “lễ” có nhiều ý nghĩa và một lịch sử hình thành khá phức tạp. Chữ “lễ” được hình thành và biết tới từ thời nhà Chu (thế kỷ XII trước công nguyên). Lúc đầu chữ “lễ” được hiểu là lễ vật của các gia đình quý tộc, nhà Chu cúng tế thần tổ tông gọi là tế lễ. Dần dần, chữ “lễ” được mở rộng nghĩa là hình thức, phép tắc để phân biệt trên, dưới, sang, hèn, thứ bậc lớn nhỏ thân sơ trong xã hội khi đã phân hoá thành đẳng cấp. Cuối cùng khi xã hội đã phát triển thì ý nghĩa của “lễ” càng được mở rộng như lễ Thành hoàng, lễ Gia tiên, lễ cầu an, lễ cầu mưa, Do ngày càng mở rộng phạm vi nên đến đây “lễ” đã mang ý nghĩa bao quát mọi nghi thức ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội. Như vậy, ta có thể đi đến một khái niệm chung: “Lễ” là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. 1.2.1.2. Khái niệm “hội” “Hội’’ là đám vui đông người gồm hai đặc điểm là đông người, tập trung trong một địa điểm và vui chơi với nhau. Nhưng nếu chỉ có vậy nhiều khi chưa thành “hội” phải bao gồm các yếu tố sau đây mới đủ ý nghĩa của nó: (1) “hội” phải được tổ chưc nhân dịp kỷ niệm một sự kiện quan trọng nào đó liên quan đến bản làng, cộng đồng dân tộc, (2) “hội” đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên của cộng đồng. “Hội” có nhiều trò vui náo nhiệt như câu ca dao đã từng ví “vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội”. Đây là sự cộng cảm cần thiết của phương diện tâm lý sau những ngày tháng
  19. 19 lao động vất vả với những khó khăn trong cuôc sống hàng ngày mà ai cũng phải trải qua. Đến với “hội” mọi người sẽ được giải toả thăng bằng trở lại. Như vậy, khái niệm “hội” được tập trung lại như sau: “Hội” là sinh hoạt văn hoá tôn giáo nghệ thuật của cộng đồng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân hạnh phúc cho từng dòng họ, từng gia đình. Sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của những mùa màng mà bao đời nay đã quy tụ vào niềm mơ ước chung với 4 chữ “Nhân - Khang - Vật - Thịnh”. 1.2.1.3. Mối quan hệ giữa “lễ” và “hội” Qua các lễ hội truyền thống Việt Nam ta có thể rút ra được mối quan hệ khăng khít giữa lễ và hội. Trong thưc tế, giữa lễ và hội có mối quan hệ khó tách rời, chúng luôn hoà quyện với nhau. Nếu chỉ có hội mà không có lễ thì mất vẻ cung kính trang nghiêm và ngược lại nếu chỉ có lễ mà không có hội thì không còn vui nữa. Vì vậy, mối quan hệ giữa lễ và hội là không thể tách rời, chúng hoà quyện đan xen vào nhau. Trên cơ sở ấy chúng ta nhận thấy rằng người nông dân Viêt Nam đã sáng tạo lễ hội như cuộc sống thứ hai của mình, đó là cuộc sống hội hè đình đám sống động đậm màu sắc dân gian. Phần cuộc sống đó thuộc về những ước mơ, những khát vọng hướng tới cái Chân - Thiện - Mỹ. Ở đó cái đẹp của cuộc sống thực được bộc lộ hết mình trong sự hoà hợp giữa con người với tự nhiên, sự ngưỡng mộ, tri âm với các lực lượng thần thánh siêu nhiên đã có công xây dựng và bảo vệ làng bản. Vì thế lễ hội mang tính nhân văn sâu sắc đem lại niềm hy vọng cho con người, mà con người thì không bao giờ lại không cần thiết tin và hy vọng. Như vậy, chúng ta thấy lễ và hội có mối quan hệ chặt chẽ khăng khít với nhau. Chúng luôn song hành và cùng tồn tại với nhau. Ở đâu có lễ thì ở đó có hội và ngược lại. 1.2.2. Phân loại lễ hội Có nhiều cách để phân loại lễ hội, ở mỗi tiêu chí khác nhau thì phân loại lễ hội khác nhau. Dưới góc độ xã hội người ta chia lễ hội thành lễ hội mang tính chất quốc gia, dân tộc hay quốc tế. Năm 1989, Đinh Gia Khánh căn cứ vào tính chất tôn giáo chia lễ hội thành hai loại đó là lễ hội tôn giáo hay không tôn giáo. Lễ hội cũng có thể chia thành 3 loại đó là: Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường tự nhiên (lễ hội cầu mưa, hội xuống đồng, hội cơm mới, hội đua ghe, ); lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường xã hội (kỷ niệm các anh hùng dựng
  20. 20 nước, giữ nước - hội Đền Gióng, hội Đền Hùng, hội đền Hai Bà Trưng, hội Tây Sơn, hội Đống Đa, ); lễ hội liên quan đến đời sống cộng đồng hay các lễ hội tôn giáo và văn hóa (hội chùa Hương, hội chùa Thày, hội Phủ Giày, hội núi Bà Đen, lễ hội La Vang, Phục sinh, ). Để phân chia lễ hội, người ta dựa vào nhiều căn cứ khác nhau. Dưới là cách phân loại lễ hội theo mục đích tổ chức và thời gian hình thành, phát triển của lễ hội. 1.2.2.1. Căn cứ theo mục đích tổ chức Ở nước ta lễ hội là sinh hoạt văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng mà lại thường đan xen hoà lẫn vào nhau về cả nội dung lẫn hình thức. Vì vậy, việc phân loại lễ hội càng trở nên cần thiết trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu. Thường người ta chia lễ hội làm 5 loại: Lễ hội nông nghiệp, lễ hội phồn thực giao duyên, lễ hội văn nghệ, lễ hội thi tài, lễ hội lịch sử. Theo tác giả Hoàng Lương trong cuốn “Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam” đã phân lễ hội ra làm 2 loại chính: Lễ hội liên quan đến tín ngưỡng cầu mùa; lễ hội tưởng nhớ người có công với dân tộc. Lễ hội liên quan đến tín ngưỡng cầu mùa: Đây là loại lễ hội phổ biến nhất ở các dân tộc. Nội dung lễ hội được thể hiện một cách sinh động ở các nghi thức: Lễ thức liên quan đến chu trình sản xuất nông nghiệp; lễ thức cầu đảo; lễ rước thờ cúng hồn lúa; Những lễ hội trên đều mang tính chất tín ngưỡng cầu mùa mong sao mùa màng “phong đăng hoà cốc”, người an vật thịnh, ngành nghề phát triển. Lễ hội liên quan đến việc tưởng niệm công lao các vị danh nhân văn hoá, anh hùng dân tộc, các vị thành hoàng và các chư vị thánh phật. Loại lễ hội này đều thờ cúng di tích liên quan đến các vị nhiên thần và nhân thần đã có công khai sơn phá thạch, xây dựng gìn giữ bảo vệ làng xóm và các chư vị thần phật có công khai minh, khai mang đền chùa giúp dân diệt ác trừ tà, bảo vệ cái thiện. 1.2.2.2. Căn cứ vào thời gian hình thành và phát triển của lễ hội Hiện nay, mỗi khi nhắc đến lễ hội ở nước ta mọi người đều nghĩ ngay đến các lễ hội truyền thống đã có từ xa xưa. Tuy nhiên, khi phân loại lễ hội theo thời gian hình thành và phát triển của xã hội người Việt thì người ta chia ra thành lễ hội truyền thống và lễ hội hiện đại.
  21. 21 Lễ hội truyền thống là loại lễ hội sinh hoạt văn hoá sản phẩm tinh thần của con người, là dịp con người được trở về với cội nguồn tự nhiên hay cội nguồn dân tộc đều mang ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Đến với lễ hội truyền thống, con người sẽ thấy mực thước hơn, sống thoải mái hơn, cảm thấy mọi khó khăn ngày thường tan biến hết. Đây là không gian linh thiêng mọi người có thể cầu mong những điều may mắn, mong cuộc sống ấm no hạnh phúc. Lễ hội hiện đại là loại lễ hội mang tính kinh tế thương mại cao, thông thường nội dung gắn với các nhân vật lịch sử, liên quan dến cách mạng và kháng chiến, là các cuộc cho liên hoan du lịch triển lãm. Lễ hội hiện đại ra đời vào thời gian cách mạnh tháng Tám năm 1945. Chủ yếu gắn liền với nhân vật và sự kiện lịch sử liên quan đến cách mạng: Ngày 2 tháng 9 (quốc khánh), ngày 30 tháng 4 (giải phóng miền nam). Lễ hội văn hoá thể thao, liên hoan du lịch, hội chợ là những hình thức của lễ hội hiện đại. Đây là những hoạt động mang tính kinh tế gắn với việc phát triển kinh tế của vùng miền hay ngành nghề mục đích chủ yếu là khuyếch trương quảng bá sản phẩm, hình ảnh, thương hiệu và tôn vinh những giá trị của làng nghề, những lễ hội này phản ánh nhu cầu và xu thế phát triển của thời đại mới. Qua đó lễ hội tạo ra những cơ hội mới, kí kết hợp đồng kinh tế và nhận biết được xu thế phát triển của xã hội từ đó định hướng phát triển lễ hội cho phù hợp. 1.2.3. Chức năng, vai trò và tác động của lễ hội 1.2.3.1. Chức năng của lễ hội Trong các nền văn hóa ở các không gian và thời gian khác nhau, luôn có một biểu thị chung, mang tính nhân loại: Lễ hội truyền thống. Sinh thành trong các lễ hội cổ truyền, các lễ hội truyền thống trải qua nhiều biến thiên lịch sử và vẫn tồn tại bền vững trong các xã hội hiện đại. Tính bền vững ấy của lễ hội được lí giải bằng nhiều lí lẽ khác nhau, trong đó các lí giải theo quan điểm chức năng luận dường như có sức thuyết phục hơn cả. Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã tập trung vào hướng phân tích này, tuy nhiên vẫn chưa có sự thống nhất cao về số lượng cũng như tính chất của chức năng lễ hội cổ truyền. Về số lượng, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, lễ hội cổ truyền có hai chức năng, có người chia thành ba chức năng. Về tính chất, các ý kiến cũng còn rất khác nhau. Một cách tổng quan, có thể liệt kê những ý kiến khác nhau ấy về chức năng của lễ hội truyền thống thành những chức năng sau: Củng cố những mối liên hệ giữa các nhóm, khẳng định tinh thần cộng đồng; khẳng định trình độ văn hóa của một cộng
  22. 22 đồng và giao lưu văn hóa trên quy mô xã hội; phản ánh và bảo lưu truyền thống; tuyên truyền giáo dục; hưởng thụ và giải trí; đáp ứng nhu cầu về đời sống tinh thần; nhận thức xã hội; chức năng tâm linh; nhận thức cộng cảm. Tóm lại, lễ hội là phương thức toàn diện để đối tượng hóa, hiện thực hóa hệ giá trị cộng đồng thông qua sự thực hành những nghi thức trong lễ và những khuôn mẫu ứng xử ngoài lễ như những cuộc ăn uống vui chơi. Cuộc sống luôn có những biến động thay đổi, lễ hội cũng vậy luôn biến đổi để thích ứng với cuộc sống. Tuy nhiên, lễ hội sẽ không mất đi bởi lễ hội có chức năng đặc thù thỏa mãn được nhu cầu văn hóa tổng hợp của cộng đồng và phù hợp với nhu cầu cố kết của bất cứ cộng đồng nào, trong bất kì hoàn cảnh nào. 1.2.3.2. Vai trò của lễ hội Lễ hội có nhiều ý nghĩa to lớn, lễ hội thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của người dân đối với thế giới đã khuất. Thông qua lễ hội con người tưởng nhớ tới công đức, ông bà tổ tiên thông qua việc thờ cúng. Lễ hội cũng là địa điểm để mọi người thi thố tài năng, nơi đó có nhiều trò chơi dân gian như: Đua thuyền, đánh đu, ném còn, hát giao duyên, hát đối đáp, hát bài chòi, đánh cờ người, chính những trò chơi dân gian này tạo điều kiện để người dân gần gũi nhau hơn, hiểu nhau và cùng nhau tham gia tích cực để dành chiến thắng trong các trò chơi. Lễ hội quả thật là một điểm văn hoá sống, một bảo tàng sống của người Việt từ cổ đại đến nay, có tác dụng bảo lưu phát triển bản sắc văn hoá. Đối với mỗi người, lễ hội trở nên thân thiết, là nỗi nhớ thiêng liêng, mãnh liệt, là nơi con người kì thác mọi niềm vui, nỗi buồn. Đây còn là biểu hiện giá trị của một cộng đồng: Thông qua vui chơi, con người lấy lại thăng bằng sau những khó khăn lo toan của cuộc sống thường nhật; sức cố kết của lễ hội đã làm xoa dịu những đố kị, có khi cả những hận thù diễn ra trong những quan hệ hàng ngày; lễ hội là dịp để hoàn thiện các chủng loại văn hoá; là dịp để con người vươn lên đời sống văn hoá cao hơn và bộc lộ hết tinh hoa của mình. Lễ hội còn là nơi nhắc nhở người ta sống trật tự, mực thước góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Là nơi thể hiện năng khiếu thẩm mĩ của cộng đồng, tất cả phải được chuẩn bị hết sức chu đáo. Đồng thời cũng khuyến khích tài năng lao động và vui chơi, đề cao cái cao cả, cái bi, cái hài của cuộc sống. Như vậy, chúng ta thấy rằng vai trò của lễ hội rất quan trọng, không chỉ trong đời sống hàng ngày, thể hiện ý nghĩa văn hoá mà nó còn là một trong những khuôn mẫu chuẩn mực để con người noi theo. Muốn cho lễ hội nước ta mãi giữ được bản sắc
  23. 23 chúng ta cần khắc phục một số mặt tiêu cực như thương mại hoá các hoạt động mê tín dị đoan, tệ nạn đánh bạc tập quán lạc hậu, 1.2.3.3. Tác động của lễ hội * Đối với kinh tế. Ngày nay khi xã hội phát triển, đời sống con người được nâng cao thì du lịch trở thành quan trọng nhất trong ngoại thương nền kinh tế mở cửa và là một hiện tượng kinh tế phổ biến. Đối với một số quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng trong ngoại thương. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hàng đầu. Đặc biệt du lich lễ hội làm cho nền kinh tế tăng trưởng khá cao, tạo sự thu hút cho khách đi du lịch. Lễ hội cũng góp phần làm cho cuộc sống của người dân được cải thiện. Vào mùa hội những mặt hàng dịch vụ được tăng lên cao tạo điều kiện cho người dân xoá đói giảm nghèo, không những vậy, lễ hội còn tác động đến du lịch. Lễ hội là loại kinh tế mở, nó vừa giới thiệu quảng bá được những chương trình du lịch hấp dẫn với du khách, tạo sự giao lưu đan xen giữa các vùng miền góp phần làm cho kinh tế phát triển hơn nữa làm giàu cho kho tàng văn hoá, bản sắc dân tộc, tăng doanh thu cho các công ty du lịch. Lễ hội thay đổi diện mạo của các điểm du lịch, xóa đi sự nhàm chán đơn điệu của các điểm du lịch. Hoạt động này còn là nơi trưng bày và trình diễn các sản phẩm truyền thống của địa phương người ta gọi là kinh tế xuất khẩu tại chỗ, tạo điều kiện tốt để kinh doanh, là cơ hội để đón nhiều đối tượng khách từ nhiều vùng miền cả nước, tạo tăng doanh thu cho địa phương đó và cũng làm cho đất nước đó phát triển. * Đối với chính trị - xã hội Mặt khác, lễ hội mang tính đối ngoại, là nơi giao lưu tình bạn giữa các nước nên góp phần làm cho đất nước ổn định. Ví dụ, Thánh Gióng mặc dù chỉ là sự biểu tượng huyền thoại nhưng sự nghiệp đánh giặc của Gióng là sự nghiệp của cả nước, khơi gợi lại niềm tự hào của cả dân tộc đã từng có thời kì anh hùng chống lại giặc ngoại xâm. Hơn nữa, mở hội Gióng là đề cao khát khao ước mơ mong có sức mạnh phi thường để chiến thắng mọi kẻ thù. Sức mạnh đó thực ra là sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân cũng như sức mạnh của chính trị - xã hội trong thời bình. Lễ hội còn ảnh hưởng đến xã hội vì giá trị xã hội thể hiện ở cộng đồng, qua lễ hội đã thể hiện được cuộc sống mực thước, mọi người hướng thiện và sống khoan dung hơn, cao thượng hơn và sự nhân đạo của nhân dân ta. Nếu không có lễ hội, xã hội
  24. 24 ít đi tính cộng đồng, con người ít quan tâm và sống ít kỷ hơn. Chính vì vậy, lễ hội ảnh hưởng lớn đến chính trị - xã hội. * Đối với văn hoá Lễ hội là một công cụ văn hoá đa năng để giới thiệu những cái hay cái đẹp của đất nước con người trong thời đại mới. Lễ hội ảnh hưởng lớn đến văn hoá vì khi đến lễ hội con người sẽ sống hòa đồng hơn, vui vẻ hơn, nói năng lịch sự hơn. Trong lễ hội, người ta thường khai thác giá trị truyền thống, văn hóa ẩm thực, thủ công mĩ nghệ nên các văn hoá của lễ hội góp phần làm cho lễ hội phong phú hơn, hấp dẫn hơn. Đặc biệt, khi tham gia lễ hội du khách có dịp tham gia các trò chơi dân gian, họ gặp gỡ giao lưu các nền văn hoá với nhau. Thông qua nghi thức cúng tế, dâng hương, rước kiệu, du khách có thể hiểu được nét văn hoá đặc sắc góp phần làm giàu vốn tri thức của họ. 1.3. Mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch 1.3.1. Tác động của lễ hội đến du lịch Trong điều luật 79 của luật du lịch Việt Nam đã xác định rõ, Nhà nước tổ chức hoạt động hướng dẫn du lịch xúc tiến du lịch với các nội dung tuyên truyền giao tiếp rộng rãi về đất nước, con người Việt Nam, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, Do đó, lễ hội sẽ làm cho du lịch phát triển hơn, lễ hội làm cho du lịch trở nên hấp dẫn tạo cho số lượng khách đông hơn. Du khách đến lễ hội đông kéo theo những nhu cầu khác nhau, khi đó những mặt hàng ngành du lịch tăng lên. Bản chất của du lịch Việt Nam là du lịch văn hoá, du lịch Việt Nam muốn phát triển tất yếu phải khai thác sử dụng giá trị văn hoá truyền thống, cách tân và hiện đại hoá sao cho phù hợp hiệu quả, trong đó có kho tàng lễ hội truyền thống. Đây là một thành tố đặc sắc văn hoá Việt Nam cho nên phát triển du lịch lễ hội chính là lễ hội sử dụng ưu thế của du lịch Việt Nam trong việc thu hút và phục vụ khách du lịch. Mùa lễ hội cũng là mùa du lịch tạo nên hình thức du lịch lễ hội mang bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện qua các sắc thái văn hoá các địa phương, vùng miền phong phú đặc sắc.
  25. 25 1.3.2. Tác động của du lịch đến lễ hội Lễ hội và du lịch luôn luôn có sự tác động qua lại với nhau và cùng nhau phát triển làm hoàn thiện hơn ngành du lịch. Trước hết, hoạt động du lịch có nhiều tác động tích cực đối với lễ hội. Du lịch có những đặc trưng riêng làm cải biến hay làm hấp dẫn hơn lễ hội truyền thống. Du lịch mang đến nguồn lợi kinh tế cao cho các địa phương có lễ hội, du lịch tạo việc làm cho người dân địa phương thông qua dịch vụ như: Vận chuyển khách, bán hàng hoá, đồ lưu niệm, Nhân dân vùng có lễ hội vừa quảng bá hình ảnh văn hoá về đời sống mọi mặt của địa phương mình, vừa có dịp giao lưu, học hỏi tinh hoa văn hoá đem đến từ du khách. Bên cạnh những tác động tích cực còn có những tác động tiêu cực của du lịch đối với lễ hội. Với thời gian và không gian hữu hạn của các lễ hội truyền thống vốn chỉ phù hợp với điều kiện riêng của các địa phương, thực tế, khi khách du lịch tới đông sẽ ảnh hưởng thay đổi, đôi khi đảo lộn các hoạt động bình thường của địa phương nơi có lễ hội. Hoạt động du lịch với những đặc thù riêng của nó làm biến dạng các lễ hội truyền thống. Vì lễ hội truyền thống có đặc tính mở thì vẫn còn những hạn chế nhất định về điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội cổ truyền. Nay hoạt động du lịch mang tính liên chất, liên ngành, liên vùng, xã hội hoá cao, sẽ làm mất đi sự cân bằng dẫn đến phá vỡ các khuôn mẫu truyền thống của địa phương trong quá trình diễn ra lễ hội. Hiện tượng thương mại hoá các hoạt động lễ hội như: Lừa đảo, bắt chẹt khách để thu lợi nhuận tạo hình ảnh xấu làm cho du khách có cảm giác hụt hẫng trước một không gian linh thiêng mà tính tôn nghiêm vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ, làm cho khách đi mà không muốn quay lại lần sau. Du khách đến với lễ hội kéo theo những nhu cầu mất cân đối trong quan hệ cung cầu dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái nhân văn. Bản sắc văn hoá của vùng miền có nguy cơ bị “mờ” do kết quả của sự giao thoa văn hoá thiếu lành mạnh không thể tránh khỏi đem đến từ một bộ phận du khách.
  26. 26 CHƯƠNG 2: LỄ HỘI Ở HUYỆN THỌ XUÂN - THANH HÓA 2.1. Huyện Thọ Xuân và tiềm năng du lịch 2.1.1. Khái quát huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên * Vị trí địa lý Huyện Thọ Xuân, nằm về phía tây bắc thành phố Thanh Hóa, với tọa độ địa lý 19050’ bắc và 105 025’ - 105030’ đông. Phía tây bắc giáp huyện Ngọc Lặc, nam giáp huyện Triệu Sơn, tây giáp Thường Xuân, đông - đông bắc giáp Yên Định, đông - đông nam giáp Thiệu Hóa. Với diện tích tự nhiên là 30.035 ha, hiện nay toàn huyện có 38 xã và 3 thị trấn trực thuộc đơn vị hành chính cấp huyện. Ở vào vị trí cửa ngõ nối liền đồng bằng với trung du miền núi, lại có dòng sông Chu - con sông lớn thứ hai của tỉnh đi qua từ đầu cho đến cuối huyện, có sân bay quân sự Sao Vàng, có đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 47 chạy qua, Thọ Xuân đã thực sự trở thành vùng đất mở, rất thuận lợi cho việc hội nhập, giao lưu với tất cả các vùng miền trong và ngoài tỉnh. Từ Thọ Xuân cũng có đường qua vào Nghệ An, rồi từ Thọ Xuân cũng qua đất bạn Lào, nếu theo đường sông Chu gặp sông Mã ở ngã ba Giàng, chúng ta có thể đến được hầu khắp các vùng trong và ngoài tỉnh. Chính vì có vị trí địa lý đặc biệt như vậy, đã tạo cho huyện Thọ Xuân nhiều thế mạnh và sắc thái riêng mà nhiều vùng đất không có. Vị trí đó đã tạo ra bản sắc văn hóa riêng có của huyện và đây cũng là thế mạnh để Thọ Xuân phát triển kinh tế. Trong suốt trường kì lịch sử, vùng đất của “thiên thời - địa lợi - nhân hòa” này đã trở thành điểm hẹn lý tưởng để các dòng người từ nơi khác đổ về, khai thác lập nghiệp, sinh tồn và phát triển thành một huyện Thọ Xuân giàu đẹp như hôm nay. * Địa hình Là huyện đồng bằng nối liền miền núi và trung du, địa hình của Thọ Xuân có thể chia thành hai dạng địa hình cơ bản, đó là vùng trung du đồi núi thấp và vùng đồng bằng rộng lớn tiêu biểu của xứ Thanh. Vùng trung du gồm 13 xã nằm về phía Tây Bắc và Tây Nam của huyện. Đây là vùng đồi thoải có độ cao từ 15 - 150m, thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, lâm nghiệp, Vùng đồng bằng: Gồm 27 xã, 1 thị trấn nằm hai phía tả và hữu ngạn sông Chu, có độ cao từ 6m - 17m. Vùng này được chia thành 2
  27. 27 tiểu vùng: Tiểu vùng hữu ngạn sông Chu và tiểu vùng tả ngạn sông Chu. Địa hình Thọ Xuân đa dạng có tác động lớn đến việc bố trí khu dân cư, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, bố trí vùng chuyên canh và thâm canh lớn, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, tạo tiền đề cho phát huy lợi thế, phát triển nền kinh tế phong phú, đa dạng. * Khí hậu Là vùng tiếp giáp giữa hai nền khí hậu của đồng bằng Bắc Bộ và khu IV cũ, là sự nối tiếp giữa đồng bằng với trung du miền núi, nền khí hậu của huyện Thọ Xuân vẫn là nền khí hậu của khu vực nhiệt đới gió mùa. Nhưng ngoài những yếu tố chung, khí hậu ở đây vẫn có những yếu tố khác biệt, đặc thù riêng. Nhiệt độ không khí bình quân năm 23,4 0C; nhiệt độ cao tuyệt đối 41,1 0C; thấp tuyệt đối 4,1 0C. Biên độ nhiệt ngày - đêm 6,60C. Độ ẩm không khí bình quân 86%. Lượng mưa bình quân 1.642mm, năm cao nhất 2.947mm, năm thấp nhất 1.459mm. Tổng số giờ nắng trung bình trong năm 1.680 giờ. Số ngày có sương mù trong năm tập trung vào các tháng 11 và 12, từ 6 - 8 ngày, sương mù xuất hiện làm tăng độ ẩm không khí và đất. * Thuỷ văn - Sông ngòi Thọ Xuân nằm trong vùng thuỷ văn sông Chu, có 3 con sông chảy qua: sông Chu, sông Hoàng, sông Cầu Chày. Sông Chu: Bắt nguồn từ Mường Sang, cách Sầm Nưa (Lào) 15km. Toàn bộ chiều dài sông 270km, diện tích lưu vực 7500km2; phần chảy qua huyện Thọ Xuân dài 29,4km. Lượng nguồn có độ dốc lớn, lòng sông sâu, bề ngang sông hẹp, dòng chảy uốn khúc, bắt nguồn từ những vùng núi trọc cao, làm cho nước sông không ổn định giữa mùa mưa và mùa khô cạn. Sông Cầu Chày: Bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Khê, huyện Ngọc Lặc, chảy qua 2 huyện Thọ Xuân và Yên Điên Định có chiều dài 87km, diện tích lưu vực 551 km 2, trong đó, đoạn chảy qua địa phận huyện Thọ Xuân 24km. Sông Hoàng (hay còn gọi là sông Nhà Lê): Bắt nguồn từ dãy núi phía Tây nông trường Sao Vàng, chiều dài 81km, diện tích lưu vực 105km, lưu lượng lũ lớn nhất 76,5m3/s, lưu lượng kiệt 0,1m 3/s. Lòng sông quanh co uốn khúc, sông ngắn nên lũ tập trung khá nhanh dễ gây ngập úng. Nhìn chung, hệ thống sông ngòi ở Thọ Xuân rất phong phú, có nước quanh năm. Tổng lượng nước trên các sông đều lớn, khả năng lợi dụng nước nguồn còn nhiều
  28. 28 tiềm năng như đập Bái Thượng (ở Sông Chu), đập Cầu Nha (ở sông Cầu Chày). Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện còn có nhiều hồ, ao nằm phân tán rải rác. * Rừng và tài nguyên khoáng sản Tài nguyên rừng của Thọ Xuân chủ yếu là rừng trồng mới được khôi phục, động vật hầu như không có. Kết quả kiểm tra rừng năm 2008, Thọ Xuân có 2.799,62ha rừng, trong đó đất rừng sản xuất là 2672,84ha, đất rừng phòng hộ 107,78ha, đất rừng đặc dụng 19,0ha. Trữ lượng rừng 12.391m 3 trong đó: Bạch đàn 9349m 3, xà cừ và lim 468m3 và gần 100 triệu cây tre, nứa, luồng có cấp tuổi 2 năm. Khoáng sản ở Thọ Xuân, chủ yếu là khoáng sản phi kim loại như: Đá vôi, đá xây dựng tập chung ở các xã Thọ Lâm, Xuân Phú, Xuân Thắng, Xuân Châu. Ngoài ra còn có đá, sỏi, cát xây dựng tập trung ở các xã ven sông Chu và đất sét làm gạch ngói ở nhiều xã trong huyện. Tài nguyên khoáng sản ở Thọ Xuân tuy không phong phú và đa dạng về loại hình so với những vùng đất khác, nhưng khoáng sản ở Thọ Xuân vẫn là nguồn lực quan trọng và to lớn để tận dụng khai thác trong vùng. Tóm lại, với các yếu tố cơ bản của vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã trình bày ở trên, chúng ta thấy Thọ Xuân có đủ những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp và du lịch theo hướng hiện đại hóa một cách toàn diện, bền vững. Mặc dù còn có những khó khăn bất cập, song bằng sự phấn đấu bền bỉ, kiên trì, với nghị lực phi thường cộng với sự thông minh sáng tạo và năng động, lãnh đạo và người dân huyện Thọ Xuân đang phấn đấu đưa huyện phát triển ngày một giàu đẹp hơn trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng. 2.1.1.2. Lịch sử hình thành huyện Nhìn trên bản đồ huyện Thọ Xuân ngày nay, xét về phạm vi cương vực lãnh thổ, về cơ bản vùng đất Thọ Xuân hiện tại vốn là đất của huyện Lôi Dương thuộc phủ Thọ Xuân (năm Minh Mệnh thứ 2 - 1821) và một phần huyện Thụy Nguyên. Về tên huyện Thọ Xuân, thấy xuất hiện trong cơ cấu tổ chức hành chính dưới thời Lê Sơ. Sau nhiều lần tách nhập địa chính, từ năm 1945, tên huyện Thọ Xuân được gọi như ngày nay. Là một vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, vì vậy ngay từ rất sớm Thọ Xuân đã là vùng đất thuận lợi cho sự cư trú của con người, không những thế đây còn là nơi được các nhà khảo cổ phát hiện sự ẩn chứa nhiều tầng văn hóa.
  29. 29 Qua nghiên cứu của các nhà khoa học, dấu vết của Văn hóa Sơn Vi đã được xác định trên vùng đất Thọ Xuân ngày nay. Trên các đồi gò thấp thuộc các xã phía bắc sông Chu như: Xuân Thiên, Xuân Lập, Xuân Minh, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra một số công cụ đá mang dấu ấn văn hóa Sơn Vi, đó là những công cụ bằng đá cuội được ghè đẽo thô sơ. Các loại công cụ đá nguyên thủy này được các nhà khảo cổ học gọi là các công cụ có lưỡi dọc, công cụ hình mũi nhọn, Tiếp theo văn hóa Sơn Vi, văn hóa Đông Sơn cũng hiện diện trên địa bàn huyện Thọ Xuân. Dấu tích văn hóa Đông Sơn được phát hiện ngày càng nhiều thuộc các xã: Xuân Lập, Xuân Thiên, Xuân Thành, Hạnh Phúc, Tại các xã này, ngoài các di vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn như cán dao hình người, trống đồng, thạp đồng, đồ trang sức, đồ gốm, còn phát hiện được một số tích cư trú lâu dài của chủ nhân thời kì này. Đặc biệt, ở Thọ Xuân còn là nơi phát hiện được nhiều trống đồng - sản phẩm tiêu biểu của nền văn minh Đông Sơn, trống đồng được phát hiện ở các xã Hạnh Phúc, Xuân Lập và Bàn Thạch đó là loại trống đồng có kích thước lớn, hoa văn phong phú như: Hình mặt trời, hình chữ V lồng, hoa văn hình chim, Ngoài trống đồng còn phát hiện được một số dao găm hay thạp đồng, thố đồng có kích thước lớn và hoa văn độc đáo. Với dấu vết của những nền văn hóa như Sơn Vi, Đông Sơn, Thọ Xuân được biết đến như một vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, xuyên suốt chiều dài lịch sử. Bước vào thế kỉ X - thế kỉ có những chuyển biến đáng kể trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, trong đó Thanh Hóa (tức Châu Ái bấy giờ) là một trong những vùng đất sôi động nhất. Nói đến sự cống hiến của Thanh Hóa ở giai đoạn này phải nhắc đến Lê Hoàn - một nhân vật lịch sử vĩ đại, người con anh hùng quê ở làng Trung Lập, huyện Thọ Xuân. Lê Hoàn đã có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân, dẹp tan nội loạn trong triều đình và đánh tan hai cuộc xâm lược của Chiêm Thành và quân Tống. Hiện nay, trên mảnh đất Thọ Xuân, nhân dân vẫn tổ chức lễ hội Lê Hoàn vào ngày giỗ tỗ của vua hàng năm. Sự hưng thịnh và suy tàn của một triều đại phong kiến là điều tất yếu của lịch sử. Trong dòng chảy hào hùng và đầy biến động đó, triều Tiền Lê dần suy tàn, thay vào đó là các triều Lý - Trần - Hồ. Đến thế kỉ XV, Minh Thành Tổ (1403 - 1424) phái 80 vạn quân sang xâm lược Đại Việt, sau khi nhà Hồ nhanh chóng suy tàn, một thời kì lịch sử mới bắt đầu, thời kì đánh đuổi giặc Minh giành độc lập cho dân tộc. Chính những tháng ngày này, lòng yêu nước của nhân dân ta sục sôi tạo thành một làn sóng
  30. 30 mạnh mẽ quy tụ về vùng đất Lam Sơn (Thọ Xuân), dưới ngọn cờ của người anh hùng Lê Lợi và tạo nên khởi nghĩa Lam Sơn huyền thoại. Sau mười năm kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Lê Lợi lập nên nhà Hậu Lê kéo dài 360 năm hiển hách, đây là cội nguồn các cuộc ra đi, trao đổi in đậm mãi trong truyền thuyết và sử sách Việt Nam. Sự ra đời và tồn tại của nhà Hậu Lê đã để lại cho thế hệ sau một di tích có giá trị to lớn về lịch sử - văn hóa, đó là khu di tích Lam Kinh, đặc biệt một văn hóa phi vật thể - lễ hội Lam Kinh hiện đang thu hút sự quan tâm đầu tư của lãnh đạo các cấp và nhân dân trong cả nước. Cuối thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, cũng trong tình hình chung của cả nước, nhân dân Thọ Xuân bị bóc lột nặng nề. Thực dân Pháp chiếm hết đất đai, khai thác khoáng sản, lâm sản, đầu tư vào giao thông vận tải như xây dựng cầu Phủ, cầu Vàng, cầu Phúc Như, đặc biệt cho xây dựng đập Bái Thượng trên sông Chu với mục đích tưới tiêu. Chính điều này đã thúc đẩy nhiều phong trào yêu nước bùng nổ. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời 3/2/1930 là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam và dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, với những chiến thắng như Cách mạng tháng Tám 1945, Điện Biên Phủ 7/1954 và đỉnh cao là đại thắng mùa xuân 1975. Trong không khí hào hùng chung của dân tộc, Thọ Xuân bước vào những ngày khôi phục và xây dựng kinh tế xã hội, những đổi mới quan trọng giúp Thọ Xuân đạt được nhiều thành tựu trên mọi mặt. Như vậy, qua lịch sử huyện Thọ Xuân chúng ta thấy rằng đây là vùng đất có bề dày truyền thống yêu nước, truyền thống lịch sử lâu đời. Sự lớn mạnh của hệ thống Đảng, chính quyền, đoàn thể và tinh thần cách mạng cao của quần chúng nhân dân mà sự nghiệp đổi mới của Thọ Xuân giành được nhiều thắng lợi. Đây sẽ là tiền đề để những giá trị văn hóa truyền thống của huyện tiếp tục được xây dựng, phát triển và lưu truyền cho các thế hệ sau. 2.1.1.3. Điều kiện kinh tế, xã hội Bước vào thời kỳ đổi mới, Thọ Xuân vẫn luôn xác định “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”. Nhưng với sự gia đời và hoạt động của khu công nghiệp mía đường Lam Sơn và nhà máy giấy Mục Sơn đã có tác dụng làm thay đổi cục diện kinh tế cho 15 xã và vùng bán sơn địa và miền núi của huyện. Về nông - lâm nghiệp, nông nghiệp có sự chuyển đổi nhanh chóng về cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp theo xu hướng sản xuất hàng hóa ở các vùng chuyên canh,
  31. 31 thâm canh. Năng suất lúa và cây lương thực tăng lên rõ rệt. Sản lượng mía đường nguyên liệu đạt hơn 223 nghìn tấn/năm. Về chăn nuôi: Cơ cấu đàn gia súc, gia cầm được thay đổi cơ bản theo hướng năng suất và chất lượng. Về lâm nghiệp: Huyện đã chuyển nhanh từ khai thác sang trồng mới, phủ xanh đất trống đồi trọc, khoanh nuôi chăm sóc,bảo vệ rừng, nâng cao hiệu quả kinh tế lâm nghiệp. Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Giá trị sản xuất bình quân hàng năm trên 19,2%. Các ngành nghề truyền thống như: Cót na, cót ép, gạch ngói, cơ khí tiếp tục phát triển cả quy mô, số lượng và chất lượng. Nghề trồng dâu nuôi tằm đã bắt đầu được khôi phục với tiềm năng đầy triển vọng. Các nghề như làm bột giấy, nghề mộc cao cấp, nghề xẻ xuất khẩu, phát triển nhanh chóng. Các hoạt động dịch vụ - thương mại phát triển ngày một nhiều ở khắp các địa phương trong huyện bình quân tăng 19%/ năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội hàng năm đạt 643 tỷ đồng trở lên. Hoạt động dịch vụ du lịch và dịch vụ lễ hội ngày càng tạo sức hút như ở khu di tích lịch sử Lam Kinh, khu di tích lịch sử Lê Hoàn và lăng mộ vua Lê Dụ Tông. Hoạt động tài chính, ngân hàng và tín dùng đều có sự đổi mới, tích cực huy dộng vốn trong nhân dân, đầu tư hiệu quả cho các doanh nghiệp và hộ gia đình làm kinh tế. Hiện tại, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, số hộ giàu và khá ngày một tăng. Trong những năm gần đây, thực hiện các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ V (Khoá IX tháng 2/2002) về “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 - 2010”, huyện Thọ Xuân đã tập trung vào đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ sản xuất và nhu cầu đi lại của người dân, các công trình hạ tầng ngày càng được đầu tư, nâng cấp. Hệ thống giao thông trên địa bàn huyện được hình thành và phân bố hợp lý. Trên địa bàn huyện hiện có 1.209km đường bộ, bao gồm hệ thống quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện, đường xã quản lý. Trong đó: Đường quốc lộ 4 tuyến; quốc lộ 47, quốc lộ 506, quốc lộ 15, đường Hồ Chí Minh đi qua huyện với chiều dài 36,2km, hầu hết các con đường đã được trải nhựa. Có 2 tuyến sông đi qua gồm: Sông Chu và sông Cầu Chày. Nhìn chung, hệ thống giao thông trên địa bàn huyện được phân bố hợp lý, phục vụ tốt những yêu cầu đi lại và giao lưu hàng hoá trong vùng, tuy nhiên một số tuyến đường còn hẹp, chất lượng xấu, cần quan tâm đầu tư cải tạo và nâng cấp.
  32. 32 Hệ thống y tế từ huyện đến cơ sở được cũng cố, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật được tăng cường; tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ được nâng cao. Hiện nay huyện có 1 bệnh viện, 3 phân viện và 41 trạm xá xã với tổng số 268 giường bệnh; toàn huyện có 290 cán bộ y tế, trong đó có 244 y, bác sỹ. Công tác phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường được triển khai thực hiện có hiệu quả, tim chủng mở rộng được tiến hành thường xuyên hàng năm, ngăn ngừa có hiệu quả một số loại dịch bệnh phát sinh trên địa bàn. Về văn hóa thể thao, đến hết năm 2008 toàn huyện có 41 nhà văn hoá xã, thị trấn, 1 nhà văn hoá huyện và 180 nhà văn hoá thôn, làng, khu phố (chiếm 46% tổng số thôn). Phòng đọc sách báo thông thường được sử dụng chung với nhà văn hoá thôn. Những năm gần đây ngành văn hoá đã có nhiều cố gắng trong xây dựng nếp sống văn hoá ở nông thôn, động viên các địa phương xây dựng các công trình văn hoá. Tất cả các xã, thị trấn trong huyện đã có sân vận động, điểm vui chơi thể dục thể thao. Do thực hiện tốt chương trình phổ cập giáo dục và chăm sóc sức khoẻ nhân dân nên chất lượng dân số của huyện không ngừng được nâng cao. Huyện đã đạt phổ cập giáo dục trung học cơ sở đúng độ tuổi, có 40 trường đạt chuẩn Quốc gia, trong đó 4 trường mầm non, 28 trường tiểu học, 8 trường trung học cơ sở. Trẻ em trên địa bàn được quan tâm ngày càng tốt hơn, toàn diện hơn. Toàn huyện có 101 trạm biến áp với tổng dung lượng đạt 26.220KVA, tăng 14% so năm 2000. Tổng chiều dài đường dây 358km. Đến nay trên địa bàn huyện 100% số xã, thị trấn đã được sử dụng điện lưới quốc gia, ngành điện cơ bản đã cung cấp đủ nguồn điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống dân sinh. Về hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông, toàn huyện đã có 7 bưu cục, 35 điểm đã có bưu điện văn hoá xã. Mạng cố định gồm có 20 trạm chuyển mạch (tổng đài) phục vụ cho 41 xã, thị trấn. Trong đó có 6 trạm chuyển mạch có thiết bị DSLAM phục vụ cho chuy cập Internet tốc độ cao (ADSL). Mạng di động có trạm phát sóng của Vinaphone, Mobiphone, Viettel, Hiện nay toàn huyện có 23 chợ, trong đó có 15 chợ bán kiên cố (tổng diện tích 59.369m2), 6 chợ tạm (tổng diện tích 23.649m2). Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, cung ứng hàng hoá đang dần được cải thiện, hàng hoá được trao đổi rộng khắp, đặc biệt hàng hoá cung ứng cho vùng sâu, vùng xa ngày càng được quan tâm hơn.
  33. 33 2.1.1.4. Đặc điểm văn hóa, dân cư Dân số toàn huyện năm 2008 là 239,6 nghìn người, dân tộc Kinh là chủ yếu, chiếm khoảng 80% dân số, dân tộc Mường, Thái chiếm 20%. Thọ Xuân là địa bàn có lịch sử phát triển lâu đời, nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử sôi động, phong phú và hiển hách. Có thể thấy trên bức tranh toàn cảnh từ những dấu vết hoạt động chủ yếu của con người cổ xưa trong nền văn hóa Sơn Vi đến trang mở nước đầu tiên của sự hình thành nền văn minh dân tộc: Văn minh Đông Sơn. Trong chặng đường lịch sử phát triển, bằng đấu tranh và lao động sáng tạo, nhiều thế hệ người Thọ Xuân đã kế tiếp nhau đổ mồ hôi, máu xương và nước mắt để tạo dựng nên mảnh đất này không ít những kỳ tích, dẫu phải trải qua biết bao thăng trầm lịch sử. Chính vì thế Thọ Xuân không chỉ được biết đến với vùng đất cổ, có truyền thống lịch sử, văn hóa phong phú mà còn là quê hương của nhiều danh nhân đất nước, nhiều hào kiệt qua các thời đại, đặc biệt thời Tiền Lê và Hậu Lê. Tiếp nối truyền thống văn hóa của cha ông, con người huyện Thọ Xuân có tinh thần hiếu học, đỗ đạt làm quan nhiều. Từ thời phong kiến đã có nhiều danh nhân nổi tiếng như: Lê Quan Sát, Lê Hoàn, Lê Lợi, Nguyễn Nhữ Lãm, Lê Sao, Hiện nay, có trường trung học cơ sở Lê Thánh Tông và trường trung học phổ thông Lê Lợi nổi tiếng vì tiếng vì tinh thần hiếu học và chất lượng giáo dục tốt, luôn được giải cao trong các kì thi học sinh giỏi quốc gia, cống hiến cho đất nước nhiều nhân tài. Thọ Xuân cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử được công nhận và xếp hạng quốc gia như: Khu di tích lịch sử Lam Kinh (được xếp hạng năm 1962); di tích lịch sử kiến trúc đền thờ Lê Hoàn (xã Xuân Lập); đền thờ và lăng mộ Thứ quốc công Nguyễn Nhữ Lãm (tại xã Thọ Diên và Xuân Lập); quần thể di tích cách mạng xã Xuân Hòa; Ngoài ra, Thọ Xuân còn có nhiều di tích được xếp hạng cấp tỉnh như: Đền thờ khắc Quốc công Lê Văn An (làng Diên Hào - xã Thọ Lâm); đền thờ Quốc Mẫu (làng Thịnh Mỹ - xã Thọ Diên); 2.1.2. Tiềm năng du lịch Thọ Xuân - Thanh Hóa 2.1.2.1. Tiềm năng du lịch tự nhiên * Sông Chu Sông Chu là nhánh sông lớn nhất trong hệ thống sông Mã và là sông lớn thứ hai ở Thanh Hóa. Sông có chiều dài 325km, phát nguyên từ cao nguyên Sầm Nưa (Lào) trên độ cao 1100m rồi trườn mình theo hướng tây bắc - đông nam, đến Hường Mình
  34. 34 (Nghệ An) thì chuyển hướng sang hướng tây đông để chảy qua các huyện Thường Xuân, Thọ Xuân, Thiệu Hóa rồi nhập vào sông Mã ở Ngã Ba Đầu (hay gọi là Ngã Ba Giàng). Từ xưa đến nay, sông Chu luôn luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng về rất nhiều mặt đối lập với vùng đất huyện Thọ Xuân. Chính sông Chu đã tạo ra cho Thọ Xuân một khu vực đồng bằng phù sa mới tiêu biểu và rộng lớn vào bậc nhất của xứ Thanh trong suốt hàng ngàn năm lịch sử. Trong bề dày thời gian, trong chiều dài lịch sử, dòng sông đã trở thành con đường đưa các dòng họ và các dòng người từ các phương trời trong, ngoài xứ Thanh về đây khai phá, lập nghiệp. Chính dòng sông này cũng tạo ra sự giao lưu, hội nhập với các vùng miền khác một cách thuận lợi. Vì thế mà vùng đất này cứ đời nối đời phát triển liên tục, nhanh chóng thành một vùng quê giàu, đẹp của xứ Thanh với ruộng đất bát ngát và bãi mầu xanh biếc đôi bờ, rồi các làng xóm trù phú và các công trình chinh phục cuộc sống, chinh phục thiên nhiên của con người cứ mọc lên liên tiếp để đến hôm nay trở thành niềm tự hào lớn. Đây cũng chính là tiềm năng du lịch đáng quan tâm khi Thọ Xuân phát triển du lịch. * Rừng ở khu di tích lịch sử Lam Kinh Khu di tích lịch sử Lam Kinh nằm trên phạm vi lãnh thổ xã Xuân Lam, thị trấn Lam Sơn. Hiện nay, diện tích rừng trồng cũ trước 1990 là 111,6ha và rừng trồng mới là 175,4ha, cộng lại là 287ha. Rừng ở đây chủ yếu là loại cây lá rộng thường xanh như lim, lát, trò trĩ, phù hợp với rừng di tích. Riêng trung tâm khu điện Lam Kinh ở chân núi Dầu với diện tích lên 41ha đã trở thành khu vực có rừng cây tốt xum xuê. Vào cánh rừng này, chúng ta có cảm tưởng như đi trong rừng Cúc Phương và Bến En vậy. Hiện tại, Ban quản lý khu di tích Lam Kinh vẫn tiếp tục bảo vệ và chăm sóc rừng cây một cách chặt chẽ. Số cây lim tái sinh và những cây hỗn hợp khác mọc lên ngày một nhiều và tỏa tán khá rộng. Trong những ngày hè có gió tây oi bức, đi trong rừng cây này, với cảnh rừng - hồ - núi và di tích, tiềm năng du lịch ở khu vực này sẽ càng trở nên phong phú, sinh động hơn bao giờ hết. * Các ngọn núi - Núi Chủ Sơn (còn gọi là núi Chẩu, núi Chủa hay núi Chúa) Núi thuộc quản lý của thị trấn Sao Vàng, xưa kia núi này thuộc về làng Thủy Chú, tổng Kiên Thạch, huyện Lôi Dương. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng nhận định thì chính Chủ Sơn (núi Chủ) là tiền án của khu sơn lăng và điện miếu Lam Kinh. Đây chính là ngọn núi đá vôi hiếm hoi, gồm ba ngọn lớn mọc lên sừng sững ở vùng đồi
  35. 35 thấp phía tây nam huyện Thọ Xuân. Núi có độ cao 207m (cao nhất so với tất cả các núi, đồi trong huyện) và có diện tích hơn 220ha. Vì là núi đá cho nên sắc núi thường đổi màu đậm nhạt xanh, tím khác nhau vào các buổi sáng, trưa, chiều, tối. Đây thực sự là một danh thắng độc đáo của vùng trung du đồi núi thấp huyện Thọ Xuân. Từ phía điện Lam Kinh, hoặc từ nhiều vị trí trong huyện nhìn đến, ngọn Chủ Sơn hiện ra thật lung linh bề thế. Và đây chính là một danh sơn rất đáng tự hào của cả Thọ Xuân nói riêng và Thanh Hóa nói chung. - Núi Lam Sơn (hay còn gọi là Núi Dầu) Ngọn núi này thời Lam Sơn dấy nghĩa bình Ngô đã để lại nhiều truyền thuyết về việc thu nạp các nghĩa sĩ từ các vùng miền trong nước về như chuyện Lê Lợi cho thắp đèn dầu ở trên núi để làm hiệu cho nghĩa quân tụ về, hoặc chuyện bà hàng dầu vì bán dầu cho nghĩa quân bị giặc Minh giết hại nên sau khi giành được thắng lợi, mở ra vương triều Lê, Lê Lợi đã cho làm giỗ bà hàng dầu. Vì vậy, qua nhiều thế kỷ, ở trong, ngoài vùng Lam Sơn và xứ Thanh rộng lớn vẫn còn truyền nhau câu ngạn ngữ “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi, hăm ba giỗ mụ hàng dầu” là vì thế. Cũng theo truyền thuyết vì ý nghĩa trên mà Lê Lợi đặt tên cho núi Lam Sơn là núi Dầu. Trong dân gian lại có cách giải thích khác, núi Dầu có nghĩa là núi “giàu” vì ngày Lam Sơn khởi nghĩa, dân chúng nhiều nơi mang rất nhiều của cải, lương thực đến đây ủng hộ nghĩa quân, Vì tự hào với ngọn núi thiêng này mà trong ca hò dân gian Thanh Hóa đã có câu: “Núi Lam cao ngất nước Nam Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra” Đây không chỉ là nơi có nhiều ý nghĩa lịch sử mà ngọn núi này với chiều cao gần 200m có nhiều cây xanh bao phủ, cảnh trí thiên nhiên thơ mộng. Mặt khác lại nằm trong quần thể khu di tích Lam Kinh, do đó đây là nơi lý tưởng để cho khai thác vào hoạt động du lịch, hình thành khu cắm trại, du lịch sinh thái trong vùng. 2.1.2.2. Tiềm năng du lịch nhân văn * Di tích lịch sử - văn hóa Huyện Thọ Xuân - vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa hàng nghìn năm. Chính vì vậy, nơi đây còn lưu giữ nhiều công trình lịch sử văn hóa tiêu
  36. 36 biểu cho thời kì dựng nước và giữ nước của cha ông ở vùng đất này. Hiện nay, các nhà ngiên cứu đã tổng hợp được tổng số 312 di tích như sau: Bảng 2.1.2.2. Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa của huyện Thọ Xuân Stt Loại di tích Số lượng 1 Đền 49 2 Chùa 56 3 Đình 85 4 Miếu 04 5 Điện 18 6 Phủ 06 7 Bia + mộ 11 8 Lăng tẩm 20 9 Nghè 29 10 Nhà thờ họ 09 11 Nhà thờ thiên chúa giáo 07 12 Di tích khảo cổ 01 13 Văn chỉ + văn võ 10 14 Di tích lịch sử 02 15 Di tích cách mạng 04 16 Di tích thắng cảnh 01 Tổng số 312 “Nguồn: Địa chí huyện Thọ Xuân” Các di tích lịch sử ở đây mang nhiều giá trị lịch sử văn hóa của địa phương. Đây sẽ là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn phong phú để khai thác cho việc phát triển du lịch ở địa phương. Dưới đây là một số di tích tiêu biểu: - Khu di tích lịch sử Lam Kinh Lam Kinh còn gọi là “Tây Kinh” hay “Tây Đô” - một khu điện miếu và lăng mộ của nhà Hậu Lê. Đây vừa là đất quý hương của bản triều, vừa là nơi khởi phát của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nổi tiếng trong lịch sử chống xâm lược của Việt Nam hồi thế kỉ XV. Sau hơn 5 thế kỉ ra đời và còn lại những gì cho đến tận hôm nay, khu di tích lịch sử Lam Kinh - một di tích đã được Nhà nước xếp hạng từ năm 1962, vẫn là một di sản văn hóa vô giá và đặc biệt quan trọng ở Việt Nam. - Đền thờ Lê Hoàn Đền thờ Lê Hoàn nằm ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập. Với kiến trúc còn lại hiện nay, chúng ta có đủ căn cứ chắc chắn để khẳng định đó là kiến trúc thuộc thế kỉ XVII còn khá nguyên vẹn. Đây là một trong số ít kiến trúc gỗ của thời Lê còn lại ở Thanh Hóa. Ngôi đền tọa lạc trên miếng đất hình chữ vương rộng đến 2ha. Ở xã Xuân
  37. 37 Lập, ngoài đền thờ còn có những dấu tích về thời thơ ấu của Lê Hoàn như: Nền sinh thánh, tương truyền là nơi bà Đặng Thị sinh ra Lê Hoàn ở làng Trung Lập; một khu đất thuộc khu Ngọc Trung; Lăng Quốc mẫu (mẹ đẻ) và mộ Hoàng Khảo (cha đẻ của Lê Hoàn); làng Phong Mỹ (làng Mía) còn có mộ Lê Đột (Lê Quan Sát) cha nuôi của Lê Hoàn. - Đền thờ và lăng mộ Nguyễn Nhữ Lãm Nguyễn Nhữ Lãm sinh năm Mậu Ngọ (1378) trong một gia đình nghèo làm nghề đánh cá và làm ruộng ven sông Chu tại phường Đa Mỹ (còn gọi là làng Mía, sau gọi là Thịnh Mỹ) nay thuộc xã Thọ Diên. Theo gia phả soạn dưới thời vua Tự Đức cho biết: Nguyễn Nhữ Lãm người cao mà đen, có tài biện luận. Khi núi rừng Lam Sơn dấy nghĩa, ông đã theo hầu vua trong 10 năm gian khổ chiến đấu để giải phóng đất nước. Đất nước thanh bình, ông trở thành một trong những đại thần đóng góp trên nhiều lĩnh vực như quân sự, chính trị, ngoại giao, kiến trúc, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nhà nước Đại Việt vững mạnh vào thế kỉ XV. Ông được mang họ vua, do có công lao nên được phong tặng Nhập nội Thái Bảo, thụy là Trung Tĩnh, tước Thành quốc công. Sau khi Nguyễn Nhữ Lãm mất, nhà vua sắc dụ cho dân làng Đa Mỹ cùng các làng lân cận của ba tổng Diên Hào, Bất Náo, Kiên Thạch cùng con cháu dòng họ Nguyễn Mậu an táng và xây dựng đền thờ lăng mộ ở chính quê hương ông. Khu di tích đền thờ và lăng mộ Nguyễn Nhữ Lãm đã được xếp hạng là di tích quốc gia. - Đền thờ Lê Văn An Đền thờ nằm tại thôn Diên Hào, xã Thọ Lâm. Lê Văn An, họ Nguyễn, ông có công lớn trong cuộc kháng chiến quân Minh ở thế kỉ XV, là một trong những vị khai quốc công thần được phong tới tước Đình Thượng hầu và được ban quốc tính họ Lê - họ vua. Về đền thờ Lê Văn An, theo những người già trong dòng họ truyền lại, được dựng vào năm Đinh Mậu (1597) đời vua Lê Kính Tông - niên hiệu Hoàng Định. Cũng theo truyền ngôn của người già thì trước đây ngôi đền được xây dựng ở Mục Sơn nhưng đến thời Lê Trung Hưng, Nguyễn Duy Trinh - con của tướng Lê Duy Nhất dời về làng Diên Hào ngày nay. - Chùa Tạu - Hồi Long Tự Chùa Tạu có tên chữ là Hồi Long Tự, còn gọi là chùa Xuân Phả, nay thuộc xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân. Thời Đồng Khánh (1885 - 1888) làng Xuân Phả thuộc tổng Kiên Thạch, huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Tên chùa Tạu là cách gọi của nhân dân địa phương nghĩa là nơi có hồ nước. Chùa có lịch sử xây dựng
  38. 38 hàng nghìn năm. Tương truyền dưới thời Lý đã có ngôi chùa này làm bằng tranh mà vùng đất Xuân Phả lúc đó có tên gọi là Láng Tranh. Có lý thuyết cho rằng chùa xây dựng vào năm “Đinh triều canh Thìn” (980). * Lễ hội truyền thống Hiện nay, trên địa bàn có nhiều lễ hội truyền thống đã được phục dựng và duy trì. Lễ hội được tổ chức hàng năm và diễn ra đều trong năm cả bốn mùa. Toàn huyện hiện giờ có 29 lễ hội truyền thống, mỗi lễ hội có những ý nghĩa riêng, đáp ứng được nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân trong huyện và du khách thập phương. Một số lễ hội lớn tiêu biểu như: Lễ hội Lam Kinh diễn ra ngày 21 - 22/8 (âm lịch); lễ hội Lê Hoàn diễn ra ngày 07 - 08/03 (âm lịch) hàng năm; lễ hội làng Xuân Phả tổ chức ngày 10/02 (âm lịch); lễ hội Lê Thánh Tông; lễ hội làng Trung Thôn; lễ hội chùa Tạu, * Nghề thủ công truyền thống Ở các làng, xã ngoài việc trồng trọt là chính, thì hầu như làng nào cũng có những nghề phụ đặc trưng. Riêng về nghề thủ công truyền thống, tùy tính chất đặc điểm về điều kiện cư trú, sinh hoạt, tập quán, canh tác và đặc điểm đất đai rộng, hẹp khác nhau mà có những nghề khác nhau. Nghề thủ công ở huyện Thọ Xuân hết sức phong phú và đa dạng, tuy không phát triển thành làng nghề nhưng các nghề thủ công ở đây dưới bàn tay của thợ thủ công đã tạo ra các sản phẩm đạt kĩ thuật cao không kém gì sản phẩm từ các làng nghề truyền thống khác. Một số nghề thủ công tiêu biểu ở huyện như: Nghề kéo sợi, dệt vải ở làng Phong Cốc, Trung Vực; nghề dệt lụa Phong Lai; nghề đan lát; nghề cót, bồ Bát Căng; nghề kéo mật và làm làm bánh kẹo ở Yên Lãng; nghề làm bánh trung thu ở đất Phủ Thọ (tức thị trấn Thọ Xuân); nghề làm bánh trưng bằng cách nung ở làng Trung Lập; nghề làm bánh gai Tứ Trụ; nghề làm tương; nghề làm nem thính, Nếu phát triển hoạt động du lịch thì những sản phẩm từ các làng nghề này sẽ là những mặt hàng độc đáo để phục vụ du khách. * Đặc sản Thọ Xuân nói riêng và Thanh Hóa nói chung là những nơi có nhiều đặc sản nổi tiếng được nhiều người biết đến. Trong số những đặc sản đó phải kể đến bánh gai Tứ Trụ, bánh răng bừa, bưởi Luận Văn,
  39. 39 - Bánh gai Tứ Trụ Làng nghề sản xuất bánh gai ở làng Mía, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân. Đúng ra phải gọi là bánh gai làng Mía mới đúng tên gọi xuất xứ của nó. Nhưng vì bánh làm ra được bày bán ở phố Tứ Trụ - trước năm 1945 thuộc tổng Diên Hào (nay thuộc xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân) là quê hương của nhiều vị khai quốc công thần triều Lê - vùng đất có chợ Đường nổi tiếng nên khách mua thường gọi là bánh gai Tứ Trụ, lâu rồi thành quen. Xưa kia, bánh gai Tứ Trụ là thứ bánh chủ yếu dùng để tiến vua và có mặt trên mâm cỗ trong các ngày lễ tết. Giờ đây, nghề làm bánh gai vẫn được những người con làng Mía xứ Thanh duy trì, phát triển và còn được nhiều vùng miền trong nước biết đến. - Bánh răng bừa Bánh răng bừa cũng là một đặc sản của Thọ Xuân bắt nguồn từ một số xã nằm bên lở của sông chu như các xã Phú Yên, Thọ Minh, Xuân Minh, Xuân Lai, Bánh cũng được làm giống như bánh lá. Nhưng có một số công đoạn khác nhau và hình dáng cũng khác nhau. Bánh răng bừa có dạng hình trụ, dài khoảng 15-20cm, bánh rất dẻo dẻo đến nỗi bạn có thể uốn nó thành một hình tròn. Ăn thường được chấm với nước mắm pha thêm một số gia vị khác, vị ngon thì khỏi nói rồi. - Bưởi Luận Văn Bưởi Luận Văn: Được trồng lâu đời tại thôn Luận Văn, xã Thọ Xương và sau đó được trồng ở xã Yên Bái của huyện Thọ Xuân, do quả bưởi ăn ngon nên giống được duy trì đến ngày nay và nhân dân đặt tên là bưởi Luận Văn. Nhiều vùng trong huyện Thọ Xuân và ngoài huyện thấy giống bưởi ăn ngon mang về trồng nhưng chất lượng cũng không bằng trồng ngay ở làng Luận Văn, xã Thọ Xương và xã Yên Bái (huyện Thọ Xuân). Hội đồng bình tuyển cây đầu dòng cây ăn quả của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thống nhất cao đánh giá giống bưởi Luận Văn là giống bưởi ngon, có vị đậm đà, không có vị the đắng, tép màu đỏ, dòn nhưng nhiều nước, hương thơm có thể sánh với bưởi Diễn, bưởi Năm roi, bưởi Phúc Trạch.
  40. 40 2.2. Lễ hội ở huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa 2.2.1. Hệ thống lễ hội ở huyện Thọ Xuân Hiện nay, huyện Thọ Xuân hiện có khoảng 29 lễ hội truyền thống ở các xã khác nhau trong địa bàn huyện. Mỗi lễ hội có ý nghĩa và chức năng riêng. Dưới đây là bảng thống kê lễ hội ở huyện Thọ Xuân. Bảng 2.2.1. Hệ thống lễ hội trên địa bàn huyện Thọ Xuân (2008) Thời gian Stt Tên lễ hội Địa chỉ (xã) Nhân vật thờ (âm lịch) 1 Lễ hội Lam Kinh Xuân Lam 21-22/08 Lê Lợi 2 Lễ hội Lê Hoàn Xuân Lập 07-08/03 Lê Hoàn 3 Lễ hội Xuân Phả Xuân Trường 10/02 Long hải Đại Vương 4 Lễ hội Lê Thánh Tông Xuân Lam 29/01 Lê Thánh Tông Lê Sao, Lê Bị, Lê 5 Lễ hội Làng Choán Xuân Lam 15/02 Nhi Lễ hội làng Trung 6 Bắc Lương 10/03 Già Lam Thôn 7 Lễ hội làng Mỹ Lý Hạ Bắc Lương 10/03 Già Lam Lễ hội làng Mỹ Lý 8 Bắc Lương 10/03 Già Lam Thượng 9 Lễ hội làng Tuế Thôn Bắc Lương 15/03 Già Lam Cao Sơn, Long 10 Lễ hội làng Mạnh Chư Xuân Phong 10/02 Nguyên linh thánh 11 Lễ hội làng Đại Lữ Xuân Phong 15/03 Cao Sơn 12 Lễ hội làng Dừa Xuân Phong 15/03 Cao Sơn Tam Lộ đại vương 13 Lễ hội làng Lư Khánh Xuân Khánh 06/06 và Lê Phụng Hiểu Lễ hội làng Thượng 14 Xuân Hòa 24/03 Trần Thị Ngọc Vôi Thiên vương chấn Lễ hội Kỳ phúc Yên 15 Thọ Lập 10/02 thủy Đại vương tôn Trường thần 16 Lễ hội Cao Sơn Xuân Quang 15/03 Cao Sơn Phạm Thị Thanh và ba vị khai quốc công 17 Lễ hội làng Bái Đô Xuân Bái 09/02 (Lê Sao, Lê Triện và Lê Giao) Lễ hội dòng họ 18 Thọ Diên 25/03 Nguyễn Nhữ Lãm Nguyễn Nhữ Lãm Lễ hội làng dòng họ 19 Thọ Hải 07/04 Lê Văn Linh Lê Văn Linh Lễ hội làng Hương 20 Thọ Hải Lê Khả Lãng Nhượng 21 Lễ hội dòng họ Lê Thọ Lâm Tháng 4 Lê Văn An
  41. 41 Văn An 22 Lễ hội làng Đống Nãi Tây Hồ 13/01 Cao Sơn 23 Lễ hội làng Hội Hiền Tây Hồ Tháng 3 Đinh Thời Dĩnh Lễ hội làng Nam Long Nguyên linh 24 Tây Hồ 15/01 Thượng thánh 25 Lễ hội đền Bà Am Tây Hồ Tháng 9 Định Thị Hoa 26 Lễ hội làng Phú Xá Xuân Lập 04/02 Lý Kim Ngô Lễ hội dòng họ Tống 27 Xuân Lập 20/09 Tống Văn Mẫn Văn Mẫn 28 Lễ hội làng Yên Lược Thọ Minh 23/10 Lương Công Đoán 29 Lễ hội chùa Tạu Xuân Trường 10/02 Thờ Phật “Nguồn: Phòng Văn hóa thông tin - thể thao huyện Thọ Xuân” Theo cách phân loại lễ hội đã trình bày, lễ hội ở huyện có thể phân thành ba loại: Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với tự nhiên; lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với xã hội; lễ hội tôn giáo và văn hóa. Tuy nhiên, sự phân loại lễ hội chỉ mang tính tương đối do ranh giới giữa các lễ hội không phải lúc nào cũng rạch ròi. Do đó theo tôi, lễ hội ở huyện Thọ Xuân bao gồm: Lễ hội trong mối quan hệ với xã hội và lễ hội tôn giáo, văn hóa. 2.2.1.1. Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với xã hội Trong cuộc sống, con người có nhiều mối quan hệ và quan hệ giữa con người với con người là mối quan hệ đặc biệt nhất. Văn hóa Việt Nam có nhiều truyền thống tốt đẹp, trong đó đạo lý “uống nước nhớ nguồn” là truyền thống lâu đời của nhân dân ta và mãi được gìn giữ. Cái trục xuyên suốt của đạo lý “uống nước nhớ nguồn” là lòng biết ơn và đền đáp công ơn của con người đối với con người, đối với làng bản xóm thôn, đối với giang sơn đất nước. Trong đó đời sống của con người hiện tại đều được nảy sinh nhờ được chuẩn bị, tạo điều kiện thuận lợi từ tất cả những cái tương ứng trong quá khứ. Cái hiện tại đó lại chuẩn bị mọi điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của cái tương lai, Như vậy, các thế hệ sau bao giờ cũng biết ơn và đền đáp công ơn đối với các thế hệ trước. Sự đền ơn đáp nghĩa qua các thế hệ được củng cố vững chắc thêm nhờ tác động của tín ngưỡng, tôn giáo, càng làm cho sự đền ơn đáp nghĩa ở hiện tại thêm phong phú và sâu sắc. Trong lễ hội truyền thống của người Việt luôn luôn bao hàm truyền thống “uống nước nhớ nguồn này”. Huyện Thọ Xuân cũng có nhiều lễ hội diễn lại các tích liên quan đến các vị anh hùng có công với dân với nước như: Lễ hội Lam Kinh, lễ hội Lê Hoàn, lễ hội Lê Thánh Tông, lễ hội Cao Sơn,
  42. 42 2.2.1.2. Lễ hội tôn giáo và văn hóa Lễ hội tôn giáo là hệ thống lễ kỷ niệm ngày sinh của các đấng giáo chủ sáng lập ra tôn giáo như đức Chúa Jesus với lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh; đức Phật Thích Ca với lễ Phật Đản, đức Bồ Tát, ngày tưởng nhớ mẹ với lễ Vu Lan, những lễ này được diễn ra hết sức long trọng, phần lễ được chú trọng hơn phần hội với những nghi thức truyền thống nghiêm túc, mà tiêu biểu ở Thọ Xuân là lễ hội chùa Tạu. Bên cạnh đó, những lễ hội mang ý nghĩa tín ngưỡng của nhân dân trong vùng cũng hết sức phong phú. Lễ hội này hầu hết là lễ hội làng, ở mỗi làng đều có thờ thần Thành Hoàng, Thành Hoàng có thể là nhiên thần hoặc nhân thần. Lễ hội làng mang ý nghĩa cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa vụ bội thu. Thọ Xuân có những lễ hội như: Lễ hội Xuân Phả, lễ hội Làng Choán, lễ hội làng Trung Thôn, lễ hội làng Mỹ Lý Hạ, lễ hội làng Tuế Thôn, lễ hội làng Mạnh Chư, lễ hội làng Đại Lữ, lễ hội làng Bái Đô, lễ hội làng Hương Nhượng, Lễ hội ở huyện Thọ Xuân hết sức phong phú và đa dạng. Trong nội dung đề tài này, tác giả chỉ khái quát về hệ thống lễ hội của huyện và giới thiệu một số lễ hội tiêu biểu trên địa bàn huyện có ý nghĩa lớn đối với hoạt động du lịch của địa phương nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung. 2.2.2. Một số lễ hội tiêu biểu ở huyện Thọ Xuân 2.2.2.1. Lễ hội Lam Kinh Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427) do người anh hùng dân tộc Lê Lợi lãnh đạo trong điều kiện đặc biệt, không giống như các cuộc đấu tranh ở các giai đoạn lịch sử trước, đó là đất nước mất quyền độc lập, chính quyền nằm trong tay quân xâm lược. Cả dân tộc trong sự kìm kẹp và đàn áp gắt gao của kẻ thù. Trong điều kiện vô cùng bất lợi ấy, khởi nghĩa Lam Sơn chỉ có một vũ khí mạnh nhất là truyền thống yêu nước của dân tộc. Từ tính chất của phong trào đấu tranh vũ trang đã tạo ra một vùng văn hóa có sức sống bền vững với thời gian. Khởi nghĩa Lam Sơn được lưu truyền trong sử sách với nhiều bài học có giá trị đến muôn đời, như bài học về “tướng sỹ một lòng phụ tử”, đoàn kết một lòng yêu thương như cha con, bài học về dòng suối lá của Lê Lợi và Nguyễn Trãi khắc chữ “vi quân, vi dân” tức là vì quân, vì dân, cách dùng trí nhân, hào kiệt đại nghĩa. Lễ hội Lam Kinh gắn với vương triều hậu Lê, được tổ chức ở khu điện miếu Lam Kinh, nhưng sự ra đời và phát triển của lễ hội này, đến nay vẫn còn đặt ra nhiều
  43. 43 vấn đề cần phải được nghiên cứu. Qua những tài liệu và sách vở ghi chép, lễ hội Lam Kinh có quy mô lớn, gắn với việc khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi về bái yết sơn lăng (1428) và sau đó là các vua về sau theo lệ thăm viếng, tế lễ miếu điện Lam Kinh. Lễ hội Lam Kinh xưa được tổ chức vào ngày tháng hai âm lịch hàng năm chứ không phải ngày 21 - 22 tháng tám âm lịch như hiện nay vào ngày giỗ của Trung Túc Vương Lê Lai và Lê Thái Tổ. Lễ hội xưa kéo dài hàng tháng trời kể từ khi vua và các quần thần xa giá về Lam Kinh bái yết sơn lăng rồi sau đó trở lại Đông Kinh, chứ không phải hạn định về thời gian ba ngày vào tháng tám theo truyền miệng của dân gian. Lễ hội Lam Kinh là lễ hội cung đình, theo nghi thức tế lễ cung đình thời Lê do các đại thần soạn định theo điển lễ chứ không phải lễ hội dân gian phổ biến thường gặp ở các làng quê. Sau triều Lê Sơ đến triều Lê Trung Hưng vai trò và ảnh hưởng của nhà Lê có phần suy giảm. Đất nước lâm vào cảnh binh đao, điện Lam Kinh bị đổ nát và hoang phế, tất yếu dẫn đến lễ hội Lam Kinh thưa vắng dần và rơi vào quên lãng, không còn được tổ chức theo nghi lễ cung đình. Qua nhiều năm khôi phục, tổ chức lễ hội truyền thống khá quy mô, lễ hội Lam Kinh được chuyển giao cho chính quyền sở tại và nhân dân trong vùng tổ chức. Trong các ngày chính lễ tỉnh tổ chức dâng hương tại đền thờ Lê Lai ở xã Kiên Thọ (Ngọc Lặc), đền Lê Thái Tổ ở xã Xuân Lam (Thọ Xuân) và các lăng mộ trong khu di tích. Ngoài ra, thành phố Thanh Hoá cũng tổ chức các hoạt động văn hoá tại đền nhà Lê, tượng đài Lê Lợi tưởng nhớ người anh hùng dân tộc. Nhìn chung, phần lớn hoạt động lễ hội đều do chính quyền, nhân dân các địa phương tổ chức, cơ quan chức năng chỉ đảm nhiệm công tác quản lý lễ hội. Đây cũng là ngày hội hành hương về cội nguồn nhằm “ôn cố tri tân”, tôn vinh anh hùng, hào kiệt, người có công với nước. Như đã trình bày, lễ hội ở huyện Thọ Xuân được phân thành hai loại và lễ hội Lam Kinh là lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường xã hội. Lễ hội ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần thánh, khẳng định công lao to lớn của các vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Sao, và nói lên truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Lễ hội Lam Kinh gồm có hai phần: Phần lễ và phần hội. * Phần lễ Lễ hội Lam Kinh là một tổng thể bao gồm: Lễ hội làng Tép ở xã Kiên Thọ kỉ niệm ngày hy sinh của Trung Túc Vương Lê Lai (diễn ra trong ngày 20/08 - 21/08 âm lịch); lễ hội đền vua Lê ở xã Xuân Lam diễn ra vào hai ngày 21/08 - 22/08 âm lịch); lễ
  44. 44 hội Lam Kinh, chính lễ diễn ra vào 21/08 - 22/08 (âm lịch) tại khu di tích Lam Kinh thuộc xã Xuân Lam. Phần lễ của lễ hội Lam Kinh bao gồm: Lễ mộc dục, lễ cáo yết, lễ rước sắc, tế lễ, lễ rước kiệu, đại tế, lễ yết vị. - Phần lễ của lễ hội Làng Tép Ngày 20/08, tại đền thờ Lê Lai diễn ra lễ Mộc Dục. Các cụ trong ban thờ tự và lễ nghi của làng Tép tiến hành lau chùi, đánh bóng các đồ thờ, rửa tượng và các lực lượng thanh niên của các chi đoàn làng xã đến dọn vệ sinh khu đền. Công việc lau chùi này được giao cho những người có uy tín trong làng. Trước khi tiến hành lau dọn người ta phải thắp hương, dâng lễ. Nước lau chùi, rửa tượng phải là nước ngũ vị hương, trầm hương. Sau đó, trong gian tiền điện và hậu cung tiến hành lễ cáo yết. Cụ thủ Từ và ban nghi lễ xin phép mở hội (trước đây xin âm dương bằng 3 que nứa nhưng nay xin âm dương bằng đồng tiền) và ăn uống cộng cảm. Ngày 21/08, từ nhà ông Từ ra đền diễn ra lễ Rước Sắc. Đoàn rước gồm 30 người gồm thủ từ và các cụ trong ban tế lễ có đội chấp kích, cờ lọng, dàn nhạc cùng chiêng trống đi kèm. Tại đầu làng Tép diễn ra nghi thức đón đại biểu làng Cham - làng kết chạ với làng Tép. Tại gian tiền điện diễn ra tế lễ do đội Nam tế và trước sân đền mẫu do đội Nữ quan tế, đều do ông bà trong làng Tép đảm nhiệm. Sau rước kiệu Lê Lai ra đền vua Lê. Đội hình rước kiệu gồm 300 người, trong đó 100 cô gái mặc sắc phục Mường, 100 trai tráng mặc dân binh và lãnh đạo xã/làng và dân làng xã. Cùng với một cỗ kiệu bát cống, cờ xí, chấp kích, bát âm, dàn cồng. - Phần lễ của lễ hội đền Vua Lê Ngày 20/08 (âm lịch), tại đền thờ vua Lê (xã Xuân Lam) cũng diễn ra các bước cơ bản giống ở đền Lê Lai nhưng ở đây là do các cụ trong ban thờ tự và lễ nghi xã Xuân Lam và làng Cham thực hiện. Trong gian tiền điện và hậu cung diễn ra lễ cáo yết - do các cụ thủ từ và ban nghi lễ xin phép mở hội. Ngày 21/08, từ nhà ông Từ ra đền diễn ra lễ Rước sắc. Đoàn rước có 30 người gồm thủ từ và các cụ trong ban nghi lễ có đội chấp kích, cờ lọng, dàn nhạc cùng cồng, chiêng, trống đi kèm. Tại đền vua Lê diễn ra tế lễ do đội tế Nam của xã Xuân Lam đảm nhiệm. Về lễ vật tế rất phong phú, đa dạng và mang đậm nét dân gian như: Xôi gà, xôi thủ lợn, hoa quả, bánh kẹo, nước, rượu, vàng hương, trầu cau, Về trang phục có mũ quan, áo quan, giày hài màu xanh, riêng chủ tế mặc áo màu đỏ, đội hình có khoảng 17 đến 23
  45. 45 người tham gia đội tế. Tiếp sau đó, chủ tế tiến hành đọc các bài xướng và tiến hành các nghi lễ. - Phần Đại lễ Đại lễ diễn ra tại sân rồng Lam Kinh vào ngày 22/08. Không gian lễ hội được trang trí bởi cờ tổ quốc, cờ hội (hai lá cờ đại), hàng trăm lá cờ xí. Lễ đài (tại điện vua Lê Lợi và Thái Miếu) trải thảm đỏ, hai bệ giá đá, hai lư hương lớn, năm tấm vải lớn với những đề tự chữ Lê. Sắp đặt đội cấm vệ do 200 nam nữ mặc sắc phục Mường của xã Kiên Thọ cùng vũ khí, cờ tiết trên dọc theo bờ sông Ngọc và trên khu lễ đài, Thái Miếu. Phần đại lễ diễn ra vào giờ Sửu sáng ngày 22/08 (âm lịch) tại sân Rồng Lam Kinh được thực hiện theo đúng nghi thức cổ truyền, tái hiện nhiều sự kiện trọng đại mang đậm nét văn hóa thời Lê. Mở đầu Đại lễ là màn trống hội (biểu diễn đánh trống đồng và trống da các loại). Đoàn rước kiệu Lê Lợi, kiệu bát cống, kiệu Lê Lai, quân kiệu, quân cờ xuất phát đền Lê Thái Tổ theo đúng nghi thức cổ truyền về trước sân điện Lam Kinh. Tại đây kiệu được rước lên kì đài trong âm vang màn trống hội, trống đồng: Màn trống hội cùng với cồng chiêng, xập xiềng do 49 người thanh niên trai tráng khỏe mạnh làng Cham và làng Tép đảm nhiệm để phối hợp với lễ rước kiệu. Đội hình rước hai kiệu Lê Lợi, Lê Lai gồm đến 18 người với trang phục áo đỏ, quần vàng, khăn vàng, trên kiệu có bài vị và ngai thờ. Đoàn kiệu Lê Lai đi trước, đến trước cầu dừng lại để đoàn kiệu Vua Lê lên trước. Hai đoàn kiệu chạy vòng (ngược kim đồng hồ) trong sân rồng rồi hạ kiệu trên điện vua Lê Lợi và sau đó hai đoàn rước xếp đội hình tại sân rồng. Tiếp theo diễn ra Đại tế gồm 45 người do ba đội tế Nam làng Cham, Làng Tép, Xuân Lam phối hợp. Điểm nổi bật trong phần lễ là nghi thức lễ với những bài chúc văn, tế cao mang đậm tính nhân văn qua các đời vua Lê Lợi truyền lại. Đây là những nét đẹp truyền thống về văn hóa tâm linh trong lễ hội Lam Kinh. Người đọc văn tế - diễn văn khai mạc phải là người có đức có tài, tâm sáng được mọi người kính trọng. Văn tế tấu Đại lễ đã tóm lược quá trình phát tích của triều đại nhà Hậu Lê, những giá trị to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và vai trò của người anh hùng dân tộc Lê Lợi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Văn tế cũng đã nêu lên những giá trị truyền thống giàu chất nhân văn của dân tộc Việt Nam như trọng nghĩa, dụng hào hiệp, thuận nhân tình, sẵn sàng xả thân giữ nước những cũng sẵn hòa hiếu bang giao. Ngay sau khi tế lễ, hội đồng họ Lê ở Thanh Hóa còn tổ chức vinh danh những học sinh họ Lê đạt thành tích suất sắc trong học tập và thi cử trước anh linh của tổ tiên
  46. 46 vào ngày húy kỵ của đức vua Lê Thái Tổ, đây là việc làm có ý nghĩa thiêng liêng đối với dòng tộc họ Lê. Hành động này chính là sự kế thừa truyền thống khuyến học, khuyến tài của cha ông ta. Sau Đại lễ, các đồng chí lãnh đạo của Đảng và nhà nước cùng các vị lãnh đạo chủ chốt của tỉnh Thanh Hóa về dự lễ hội sẽ dâng hương tại đền thờ vua Lê Thái Tổ. Cuối cùng, lễ yên vị được tiến hành sau ngày Đại lễ. Hai kiệu vua Lê và kiệu Lê Lai được đưa về đền vua Lê và đền Tép làm lễ yên vị. * Phần hội Phần hội được nối tiếp trong Đại lễ với các chương trình nghệ thuật tái hiện cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mười năm chống giặc Minh (Hội thề Lũng Nhai, dòng suối “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, “Lê Lai cứu chúa”, giải phóng thành Đông Quan), vua Lê Thái Tổ đăng quang, miền ở xứ Thanh như trò Xuân Phả (xã Xuân Trường - Thọ Xuân), múa rồng (Xuân Lập - Thọ Xuân), trống hội (thị trấn Lam Sơn), dân ca dân vũ Đông Anh (Đông Sơn), dân ca sông Mã, ca trù, Tại đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai ở làng Tép cũng diễn ra các trò diễn dân gian như ném còn, bắn nỏ, múa phồn phông, thi bắn nỏ, quay vòng, đi cầu thùm, bắt vịt, bịt mắt bắt dê, đập niêu và biểu diễn tích Lê Lai cứu chúa do chi đoàn thanh niên và đoàn văn công tỉnh biểu diễn. Ngoài ra, phần hội còn diễn ra ở nhiều nơi xung quanh vùng đất Xuân Lam với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao phong phú, sinh động như: Giải thi đấu võ, vật dân tộc, hội trại của các làng văn hóa thuộc huyện Thọ Xuân. Nhân dịp này, bảo tàng tổng hợp tỉnh đã tổ chức trưng bày các hình ảnh tư liệu Thanh Hóa được tổ chức các gian hàng giới thiệu tiềm năng, sản phẩm du lịch tỉnh Thanh Hóa. Buổi tối cùng ngày, tại khu đền thờ vua Lê Thái Tổ, cụm di tích Lam kinh, đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai, các đoàn văn công chuyên nghiệp, trung tâm phát hành phim và chiếu bóng, chi hội di sản văn hóa Lam kinh đã tổ chức biểu diễn nhiều chương trình văn hóa - nghệ thuật đặc sắc, thu hút đông đảo quần chúng. Đến với lễ hội Lam Kinh là đến với không gian văn hóa Lam Sơn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Đây không chỉ quảng bá bề dày truyền thống văn hóa tỉnh Thanh Hóa mà còn là ngày hội của quần chúng, là cơ hội để quần chúng tham gia, hưởng thụ, sáng tạo. Có nhiều trò diễn dân gian đặc trưng các vùng miền ở xứ Thanh được diễn ra trong lễ hội. Trong số đó phải kể đến trò Xuân Phả, một trò diễn nghệ
  47. 47 thuật dân gian tiêu biểu của vùng, trò diễn này sẽ được giới thiệu trong lễ hội làng Xuân Phả. 2.2.2.2. Lễ hội Lê Hoàn Xuân Lập từ lâu đã được mệnh danh là vùng đất của các bậc anh hùng, trong đó Lê Đại Hành là một trong những vị tướng tài ba, được người đời sau hết lời ca tụng và thêu dệt nên những huyền thoại. Tháng 7 năm 980, Lê Hoàn chính thức lên ngôi vua. Trong suốt 24 năm ông trị vì, đất nước luôn bình yên, cuộc sống của nhân dân được ấm no, hạnh phúc bởi nhiều cải cách được coi là những tiến bộ vượt bậc so với các triều đại phong kiến. Ngay từ thời điểm đó, ông đã rất coi trọng vấn đề phát triển thủy lợi, xác định đây là nền tảng để sản xuất nông nghiệp bền vững. Lê Hoàn được xem là một trong những vị vua “trọng nông” trong các triều đại phong kiến, đích thân ông đã nhiều lần xuống đồng cày cấy cùng bà con. Ông còn khuyến khích nhân dân mở rộng sản xuất tiểu - thủ công nghiệp, chủ yếu là nghề rèn, đúc và gốm. Đặc biệt, ông đã cho đúc tiền Thiên Phúc là đồng tiền riêng của Việt Nam để không phải lệ thuộc vào tiền nhà Tống (Trung Quốc). Mặc dù đánh thắng quân Tống, giữ yên bờ cõi, nhưng ông vẫn giữ được mối hòa khí với nước Tống nhờ chính sách ngoại giao mềm dẻo. Lê Hoàn còn nổi tiếng là vị vua nhân đức và biết sử dụng nhân tài. Lê Hoàn mất năm 1005, thọ 64 tuổi. Trong lịch sử Việt Nam, Lê Hoàn không chỉ là một vị hoàng đế có những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc, mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước Đại Cồ Việt. Ghi ơn những công lao to lớn của ông, nhân dân đã lập đền thờ Lê Hoàn tại làng Trung Lập, xã Xuân Lập (Thọ Xuân) quê hương ông. Đền thờ Lê Hoàn hiện được xem là ngôi đền cổ nhất xứ Thanh. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, qua sự khắc nghiệt của thời gian, đến nay, đền thờ Lê Hoàn tại làng Trung Lập đã được tu bổ, tôn tạo khá khang trang, nhưng vẫn bảo tồn nguyên dáng vẻ cổ kính. Các con giống trên nóc đền không bị mối mọt, rêu mốc do làm từ đất sét trắng nung trấu và được nhúng vào dầu sở. Trong đền có tượng Lê Hoàn, Thái hậu Dương Vân Nga, ông Hoàng Khảo (cha đẻ Lê Hoàn), bà Đặng Thị (mẹ đẻ Lê Hoàn), Nghệ thuật trang trí trong đền hết sức tinh xảo với những họa tiết hoa văn độc đáo. Hai đầu trên các mái đường có hình rồng chầu, kệ hoành cửa trước tiền đường chạm khắc nhiều con vật linh thiêng. Hậu cung có bài vị, hộp sắc, kiệu rước và các đồ binh khí cùng nhiều hiện vật quý hiếm: 2 chiếc trống đồng, một có hoa văn hình ngôi sao 16 cánh, một có hoa văn hình ngôi sao 10 cánh, chiếc đỉnh đồng chu vi 1,5m; bình hương bằng đồng đen chạm rồng bên dưới khắc hai