Báo cáo Hệ thống di tích lịch sử Thanh Hóa với việc phát triển du lịch
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Hệ thống di tích lịch sử Thanh Hóa với việc phát triển du lịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bao_cao_he_thong_di_tich_lich_su_thanh_hoa_voi_viec_phat_tri.doc
Nội dung text: Báo cáo Hệ thống di tích lịch sử Thanh Hóa với việc phát triển du lịch
- BÁO CÁO THỰC TẬP Đề tài Hệ thống di tích lịch sử Thanh Hóa với việc phát triển du lịch
- MỤC LỤC Lời Mở Đầu 1 Mới nghe em chớ vội cười 1 Nội Dung 2 1. Khái quát về Thanh Hóa 2 1.1. Khái quát Thanh Hóa 2 1.1.1. Vị trí địa lý 2 1.1.2. Lịch sử hình thành 2 1.1.3. Điều kiện tự nhiên 3 a. Địa hình, địa mạo 3 b. Khí hậu, thủy văn 4 1.1.4. Điều kiện kinh tế, xã hội 5 a. Điều kiện kinh tế 5 b. Điều kiện xã hội 9 1.1.5. Văn hóa, con người 10 a. Văn hóa văn nghệ dân gian 10 b. Con người xứ Thanh 11 2. Tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hóa 12 2.1. Tiềm năng du lịch tự nhiên 12 2.1.1. Các bãi biển 12 2.1.2. Thắng cảnh 13 2.1.3. Vườn quốc gia, khu bảo tồn 20 2.1.4. Hang động 22 2.2. Tiềm năng du lịch nhân văn 25 2.2.1. Di tích lịch sử - văn hóa 25 Lăng Lê Thái Tổ (Vĩnh Lăng) 30 Bia Vĩnh Lăng 31 2.2.2. Các lễ hội 37 2.2.3. Làng nghề truyền thống 42 2.2.4. Bảo tàng 46 2.2.4. Đặc sản địa phương 48 3. Thực trạng và định hướng phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa 52 3.1. Thực trạng khai thác tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hóa 52 3.1.1. Thực trạng khai thác tiềm năng du lịch tự nhiên 52 3.1.2. Thực trạng khai thác tiềm năng du lịch nhân văn 56 3.1.3. Nhận xét 57 3.2. Định hướng phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa 60 3.2.1. Phát triển du lịch Thanh Hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn 60 3.2.2. Phát triển các sản phẩm du lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch 60 3.2.3. Tăng cường hoạt động lữ hành, mở rộng tour tuyến du lịch 61 3.2.4. Đầu tư cơ sở hạ tầng, nhân lực để phát triển bền vững 62 3.3.1. Tuyến du lịch thành phố Thanh Hoá - Sầm Sơn 63 3.3.2. Tuyến du lịch Sầm Sơn - Thành phố Thanh Hoá - Bến En 64 3.3.3. Tuyến du lịch Sầm Sơn - Lam Kinh 64 3.3.4. Tuyến du lịch Sầm Sơn - Nga Sơn 65 3.3.5. Tuyến du lịch Sầm Sơn - Thành nhà Hồ - Suối cá ngọc Cẩm Thuỷ 65 3.3.6. Tuyến du lịch Sầm Sơn - Tĩnh Gia, đảo Mê 66 Kết Luận 68
- Lời Mở Đầu
- Mới nghe em chớ vội cười Cây rau má “sâm” của người xứ Thanh Miền quê bão lụt nắng hanh Vươn lên để sống chỉ nhành má thôi . Hãy còn văng vẳng đâu đây một lời tâm huyết, xứ Thanh một miền “địa linh, nhân kiệt”, như một người mẹ đôn hậu và thông minh đã sản sinh cho đất nước biết bao anh hùng và danh nhân văn hóa. Đây còn là quê hương của ba dòng vua (tiền Lê, Nhà Hồ, Hậu Lê), là nơi hai dòng chúa: Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn. Thanh Hóa có bề dày về lịch sử đấu tranh cách mạng từ bao đời và truyền thống văn hóa, lại có địa hình thiên nhiên sông núi phong phú đa dạng. Vì thế di tích và thắng cảnh xứ Thanh rất thơ mộng và đặc sắc. Từ lâu bạn bè gần xa vẫn thiết tha đến với cái đẹp say lòng, với những miền quê vừa duyên dáng, vừa oai hùng của Hàm Rồng kỳ tú, rung động lòng người trong thập cảnh huyền ảo mộng mơ: Từ Thức gặp tiên, của Ngàn Nưa lịch sử, Cửa Hà giàu niềm thi cảm, của suối cá Cẩm Lương có một không hai và Sầm Sơn đón gió đại dương, của vườn Quốc gia Bến En, Thanh Hóa đã vang danh tên tuổi bởi văn hóa Núi Đọ, văn hóa Đông Sơn, mảnh đất của Bà Triệu cưỡi voi đánh giặc và Lam Sơn tụ nghĩa của Lê Lợi mười năm làm rạng rỡ non sông đất nước Bên cạnh những truyền thống quý báu của con người xứ Thanh cùng với những tài nguyên mà thiên nhiên ưu đãi. Những người nông dân nơi đây đang từng giờ, từng ngày lao động sản xuất hăng say để xây dựng quê hương đất nước. Cũng chính từ những ưu đãi đó, đã tạo cho xứ Thanh những tiềm năng du lịch phong phú, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ngành du lịch. Vì vậy, trong nội dung bài này sẽ giới thiệu những tiềm năng du lịch và đồng thời đưa ra định hướng phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.
- Nội Dung 1. Khái quát về Thanh Hóa 1.1. Khái quát Thanh Hóa Thanh Hóa là tỉnh cực Bắc miền Trung Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội khoảng 150 km về phía Nam và cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560km về hướng Bắc. Đây là một tỉnh lớn của Việt Nam, đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3 về dân số trong số các đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, cũng là một trong những địa điểm sinh sống đầu tiên của người Việt. Cách đây khoảng 6000 năm con người đã sinh sống tại đây. Các di chỉ khảo cổ cho thấy nền văn hóa xuất hiện đầu tiên tại đây là văn hóa Đa Bút. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hóa Đông Sơn. Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Và sau đó là nền văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm tiêu biểu văn hoá Đông Sơn. Để hiểu được hệ thống các di tích lịch sử ở Thanh Hóa thì chúng ta sẽ tìm hiểu khái quát về Thanh Hóa. 1.1.1. Vị trí địa lý Theo thiên văn cổ xưa đo đạc năm 1831 (năm Minh Mệnh thứ 10) thì tỉnh Thanh Hóa thuộc về sao Dực, sao Chẩn, tinh thứ sao Thuần Vĩ, múc cao nhất là 19 độ 26 phân, lệch về phía tây 1 độ 40 phân. Ngày nay, theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ thì Thanh Hóa nằm ở vĩ tuyến 19°18’ Bắc đến 20°40’ Bắc, kinh tuyến 104°22’ Đông đến 106°05’ Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình; phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn nước Lào với đường biên giới 192km; phía đông Thanh Hóa mở ra phần giữa của vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102km. Diện tích tự nhiên của Thanh Hóa là 11.106km², chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. 1.1.2. Lịch sử hình thành Vùng đất xứ Thanh có lịch sử hình thành lâu đời. Đây là một trong những nơi hình thành nên các nền văn hóa cổ của nước ta và của khu vực Đông Nam Á.
- Các di chỉ khảo cổ cho thấy người Việt đã sống ở đây cách nay 6000 năm. Thời kì dựng nước nó là bộ Cửu Chân và bộ Quân Ninh của nước Văn Lang. Thời Nhà Hán chính quyền đô hộ Thanh Hóa thuộc quận Cửu Chân. Thời kì tự chủ thì Thanh Hóa được đổi tên nhiều, Nhà Đinh và Tiền Lê Thanh Hóa gọi là đạo Ái Châu, Nhà Lý thời kỳ đầu gọi là trại Ái Châu, về sau vào năm Thuận Thiên 1 thì gọi là Phủ Thanh Hóa (Thanh: trong sáng; Hóa: biến hóa). Năm 1430, Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hóa thành phủ Thiên Xương. Sau khi nhà Hồ thất thủ, nhà Minh cai trị Đại Việt, lại đổi lại làm phủ Thanh Hóa như cũ, đặt thêm hai huyện: Lôi Dương, Thụy Nguyên. Về địa giới vẫn không đổi. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, nhà hậu Lê cầm quyền. Năm Thuận Thiên thứ nhất (năm 1428), Lê Thái Tổ chia nước làm 5 đạo, Thanh Hóa thuộc Hải Tây đạo, đến năm Quang Thuận thứ 7 (năm 1466) đặt tên là Thừa Tuyên Thanh Hóa, năm Quang Thuận thứ 10 (năm 1469) lại đổi thành Thừa Tuyên Thanh Hoa, tên Thanh Hoa có từ đây. Thanh Hoa Thừa Tuyên theo “Thiên Nam dư hạ tập” lãnh 4 phủ, 16 huyện và 4 châu. Thời Nhà Lê, Thanh Hóa là thừa tuyên Thanh Hóa, gồm phần đất tỉnh Thanh Hóa ngày nay và tỉnh Ninh Bình (thời kỳ đó là phủ Trường Yên, trực thuộc) và tỉnh Hủa Phăn (Sầm Nưa) của Lào (thời kỳ đó gọi là châu Sầm). Sau khi nhà Nguyễn lên nắm quyền, Thanh Hóa thuộc quyền cai trị của nhà Nguyễn. Năm Gia Long thứ nhất (1802), gọi là trấn Thanh Hóa. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa). Đến năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), lại đổi thành tỉnh Thanh Hóa. Tên gọi Thanh Hóa không đổi từ đó cho tới ngày nay. 1.1.3. Điều kiện tự nhiên a. Địa hình, địa mạo Địa hình Thanh Hóa nghiêng từ tây bắc xuống đông nam. Ở phía tây bắc, những đồi núi cao trên 1.000m đến 1.500m thoải dần, kéo dài và mở rộng về phía đông nam. Đồi núi chiếm 3/4 diện tích của cả tỉnh, tạo tiềm năng lớn về kinh tế lâm nghiệp, dồi dào lâm sản, tài nguyên phong phú. Dựa vào địa hình có thể chia Thanh Hóa ra làm các vùng miền. Miền núi và đồi trung du chiếm phần lớn diện tích của Thanh Hóa. Riêng miền đồi trung du chiếm một diện tích hẹp và bị xé lẻ, không liên tục, không rõ nét như ở
- Bắc Bộ. Do đó nhiều nhà nghiên cứu đã không tách miền đồi trung du của Thanh Hóa thành một bộ phận địa hình riêng biệt mà coi các đồi núi thấp là một phần không tách rời của miền núi nói chung. Miền đồi núi chiếm 2/3 diện tích Thanh Hóa, nó được chia làm 3 bộ phận khác nhau bao gồm 11 huyện: Như Xuân, Như Thanh, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Ngọc Lạc, Cẩm Thủy và Thạch Thành. Vùng đồi núi phía tây có khí hậu mát, lượng mưa lớn nên có nguồn lâm sản dồi dào, lại có tiềm năng thủy điện lớn, trong đó sông Chu và các phụ lưu có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng các nhà máy thủy điện. Miền đồi núi phía Nam đồi núi thấp, đất màu mỡ thuận lợi trong việc phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây đặc sản và có Vườn quốc gia Bến En (thuộc địa bàn huyện Như Thanh và huyện Như Xuân), có rừng phát triển tốt, với nhiều gỗ quý, thú quý. Vùng đồng bằng của Thanh Hóa lớn nhất của miền Trung và thứ ba của cả nước. Đồng bằng Thanh Hóa có đầy đủ tính chất của một đồng bằng châu thổ, do phù sa các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp. Vùng ven biển: Các huyện từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Sầm Sơn, Quảng Xương đến Tĩnh Gia, chạy dọc theo bờ biển gồm vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Bạng. Bờ biển dài, tương đối bằng phẳng, có bãi tắm nổi tiếng Sầm Sơn, có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thủy sản, phân bố các khu dịch vụ, khu công nghiệp, phát triển kinh tế biển (ở Nga Sơn, Nam Sầm Sơn, Nghi Sơn). b. Khí hậu, thủy văn Thanh Hóa nằm trong vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ, hàng năm có 3 mùa gió. Gió Bắc do không khí lạnh từ vùng áp cao Siberi qua Trung Quốc thổi xuống. Gió Tây Nam từ vịnh Bengal qua Thái Lan, Lào thổi vào, rất nóng, gọi là gió Lào hay gió phơn Tây Nam. Gió Đông Nam thổi từ biển vào đem theo không khí mát mẻ. Mùa nóng ở đây bắt đầu từ cuối mùa xuân đến giữa mùa thu, mùa này nắng, mưa nhiều thường hay có lụt, bão, hạn hán, gặp những ngày có gió Lào nhiệt độ lên tới 39 - 40°C. Mùa lạnh bắt đầu từ giữa mùa thu đến hết mùa xuân năm sau. Mùa này thường hay xuất hiện gió mùa đông bắc, lại mưa ít; đầu mùa thường hanh khô.
- Lượng nước trung bình hàng năm khoảng 1730-1980mm, mưa nhiều tập trung vào thời kỳ từ tháng 5 đến tháng 10 âm lịch, còn từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau lượng mưa chỉ dưới 15%. Hàng năm Thanh Hóa có khoảng 1700 giờ nắng, tháng nắng nhất là tháng 7, tháng có ít nắng là tháng 2 và tháng 3. Thành phố Thanh Hóa chỉ cách bờ biển Sầm Sơn 10km đường chim bay, vì thế nó nằm vào tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, chính nhờ có gió biển mà những ngày có gió Lào, thời gian không khí bị hun nóng chỉ xảy ra từ 10 giờ sáng đến muộn nhất là 12 giờ đêm. Thanh Hóa cũng như các tỉnh miền Trung Việt Nam thường hay chịu các trận bão từ Thái Bình Dương. Theo chu kỳ từ 3-5 năm lại xuất hiện một lần từ cấp 9 đến cấp 10, cá biệt có năm cấp 11 đến cấp 12. 1.1.4. Điều kiện kinh tế, xã hội a. Điều kiện kinh tế Là tỉnh có nguồn tài nguyên đa dạng nhưng nhìn chung nguồn tài nguyên có trữ lượng không lớn, và thường phân bố không tập trung nên rất khó cho việc xi măng Nghi sơn, phân bón Hàm rồng, Đa số nguồn tài nguyên đang bị thất thoát phát triển công nghiệp khai khoáng. Thanh Hóa hiện tại mới chỉ có một số nhà máy đang tiến hành khai thác nguồn tài nguyên, như: nhà máy xi măng Bỉm sơn, do kiểm soát không chặt chẽ. Về công nghiệp, Cũng như Việt Nam, nền công nghiệp Thanh Hóa không phát triển. Tính đến thời điểm năm 2009, Thanh Hóa có 5 khu công nghiệp tập trung và phân tán. Một số khu công nghiệp: Khu công nghiệp Bỉm Sơn - Thị xã Bỉm Sơn; Khu công nghiệp Nghi Sơn (nằm trong Khu kinh tế Nghi Sơn) - Huyện Tĩnh Gia; Khu công nghiệp Lễ Môn - Thành phố Thanh Hóa; Khu công nghiệp Đình Hương (Tây Bắc Ga) - Thành phố Thanh Hóa; Khu công nghiệp Lam Sơn - Huyện Thọ Xuân Hiện tại Thanh Hóa đang xây dựng khu kinh tế Nghi Sơn. Khu kinh tế này được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập và ban hành quy chế hoạt động số 102/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006. Khu kinh tế này nằm ở phía Nam của tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội 200 km, có đường bộ và đường sắt quốc gia chạy qua, có cảng biển nước sâu cho tầu có tải trọng đến 30.000 DWT cập bến. Khu kinh
- tế Nghi Sơn là một trung tâm động lực của vùng Nam Thanh Bắc Nghệ đang được quy hoạch, cũng được đánh giá là trọng điểm phát triển phía Nam của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, đồng thời là cầu nối giữa vùng Bắc Bộ với Trung Bộ, với thị trường Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan. Về nông nghiệp, Thống kê đến năm 2004, toàn tỉnh có 239.843 ha đất nông nghiệp đang được sử dụng khai thác. Năm 2002, tổng sản lượng lương thực cả tỉnh đạt 1,408 triệu tấn. Năm 2003, tổng sản lượng nông nghiệp cả tỉnh đạt 1,5 triệu tấn: nguyên liệu mía đường 30.000 ha; cà phê 4.000 ha; cao su 7.400 ha; lạc 16.000 ha; dứa 1.500 ha; sắn 7.000 ha; cói 5.000 ha Lâm nghiệp, Thanh Hóa là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng 436.360 ha, trữ lượng khoảng 15,84 triệu m³ gỗ, hàng năm có thể khai thác 35.000 - 40.000m³ (thời điểm số liệu hiện tại năm 2007). Rừng Thanh Hóa chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú, đa dạng về họ, loài. Gỗ quí hiếm có lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, giổi, de, chò chỉ. Các loại thuộc họ tre nứa gồm có: luồng, nứa, vầu, giang, tre, ngoài ra còn có: mây, song, dược liệu, quế, cánh kiến đỏ các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ, bạch đàn, phi lao, quế, cao su. Nhìn chung vùng rừng giàu và trung bình chủ yếu là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, phân bố trên các dãy núi cao ở biên giới Việt - Lào. Thanh Hóa là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000ha. Rừng Thanh Hóa cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: voi, hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim Đặc biệt ở phía nam của tỉnh có vườn quốc gia Bến En, phía bắc có vườn quốc gia Cúc Phương, phía tây bắc có khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, phía tây nam có khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên là những nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien, động vật, thực vật quý, đồng thời là những điểm du lịch hấp dẫn. Ngư nghiệp, Ngư nghiệp Thanh Hóa có nhiều điều kiện phát triển. Thanh Hóa có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi cho tàu thuyền ra vào. Vì vậy Thanh Hóa có điều kiện phát triển ngư nghiệp rất tốt. Các ngành dịch vụ
- Về ngân hàng, bên cạnh Ngân hàng Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh gồm Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng Chính sách. Hiện nay, các ngân hàng đang thực hiện đổi mới và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong việc chuyển phát nhanh, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế bảo đảm an toàn và hiệu quả. Tổng nguồn vốn huy động tín dụng hàng năm đạt trên 3.000 tỷ đồng, tổng dư nợ năm 2002 đạt trên 4.000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2001. Về Bảo hiểm, Là tỉnh có dân số đông thứ ba cả nước, Thanh Hóa được xác định là thị trường tiềm năng ở tất cả các loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có tám công ty bảo hiểm được cấp phép hoạt động bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm trên địa bàn đang không ngừng mở rộng thị trường, tạo sự cạnh tranh lành mạnh nhằm mục đích nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Thương mại dịch vụ, Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, thương mại Thanh Hóa đã có bước phát triển quan trọng. Trên địa bàn đã hình thành hệ thống bán buôn, bán lẻ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện lưu thông thuận tiện hàng hóa phục vụ nhu cầu đời sống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm, năm 2000 đạt trên 30 triệu USD, năm 2001 đạt 43 triệu USD và năm 2002 đạt 58 triệu USD. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, bên cạnh thị trường Nhật Bản, Đông Nam Á, một số doanh nghiệp đã xuất khẩu sang Mỹ, Châu Âu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là: nông sản (lạc, vừng, dưa chuột, hạt kê, ớt, hạt tiêu, cà phê ), hải sản (tôm, cua, mực khô, rau câu), hàng da giày, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ (các sản phẩm mây tre, sơn mài, chiếu cói ), đá ốp lát, quặng crôm Giao thông, Thanh Hóa là một trong những tỉnh có cả 3 hệ thống giao thông cơ bản là đường sắt, đường bộ và đường thủy. Trên toàn tỉnh có 8 ga tàu hỏa là Bỉm Sơn, Đò Lèn, Nghĩa Trang, Hàm Rồng, Thanh Hóa, Yên Thái, Minh Khôi, Thị Long trong đó có một ga chính trong tuyến đường sắt Bắc Nam, 4 tuyến đường bộ huyết mạch của Việt Nam (quốc lộ 1A, quốc lộ 45, quốc lộ 47, và đường Hồ Chí Minh), trong đó quốc lộ 47 dài 61 km, quốc lộ 1A chạy qua Thanh Hóa dài 123 km;
- một cảng nước sâu. Thanh Hóa có sân bay quân sự Sao Vàng. Các dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, đường cao tốc Bắc Nam đều đi qua Thanh Hóa. Về du lịch, Thanh Hóa cũng là tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch. Năm 2007 du lịch Thanh Hóa năm đón tiếp gần 1,7 triệu lượt khách, chủ yếu là khách trong nước đến tham quan nghỉ mát tại đô thị du lịch biển Sầm Sơn. Hiện tại, tỉnh Thanh Hóa xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng. Tỉnh đã thực hiện quy hoạch hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch. Năm 2007, Thanh Hóa phối hợp với Hà Nội, Ninh Bình, Nghệ An, Huế trong chương trình “Hành trình một nghìn năm các kinh đô Việt Nam”. Phối hợp cùng Nghệ An và Ninh Bình lập định hướng quy hoạch vùng du lịch trọng điểm Bắc Trung Bộ. Các khu du lịch, di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng của tỉnh: - Các khu du lịch biển: Bãi biển Sầm Sơn, Bãi biển Hải Hòa. - Các khu bảo tồn thiên nhiên: Vườn quốc gia Bến En: Thuộc huyện Như Thanh cách thành phố Thanh Hóa 36 km về phía Tây Nam, rộng 16,634 ha với những cây lim ngàn tuổi, lát hoa, chò chỉ, ngù hương, săng lẻ và nhiều loài thú như voi, gấu, hổ, khỉ Vườn quốc gia Cúc Phương: một phần thuộc huyện Thạch Thành. - Các khu bảo tồn: Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, Khu bảo tồn thiên nhiên rừng sến Tam Quy. - Suối cá thần Cẩm Lương: Thuộc làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, cách thành phố Thanh Hóa 80 km về phía Tây, là suối cá tự nhiên, có tới hàng ngàn con cá. Mỗi con cá nặng từ 2 đến 8 kg, có cá chúa nặng tới 30 kg. - Cụm di tích Nga Sơn: Động Từ Thức, Cửa biển Thần Phù, Chiến khu Ba Đình, đền thờ Mai An Tiêm - Cụm di tích thành nhà Hồ, gồm thành Tây Đô (thuộc địa phận 2 xã: Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 50 km) và các di tích kề cận như đàn Nam Giao, động Tiên Sơn (thuộc xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc)
- - Khu di tích lịch sử Lam Kinh: Thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hóa 50 km về phía Tây. Hiện còn lưu giữ các điêu khắc đá như bia Vĩnh Lăng (Lê Lợi), bia hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao, các di tích cung điện thành nội, thành ngoại, sân Rồng - Thái miếu nhà Hậu Lê: thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, có 27 thần vị và có nhiều hiện vật có từ thế kỷ 17, 18. - Đền Bà Triệu, huyện Hậu Lộc. - Đền thờ Lê Hoàn, huyện Thọ Xuân. - Khu di tích lịch sử Phủ Trịnh và chùa Báo Ân, đã được xếp hạng cấp quốc gia. - Khu lăng miếu Triệu Tường, huyện Hà Trung, nơi phát tích triều Nguyễn. - Phủ Na (huyện Triệu Sơn), đền Sòng (Bỉm Sơn). - Khu di chỉ, khảo cổ văn hóa Đông Sơn. - Khu di tích Hàm Rồng: gồm cầu Hàm Rồng (một biểu tượng thời Chiến tranh Việt Nam), đồi Quyết Thắng. - Tòa Giám mục công giáo Thanh Hóa, chùa Thanh Hà, chùa Chanh và chùa Mật Đa (thành phố Thanh Hóa). - Thác Muốn, Điền Quang , Điền Lư, Bá Thước - Suối cá Văn Nho, Bá Thước b. Điều kiện xã hội Thanh Hóa có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, chỉ đứng sau thành phố Hà Nội. Thanh Hóa có 639 đơn vị hành chính cấp xã bao gồm 22 phường, 30 thị trấn và 587 xã. Thanh Hóa là tỉnh có dân số lớn thứ ba của Việt Nam hiện nay. Lịch sử hình thành và phát triển của xứ Thanh gắn liền với quá trình cộng cư của người Việt với người Mường và các dân tộc khác. Đồng thời có một bộ phận không nhỏ dân cư Thanh Hóa đang sinh sống tại các đô thị lớn trong nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vinh, cũng như tại một số nước trên thế giới. Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, Thanh Hóa có 3.400.239 người, đứng thứ ba Việt Nam,
- chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trong 10 năm từ 1999 đến 2009, quy mô dân số giảm 0,2%, do số dân tăng tự nhiên không thể bù đắp được số người chuyển đi làm ăn, sinh sống ở các tỉnh, thành phố khác. Thanh Hóa là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng chủ yếu có 7 dân tộc là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Người Kinh chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp, các dân tộc khác có dân số và địa bạn sống thu hẹp hơn, như người Khơ Mú chỉ sống chủ yếu ở 2 bản Đoàn Kết, xã Tén Tằn và Suối Lách, xã Mường Chanh, huyện Mường Lát. 1.1.5. Văn hóa, con người a. Văn hóa văn nghệ dân gian Tại Thanh Hóa có nhiều hình thức văn hóa truyền thống, phần nhiều vẫn còn tồn tại và đang được phát huy. Về dân ca, dân vũ, được nhiều người biết đến nhất là các làn điệu hò sông Mã, dân ca, dân vũ Đông Anh, trò diễn Xuân Phả. Ngoài ra còn có ca trù, hát xoan Các dân tộc ít người cũng có nhiều loại hình văn nghệ dân gian khá đa dạng như hát xường của người Mường, khắp của người Thái Kho tàng truyện cổ cũng khá đặc sắc như truyện cổ về sự tích về các ngọn núi, truyện dân gian của ngư dân ven biển Hậu Lộc, Sầm Sơn, Tĩnh Gia. Đặc biệt là các sự tích về nguồn gốc dân tộc Mường. Các lễ hội cũng rất đặc sắc như lễ hội Pôồn Pôông của người Mường, lễ hội cầu ngư, lễ hội đền Sòng Văn nghệ thời kì sau cách mạng tháng Tám ở Thanh Hóa có các nhà thơ Hồng Nguyên, Hữu Loan, Nguyễn Bao, Nguyễn Duy, nhà văn Triệu Bôn Trong thời kì chiến tranh chống Mỹ những năm 1960-1975, địa danh Hàm Rồng là đề tài của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật. Một số tác phẩm thơ viết về quê hương Thanh Hóa như: Về lại xứ Thanh (Phan Quế), Về với Sầm Sơn (Hà Hồng Kỳ), Quê Mẹ (Lưu Đình Long), Quê tôi đấy - Xứ Thanh! (Văn Công Hùng), Dô tả, dô tà (Mạnh Lê), Mẹ Tơm (Tố Hữu), Trụ cầu Hàm Rồng (Mã Giang Lân). Ẩm thực: Đến Thanh Hóa du khách sẽ được thưởng thức những món đặc sản độc đáo nổi tiếng cả nước của xứ Thanh như: nem chua Thanh Hóa, chè lam Phủ Quảng, dê núi đá, gà đồi (của huyện Vĩnh Lộc), bánh gai Tứ Trụ (của huyện Thọ
- Xuân), các món chế biến từ hến làng Giàng (huyện Thiệu Hóa), bánh đa cầu Bố (thành phố Thanh Hóa), mía đen Kim Tân (huyện Thạch Thành), hay các món hải sản: cua biển, ghẹ, sò huyết, tôm, mực, cá thu, cá tràu từ các huyện ven biển Sầm Sơn, Tĩnh Gia, Nga Sơn. b. Con người xứ Thanh Con người xứ Thanh với một lòng mến khách, tính tình ngay thẳng. Siêng năng trong lao động sản xuất và anh hùng trong đánh giặc ngoại xâm. Người xứ Thanh sống nặng tình nặng nghĩa, họ tin vào đời sống tinh thần, vào thế giới tâm linh, tin vào sự công bằng và chở che của trời đất. Vì thế, những đình làng cổ kính luôn được gìn giữ với tấm lòng trân trọng và thành kính. Những mái đình còn lại với thời gian không còn nhiều, nhưng vẫn giữ được những nét chạm trổ tinh xảo của nghệ nhân xưa với mái ngói âm dương phủ đầy rêu và không gian trang nghiêm pha chút u tịch của chốn thờ tự. Thanh Hóa là tỉnh có có truyền thống hiếu học ở Việt Nam, từ thời phong kiến đã có nhiều vị đỗ đạt cao trong các kì thi. Việc học hành ở Thanh Hóa cho thấy có nhiều người đỗ đạt. Suốt hai triều Lê, Nguyễn tỉnh Thanh Hóa có 1690 cử nhân (không có số liệu về tú tài nhưng thông thường mỗi khoa thi cứ 20 cử nhân thì có 70 tú tài).Có 2 trạng nguyên, 7 bảng nhãn ,6 Thám hoa. Nếu kể cả những người đỗ nhất giáp chế khoa thì có thêm 7 người nữa. Tại Thanh Hóa có nhiều người là người mở đầu hay tiêu biểu cho nền học thuật nước nhà như nhà sử học Lê Văn Hưu, Hồ Quý Ly là người có nhận thức mới về Nho giáo, Lương Đắc Bằng, Đào Duy Từ là nhà quân sự đồng thời cũng là nhà nghệ thuật, Nguyễn Hữu Hào mở đầu cho dòng truyện Nôm ở Việt Nam, Nguyễn Thu, Ngô Cao Lãng là những nhà nghiên cứu dày công, có nhiều tác phẩm đồ sộ về cả sử học, địa lý. Ngày nay, con em xứ Thanh vẫn không ngừng học tập rèn luyện và là một trong nhiều tỉnh có tỉ lệ học sinh đỗ đạt cao ở các kì thi trong nước và quốc tế. Họ vẫn đang từng ngày khẳng định vị thế của mình trong xã hội. Do những yếu tố lịch sử, Thanh Hóa là nơi quần cư của nhiều cư dân địa phương khác đến, với nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, tuy có khác nhau về tập quán nhưng tính chất cộng đồng, tinh thần đoàn kết vẫn luôn được giữ, phát huy. Dẫu chưa thành nét đặc trưng như một số vùng, miền nhưng người Đà Nẵng vẫn có những tính cách riêng và ngày càng được hun đúc cùng tiến trình phát triển đô thị.
- 2. Tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hóa Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng du lịch rất lớn. Những thắng cảnh đặc sắc như bãi biễn Sầm Sơn, động Hồ Công, núi Hàm Rồng, Thanh Hóa cũng có nhiều di tích gắn với lịch sử của dân tộc như Lam Kinh, thành nhà Hồ, Đến thăm các di tích này, du khách sẽ hiểu được một giai đoạn hào hùng, đầy biến động của dân tộc. Ngoài ra, với hàng trăm đền chùa trong khung cảnh núi non, sông ngòi tươi đẹp, Thanh Hóa có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch 2.1. Tiềm năng du lịch tự nhiên 2.1.1. Các bãi biển * Bãi biển Sầm Sơn Biển Sầm Sơn thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa 16km. Bờ biển dài, bằng phẳng, phong cảnh hùng vĩ, đã được người Pháp khai thác từ năm 1906. Bãi biển Sầm Sơn là nơi tắm biển rất tốt mà người Pháp đã biết khai thác từ năm 1906 và Sầm Sơn nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng của Ðông Dương. Từ những thập kỷ trước, đã có nhiều biệt thự nghỉ mát mọc lên ở đây. Vua Bảo Ðại, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn cũng xây biệt thự riêng ở Sầm Sơn. Sầm Sơn có nhiều cảnh đẹp: hòn Trống Mái, đền Ðộc Cước, núi Cô Tiên Bờ biển Sầm Sơn dài 10km bằng phẳng và nhiều hải sản quý như tôm he, cá thu, mực Sầm Sơn có cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vùng biển bao la với những thắng tích và huyền thoại mang đậm chất nhân văn và lòng mến khách. Bãi biển Sầm Sơn là một trong những bãi biển rộng và đẹp ở phía bắc. * Biển Hải Hòa, Tĩnh Gia Nằm trên địa phận huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, biển Hải Hoà gần như chưa có tên trên “bản đồ” du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, với nét đẹp “hoang sơ” và bờ biển rất sạch, biển Hải Hoà sẽ sớm trở thành điểm đến của khách du lịch trong thời gian tới. Biển có nét đẹp “hoang sơ” với bờ cát mịn trải dài xen lẫn những rặng phi lao. Người dân Hải Hoà rất mến khách, họ chủ yếu sinh sống bằng nghề đánh bắt hải sản và ai đến đây cũng được họ đón tiếp bằng như nụ cười thân thiện. Đến với Hải Hoà, chúng ta có thể thưởng thức những món ăn đặc trưng của biển và món “đặc sản” mà gần như chỉ ở Hải Hoà mới có: gỏi sứa chấm nước sốt,
- nộm sứa và bánh đa. Mới đây, bãi biển Hải Hoà đã được tỉnh Thanh Hóa đưa vào quy hoạch thiết kế trong khu sinh thái du lịch. Trong tương lai không xa, bãi biển Hải Hoà sẽ trở thành điểm đến quen thuộc của những du khách muốn có được một kỳ nghỉ mát lý thú, vui vẻ. 2.1.2. Thắng cảnh * Hòn Trống Mái Hòn Trống Mái nằm trên núi Trường Lệ thuộc địa phận thị xã Sầm Sơn. Hòn Trống Mái chính là sự xếp đặt từ ba khối đá thiên nhiên đã có từ bao đời nay. Hòn lớn bằng phẳng ở dưới trông như cái bệ lớn. Một hòn có đầu nhọn nằm chồng lên trên trông giống hình dáng con gà trống; hòn đối diện nhỏ hơn, có dáng tựa con gà mái. Các khối đá có hình dáng đẹp thơ mộng được gắn với truyền thuyết về một mối tình chung thủy, đã cùng nhau chết trong một trân đại hồng thuỷ Theo truyền thuyết dân gian, thì thuở xa xưa, bờ biển Sầm Sơn ăn vào tận nơi này. Một lần có chàng trai đánh cá l àng Trường Lệ, thấy một cô gái bị sóng biển xô vào bờ. Chàng trai đã cứu sống nàng, rồi hai người yêu nhau, nguyện kết làm vợ chồng. Nhưng cô gái vốn là công chúa người nhà trời, vì mắc tội nên bị Ngọc Hoàng đày xuống hạ giới. Hết hạn đày, Ngọc Hoàng sai chư thần xuống đưa công chúa về trời, nhưng nàng quyết ở lại với chồng dưới trần thế. Ngọc Hoàng tức giận, sai Thiên Lôi xuống hỏi tội. Khi Thiên Lôi tới thì thấy vợ chồng công chúa và tất cả đồ đạc, gia súc trong gia đình đều đã biến thành đá. Ngày nay, hòn đá lớn chính là người chồng, hòn đá nhỏ hơn chính là người vợ. Xung quanh hòn trống mái còn thấy nhiều hòn đá nhỏ khác, hình thù giống đàn lợn, con mèo, chiếc mâm, bếp núc Đó chính là gia đình của đôi vợ chồng có một tình yêu hết sức chung thuỷ đã biến thành đá, để được vĩnh viễn bên nhau. * Núi Vọng Phu Núi Vọng Phu thuộc Xã Đông Hưng, Huyện Đông Sơn, cách Thành phố Thanh Hóa ba kilometre về phía Tây Nam. Đây là một ngọn núi đá vôi được thiên nhiên tạo nên hình một người phụ nữ đang quay mặt về phía biển Đông. Hình tượng
- này gắn với truyền thuyết người đàn bà chung thủy chờ chồng đến hóa đá. Vì vậy mà ngọn núi có tên là Vọng Phu. Truyền thuyết kể về câu chuyện của hai vợ chồng trẻ, vốn là hai anh em ruột nhưng không biết nên lấy nhầm nhau. Khi phát hiện ra vợ chính là em gái mình, người chồng quyết định giữ lấy bí mật đó cho riêng mình, quyết tâm dứt bước ra đi. Anh đi biển mà mãi mãi không trở về. Người vợ ở nhà ngày ngày ngóng trông mòn mỏi. Mỗi chiều nàng lại bồng con trèo lên hòn núi ở cửa biển, con mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời mù mịt. Tuy nước mắt bấy giờ đã khô kiệt, nhưng người phụ nữ vẫn không quên trèo núi trông chồng. Về sau cả hai mẹ con đều hóa ra đá, trở thành hình bóng quen thuộc vĩnh viễn. Người ta vẫn gọi là đá Trông Chồng hay đá Vọng Phụ. * Sông Mã - Núi Rồng - Núi Ngọc Một vùng đất có nhiều di tích lịch sử, văn hóa, có nhiều hang động, nhiều danh thắng. Một vùng đất sôi động những chiến công qua các thời kỳ lịch sử. “Thanh Hóa thắng địa là nơi Rồng vờn hạt ngọc, hạc bơi ven thành” Câu ca dao trên là nói tới dãy núi Rồng. Dãy núi này kéo dài từ Dương Xá (làng Giàng, thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa) chạy ngoằn nghèo, nhấp nhô uốn lượn ven bờ sông Mã, khi chạy hết tầm nó ngóc cao tạo thành một cái đầu giống như đầu Rồng, có mắt, có mũi với cái mồm đang chực đớp lấy viên ngọc. Trông hình dáng ấy người ta gọi là Hàm Rồng - tên chữ là Long Hạm. Đối diện với Hàm Rồng bên kia sông có một hòn núi tròn trĩnh xinh xắn gọi là núi Ngọc, tên chữ là Hỏa Châu. Nếu không có dòng sông Mã chảy giữa núi Rồng và núi Ngọc thì vùng núi Rồng có đủ 100 ngọn, “Chín mươi chín ngọn bên đông. Còn một ngọn Nít qua sông chưa về” theo người xưa nói thì nơi nào có đủ con số một trăm như 100 ngọn núi, 100 con sông, 100 cồn đất, 100 cái giếng (tự nhiên), thì nơi đó sẽ trở thành đế đô trường cửu. Chung quanh núi Rồng còn có rất nhiều ngọn núi mang những tên các con vật thuộc loại tứ linh: long, ly, quy, phượng. Từ phía làng Dương Xá (làng Giàng) đi lên ta gặp ngọn Ngũ Hoa Phong hay còn gọi là núi Ngũ Nhạc, từ xa giống như năm bông sen chụm lại giữa một cánh đồng rộng mênh mông. Ở đó có nhiều núi đá vôi và hang động, đẹp nhất là động
- Tiên. Vào trong động rộng và sáng, nhũ đá rủ xuống tạo thành nhiều hình thù kỳ thú trong hang có đường lên trời, có đường xuống âm phủ. Ngọn Phù Thi Sơn trông giống một thiếu nữ đang nằm ngủ, đầu gối vào thân rồng. Gần đấy có hai quả núi trông một to, một nhỏ, người ta gọi là núi Mẹ, núi Con. Bên cạnh núi Mẹ và núi Con có một quả núi giống như tiều phu đang nằm nghỉ quay đầu về phía đông để ngắm trời mây non nước. Sát với hòn Tiều Phu là núi con Mèo. Đi về phía đầu rồng ta lại gặp ngọn núi con Lợn, núi con Cóc rồi đến núi Cánh Tiên - Tay Tiên. Trên dãy núi này có 3 ngọn cao vút được gọi là Ba Hiệu. Trên sườn núi Ba Hiệu trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước người ta đắp hai chữ “Quyết Thắng” cực to, ta đi xa hàng cây số vẫn nhìn rõ chữ, nên còn có tên là núi “Quyết Thắng”. Về phía tay phải núi Cánh Tiên có một quả núi trên đỉnh có nhiều phiến đá to dựng đứng và chụm vào nhau như một bó đũa, người ta đặt tên là núi “So Đũa”. Tiến về làng Đông Sơn là núi Mã Yên giống như yên ngựa. Dưới chân núi Mã Yên có một cái giếng thiên tạo, nhân dân địa phương gọi là giếng Tiên. Nước giếng Tiên trong vắt và ngọt lịm. Dù trời làm hạn hán lâu ngày hay lụt bão kéo dài thì mực nước trong giếng cũng không hề thay đổi. Đã đi thăm núi Rồng mà không đến động Long Quang thì đó là một thiếu sót lớn. Động Long Quang chính là mắt rồng. Bên trong động còn khắc nhiều bài thơ của các bậc vương giả, các bậc tao nhân mặc khách mà điển hình là Lê Thánh tông, Lê Hiển tông. Chếch xuống phía dưới quãng 7-8 mét có các phiến đá chồng lên nhau và tách ra làm hai. Phần trên phình ra và nhô cao trông giống như cái mũi rồng, trán rồng. Phần dưới lại như rủ xuống sông trông giống hệt miệng rồng đang há to gọi là Hàm Rồng. Dưới chân núi Mã Yên có ngôi đền Thánh Cả. Trong đền thờ vị thần có duệ hiệu “Tham Xung Tá Quốc” hay “Chàng út Đại vương”. Họ tên của vị thần này là Lê Hữu. Ngôi đền kiến trúc bằng đá. Tuy nhỏ nhưng rất linh thiêng Gần như đối diện với đền Đức Thánh Cả qua một cánh đồng rộng về sườn núi đất phía tây có ngôi đền thờ vị nữ thần có duệ hiệu “Thiên Tiên Thánh Mẫu” hay “Thượng ngàn thiên tiên công chúa”. Vị thần này có 50 làng thờ. Hàng năm cứ đến ngày mùng 3 tháng 3 các làng lại rước kiệu thần và cỗ bàn về đây để tổ chức lễ hội. Ngày lễ hội này dân trong vùng gọi là ngày giỗ Mẹ. “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”.
- Đối diện với Hàm Rồng là Núi Ngọc. Dưới chân núi Ngọc còn một ngôi chùa nằm về phía đông đó là chùa “Tiên Đồng”. Ta lấy trung tâm là núi Hàm Rồng với đường kính từ 5 đến 7km ta sẽ gặp các đền miếu qua các thời. Ta đi từ bắc qua tây thì sẽ gặp đền thờ Dương Đình Nghệ (làng Giàng), chùa Vốn (tên chữ là chùa Đại Hùng) ở làng Vồm, Thiệu Khánh. Chùa Tăng Phúc Tự ở Hạc Oa. Đền thờ Trang Quốc Công ở làng Đại Khối. Chùa Đại bi - làng Mật. Đền thờ Tướng Công ở làng Vệ Yên. Thái miếu nhà Lê làng Bố Vệ. Chùa Thanh Hà - Đức Thọ Vạn. Chùa Chanh ở làng Hương Bào Nội. Chùa Mật Đa, đền thờ Chu Nguyên Lương ở Nam Ngạn Di chỉ làng Đông Sơn được phát hiện vào năm 1929 nay thuộc phường Hàm Rồng (thành phố Thanh Hóa). Làng Đông Sơn nằm lọt vào một thung lũng của dãy núi Hàm Rồng sát bên bờ sông Mã về phía hữu ngạn. Đây là một địa danh mang tên cho cả một nền văn hóa - nền văn hóa Đông Sơn. Hàm Rồng trên có núi non kỳ thú, dưới có dòng sông Mã chảy qua đêm ngày quả là một vùng “non nước hữu tình”. Theo An Nam chí lược đã ngợi ca cảnh sắc nơi đây: “Núi cao và đẹp trông ra sông Định Minh (sông Mã), lên cao thấy nước trời một sắc thật là giai cảnh ”. * Cụm thắng cảnh Tiến Nông Thắng cảnh Tiến Nông thuộc xã Tiến Nông, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Cụm thắng cảnh này gồm các di tích chùa Hoà Long, Phúc Vạn và bãi cò Tiến Nông. Thắng cảnh này được tạo nên bởi sự kết hợp giữa nét cổ kính của những ngôi chùa và cảnh trí tự nhiên của các cây cổ thụ tạo thành nơi cư ngụ cho chim, cò được người dân gọi là “Bãi cò Tiến Nông”. * Khu di tích thắng cảnh Phố Cát Khu di tích thắng cảnh Phố Cát thuộc xã Thành Vân, huyện Thạch Thành. Nơi đây có đền thờ Liễu Hạnh, có thác nước đẹp và cũng là một trong những trung tâm lễ hội dân gian hàng năm. * Danh thắng Biện Sơn Cụm di tích danh thắng Biện Sơn thuộc vùng của biển Lạch Bạng, trên vùng đất hai xã Hải Thượng, Hải Bình, huyện Tĩnh Gia. Đây là vùng cửa sông, có núi, bãi tắm, các di tích lịch sử tạo nên cụm di tích và danh thắng đẹp.
- * Suối cá Cẩm Lương Chỉ cách thành phố Thanh Hóa 80 km về phía Tây, suối cá thần thôn Lương Ngọc xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ là một danh lam thắng cảnh diệu kỳ, một tuyệt phẩm của thiên nhiên có một không hai. Gọi là Suối cá thần (hay Mó Ngọc) vì suối ở đây toàn là cá, mật độ cá dày đặc, mà kỳ lạ thay nước lại chẳng tanh. Người dân ở đây vẫn thường sinh hoạt nấu nướng bằng thứ nước của dòng suối này từ khi lập bản cho đến giờ. Gọi là cá thần vì cá ở đây ngày ngày sống chung bầu bạn với người, chẳng thấy chết khi nào, và chẳng ai ăn thịt bao giờ, cá cứ thế sinh sôi đàn đàn lũ lũ, đủ các thế hệ. Cá cũng ăn thức ăn như người như: lạc rang, mỳ tôm, ngô và chẳng bơi đâu xa, chỉ tung tăng bơi lội từ cửa hang đến lòng suối chừng một độ hơn trăm mét rồi quay trở vào. Nước suối ngọc trong vắt, nhìn rõ lớp đá cuội như có ai lát dưới lòng suối. Mỗi khi có ánh nắng chiếu xuống, những viên đá trở nên long lanh như ngọc. Suối cá thần vì thế mà có sức hút kỳ lạ, nam thanh nữ tú, tài tử giai nhân đến đây như trẩy hội. Dòng suối ôm ấp trong mình nó nhiều điều diệu kỳ, tuyệt phẩm của tạo hóa, chảy ra từ một hang lớn trong núi Bồ Um thuộc dãy Trường Sinh. Cửa hang chỉ rộng bằng cái mẹt, nhưng lòng hang thì rộng và sâu. Đàn cá sinh sống ở đây rất đông đúc, đến mức rẽ cá mới múc được nước, ước khoảng có tới hàng vạn con. Con nhỏ chừng 500g đến 700g, con trung bình chừng 5kg, ban ngày từ dòng suối ngầm trong hang núi, theo dòng nước bơi ra đùa giỡn ở nơi suối Ngọc, ban đêm lại bơi vào dòng suối ngầm nằm sâu trong lòng núi. Lạ kỳ thay, chẳng ai be đập đắp bờ vậy mà loài cá này vẫn chỉ bơi tung tăng trong giới hạn chừng 150m rồi quay vào mà chẳng bao giờ vượt qua giới hạn để vùng vẫy tự do nơi các ruộng nuớc, ao đầm gần kề. Loài cá này được người dân Mường gọi là “cá phốôc” có hình thù mình tựa cá trắm, căng tròn ở phần giữa thân, vẩy như vẩy cá chép, lưng hơi sẫm, môi có màu phớt hồng, vây và đuôi có chấm đỏ. Thi thoảng vào những dịp đặc biệt người ta còn thấy xuất hiện những con “cá chúa”, mang có vành đỏ như đeo khuyên tai, mắt có hai mí xanh đỏ, đuôi lại có chấm đỏ viền xanh. Người già Mường cho hay dấu ở nơi đuôi cá gọi là “mặt nguyệt”. Chẳng ai cân đo được bao giờ nhưng ước
- chừng phải nặng tới 30 đến 40kg . Các cụ già cam đoan rằng con cá Chúa phải sống lâu năm bằng tuổi họ. Giờ đây chuyện cá chúa xuất hiện chỉ còn như huyền thoại qua lời kể của các cụ cao niên sống bên cạnh con suối. Các cụ cho hay rằng cá chúa chỉ xuất hiện đóng vai trò như vị chỉ huy đàn cá múa mừng Chàng Rắn xuất hiện. Bây giờ du khách đến suối cá Thần chỉ còn thấy dấu tích của Đền thờ Chàng Rắn được xây dựng vào thế kỷ 14 và nghe con trẻ ngâm lại lời ca của già làng truyền cho, ngợi ca quá trình lập làng giữ bản chống chọi với thiên tai giặc giã, mưu cầu bình an, thóc lúa khoai sắn đầy bồ, rượu đầy chum đầy choé: Chàng Rắn, chàng Rồng Ba đầu chín mắt Vảy sắt răng đồng Mắt to bằng núi Cồng Mồng to bằng lá Cọ Trừ quái lập công. Ơn ông to bằng bể Công ông to bằng trời. Du khách thích ngao du mê cảnh sông nước hữu tình có thể đi bằng ca nô, tàu thuyền qua Ngốc - Vọ dừng lại ngắm cảnh trời mây non nước Cửa Hà cho thêm niềm cảm hứng một lần lên với vùng cao. Để thoả chí nam nhi rong ruổi thoả thích ngắm núi ngắm đồi, thăm thú đây đó, du khách có thể đi xe máy theo đường 217 qua thành nhà Hồ thuộc huyện Vĩnh Lộc dừng chân thưởng thức công trình kỳ vĩ của cha ông, rồi đến phố huyện vùng cao thuộc thị trấn Cẩm Thuỷ, thăm thú chợ phiên, ghé cửa hàng thổ cẩm mua quà cho mình cho bạn. Đến suối cá thần Cẩm Lương, bạn có thể được thưởng thức món ngô nướng, ngô luộc đặc sản của vùng này. Hạt ngô to, mẩy, căng đều mà mềm, thơm ngọt. Ở đây còn có quả bầu ngô trồng núi đá, quả to chừng bằng cái bát to rất thơm, bùi và ngon đến lạ lùng. Vào mùa mưa, bạn nên tìm mua loài ốc đá, thứ ốc ăn lá cây rừng thịt thơm ngon bổ mát. Một điều hút hồn du khách đến suối cá thần Cẩm Lương là cảm giác được khám phá hang động. Cách cửa hang suối cá chưa đến một trăm mét, theo cô cậu dẫn đường mến khách ngược lên mái núi đá là gặp động. Động Cây Đăng (hay còn gọi hang Dơi- vì có vô số dơi trú ngụ ở đây). Động cao chừng 70m
- so với khu vực suối, đường lên xuống khá dễ dàng nhờ các bậc đá tự nhiên. Vượt qua khóm lá, rừng cây đến nơi cửa động mở ra như đón như mời với muôn hình vạn trạng nhủ đá nguyên sơ. Càng vào sâu trong động, cảnh sắc càng đẹp lung linh, huyền bí như muốn níu giữ, mời gọi du khách. Chỉ cần mất vài đồng bạc lẻ cho đám trẻ địa phương, bạn sẽ có cả đèn pin chạy bằng ắc qui đủ sáng để ngắm cảnh và nghe lời giới thiệu mê lơi của các em. Chẳng hiểu ai soạn sẵn cho mà chúng thuyết minh cứ như hướng dẫn viên chuyên nghiệp cừ khôi. Này đây đụn vàng đụn bạc, đây vú mẹ với dòng sữa ngọt ngào không ngừng chảy. Này đây rồng chầu hổ phục, đây sông Ngân Ngưu Lang Chức Nữ bước chân tài tử gót tiên. Này đây mai đào cúc trúc, long ly quy phượng, rồng quấn mây bay, đây bánh chưng bánh dày quả na quả táo, muôn sắc màu lung linh huyền ảo khó lòng dứt được. Này đây hình Chư Bát Giới mồm rộng quá tai đang nhai nhồm nhoàm, kia là hình Ngưu Ma Vương mặt mày quái dị. Còn đây Vị Cao Tăng hiền từ phúc hậu tay lần tràng hạt miệng Nam mô thương từ cây cỏ, con người đến sinh linh bé bỏng. Hộ giá đi bên có Tôn Ngộ Không, một tay cắp thiết bổng một tay che mắt dõi về phía trước đi mây về gió trừ khử yêu ma. Còn đây nữa cảnh hội Vườn Đào với bao tiên nữ đang múa hát mừng sự có mặt của các thánh các quan, các bụt đang tọa thiền. Bên cạnh cảnh thanh bình những nhũ đá còn phô bày ra cảnh đại chiến giữa quân của Cun Tối Cun Lang với quân của Lang Cun Khương trong sử thi “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường anh dũng quật cường. Chỉ một lần say ngắm thỏa thuê cảnh sắc nơi đây, bao phiền muộn ưu tư lo lắng sẽ tan biến, chẳng ai nghĩ đến bon chen danh lợi tiền bạc làm gì. Bạn thấy mình thư thái thoải mái đến lạ lùng như được uống thuốc tiên thuốc thánh. Tầng tầng rừng núi nguyên sinh với đủ loài cây cỏ để say ngắm tìm hiểu, muôn ngàn tiếng chim oanh líu lo để tơ tưởng mơ màng. Tiếng chào mời của các hướng dẫn viên nhí chưa thạo tiếng Kinh cũng làm bạn thích thú như thích thú vẻ nguyên sơ thuở hồng hoang ở nơi đây. Suối cá thần Cẩm Lương là một sản phẩm độc đáo của thiên nhiên, với cảnh quan tuyệt đẹp, có rừng có sông suối bản làng hiền lành và những người dân giản dị, hòa quyện làm nên bức tranh sơn thuỷ hữu tình.
- 2.1.3. Vườn quốc gia, khu bảo tồn * Vườn quốc gia Bến En Với hệ sinh thái tự nhiên phong phú, mang tính đa dạng sinh học cao, Vườn quốc gia Bến En, cách thành phố Thanh Hóa 45 km về phía tây nam, không những là địa điểm nghiên cứu của những nhà khoa học và các sinh viên, mà còn là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Được bao bọc giữa vùng đồi núi của hai huyện Như Xuân và Như Thanh, Bến En có tổng diện tích tự nhiên hơn 16.600 ha và 30.000 ha rừng vùng đệm. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng nhiệt độ trung bình ở đây chỉ ở mức 23 độ C. Vườn có hệ thực vật gồm 462 loài, 125 bộ. Bên cạnh các loài quý hiếm như lim xanh, chò chỉ, sau sau, trai lý, vù hương còn có các loại cây đặc sản có giá trị cao làm nguyên liệu cho sản xuất đồ mỹ nghệ, lấy dầu và trên 300 loài cây dược liệu. Hệ động vật ở đây cũng rất phong phú. Đặc biệt nơi đây còn có nhiều loài động vật quý hiếm như voi, sóc đá, gấu ngựa, hổ, báo, vượn Trong lòng vườn còn có hồ sông Mực rộng trên dưới 3.000 ha, là thủy vực của 4 con suối lớn. Trên hồ có 21 hòn đảo lớn nhỏ và nhiều bán đảo với rừng xen lẫn các mỏm đá tạo thành nhiều hình thù kỳ vĩ. Bên cạnh đó là dãy núi đá Hải Vân ẩn chứa nhiều hang động đẹp nổi tiếng như cụm hang Ngọc dài hơn 80 m, rộng hơn 20 m, trong hang có nhiều thạch nhũ mang hình thù khác nhau. Bến En không chỉ có cảnh đẹp mà xen giữa vùng thiên nhiên kỳ thú này là hàng chục bản, làng của trên 14.000 đồng bào thuộc các dân tộc Mường, Kinh, Thái, Tày sinh sống. Đến đây du khách sẽ được hòa mình vào các hoạt động văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc. * Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên được thành lập tháng 12 năm 1999 với tổng diện tích khu vực là 27.668ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 19.800ha, phân khu phục hồi sinh thái 7.848ha, phân khu dịch vụ, hành chính 20ha. Ngoài ra, vùng đệm của khu bảo tồn thiên nhiên có diện tích 33.590ha. Tuy nhiên một tài liệu khác cho rằng tổng diện tích của khu bảo tồn là 23.610 ha thuộc địa phận các xã Bát Mọt, Yên Nhân, Xuân Khao, Xuân Liên, Xuân Mỹ, Vạn Xuân, huyện Thường Xuân.
- Sau khi các xã Xuân Mỹ, Xuân Liên và Xuân Khao (vùng lòng hồ chứa nước Cửa Đặt) được giải thể năm 2008, Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên thuộc địa bàn các xã Bát Mọt, Yên Nhân, Vạn Xuân, huyện Thường Xuân. Khu bảo tồn nằm gần biên giới Việt - Lào, được giới hạn bởi sông Cao ở phía bắc, ranh giới với tỉnh Nghệ An ở phía tây và phía nam. Và nằm trên một dãy núi chạy từ Sầm Nưa ở Lào đến các huyện Thường Xuân và Như Xuân của tỉnh Thanh Hoá với nhiều đỉnh cao như núi Tà Leo (1.400m), núi Bù Chó (1.563m), Bù Hòn Hàn (1.208m) và một ngọn núi không có tên cao đến 1.605 là đỉnh cao nhất. Nền địa chất của vùng rất đa dạng bao gồm cả đá trầm tích, đá phiến, spilite, aldezite, và nhiều loại đá biến chất khác như đá lửa và đá kính. * Khu bảo tồn Pù Hu Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu được thành lập năm 1999 với diện tích 23.249,45 ha. Giai đoạn 1 từ năm 1999 đến 2005 cơ bản đã hoàn tất việc rà soát động, thực vật trong các khu rừng thuộc khu bảo tồn. Giai đoạn 2 từ năm 2005 đến 2010 chủ yếu là xây dựng và quy hoạch du lịch, trong đó chú trọng vào hai tuyến chính: tuyến sông Mã và tuyến du lịch trên đỉnh Pù Hu. Pù Hu đóng vai trò quan trọng đối với việc phòng hộ đầu nguồn sông Mã. Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu là sự kết hợp giữa hệ sinh thái núi đá vôi với hệ sinh thái núi đất và hệ sinh thái rừng độc đáo, với nhiều loài động, thực vật quý hiếm. Pù Hu có 2 kiểu rừng chính. Rừng thường xanh đất thấp phân bố ở độ cao dưới 700 m, với các loài thực vật ưu thế thuộc họ Đậu, họ Xoan và họ Bồ hòn. Ở những nơi có độ cao thấp hơn, kiểu rừng này đã bị tàn phá để lấy đất làm nương rẫy. Kiểu rừng thường xanh núi thấp phân bố ở độ cao trên 700 m, với các loài thực vật ưu thế của họ Dẻ, họ Dâu tằm và họ Re(Anon. 1998a). Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu đã được ghi nhận 508 loài thực vật và 266 loài động vật, thông tin được thu thập từ các đợt khảo sát thực địa ở tỉnh Thanh Hoá năm 1997. Rừng Pù Hu có nhiều loại cây gỗ quý như kim giao, lát hoa, sến mật, trầm hương, trường mật, song mật , qua điều tra sơ bộ có 28 loài quý hiếm được xếp trong sách đỏ Việt Nam.
- Trong số các loài động vật ở Pù Hu, có tới hơn 30 loài đã được ghi vào sách đỏ Việt Nam và thế giới. Một số loài thú có giá trị bảo tồn như gấu ngựa, gấu chó, bò tót, voọc quần đùi trắng Trong năm 2010 đã phát hiện ở Pù Hu có khoảng 7 - 8 con bò tót và được tách riêng làm hai đàn riêng biệt và có dấu hiệu cho thấy đã có sự xuất hiện của con non. Khu hệ chim ở Pù Hu chưa được khảo sát đầy đủ, mặc dầu vậy cũng đã ghi nhận được 1 loài chim có vùng phân bố hẹp là Trèo cây mỏ vàng (Sitta solangiae) (Theo Lê Trọng Trải, 2000). 2.1.4. Hang động * Động Từ Thức Động thuộc xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trước đây được gọi là động Bích Đào, sau được đổi tên là động Từ Thức vì gắn với câu chuyện tình “Từ Thức lấy vợ tiên” được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Động Từ Thức rất đẹp và gồm có hai động. Động ngoài hẹp, sáng sủa, có miếu Sơn Thần và có bài thơ của Lê Quí Đôn khắc vào đá. Động trong rộng hơn và có nhiều cảnh trí tuyệt đẹp. Dưới ánh đuốc, thạch nhũ muôn hình vạn trạng lóng lánh sắc màu được nhân hoá thành một thế giới gần gũi với đời sống như “cây bạc”, “cây vàng”, “ao bèo”, “rồng ấp trứng”. Đi sâu vào nữa lại có cả giá chiêng, giá trống, phường bát âm, bàn cờ tiên, trong động có “đường lên trời” và lối “xuống lòng đất”. Động Từ Thức không những là một danh thắng mà còn là một di tích lịch sử trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. * Hang Con Moong Nằm trong quần thể hệ sinh thái đá vôi của Vườn quốc gia Cúc Phương, Hang Con Moong ở xã Thành Yên huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá là di chỉ khảo cổ học được xác định có thời gian tồn tại của con người dài nhất và liên tục nhất ở Việt Nam và Đông Nam Á. Những mẫu vật mà các nhà khoa học tìm thấy cho chúng ta thấy những hình ảnh rõ nàng nhất về văn hoá vật thể và văn hoá tinh thần của cư dân cổ. Đây sẽ là một địa chỉ hấp dẫn cho những người ưa thích và khám phá miền đất mới.
- Hang Con Moong là di chỉ khảo cổ học được phát hiện vào năm 1975. Những kết quả khai quật, nghiên cứu mới nhất, cho thấy hang Con Moong là nơi quần cư liên tục của người Việt cổ, phát triển qua ba tầng văn hóa là Sơn Vi, Hòa Bình và Bắc Sơn. Trong tầng văn hoá Sơn Vi các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 3 mộ táng, cùng nhiều công cụ và thực phẩm của người Việt cổ. PGS - Tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử cho biết: “Niên đại sớm nhất được xác định là cách chúng ta 13 nghìn năm và muộn nhất là 7000 năm thể hiện việc định cư truyền thống của loài người cùng bước phát triển từ săn bắt, hái lượm sang trồng trọt sơ khai, chuyển từ hang động ra cư trú ngoài trời, tạo bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhân loại”. Với ý nghĩa và giá trị khoa học to lớn, mới đây, Bộ Văn hoá Thể Thao và Du lịch đã trao Bằng xếp hạng di tích quốc gia cho hang Con Moong. Ngay trong ngày đầu mở cửa Hang Con Moong đã đón hàng nghìn du khách. Sức hấp dẫn của hang Con Moong bởi đây là nơi duy nhất ở Đông Nam Á có thời gian tồn tại của con người dài nhất và liên tục nhất. Đồng thời nơi đây cũng cho chúng ta thấy những hình ảnh rõ ràng nhất về văn hoá vật thể và vă hoá tinh thần của cư dân cổ. Điều quan trọng là chính những cư dân cổ này là cội nguồn của người Việt ta. Tỉnh Thanh Hóa đã và đang cùng các nhà khoa học triển khai xây dựng hồ sơ khoa học di tích hang Con Moong để trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đồng thời xây dựng các phương án để hang Con Moong trở thành địa chỉ hấp dẫn nằm trong quần thể các điểm du lịch của Vườn quốc gia Cúc Phương. * Động Tiên Sơn Nhân dân xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa vừa phát hiện một hang động được coi là đẹp nhất từ trước tới nay ở Thanh Hóa, được tạm gọi là động Tiên Sơn. Động ăn sâu vào trong lòng núi đá vôi hàng kilômet, bên trong có cảnh quan đẹp, còn nguyên vẻ hoang sơ với nhiều nhũ đá vôi có hình thù khác nhau như: hình Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi thiền trên tòa sen, đàn đá, hình các loài vật, thác bạc, giếng ngọc Theo nhiều khách tham quan, cảnh đẹp trong động Tiên Sơn có thể sánh ngang với động Thiên Cung ở Hạ Long và Phong Nha ở Quảng Bình.
- Ngoài động Tiên Sơn vừa được phát hiện, ở xã Vĩnh An còn có bốn hang động khác. Quần thể hang động này nằm trong vùng di tích ở huyện Vĩnh Lộc gồm thành nhà Hồ, phủ chúa Trịnh, đền Hàn là tiềm năng lớn để tỉnh Thanh Hóa phát triển du lịch. Hiện nay nhân dân và khách thập phương đang nô nức kéo về tham quan động Tiên Sơn. Tuy nhiên các cấp, các ngành có liên quan vẫn chưa có biện pháp quản lý để khai thác hiệu quả điểm du lịch này. * Động Đăng Động Đăng được phát hiện tình cờ nhờ một người dân xã Cẩm Lương lên núi Trường Sinh tìm vàng, đồ cổ. Động nằm cách suối cá thần Cẩm Lương khoảng 200m. Trước đây, động bị cây cối che phủ rậm rạp, người dân không dám vào vì sợ thú dữ và mắc các bệnh lạ. Sau khi được phát hiện, chính quyền xã Cẩm Lương đã khảo sát, kéo điện vào hang, kết hợp để du khách đến tham quan suối cá, khám phá, chiêm ngưỡng vẽ đẹp kỳ bí của hang động. Men theo sườn núi Trường Sinh, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều loại cây không thể nhớ hết tên. Có cây họ tre, dáng to cao, lóng dài, có thể làm được hong đồ xôi. Có cây họ sồi, cao chọc trời, thân to đến vài người ôm không xuể. Cửa động Đăng rộng chừng 10-15 m, bước chân vào trong không khí thật trong lành, mát mẻ. Nền động rộng, thoáng mát, sạch sẽ, đường dễ đi, xung quang vô vàn nhũ đá nhiều màu, hình thù khác nhau, ôm vách động, và vòm động rũ xuống trông giống chốn “bồng lai tiên cảnh”. Có thạch nhũ giống hình con voi của Trần Hưng Đạo, năm xưa đi đánh giặc bị sa xuống đầm lầy, có chỗ thạch nhũ lại giống con hà mã đang chồm lên sóng biển chập chờn, nơi lại giống một bà tiên lưng còng có chiếc gậy thần giúp bà chèo lên tới hang động này Người dân địa phương truyền nhau câu truyện về bà tiên rằng, mặc dù tuổi bà đã cao, sức đã yếu nhưng bà vẫn muốn lên hang động này vì trong động có nhiều cảnh đẹp và hùng vĩ. Trên vòm động, thạch nhũ tạo nên hình hài của một nàng tiên cá đang bơi về thủy cung, thân hình nhỏ bé. Bên cạnh nàng tiên cá có quả đào trường sinh bất lão. Người dân địa phương quan niệm rằng, nếu ai nhảy lên, đầu chạm được đến quả đào này sẽ trường thọ. Đến giữa hang động có trụ đá giống cột chống trời, tượng trưng cho bà nữ oa đang đội đá vá bầu trời. Có thạch nhũ giống nàng Tô thị đang chờ chồng hóa đá, hoặc giống đôi trai gái đang đứng ôm nhau thắm thiết trong tư
- thế lõa thể, suối tóc của cô gái uốn lượn ôm lấy eo và dài đến gót. Có những khối thạch nhũ “đăng châu” lấp lánh như kim cương, khi soi đèn pin vào sẽ có sự phản quang sáng cả một vòm hang và trông giống như có hằng trăm cây đèn thần bật sáng. Ngoài ra, trong động còn có một đoạn suối dài 15m, chảy quanh vách động, nước suối trong vắt, mát rượi. Khách tham quan khi mệt mỏi có thể dùng rửa mặt và trong chốc lát mệt mỏi có thể tiêu tan 2.2. Tiềm năng du lịch nhân văn 2.2.1. Di tích lịch sử - văn hóa * Di tích Đông Sơn Di tích Đông Sơn nằm bên bờ sông Mã, thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hóa. Nơi đây, những cuộc khai quật năm 1924 đã phát hiện dấu vết của văn hoá đầu tiên ở Việt Nam. Địa danh này (Đông Sơn) đã được đặt tên cho một nền văn hoá tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam thời kỳ dựng nước. Văn hoá Đông Sơn là nền văn hoá khảo cổ nổi tiếng của Việt Nam và thế giới. * Đền Bà Triệu Đền Bà Triệu tọa lạc tại xã Phú Điền huyện Hậu Lộc. Hiện nay lăng tháp vẫn còn, tuy đơn sơ, giản dị nhưng rất trang nghiêm. Trên đường thiên lý ra Bắc vào Nam, khách bộ hành thường dừng chân, lên núi Gai, tưởng niệm vị nữ tướng anh hùng, viếng lăng và thưởng ngoạn cảnh đẹp. Tên thật của bà là Triệu Thị Trinh, nhưng nhân dân quen gọi là Bà Triệu với lòng kính cẩn, nhớ công ơn bà đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Ngô thế kỷ thứ 3. Vào khoảng năm 220, Cửu Chân thuộc quyền cai trị của Ðông Ngô (một trong 3 nước thời Tam Quốc), trong xứ không kể Nghệ An, Hà Tĩnh nữa, có chừng 3 vạn hộ. Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh, người Quân Yên (huyện Yên Ðịnh), 20 tuổi, lập căn cứ ở Núi Nưa (Triệu Sơn), hội quân với 3 anh em họ Lý ở Bồ Ðiền (tức Phú Ðiền, huyện Hậu Lộc) cùng tiến đánh quận sở Tư Phố đại thắng. Hầu hết các huyện lỵ, thành ấp ở Cửu Chân, Cửu Ðức, Nhật Nam (2 quận nay là vùng Nghệ Tĩnh - Quảng Bình) bị nghĩa quân đánh hạ, các thái thú, huyện lệnh và huyện trưởng bị giết nền đô hộ của nhà Hán ở Giao Châu hơn 330 năm bị lật đổ.
- Vào Sáng 28-3-2005, lễ khởi công tu bổ, phục hồi quần thể di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia đền Bà Triệu (anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh) đã diễn ra tại xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá. * Đền Độc Cước Sau những giây phút bồng bềnh với sóng, du khách có thể thả hồn mình dạo bước trên núi Trường Lệ, nơi có đền thờ Độc Cước. Toàn cảnh đền như một bức tranh sống động, tồn tại từ bao đời, được coi là 'Tối linh từ'. Chuyện kể rằng xưa lắm có một bọn quỷ mũi đỏ đến vùng biển này làm hại dân lành. Hồi bấy giờ có một chú bé mồ côi cha vừa chui ra khỏi bụng mẹ đã lớn nhanh như thổi. “Hạt lúa lớn bằng người ôm, trái cà con nặng một người gánh” mà vẫn không đủ nuôi chú bé. Khi chú bé trở thành người khổng lồ cũng là lúc bọn quỷ dữ hại dân lành hoành hành ghê gớm. Chàng khổng lồ đánh thắng chúng ngoài biển, chúng tràn vào đất liền cướp phá, nếu chàng ở trong đất liền thì chúng lại phá ở ngoài khơi còn nếu chàng ở ngoài khơi thì chúng lại phá ở đất liền. Chàng nghĩ cách lấy búa tự xẻ đôi thân mình, một nửa thân và một chân đứng ngự trên đỉnh Sầm Sơn, một nửa thân và một chân theo bè mảng ra khơi hộ vệ dân chài. Hôm ấy bọn quỷ lẫn vào bờ nhìn lên thấy chàng khổng lồ vẫn sừng sững đứng đó, ra biển lại cũng thấy chàng hiên ngang trên mảng y như trên đỉnh núi. Từ đó chúng xiêu bạt đi nơi khác kiếm ăn, không dám bén mảng đến vùng biển này nữa. Cái tên thần Độc Cước, tức thần '”Một chân” bắt nguồn từ tích này. Theo đạo sắc phong còn giữ được, vào năm Cảnh Hưng thứ 14 (1783), thì thần Độc Cước tên là Chu Văn Khoan, có tài đức, giúp các đời vua dẹp yên giặc giã, giữ gìn bờ cõi. Ngài hiệu là Đại pháp sư, có 7 phép màu để trị ma quỷ gian ác và được vua phong mấy chữ: “Độc Cước sơn triều”. Đền đã qua nhiều lần trùng tu. Năm trùng tu xưa nhất được giữ ở thượng lương gian tiền đường ghi niên hiệu Chính Hoà (1675 - 1705). Còn tiền đường mới hiện tại có niên đại Tân Mão (1891), với dòng chữ: “Hoàng triều. Thành Thái tam tam niên tuế thứ Tân Mão hạ huyệt trọng xuân lưu nhật quang thời tân tạo tiền đường thụ đại cát”. Tạm dịch: “Đời vua Thành Thái thứ 3, năm Tân Mão, mùa xuân tháng Ba ngày tốt, làm ngôi tiền đường”. Qua hai cuộc kháng chiến, từ 1945 đến 1974, bom đạn liên miên, nhưng đền Độc Cước hầu như vẫn nguyên vẹn, với những
- chiếc cột bằng gỗ lim, gỗ chò và một số đồ thờ, bia, tượng, có phong cách nghệ thuật Việt Nam thế kỷ XVIII, XIX * Đền vua Lê Đại Hành Hệ thống đền thờ tại Thanh Hoá được tọa lạc tại xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân gồm: Khu nền sinh thánh (nơi Lê Hoàn ra đời); Lăng Hoàng Khảo (nơi thờ cha Lê Hoàn); Lăng Mẫu Hậu (nơi Lê Hoàn cải táng mẹ sau khi lên làm vua) Lê Hoàn vẫn giữ được nét kiến trúc cổ với những con giống bằng đất nung gắn trên hàng mái và hoa văn chạm khắc tinh vi trang trí trong đền. Trong đền còn lưu giữ 9 sắc phong thời Hậu Lê, 5 sắc phong triều Nguyễn cùng một số sắc chỉ của Chúa Trịnh về việc thờ phụng và chiếc đĩa đá quý màu trắng, có đường kính rộng 36 cm, có đề thơ và dấu triện của nhà Tống thời bấy giờ. Đặc biệt tại đền Lê Hoàn còn có 2 tấm bia: một bia dựng năm 1602 do Phùng Khắc Khoan soạn, một bia dựng năm 1626 do Nguyễn Thực soạn ca ngợi quê hương, công lao sự nghiệp của Lê Hoàn và việc lập đền thờ ở quê hương. Hàng năm từ ngày mồng 7 đến mồng 9 tháng 3 âm lịch Lễ Hội Lê Hoàn được tổ chức. Khai hội ngày mồng 7 là lễ rước cha mẹ của Lê Hoàn, ngày mồng 8 là chính kỵ làm đại tế. Người đến dự lễ hội được gặp lại những trại lính thời Lê Hoàn qua sự tái hiện của hội thi dựng “trại binh thời Lê Hoàn” . Buổi tối xem hội hoa đăng, thả đèn trời, giao lưu, thi hát dân ca dân vũ ngay tại khuôn viên khu di tích và trên sông Đào. * Đền thờ Lê Ngọc Đền hiện tại Đồng Pho, xã Ðông Hoà huyện Ðông Sơn. Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng với 4 người con lật đổ quan cai trị của nhà Tuỳ (Trung Quốc) đóng ở Ðông Phố (tức Ðồng Pho, xã Ðông Hoà huyện Ðông Sơn ngày nay), gọi là kinh đô Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống lại nhà Ðường cho đến đầu thế kỷ VI. Ðến thế kỷ VII, Cửu Chân gồm 6 huyện có 16.100 hộ (quận Giao Chỉ có 30.000 hộ) khoảng 84.000 nhân khẩu, thuộc xứ An Nam (tên An Nam thay cho Giao Châu bắt đầu từ đây). Quận sở là Ðông Phố (tức là Ðồng Pho). Năm 759, quân Mã Lai cướp phá Châu ái (tên gọi Cửu Chân từ năm 523) bị quan cai trị là Trương Bá Nghi tiêu diệt. Năm 797, quân Mã Lai lại cướp phá Châu ái nữa, xây cả thành, lập nước,
- nhưng bị quan cai trị là Trương Châu đánh đuổi, san phẳng thành trì thu hồi mọi của cải. Thế kỷ IX, Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo đã rất phát đạt ở Châu ái. Ðạo Nho có anh em Khương Công Phụ, đỗ Tiến sỹ làm quan đến Tể tướng triều đình nhà Ðường, đạo Lão biến các hang động đẹp nhất ở khắp Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn làm nơi tu tiên và đạo Phật có các Ðại hoà thượng như Trí Hành và Ðại Thăng Ðăng sang tận Trung Quốc để hành đạo. * Di tích Kinh đô Trường Xuân Kinh đô Trường Xuân thuộc thôn Trường Xuân, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Năm 618, Lê Ngọc là thái thú quận Cửu Chân đã phát động nhân dân chống lại nhà Đường. Lê Ngọc tự xưng là Hoàng đế, xây dựng kinh đô ở đây. Ngoài ra, tại đây các nhà khảo cổ học đã phát hiện tấm bia cổ nhất Việt Nam gọi là bia Trường Xuân có tên “Đại Tuỳ Bải an đạo trường chi vi văn”. Có tài liệu nói khởi nghĩa Lê Ngọc diễn ra vào thời nhà Tuỳ. * Đền thờ Dương Đình Nghệ (làng Giàng, Thiệu Khánh, Thiệu Hóa) Dương Đình Nghệ là thuỷ tổ của dòng họ Dương ở vùng đất ngã ba sông mà dân gian vẫn gọi là Ngã Ba Đầu. Dòng họ này đã có công khai phá và có vị thế ở vùng Dương Xá và họ Dương đã sớm trở thành tên gọi của một làng. Thế kỷ thứ X, họ Dương đã là một dòng họ lớn, với vị hào trưởng Dương Đình Nghệ có thế lực trong vùng mà sử sách ghi là trong nhà có tới hàng nghìn người là con nuôi, tôi tớ, thực khách, Dương Đình Nghệ là người văn võ song toàn, được Khúc Thừa Dụ trọng dụng và là một bộ tướng của họ Khúc, nắm giữ một lực lượng quân sự quan trọng. Khi mất ông được tôn làm Phúc thần. Tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân đã lập đền thờ hương khói quanh năm. Câu đối ở đền thờ đã ca ngợi chí khí, oai danh lừng lẫy của ông: “Dưỡng tam thiên nghĩa tử dĩ phục thù đằng đằng sát khí. Chưởng bát vạn hùng sư nhi xuất chiến lẫm lẫm uy danh”. (Nuôi ba vạn con nuôi khí mạnh vô cùng. Cầm tám vạn quân ra trận oai danh lừng lẫy). Đền thờ Dương Đình Nghệ với quy mô lớn được xây dựng theo kiểu “Thượng sàng - hạ mộ” đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. Vào mùa xuân hàng năm, nhân dân khắp nơi nô nức về dự lễ hội. Lễ hội đền thờ anh hùng dân tộc Dương Đình Nghệ là một trong những lễ hội lớn thu hút đông đảo khách thập phương về dự.
- * Đền thờ Lê Văn Hưu Đền thờ Lê Văn Hưu thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Ông là người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Hiện nay ở đó vẫn còn phần mộ với tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 20 - 1867, khắc ghi tiểu sử và một bài minh ca tụng tài đức, sự nghiệp của ông. Năm 1247, thi đỗ bảng nhãn. Tháng giêng năm Thiệu Long thứ XV nhà Trần (năm 1272), làm hàn lâm viện học sĩ kiêm quốc sử viện quán tu và hoàn thành bộ sử Ðại Việt sử ký gồm 30 quyển. Ông không chỉ là nhà viết sử lỗi lạc đầu tiên của nước nhà mà còn là nhà quân sự với chức thượng thư bộ binh kiêm chưởng sử, tước Nhân uyên hầu. * Khu di tích thành nhà Hồ Thành nhà Hồ, hay còn được gọi là thành Tây Ðô. Thành được xây dựng vào năm 1397 thời nhà Hồ. Thành có hình vuông, mỗi cạnh dài gần 500m, được xây bằng đá xanh cao khoảng 4,2m. Thành có 4 cửa, cửa phía Nam rất giống cửa phía Nam thành Thăng Long. Quanh thành có hào sâu, phía trong thành là cung điện uy nghi lộng lẫy. Từ cửa Nam xây đường lát đá thẳng đến đàn Nam Giao ở Ðốn Sơn. Sau khi xây xong thành, Hồ Quý Ly đã dời triều từ Thăng Long về Tây Ðô. Nhưng nhà Hồ đã tồn tại được 7 năm (1400 - 1406). Trải qua hơn 6 thế kỷ cho đến nay toà thành còn lại cửa phía Nam với 3 cổng vòm cuốn bằng đá xanh. Khung tường thành còn lại là những bức tường bằng đất. Các nhà khảo cổ học, nhà sử học cho rằng nơi đây vẫn đang hiện hữu nhiều di tích kiến trúc và di tích khảo cổ học như: Hai vòng thành, hào bao quanh thành nội; dấu vết nền móng các kiến trúc cung điện, dinh thự bên trong thành nội; con đường đá từ cửa Nam thành đến đàn Nam Giao; dấu phế tích đàn Nam Giao ở núi Đốn Sơn, Hiện nay, thành nhà Hồ đang được tiến hành khai quật và đệ trình lên UNESCO. Bên cạnh đó, nhà thờ họ Hồ nằm trên địa phương cũng được xây dựng lại trang trọng và bảo tồn. * Đền thờ Nguyễn Chích Đền thờ Nguyễn Chích hiện tại làng Vạn Lộc, xã Ðông Ninh, huyện Đông Sơn. Nguyễn Chích là khai quốc công thần trong khởi nghĩa Lam Sơn. Mộ, bia đá và đền thờ Nguyễn Chích đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo
- Quyết định số 3959/VH-QĐ ngày 02 tháng 12 năm 1992 của Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch. * Khu di tích lịch sử Lam Kinh Khu di tích lịch sử Lam Kinh nằm trên địa bàn xã Xuân Lam , huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hóa 50 km về phí Tây Bắc. Đây là một địa danh lịch sử được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1962. Lê Thái Tổ sau 10 năm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1428) giành thắng lợi và lên ngôi hoàng đế đóng đô ở Đông Kinh, lấy niên hiệu là Thuận Thiên thứ nhất. Đồng thời cho xây dựng ở quê hương đất tổ Lam Sơn một kinh thành lớn thứ hai gọi là Lam kinh hay còn gọi là Tây Kinh. Thành điện Lam kinh phía Bắc dựa vào núi Dầu ( gọi là du sơn) mặt Nam nhìn ra sông Chu - có núi Chúa làm tiền án, bên tả là rừng Phú Lâm, bên hữu là núi Hương và núi Hàm Rồng chắn phía Tây. Khu Hoàng thành, cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh được bố trí xây dựng theo trục Nam - Bắc trên một khoảng đồi gò có hình dáng chữ vương. Bốn mặt xây thành có chiều dài 314m, bề ngang 254m, tường thành phía Bắc hình cánh cung có bán kính 164m, thành dày 1m. Qua khảo cổ và dấu tích còn lại cho thấy xưa kia ở đây đã từng tồn tại Ngọ môn, sân rồng, chính điện, khu Thái miếu nguy nga tráng lệ. Ngày nay khu điện Lam Kinh đang được đầu tư tôn tạo để khôi phục lại một Tây kinh xưa, góp phần khôi phục giữ gìn nét văn hóa truyền thống, kiến trúc độc đáo của Việt Nam thế kỷ thứ XV, đồng thời cũng là một điểm đến của du khách trong và ngoài nước. Lăng Lê Thái Tổ (Vĩnh Lăng) Năm Thuận Thiên thứ 6 (quý sửu – 1443) tháng 8 nhuận, ngày 22, Lê Thái Tổ mất. Cũng năm ấy, ngày 23 tháng 10 táng ở Vĩnh Lăng, Lam Sơn. Lăng được xây dựng trên vạt đất bằng phẳng ở phía nam chân núi Dầu, và núi Chúa, tạo thành thế “hậu chẩm bắc sơn, tiền án nam sơn”. Bên trái lăng có núi Ngũ Lâm và núi Hổ, bên trái có núi Hướng và núi Hàm Rồng tạo thành hai tay ngai với thế “long chầu hổ phục”. Phía trước lăng khoảng 1km là sông Chu uốn cong, ôm lấy mặt tiền, dòng chảy từ phải sang trái tạo thành thế “tụ thủy”. Bố cục và phong cách xây dựng ở Vĩnh Lăng đơn giản nhưng tôn nghiêm, tự nhiên mà trang nhã. Ban đầu mộ đắp
- bằng đất hình khối vuông, xung quanh xây chèn bằng gạch, lâu ngày bị sạt lỡ, nay được xây lại bằng đá, mỗi cạnh 4,4m; cao 1m. Trước lăng có hai hang tượng người và tượng các con vật bằng đá. Đứng đầu hai hàng tượng ở vị trí gần lăng là hai pho tượng quan văn và quan võ. Kích thước của tượng nhỏ, phong cách dân gian. Kế tiếp là tượng bốn cặp con vật đối nhau theo thứ tự hai sư tử cách điệu như hai con lợn rừng, hai ngựa (không có yên), hai tê giác (không có bành) và hai con hổ ngồi hiền từ. Trước lăng là hương án bằng đá đặt bát hương và lễ vật. Thần đạo chạy giữa hai hang tượng chầu. Bia Vĩnh Lăng Bia Vĩnh Lăng được dựng cách lăng 300m đường chim bay ở Tây Nam thành điện Lam Kinh. Bia làm bằng đá trầm tích biển nguyên khối cao 2,97m; rộng 94m; dày 0,27m; đặt trên lưng một con rùa lớn cũng được tạc từ đá trầm tích biển nguyên khối có chiều dài 3 ,46m; rộng 94m; cao 0,94m kể cả đế. Nhà bia được dựng lại năm 1961 ( trên các tảng kê chân cột đá cũ) nền nhà có hình gần vuông mỗi cạnh là 8,80m và nhà có 4 mái cong lợp ngói mũi hài, dưới được đỡ bằng 16 cột, mỗi góc 4 cột theo kiểu nhà Lê. Nghệ thuật trang trí tinh xảo, phong cách trang trí trên bia phù hợp với nội dung văn bia do Nguyễn Trãi soạn. Văn bia ngắn gọn, cô đọng phản ánh đầy đủ thân thế, sự nghiệp công lao của vua Lê Thái Tổ. Bia Vĩnh Lăng là một công trình quý giá có ý nghĩa lớn lao trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam. * Khu đền thờ Lê Lai (ĐềnTép) Khu đền thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, cách khu di tích Lam Kinh 6km về phía Tây Bắc, thờ Trung Túc Vương Lê Lai- một vị Khai quốc Công thần của triều Lê Sơ. Chuyện kể rằng, nghĩa quân Lam Sơn buổi đầu tụ nghĩa lực lượng còn rất non yếu. Trong một lần bị quân giặc vây khốn, Lê Lai đã cải trang thành Lê Lợi và anh dũng hy sinh. Quân giặc tưởng đã tiêu diệt được thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nên đã lui quân. Nhờ đó nghĩa quân được bảo toàn lực lượng tạo tiền đề cho chiến thắng sau này. Tấm gương hy sinh anh dũng của Lê Lai đã được nhân dân ghi nhận, lập đền thờ tại quê hương ông.
- * Đền thờ Bố Vệ Vào đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long sai dỡ điện Lam Kinh, rồi từ Lam Kinh lại chuyển về làng Bố Vệ, nay thuộc phường Bố Vệ, thành phố Thanh Hoá để thờ. Nguyên đền Bố Vệ xưa thuộc thôn Kiều Đại, xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, là sinh quán của bà hoàng hậu Nguyễn Thị Anh, vợ vua Lê Thái Tông. Sinh thời bà dựng điện Chiêu Hoa ở đây, để lấy chỗ nghỉ ngơi khi về thăm quê. Khi bà mất, năm 1460, vua Lê Thánh Tông cho sửa điện này thành điện Hoàng Đức để thờ bà. Năm 1805, vua Gia Long cho dời đền thờ các vua Lê ở Lam Kinh về điện Hoàng Đức, tập trung 28 bài vị của các vua Lê và hoàng hậu tại đây và người ta quen gọi là đền Nhà Lê, hay đền Bố Vệ. Đền có kiến trúc thời Lê - Nguyễn. Buổi đầu tất cả các pho tượng, bài vị, đồ minh khí thờ các vua Lê ở Thăng Long đều tập trung tại đây, nhưng nay phần lớn đã không còn. Chỉ còn lại tượng Lê Lợi bằng đồng, tư thế ngồi như người thật, đặt ở chính tẩm, hai bên tả hữu có tượng của Nguyễn Trãi và Lê Lai. Những pho tượng này, do một nhà tư sản cung tiến năm 1935. Hàng năm, cứ đến ngày 21, 22 tháng tám âm lịch, nhân dân khắp nơi nô nức về Lam Kinh và cả đền Bố Vệ, để dự tưởng niệm công đức của hai anh hùng cứu nước Lê Lợi và đại công thần Lê Lai và các vị vua Lê đã có công khôi phục giang sơn, đất nước. * Khu di tích lịch sử Phủ Trịnh và chùa Báo Ân Chùa Báo Ân, toạ lạc trên địa bàn xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá từng là ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng và có nghệ thuật điêu khắc độc đáo. Nhưng trải qua hàng nghìn năm lịch sử, bị thiên tai và chiến tranh tàn phá, chùa Báo Ân đã xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2008, ông Hoàng Kiều - Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Raas đã đóng góp 1,3 tỷ đồng cùng sự cung tiến của các tăng ni phật tử trong và ngoài tỉnh để trùng tu, tôn tạo chùa Báo Ân. Đến nay, chùa Báo Ân đã được xây dựng lại bề thế, uy nghi theo lối kiến trúc thời Trần với tổng giá trị đầu tư hơn 1,8 tỷ đồng và sẽ là điểm đến hấp dẫn của du khách và các tăng ni phật tử. * Khu lăng miếu Triệu Tường Khu lăng miếu Triệu Tường, huyện Hà Trung, nơi phát tích triều Nguyễn. Quốc miếu Nhà Nguyễn, ở xã Hà Long, huyện Hà Trung (bao gồm Đình Gia Miêu
- và Lăng miếu Triệu Tường). Đình Gia Miêu là một công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu thời Nguyễn. Đây là nơi thờ Nguyễn Công Duẩn - vị công thần bình Ngô khai quốc. Khu di tích Lăng miếu bị triệt phá năm 1973, hiện chỉ còn phế tích nền móng. Toàn bộ khu đất lăng miếu Triệu Tường vẫn còn nguyên vẹn. Dấu tích hào thành, hồ và các nền móng kiến trúc cổng, tường thành và các miếu thờ (nguyên miếu thờ Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng và Tĩnh Hoàng Hậu, Trường quốc công miếu thờ Nguyễn Văn Lựu và Nguyễn Hán ). Lăng miếu Triệu Tường là nơi thờ các vị liệt tổ liệt tông nhà Nguyễn tại quê hương, là khu di tích của vương triều Nguyễn tại Thanh Hoá. * Đền thờ Trịnh Kiểm Tọa lạc tại làng Sóc Sơn, Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc. Ông là người có công lớn trong sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Ông là người mưu lược đã cùng tướng sĩ đánh lui 5 đợt tấn công của nhà Mạc, bảo vệ vững chắc Thanh Hoá. Ông cũng đă hết sức chăm lo triều chính, lập chế độ thuế khoá, khuyến khích nghề nông, mở rộng thi cử để chọn nhân tài, Ông là ông tổ của dòng chúa Trịnh. * Đền thờ Nguyễn Kim Tọa lạc tại làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (Hà Trung ngày nay), là người khởi xướng và lãnh đạo công cuộc trung hưng nhà Lê. Sự nghiệp chưa thành, ông bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc, mất năm 1545. Ông đă sáng suốt nhìn nhận và giao quyền lực lại cho con rể là Trịnh Kiểm trước khi mất. Ông là người mở nghiệp cho dòng chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn. * Nhà thờ Trạng Quỳnh Nhà thờ Trạng Quỳnh thuộc xóm Hưng Tiến, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa. Ông tổ hài hước diễu cợt thần quyền, vương quyền và thói ỷ thế nước lớn áp chế nước nhỏ thời vua Lê chúa Trịnh, do nhân dân thêu dệt ra từ một nhân vật có thật là Nguyễn Quỳnh ở Hoằng Hoá. * Di tích lịch sử chiến khu Ba Ðình. Chiến khu Ba Đình là một di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia ở Việt Nam. Chiến khu này gắn liền với khởi nghĩa Ba Đình của Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Tống Duy Tân. Trước đây chiến khu này là một khu thành lũy nằm trong vùng ngập nước, bùn lầy của 3 làng: làng Mậu, làng Thượng, làng Mỹ Khê, cho nên
- được gọi là chiến khu Ba Đình. Và gắn với các vị tướng của cuộc khởi nghĩa thì tại quê hương đều có nhà thờ. * Ðền thờ và lăng mộ Thứ quốc công Nguyễn Nhữ Lãm Đền thờ tọa lác tại xã Thọ Diên và Xuân Lập, Thọ Xuân. Nguyễn Nhữ Lãm quê ở xã Văn Xá huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam (nay là xã Thiên Liệu, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Trong hoàn cảnh nước Đại Ngu bị quân Minh chiếm đóng, ông gia nhập lực lượng của Lê Lợi và dự hội thề Lũng Nhai năm 1416. Năm 1418, ông trong số những người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn cùng Lê Lợi từ những ngày đầu, phụ trách việc rèn vũ khí và quân lương của nghĩa quân. Ngày mồng 2 là ngày Canh Thân, tháng riêng năm mậu tuất (1418) Hoàng đế Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm là một trong những người được phong chức đại tướng và thừa tướng chia nhau đốc xuất đội quân Thiết đột ra đối địch với quân Minh. Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Nhữ Lãm từng làm sứ giả tới các nước Ai Lao (Lào), Chiêm Thành vận động vua nước láng giềng giúp voi ngựa và lương thực. Nhờ tài ngoại giao của ông, các nước đã đồng tình giúp đỡ. * Đền thờ Ðào Duy Từ (1572 - 1634) Quê làng Hoa Trai, xã Nguyên Bình (Tĩnh Gia). Ông là một trong những vị khai quốc công thần nhà Nguyễn, một nhà quân sự, ngoại giao, văn hoá tài giỏi. Ông đã có công giúp nhà Nguyễn mở mang kinh tế, giữ yên lãnh thổ, được phong tước Lộc Khê hầu và thờ trong Thái Miếu, ông là tác giả của tác phẩm Hổ trướng khu cơ, Ngoạ Long cương Vãn, Tư Dung vãn * Đền thờ Tống Duy Tân (1837 - 1892) Ông quê ở xã Vĩnh Tân (Vĩnh Lộc). Ông đậu tiến sĩ năm 1875, lŕm tri huyện Vĩnh Tường, án sát Sơn Tây, chánh sứ sơn phòng Quảng Hoá. Năm 1886, ông cùng con là Tống Nhữ Mai lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh. Ông cùng Phạm Bành, Hoàng Bật Ðạt, Trần Xuân Soạn lãnh đạo nghĩa quân Ba Ðình, ông đã bị giặc Pháp bắt tại hang Niên Kỷ (Bá Thước) và hi sinh tại thị xã Thanh Hoá năm 1892. * Đền thờ Hà Tông Huân (1697 - 1790) Người làng Kim Thành, huyện Yên Ðịnh, năm 28 tuổi đỗ bảng nhăn. Ông là người thông minh, tài trí được trọng dụng, ra vào phủ chúa bàn việc quân quốc cơ yếu, làm đồng tham tụng rồi nhập chính tham tụng, kiêm việc ở Quốc tử giám. Khi về
- hưu vẫn được vời ra làm bậc ngũ lão, được gia thăng thiếu bảo, tước Huy quận công, khi mất được tặng hŕm thái phó. * Đền thờ Phạm Bành (1825 - 1887) Đền thờ Phạm Bành ở làng Trương Xá, xã Hoà Lộc (Hậu Lộc). Ông đỗ cử nhân năm 1864, cùng Ðinh Công Tráng xây dựng căn cứ và là một trong những lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Ba Ðình. * Chùa Khải Minh Ngôi chùa này thuộc địa phận phường Bắc Sơn, thị xã Sầm Sơn, cách đền Hoàng Minh Tự khoảng 1km. Theo nhân dân địa phương cho biết, thì chùa này trước kia được xây dựng trên diện tích hàng chục ha. Chùa có rất nhiều tượng phật đẹp và xung quanh các cây cổ thụ mọc kín, có cây hàng hai người ôm mới xuể. Mấy chục năm trước cầy đã bị phá. Năm 1994, nhân dân địa phương mới xây dựng lại, kiến trúc khá đẹp, toàn bằng gỗ, nhưng quy mô nhỏ hơn trước nhiều. Trong chùa hiện có hàng chục bức tượng phật, trong đó có 11 pho tượng cũ làm từ trước kia, nhân dân còn cất giữ được. Một chiếc chuông đồng, nặng khoảng trên chục cân, có khắc 8 chữ Hán: “Quý tỵ trọng xuân” (Tháng Hai năm Quý tỵ) và “Đông Khê ấp chung” (Chuông ấp Đông Khê). Đặc biệt, trước cửa chùa có hai chiếc khánh đá vào loại lớn. Mỗi chiếc có chiều dài 3m, cao 1m dầy gần 0,2m, có lỗ xâu chốt, đặt trên 2 cột trụ đá. Trên chiếc khánh còn thấy khắc mấy dòng chữ Hán: “Tự Đức nhị thấp nhất niên, ngũ nguyệt sơ cửu nhật, bản thôn hương lão hưng tạo, thành tiền thập lục bát quan”. Như vậy chiếc khánh đá được làm từ năm 1868, ngày 9 tháng Năm âm lịch, hết 68 quan tiền. * Đền Tô Hiến Thành Đền được xây dựng ở xóm Tài, làng Núi, nay thuộc phường Trường Sơn, thị xã Sầm Sơn, cách Đền Độc Cước 300m. Đền thờ Tô Hiến Thành, một đại thần ở thế kỉ thứ XII, dưới triều nhà Lý. Ông là một viên quan, được lịch sử ca ngợi rất thanh liêm, chính trực. Vào năm 1161, ông được vua Lý Thánh Tôn cử cầm quân vào dẹp loạn ở vùng ven biển Thanh Hoá, nhờ thế mà nhân dân địa phương mới được an cư lạc nghiệp. Vì vậy nhiều nơi ở Thanh Hoá, nhân dân đã lập đền thờ để tưởng nhớ công đức của ông.
- Trước kia theo kí ức của nhân dân địa phương thì ngôi đền này khá đẹp và có nhiều cây cổ thụ. Nhưng rồi đền đã bị phá, cây cối bị đốn hết, vài năm trở lại đây đền mới được dựng lại. Hiện nay, đền chỉ còn lại bộ kiệu từ xưa, đang được cất giữ trong đền Độc Cước và một cây bàng ở phía trái đền, có tuổi thọ hơn 70 năm Hàng năm cứ đến ngày 16/2 âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội thắp hương ở đền. * Đền Hoàng Minh Tự Cách đền thờ Tô Hiến Thành khoảng 300m, theo đường chim bay, đền thờ Hoàng Minh Tự nằm giữa khu nhà ở của cư dân phường Trường Sơn. Trước kia, đền được dựng trên một khu đất khá rộng, xung quanh nhiều cây cổ thụ mọc um tùm, người ôm không xuể. Nhưng cách đây mấy chục năm, đền đã bị phá, nay vừa được trùng tu lại. Hiện vật cũ, còn nếp nhà có từ thời Bảo Đại tam niên (1929), hai bức tượng võ quan mặc triều phục, tay cầm gươm, chiếc kiệu song loan vào loại lớn, đang đặt ở đền Độc Cước và hai đạo sắc thời Thành Thái thứ 13 (1902) và Khải Định thứ 6 (1922). Sự tích nhân vật Hoàng Minh Tự hiện được biết, có nội dung khác biệt nhau. Có tích cho rằng, Hoàng Minh Tự vốn quê ở xã Quảng Vinh, huyện Quảng Xương bây giờ. Ông nhà nghèo đến ở với một gia chủ nơi đây. Gia chủ nuôi thầy trong nhà để dạy con học. Hoàng Minh Tự rất sáng dạ, nên nghe lỏm bài thầy giảng đều nhớ và hiểu hết. Về sau ông đi thi và đỗ Hoàng Giáp. Khi vinh quy bái tổ, trở về làng này, thì chức sắc địa phương đón tiếp nhạt nhẽo, coi thường ông là kẻ tôi tớ. Ông bèn ném chiếc gươm đeo bên hông xuống con sông gần đấy mà thề rằng: “Nếu gươm nổi, thì ngươì làng này từ rày về sau mới có kẻ thi cử, đỗ đạt”. Chiếc gươm chìm, nên từ đó làng Núi này không có ai học hành thi đỗ ra làm quan cả. Khi nghỉ hưu, Hoàng Minh Tự đã về sống ẩn dật ở nơi này cho đến lúc mất. Thi hài ông được mối đùn lên thành nấm mồ và rất linh thiêng, nên nhân dân địa phương đã lập đền thờ. Nhưng có tích lại nói rằng Hoàng Minh Tự, vốn là một viên quan của nhà Tống, bên Trung Quốc, tên thực là Hoàng Hiển. Khi nhà Tống bị quân Nguyên - Mông tiêu diệt, thì Hoàng Hiền cùng với một số gia thuộc chạy sang Việt Nam và xin được ở lại làm quân tình nguyện đánh giặc Nguyên - Mông. Ông đã lập nhiều chiến công, nên được vua Trần phong “Minh tự”. Vì thế nhân dân quen gọi ông là
- Hoàng Minh Tự. Khi tuổi già, ông về ở ẩn ở vùng Kẻ Trường, nay là xã Quảng Vinh, huyện Quảng Xương. Nhân dân khắp vùng này ở xã Quảng Vinh và Sầm Sơn đều lập đền thờ ông sau khi ông mất. Hàng năm cứ đến ngày 26 tháng hai âm lịch, các đền này đều có tổ chức lễ tưởng niệm. 2.2.2. Các lễ hội Với bề dày lịch sử và sự phong phú đa dạng trong đời sống văn hoá nên hàng năm trên địa bàn tỉnh Thanh có rất nhiều lễ hội được tổ chức, nội dung của các lễ hội thường là tôn vinh những nhân vật có công với dân, với nước hoặc gắn với tín ngưỡng thờ Thành Hoàng, Mẫu, chúa Thượng Ngàn hoặc cầu Thánh-Thần-Trời- Đất phù hộ cho quốc thịnh dân an, cầu cho nhân dân gặp nhiều thuận lợi trong lao động sản xuất và may mắn, bình yên trong cuộc sống. Xin giới thiệu một số lễ hội chính ở Xứ Thanh như sau: * Lễ hội Lam Kinh Tổ chức vào các ngày 21 - 23/08 âm lịch trong dịp giỗ Lê Thái Tổ hằng năm nhằm tưởng nhớ, tri ân người anh hùng dân tộc Lê Lợi cùng các vị vua và công thần của triều đại Nhà Hậu Lê. Lễ hội Lam Kinh được tổ chức tại khu vực Lam Kinh huyện Thọ Xuân, nơi có điện Lam Kinh và lăng của vua Lê. Tại bến phà Mục Sơn, phía trước khu lăng mộ, nay thuộc xã Xuân Lâm, có một ngôi đền nhỏ, đó là đền thờ vua Lê Thái Tổ. Nơi đây, ngày trước, theo định lệ, cứ ba năm một lần, vào ngày giỗ vua 22 tháng 8, các vua quan nhà Lê ở Ðông Kinh (Thăng Long) lại về Lam Kinh làm lễ. Còn nhân dân địa phương hàng năm vẫn mở hội tưởng niệm người anh hùng tại ngôi đền này. Ngoài nghi lễ tế, dâng hương như các lễ hội khác, lễ hội Lam Kinh còn có tục múa hát theo điệu “rí ren” (lý liên) và các trò diễn. Từng đôi trai gái cầm tay nhau vừa hát vừa múa và diễn trò “cắm hoa”, “kết hoa”. Về sau, người ta thay bằng các điệu hát ca công, hát huê tình, diễn lại các tích trong “Bình Ngô phá trận” và “Chư hầu lai triều”. Lễ hội đền vua Lê còn có lệ đánh trống đồng uy nghi và hấp dẫn. * Lễ hội Bà Triệu Được tổ chức vào các ngày 20 - 23/02 âm lịch hàng năm tại xã Triệu Lộc - Hậu Lộc - Thanh hoá. Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ tới vị anh hùng Triệu Thị Trinh - người đã lãnh đạo nhân dân đứng lên chống lại ách đô hộ của nhà Ngô vào
- năm 248. Lễ hội được tổ chức trong một không gian rộng từ Ðền đến Lăng về đình Làng. Lễ Mộc dục - Tắm tượng, đây là một nghi thức lễ được nhân dân địa phương rất chú ý, thận trọng, chọn ngày tốt để hành lễ, thường là ngày 18, 19 tháng 2 âm lịch ở cả 2 nơi đền và đình làng, do ông từ cả và 3 ông từ phó chịu trách nhiệm. Tế Phụng Nghinh với nội dung mời Vua Bà và Lục bộ triều đình về trong ngày huý kỵ của Bà, là ngày rất trang nghiêm và linh thiêng, thời gian tế nửa ngày. Rước Bóng - Rước bát hương Vua Bà từ đền chính đến Lăng mộ rồi rước về đình làng. Người ta đặt bát hương Bà Triệu lên kiệu cùng với hộp tư trang, đĩa trầu cau để 8 chàng trai mặc áo đỏ cộc tay, thắt lưng màu đỏ, đầu chít khăn đỏ, quần trắng, đi chân đất khiêng. Ðặc biệt ở đình làng còn diễn trò “Ngô Triệu giao quân” rất sôi nổi. Sau lễ buổi trưa, cả làng ăn đồ nguội (vì đánh trận phải ăn lương khô). Buổi chiều nấu nướng cỗ bàn linh đình để khao quân. Ngày 23 tháng 2 thuộc vào ngày chính kỵ, hôm đó không tế mà chỉ làm lễ , có một số lễ vật như 100 trứng sống, 100 quả dưa chuột, 3 bát cơm gạo trắng, 3 quả trứng luộc, bánh dày, bánh gai, bánh trưng, bánh mật Trong dịp lễ hội, dân làng còn tổ chức thi đấu vật, leo dây, thổi cơm, thi đánh cờ tướng ; làm cho lễ hội càng thêm sôi nổi, náo nhiệt cả một vùng. * Lễ hội Lê Hoàn Tổ chức vào các ngày 7 - 9/03 âm lịch hàng năm tại thôn Trung Lập xã Xuân Lập - Thọ Xuân. Lễ hội được tổ chức nhằm tưởng nhớ tới vua Lê Đại Hành - Người đã lãnh đạo nhân dân ta đánh tan quân xâm lược nhà Tống năm 981. Trong ngày khai hội dân làng tổ chức rước kiệu Thân mẫu và bố nuôi của Vua về đền thờ Lê Hoàn. Ngày 08/03 là ngày chính kỵ, trong đền làm lễ đại tế, bên ngoài tổ chức các trò chơi dân gian như: Đấu vật, bắn nỏ, đua thuyền, Ngày 09/03 là ngày lễ tạ rước kiệu từ đền Lê Hoàn về làng và tan hội. Lễ hội đền thờ Lê Hoàn là hình thức tôn vinh người anh hùng dân tộc, đem lại bài học giáo dục truyền thống sâu sắc. * Lễ hội Quang Trung Được tổ chức vào các ngày 5 - 7 tết âm lịch hàng năm, tại Lạch Bạng - Hải Thanh - Tĩnh Gia. Lễ hội tổ chức nhằm tôn vinh chiến thắng của vua Quang Trung đại phá 20 vạn quân Thanh xâm lược vào năm 1799.
- * Lễ hội bánh dày - bánh chưng Được tổ chức vào các ngày 11 - 13 tháng 5 âm lịch tại Sầm Sơn - Thanh hoá. Đây là lễ hội gắn với tục thờ tổ nghề dệt xúc và thờ thần Độc Cước của nhân dân địa phương.Hàng năm đến ngày 12 tháng 5 âm lịch, nhân dân các làng xung quanh thị xã Sầm Sơn tổ chức lễ hội bánh chưng - bánh dày. Ðây là lễ cầu cho mùa màng tươi tốt, nhân khang, vật thịnh, mưa thuận, gió hoà. Những chiếc bánh dày có đường kính 30cm, bánh chưng mỗi cạnh 40cm được chuẩn bị công phu từ khâu chọn gạo, đậu, thịt, lá gói đến kỹ thuật chế biến, được đặt trang trọng trên những chiếc kiệu cùng dân các làng đưa về tế lễ ở khu vực đền Ðộc Cước. Sau nghi lễ những chiếc bánh chưng - bánh dày được các làng cùng nhau chấm giải để lựa chọn bánh làng nào ngon nhất. Lễ hội kết thúc, bánh được mang về chia cho dân trong làng cùng hưởng lộc để trong năm gặp nhiều may mắn. * Lễ hội Từ Thức Tổ chức vào tháng 2 âm lịch hàng năm ở Nga Sơn - Thanh hoá. Lễ hội này gắn với truyền thuyết Từ Thức gặp Tiên. * Lễ hội Mai An Tiêm Tổ chức vào ngày 13 - 15/03 âm lịch hàng năm ở Đền thờ Mai An Tiêm, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Rước kiệu, dâng hương, lễ tế, nấu cơm thi, ném lao, nhẩy dây, kéo co, thi leo núi hái lượm, hội trại, biễu diễn ca nhạc. Lễ hội tưởng nhớ, tri ân Mai An Tiêm, con vua Hùng (người tìm ra quả dưa đỏ). * Lễ hội Đền Hàn Tổ chức vào 30/06 - 6/07 âm lịch ở Hà Trung - Thanh hoá thờ chúa Ngọc Thánh Mẫu hình thức tín ngưỡng của dân địa phương. * Lễ hội Cửa Đặt Tổ chức vào mùa xuân ở Thường Xuân - Thanh hoá. Đây là lễ hội thờ danh nhân Cầm Bá Thước kết hợp với tín ngưỡng thờ Bà Chúa thượng ngàn của dân địa phương. Hàng năm, vào dịp từ đầu tháng Giêng đến tháng 3 âm lịch, hàng vạn người dân và du khách lại hành hương về Khu di tích Cửa Đạt để dâng hương cầu lộc, cầu tài
- * Lễ hôi Chùa Tiên ở Nga Sơn . Lễ hội được tổ chức vào 3 ngày từ 14-16/03 âm lịch hàng năm. Ngày chính của lễ hội là ngày rằm tháng ba. Chùa Tiên toạ lạc tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Chùa được xây dựng trên một mảnh đất rộng 3,5ha,cảnh quan đẹp, hấp dẫn và yên tĩnh. Đây là nơi để du khách có thể thăm quan, chiêm ngưỡng và chiêm nghiệm những giáo lý của nhà Phật đối với chúng sinh. Lễ hội là dịp để người dân khắp nơi hướng tâm về với nhà Phật. * Hội làng Phú Khê Làng Phú Khê nay thuộc địa phận hai xã Hoằng Phú và Hoằng Quí huyện Hoằng Hoá. Lễ hội làng Phú Khê được tổ chức vào ngày rằm tháng hai âm lịch và kéo dài trong 7 ngày. Phần lễ chủ yếu là nghi thức cúng tế Thành hoàng làng-hai bộ tướng thời Ðinh là Chu Minh và Chu Tuấn, cầu chức cho nhân khang vật thịnh.Nét đặc sắc của lễ hội làng Phú Khê là mâm cỗ phải dày 2 tầng ( do thờ 2 vị thành hoàng). Ðây cũng là lễ hội được tổ chức rất nhiều các trò chơi dân gian đặc biệt như chọi gà, bơi thuyền đập vịt, đập nồi, vật, đánh đu,đấu roi, bắt chạch trong chum, dệt vải trên thuyền v.v Tất cả các trò chơi đều có thưởng cho người thắng cuộc. Lễ hội thu hút đông đảo nhân dân trong vùng tham dự và vẫn được duy trì đến ngày nay. * Hội làng Xuân Phả Xuân Phả là tên một làng thuộc xã Xuân Trường huyện Thọ Xuân. Lễ hội Xuân Phả được tổ chức vào hai ngày 10 và 11 tháng 2 âm lịch. Phần tế lễ được tiến hành vào chiều Mùng chín. Theo lệ cũ có các trò kéo hội, trò chạy giải, để tế Thành hoàng. Phần hội bắt đầu vào sáng mùng mười với năm trò diễn là Hoa Lang, Xiêm Thành, Ai Lao, Tú Huần và trò Ngô. Lễ hội vừa để tỏ lòng thành kính đối với Thành hoàng làng, vừa biểu hiện truyền thống văn hoá của địa phương; đã thu hút hàng ngàn lượt người đến dự. * Hội Đền Sòng - Bỉm Sơn Mở hằng năm vào ngày 15 tháng Ba Âm lịch tại đền thờ Bà chúa Liễu và ba vị “Tam Thánh” (Nội đạo tràng) là Tả quân Thánh Nhật Quang, Hữu quân Thánh Nguyệt Quang và Tiền quân Thánh Ngọc Sư. Có các cuộc tế lễ linh đình, đám rước thánh Mẫu Liễu Hạnh do các bà và các cô đảm nhiệm, kèm theo cả cờ quạt và
- phường bát âm. Nhiều trò vui như: hát tuồng, hát chèo, trống quân, hát xẩm, ca trù thi đấu vật, kéo co, đánh võ, đánh cờ và chọi gà Phần chính của hội là hát chầu văn và lên đồng. * Lễ hội Phủ Na Phủ Na thuộc xã Xuân Du, huyện Như Thanh. Tương truyền Phủ Na thờ Bà Triệu. Lễ hội hàng năm được mở trong một thời gian dài từ 12 tháng giêng đến hết tháng ba âm lịch. Lễ hội thu hút khách thập phương về dự rất đông: Tham quan thắng cảnh, thắp hương tưởng nhớ công ơn Bà Triệu, cầu mong những điều may mắn trong năm. * Lễ Hội Cầu Ngư Ðược tổ chức hàng năm ở làng Diêm Phố (xã Ngư Lộc, Hậu Lộc), vào cuối tháng hai âm lịch, kéo dài trong 4 ngày, thường được chuẩn bị trước hàng tháng trời với mục đích cầu mong trời yên biển lặng, thuận lợi cho mùa vụ đánh bắt cá trong năm. Lễ vật quan trọng là một thuyền rồng đã được làm rất công phu, trang trí đẹp đẽ và cỗ tam sinh gồm (1 con gà; thủ lợn; con vịt). Ðàn làm lễ được dựng bên bờ biển. Trên đàn có 3 cỗ kiệu, 1 thờ phật thích ca, 1 thờ Vua Thuỷ Tề và 1 thờ Tứ vị Thánh Nương. Sau khi ông chủ tế làm lễ, các dòng họ lần lượt vào lễ. Bên ngoài tổ chức các trò chơi dân gian như đánh cờ tướng, kéo co, đấu vật và hát giao duyên đối đáp nam nữ. Ngày cuối cùng của lễ hội dân làng kéo nhau đưa tiễn thuyền rồng dọc bờ biển về hướng Nam. Ðến địa phận cuối làng người ta tổ chức hoá thuyền rồng để cúng thần. * Lễ hội chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh và Làng văn hóa Duy Tinh Cứ đến ngày 8/02 âm lịch hàng năm, du khách thập phương lại đổ về xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa) để cùng tham dự Lễ hội chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh và làng văn hóa Duy Tinh. Đây là một lễ hội văn hóa truyền thống của nhân nhân trong vùng nhằm tôn vinh, người có công với quê hương đất nước, đồng thời cũng là dịp để du khách thập phương về dâng hương và vãn cảnh ngôi chùa cổ , có trên một 1.000 năm tuổi (xây dựng trước thời Lý), được Bộ văn - Thông tin (nay là Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia ngày 13/3/1990.
- * Hội Thiết Đinh Diễn ra ngày 07/01 âm lịch. Địa chỉ: Xã Định Tường, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Lễ tế, rước thần, tắm tượng và thay mã cho thần, xé cù (cướp cầu), nhảy cao với đối tượng suy tôn là Cao Sơn lập thạch (hòn đá tròn). * Hội Chợ Bản Ngày 15/04 Âm lịch - Xã Định Tường và Định Tăng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Hội vui xuân, hội chợ buôn bán trâu bò, nông cụ và sản phẩm nông nghiệp, mua bán lấy may. Ông bà La Sát. * Hội Cổ Bôn Xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa - 20/01 Âm lịch. Lễ rước, cỗ cúng to “Bánh giầy xẻ cưa, bánh chưng trâu kéo”. Trò Bôn: Trò Tiên Cuội, Trò Hoa Lan, Trò Ngô, Trò Lăng ba khúc, Trò Thủy. Thánh Cả (hiệu Đế Thích - vua cờ), Thánh Quỳnh, Thánh Phúc, Thánh Hẹ (Đặng Quận công Nguyễn Khải). * Hội Đền Tép Hay giỗ Lê Lai 21/08 Âm lịch tại thôn Dương Tú, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa. Tế lễ, dâng hương tưởng niệm. Lê Lai, người hy sinh tính mạng để cứu Lê Lợi. * Hội Đền Dương Sơn Ngày 04/01 Âm lịch - Thôn Từ Trọng, xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Là lễ tế thần, tưởng nhớ Lê Phụng Hiếu, danh tướng thời Lý. Vào ngày lễ, người ta tuyển 48 nữ quan (gái tân) để hát múa thờ (hát múa bài bông, hát trải trên thuyền rồng, chèo cạn) và làm cỗ dâng Thánh. Ngoài ra, lễ hội còn diễn ra cuộc thi nấu cơm, đồ xôi, làm bánh ngon, lạ, đẹp. 2.2.3. Làng nghề truyền thống * Nghề làm nem chua ở thành phố Thanh Hoá Nem chua (quả) ở thành phố Thanh Hoá là một sản phẩm ẩm thực xuất hiện khá lâu đời, ngày nay đã trở thành món đặc sản được thị trường cả nước ưa chuộng. Nghề làm nem chua ở Thành Phố Thanh Hoá tập trung chủ yếu các phố Trường Thi, Cầu Sàng, Lò Chum, Tân Bình, Cầu Bố, Ðông Hương. Nguyên liệu làm nem rất đơn giản, gồm: Thịt lợn nạc, bì (da lợn) hạt tiêu, muối trắng, lá đinh lăng và gạo
- rang làm thính. Nem chua được gói trong nhiều lớp lá chuối tươi để ủ; sau từ 2 - 3 ngày là ăn được. Nem chua Thanh Hoá là “mồi nhậu” rất được ưa thích của mọi giới từ bình dân đến cao cấp. * Chiếu cói Nga Sơn Nga Sơn là một huyện nằm sát biển, về phía Bắc của tỉnh Thanh Hoá. Nghề trồng cói và dệt chiếu ở đây đã có trên 150 năm. Cho đến nay, nghề dệt chiếu vẫn là nghề thủ công - chỉ dùng sợi đay, sợi cói và cái “go” 2 người trong một ngày làm chăm chỉ cũng chỉ được 4 chiếc chiếu loại to. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học đã tạo ra giống cói mới chịu mặn, chịu chua, năng suất cao, chất lượng cói đảm bảo dai, bền, dài tới 2m. Việc đa dạng hoá chủng loại sản phẩm cói cũng đặc biệt được coi trọng. Với bàn tay khéo léo của những người thợ thủ công ở đây, các sản phẩm chiếu cói, thảm cói, đồ thủ công mỹ nghệ như: làn, dép, đĩa, giỏ trang trí bằng cói đã không chỉ làm vừa lòng khách trong tỉnh, trong nước mà khách nước ngoài cũng rất ưa chuộng. Tuy hiện nay trên thị trường có rất nhiều sản phẩm cùng loại bằng chất liệu nhựa, mây, gỗ, tre song nhờ chú trọng việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nhạy bén với thị trường, đặc biệt là sự ưu việt về giá cả, chủng loại và công dụng mà mặt hàng cói đã chiếm lĩnh được thị trường, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng đáng kể. Ðến nay, toàn huyện đã có 3 công ty và 10 xí nghiệp, hợp tác xã chuyên sản xuất kinh doanh mặt hàng chiếu cói và các sản phẩm từ cói (chưa kể các công ty nội, ngoại thương cấp tỉnh) toàn huyện có 35% số hộ chuyên sản xuất hàng cói, mỗi năm cung cấp cho thị trường hơn 2 triệu lá chiếu, doanh thu năm 2000 ước đạt 30 tỷ đồng, thu hút gần 2 vạn lao động. Người dân nơi đây còn biết tận dụng những thửa ruộng không trồng được cói để nuôi thuỷ, hải sản và đặc biệt họ còn là những hướng dẫn viên du lịch nhiệt tình khi khách đến thăm quan vùng quê ngút ngàn cói mà trong tương lai không xa việc phát triển ngành nghề truyền thống chiếu cói sẽ gắn liền với việc phát triển du lịch làng nghề, du lịch sinh thái. * Nghề Dệt của người Mường Thanh Hoá Vùng thung lũng chân núi ở miền núi và trung du Thanh Hoá là địa bàn cư trú chính của người Mường. Trước kia việc giao lưu trao đổi hàng hoá rất khó khăn. Ðể giải quyết nhu cầu vải mặc và các đồ dùng bằng vải khác, đồng bào các dân tộc Mường trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, tự tạo ra nguyên liệu để dệt vải.
- Trước đây, hầu như nhà nào cũng có một khung dệt vải, dẫu đơn sơ nhưng rất đỗi quen thuộc. Dệt Mường cũng như dệt của một số dân tộc khác, hầu như có chung một quy trình kỹ thuật; nhưng khác nhau ở tính mỹ thuật của mỗi sản phẩm. Nổi bật nhất của sản phẩm dệt Mường là nghệ thuật trang trí cạp váy với những hoa văn hình học và động vật, mà có nhà nghiên cứu cho rằng: Thể hiện của nghệ thuật từ văn hoá Ðông Sơn. Từ xa xưa trong xã hội Mường cổ truyền, nghề dệt đã trở thành một ngành sản xuất quan trọng, giữ vị trí hàng đầu trong các nghề thủ công gia đình. * Nghề mộc Ðạt Tài Ðạt Tài là một làng lớn của xã Hoằng Hà, huyện Hoằng Hoá. Gọi là nghề mộc Ðạt Tài nhưng bao gồm cả hai làng Hạ Vũ (xã Hoằng Ðạt) và Hà Thái (xã Hoằng Hà). Ba làng này thuộc xã Hà Dương, tổng Bút Sơn cũ, nay thuộc xã Hoằng Ðạt và xã Hoằng Hà. Thợ mộc ba làng này không chỉ làm nhà, đình chùa, cung điện mà còn chạm trổ những cửa võng, hoành phi, tượng, Long, Ly, Quy, Phượng, làm kiệu, làm ngai thờ, Hạc, Ngựa thờ cho đến các loại tủ thờ hiện đại. Thợ mộc Ðạt Tài được nhiều người, nhiều nơi ca ngợi bởi cách bố cục một khung nhà từ cột, xà, rường, kẻ cân đối hài hoà, thanh thoát và làm nghề có lương tâm. Vì thế mà người ta nói thợ Ðạt Tài làm nhà có phong cách riêng: Chỉ cần nhìn kỹ mấy đường lắp, đường sàm các kẻ ở hiên nhà, nhất là quan sát hình dáng và nét chạm có thể nhận ra nhà nào là do thợ ba làng này làm. Ngày nay tay nghề của những thợ mộc Ðạt Tài vẫn nổi tiếng trong cả tỉnh. * Nghề đan mây, tre ở Quảng Xương Nghề đan lát bằng mây tre ở Quảng Xương có từ lâu đời, tập trung và nổi tiếng nhất là ở vùng các xã Quảng Phong, Quảng Ninh,Quảng Ðức. Sản phẩm đan mây tre Quảng Xương rất phong phú; Rổ, rá, nia, dần, sàng v.v Nhưng nổi tiếng nhất là thúng, mủng, lồng bàn. Dưới thời thực dân phong kiến, thúng, mủng của Quảng Xương đã có tiếng là bền, đẹp. Nét đặc biệt của đồ đan mây tre Quảng Xương là kỹ thuật hun khói để tạo độ bền, làm tăng độ bóng đảm bảo tính thẩm mỹ của sản phẩm. Trong những năm 70 - 80, nhiều mặt hàng mỹ thuật đan mây, tre của Quảng Xương đã có mặt ở thị trường các nước Ðông Âu. Sau một thời gian gián
- đoạn do thị trường tiêu thụ hẹp, hiện nay, nghề đan mây, tre Quảng Xương đang được phục hồi và phát triển. * Nghề dệt vải tơ lụa ở Nghĩa Hưng Nghề dệt vải đã có từ rất lâu đời ở nhiều làng của huyện Hoằng Hoá. Vải của mỗi làng đều mang nét riêng độc đáo và gắn với tên tuổi của làng đó như: vải kẻ Ðầng (Phú Khê), vải kẻ Tổ (Quỳ Chử), vải kẻ Nhợm (Thanh Nga), vải kẻ Tào (Tào Xuyên), vải kẻ Ðằng (Ðằng Xá), vải làng Phùng (Phùng Dực), vải Ðại Ðồng (Hoằng Ðồng), Song có lẽ nổi tiếng hơn cả là vải Nghĩa Hưng, hay còn gọi là vải vùng chợ Quăng. Bí quyết làm nên sự nổi tiếng của vải Nghĩa Hưng chính là ở đôi bàn tay khéo léo với tay nghề tinh sảo, kỹ thuật điêu luyện của những cô gái vùng chợ Quăng, nhờ đó hàng dệt ra đã đẹp lại bền. Vải nhuộm nâu hoặc nhuộm màu thì càng đẹp, càng bền, làm say lòng khách hàng thuộc mọi lứa tuổi. Người kẻ Quăng dệt vải quanh năm, hầu như nhà nào cũng có khung dệt. Tuy không hợp thành phường, nhưng họ vẫn thường xuyên trao đổi và truyền lại kinh nghiệm cho nhau. Thậm chí, người dân trong vùng còn thi dệt tốt, dệt đẹp, để vải dệt ra “có tiếng”. Vải “có tiếng” mới được nhiều người tiêu thụ, mới giữ được phẩm giá cho cá nhân và cả gia đình. Do vậy có câu ca dao: Ai về Hoằng Nghĩa mà xem, Chợ Quăng một tháng bốn mươi hai phiêu điều (đều) Trai mỹ miều gắng công đèn sách Gái thanh tân chăm mạch cửi canh Gái thì dệt cửi vừa nhanh vừa tài Phải “dệt cửi vừa nhanh vừa tài” và giữ tiếng thì “gái thanh tân” mới được các chàng thư sinh mến, mới được các nhà khoa bảng "nhăm nhe" cho con trai mình. Do vậy, đến phiên chợ Quăng, đình làng vải đông nghịt người. Người đi mua vải, mua tơ lụa đã đông mà các chàng trai đi ngắm nhìn các cô gái Hằng Nghĩa, Nguyệt Viên, ngồi bán vải, bán tơ lụa cũng đông không kém. Ngày nay, bà con vùng kẻ Quăng dệt vải thước, vải màn bằng khung cải tiến, song chất lượng cũng không kém bất cứ nơi nào trong cả nước.
- 2.2.4. Bảo tàng * Bảo tàng Thanh Hóa Bảo tàng Thanh Hóa là một quần thể kiến trúc, gồm ba toà nhà kiên cố được xây dựng từ thời thuộc Pháp. Nhà trưng bày lớn ba tầng bề thế, vừa cổ kính, vừa hiện đại, tọa lạc trên một khuôn viên rộng lớn với nhiều cây cổ thụ nằm cạnh đường Trường Thi (TP Thanh Hóa) - một địa danh lịch sử về một thời trường ốc với nền giáo dục Nho học ở chốn “cửa Khổng sân Trình” triều Nguyễn, hiện còn lưu giữ tấm bia “khuyến học” dựng năm Thành Thái thứ 3 (1892). Bảo tàng Thanh Hóa ra đời từ năm 1955, đến nay đã trở thành một trong những địa chỉ văn hóa - khoa học của tỉnh. Là nơi lưu giữ, bảo quản, trưng bày và phát huy những giá trị di sản văn hóa quí báu của quốc gia, đồng thời cũng là nơi nghiên cứu khoa học và truyền bá khoa học lịch sử, một địa điểm hấp dẫn của du lịch trong thời kỳ hội nhập và phát triển toàn cầu thông qua những bộ sưu tập hiện vật giá trị, quí hiếm và đầy sức truyền cảm. Hệ thống trưng bày chính của Bảo tàng Thanh Hóa hiện nay được trình bày theo trình tự lịch sử từ khi xuất hiện những con người tối cổ trên đất Thanh Hóa đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đến năm 1975, đại thắng mùa xuân, thống nhất đất nước. Tiến trình lịch sử này được thể hiện trong một không gian gồm 3 phòng trưng bày lớn. Bên cạnh hệ thống trưng bày chính, bảo tàng còn có 4 phòng trưng bày chuyên đề riêng, thường xuyên trưng bày giới thiệu một chủ đề lịch sử, một sưu tập cổ vật đặc sắc, quí hiếm, một đặc trưng văn hóa độc đáo của dân tộc Hiện nay, kho cơ sở Bảo tàng Thanh Hóa với hơn 629m 2, hiện lưu giữ hơn 24.000 hiện vật lịch sử các loại. Với 5 phân kho được sắp đặt, bảo quản theo chất liệu, trong đó có nhiều bộ sưu tập hiện vật quí hiếm, giá trị: Sưu tập gốm Tam Thọ, sưu tập gốm sứ thời Lý - Trần - Lê - Nguyễn; các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đá; sưu tập các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ; sưu tập chuông đồng; thạp đồng; sưu tập tiêu bản các loại thú quí hiếm ở Thanh Hóa. Trong xu thế hội nhập và mở cửa, bằng giải pháp mới trong phương pháp trưng bày, Bảo tàng Thanh Hóa sẽ từng bước hiện đại hóa bằng cách trong hệ thống trưng bày chính, sẽ cải tạo, bổ sung, nâng cấp các phòng trưng bày hiện có và xây dựng
- những phần trưng bày mới lấp dần những khoảng trống lịch sử, văn hóa: Phòng trưng bày “Thiên nhiên Thanh Hóa”; “Thanh Hóa thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc”(TK I đến TK X); “Thanh Hóa thời kỳ xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập tự chủ”( TK X đến TK XIX); “Thanh Hóa giai đoạn 1975 đến nay” và các phòng trưng bày chuyên đề; “Đặc trưng văn hóa dân tộc Việt, Dao, Mông, Khơ Mú, Thổ” Trong những năm qua, Bảo tàng Thanh Hóa đã đón hàng trăm ngàn lượt khách, trong đó có hàng ngàn du khách đến từ nhiều quốc tịch khác nhau. Tuy nhiên, lượng khách đó còn rất khiêm tốn, mặc dù Bảo tàng Thanh Hóa đã là một địa danh du lịch trên bản đồ du lịch Thanh Hóa. Trước vận hội, thời cơ và nhiều thách thức mới, vừa qua, ngày 9-9-2009, đồng chí Nguyễn Văn Lợi, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy và nhiều đồng chí lãnh đạo tỉnh đã có một buổi làm việc với Bảo tàng Thanh Hóa, với nhiều nội dung cụ thể cả trước mắt và lâu dài. Trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới cách trình bày, chú ý công tác qui hoạch, đồng thời có dự án để sưu tầm, bảo quản hiện vật, trưng bày ngoài trời, cải tạo khuôn viên thu hút khách tham quan đến với bảo tàng ngày một nhiều hơn * Bảo tàng cổ vật Hoàng Long Bảo tàng Cổ vật Hoàng Long (BTCVHL) được thành lập vào dịp kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam lần thứ nhất- ngày 23-11-2006. Đây là bảo tàng cổ vật tư nhân đầu tiên của Việt Nam được Nhà nước cho phép thành lập và đi vào hoạt động. BTCVHL nằm trong khuôn viên của khu ẩm thực Rừng Trong Phố tại số 41 Đội Cung, phường Đông Thọ, TP. Thanh Hóa. Hiện nay tổng số hiện vật sưu tầm được gần 12.000 cổ vật với đủ tất cả chất liệu từ đồ đá, đồ đất nung, đồ gốm, đồ đồng, đồ sứ . trải dài qua các thời kỳ lịch sử trên phạm vi toàn quốc. BTCVHL đang trưng bày tại phòng trưng bày cổ vật chính với số hiện vật là 6.200 hiện vật với đầy đủ các chất liệu và trải dài qua các thời kỳ lịch sử trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam và một số quốc gia ở khu vực Đông Nam châu Á. Hiện vật được trưng bày theo sưu tập và chất liệu với một số bộ sưu tập tiêu biểu như: Bộ sưu tập rìu đá cách ngày nay 4 vạn năm; bộ sưu tập trống đồng minh