Bài thuyết trình môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài thuyết trình môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_thuyet_trinh_mon_hoc_tu_tuong_ho_chi_minh.ppt
Nội dung text: Bài thuyết trình môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Môn học:
- Câu hỏi: Phân tích ảnh hưởng của văn hóa phương Đông đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
- I. Nho giáo và tư tưởng Hồ Chí Minh 1/ Khái quát về Nho giáo Nho giáo (儒教), còn được gọi là Khổng giáo (孔教), là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, và sớm du nhập vào Việt Nam. Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử.
- Trong Nho giáo có nhiều yếu tố duy tâm, cổ hủ như: + tư tưởng phân biệt đẳng cấp xã hội + tư tưởng coi thường người phụ nữ trong xã hội + tư tưởng coi thường lao động chân tay Tuy nhiên, Nho giáo cũng có những điểm tích cực, đó là: + triết lí nhân sinh thể hiện ở tư tưởng từ bậc thiên tử tới thứ dân phải lấy việc tu thân làm gốc. + lí tưởng về một một xã hội đại đồng có vua sáng tôi hiền, cha từ, con thảo. + tư tưởng đề cao văn hóa, lễ nghĩa truyền thống, coi trọng việc học hành. Hồ Chí Minh đã lựa chọn những yếu tố tích cực của Nho giáo đưa vào đó nội dung và ý nghĩa cho phù hợp với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
- 2/ Ảnh hưởng của Nho giáo đến tư tưởng Hồ Chí Minh Nho giáo đã từng bén duyên với Nguyễn Ái Quốc từ thời niên thiếu và theo mãi Hồ Chí Minh cho tới trọn đời. Vì thế, không khó để nhận ra những ảnh hưởng của giáo lí này đến việc hình thành nên tư tưởng của Người . Thân là con một vị đại Nho: cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, sinh ra và lớn lên tại môt vùng văn hoá mà dù đã có cảnh Hán học suy tàn: “Cô hàng bán sách lim dim ngủ Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi” (Tú Xương)
- Trước sự tấn công của văn hoá phương Tây trong tình trạng “Á - Âu xáo lộn”, trong tình trạng “mưa Âu gió Mĩ” xem ra đang một ngày một dồn dập, nhưng với riêng vùng đất văn hoá này (tức vùng Nghệ - Tĩnh) thì ảnh hưởng của Nho giáo vẫn đang được cố thủ, chưa hẳn đã lép vế so với Tây học. Bác còn lớn lên ở cái xứ Huế, kinh đô của triều Nguyễn, dù Tây học đã tràn đến trong chiều thắng thế dần, nhưng Nho học đâu đã chịu quy hàng hoàn toàn. Chế độ Nam triều còn đó với hệ thống quan lại hầu hết xuất thân khoa bảng, ít nhiều đóng vai trò căn cứ địa của Nho giáo. Những điều kiện khách quan trên đây cho phép nói đến ảnh hưởng Nho giáo đối với Hồ Chí Minh như là một điều tất yếu đầu tiên.
- Chính lúc thiếu niên Nguyễn Tất Thành đã học chữ Hán trong đó có Nho giáo. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất trong nhiều bài viết của Người tính từ năm 1921 đến sau này mà có người đã tính được là hơn 100 trường hợp, trong đó lời Khổng Tử, Mạnh Tử chiếm nhiều nhất. Như vậy là thái độ của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đối với Khổng Tử và Nho giáo có sự phát triển qua các chặng thời gian nhưng rõ ràng nhất quán một quan điểm lịch sử đúng đắn, khẳng định đúng mức với lòng tôn kính những giá trị chân chính mà người xưa đã đạt được. Đương nhiên là trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã triệt để phê phán bác bỏ ý thức Nho giáo phong kiến phản tiến hoá.
- Trong xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nghĩ: - Xây dựng đất nước "thực túc, binh cường, dân tín" (Khổng Tử) tức là lương thảo nhiều, binh mạnh và lòng dân. Hoặc "dân vi bang bản" - lấy dân là gốc nước. Hay tư tưởng quan hệ giữa triều đình với dân như "thuyền với nước" (nước có thể chở thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền) của Tuân Tử. ==> Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân và "độc lập - tự do - hạnh phúc".
- - Người cầm quân phải thực hiện dưỡng dân, giáo dân: tức là nuôi dưỡng nhân dân như có chính sách hợp lòng dân (chính sách ruộng đất, chính sách thuế, xóa đói giảm nghèo ). Hồ Chí Minh nói "không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên". Giáo dân tức là nâng cao dân trí, cải cách giáo dục, người cán bộ phải làm gương cho dân, phải dùng đức trị trong tư tưởng "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" của Nho giáo.
- Về đạo đức: Hồ Chí Minh sử dụng phạm trù đạo đức của Nho giáo, loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp và bổ sung những yếu tố tích cực cho phù hợp với thời đại mới: - "Trung - hiếu": Nho giáo cho rằng Trung với vua và hiếu với cha mẹ. Hồ Chí Minh bổ sung là "Trung với nước hiếu với dân" để dạy cán bộ, "cần, kiệm, liêm, chính" & "chí công vô tư" để giáo dục cán bộ và người dân. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
- Ví dụ: Hồ Chí Minh vận dựng tư tưởng nho học của Nguyễn Trãi: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân để hình thành nên tư tưởng "LẤY DÂN LÀM GỐC"; hoặc trong đường lối ngoại giao của Nhà nước ta lúc mới hình thành đó là "DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN" Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa giữa các nền văn hóa và tỏa ra một nền văn hóa của tương lai. Tiếp thu văn hóa phương Đông, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo.
- Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khuyên chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị.
- Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại” Một lần nữa, ta thấy được rằng Hồ Chí Minh luôn biết cách tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, cụ thể ở đây là những tư tưởng tích cực trong Nho giáo: "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì tới vòng danh lợi". (Hồ Chí Minh)
- II. Phật giáo và Hồ Chí Minh 1. Khái quát về Phật giáo Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được một nhân vật lịch sử là Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên. Cơ sở tư tưởng của Phật pháp là Tứ diệu đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế), là cốt lõi giáo pháp của đạo Phật, và cũng là điều mà Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo. Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được một nhân vật lịch sử là Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên. Cơ sở tư tưởng của Phật pháp là Tứ diệu đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế), là cốt lõi giáo pháp của đạo Phật, và cũng là điều mà Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo.
- Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng. Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình thành nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc. Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- 2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh Cũng như Nho giáo, ở Hồ Chí Minh là sự tiếp thu có chọn lọc tinh tuý của Phật giáo - một nguồn gốc tư tưởng, triết lý, văn hóa phương Đông du nhập vào Việt Nam rất sớm. Những điểm tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn hết sức sâu sắc trong tư duy hành động, cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Người kế thừa những tư tưởng tiến bộ, tích cực của Phật giáo, đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn; nếp sống giản dị, thanh liêm; đề cao tinh thần bình đẳng; không xa rời đời sống mà luôn gắn bó với dân tộc, đất nước. Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.
- Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim muông, cây cỏ. Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện. Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng.
- Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc lâm Việt Nam, chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc. Người đánh giá rất cao tư tưởng bình đẳng của nhà Phật: “Ta là Phật đã thành còn chúng sinh là Phật sẽ thành”
- Từ năm 1957, Hồ Chí Minh đã được các vị cao tăng của Ấn Độ phong tặng danh hiệu “vị Phật sống”. Bản thân Người, trong các thư gửi đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Phật tín đồ Việt Nam, Người luôn coi Đức Phật là tấm gương “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”. Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo ở Hồ Chí Minh là rất tự nhiên, Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- III. Học thuyết Tam Dân và Hồ Chí Minh 1. Khái quát Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên) (1866-1925) là nhà chính trị cách mạng tiên phong của phong trào cách mạng dân chủ Trung Quốc đầu thế kỷ XX. Dựa trên sự tiếp thu những tư tưởng mới của thời đại để giải quyết những vấn đề cấp thiết của Trung Quốc thời kỳ cận đại, ông đã sáng tạo ra một hệ thống lý luận chính trị cách mạng sâu sắc - chủ nghĩa Tam dân, làm tôn chỉ cách mạng dẫn đường cho Cách mạng Tân Hợi năm 1911 thành công, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế kéo dài hơn hai ngàn năm và thiết lập nên nhà nước cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
- Chủ nghĩa Tam dân là một cương lĩnh chính trị do Tôn Dật Tiên đề xuất, với tinh thần biến Trung Quốc thành một quốc gia tự do, phồn vinh và hùng mạnh. Việc kế thừa và hiện thực ngày nay thể hiện rõ nhất trong tổ chức chính quyền của Cộng hòa Trung Hoa (Đài Loan). Triết lý này cũng xuất hiện trong dòng đầu tiên của Quốc ca Cộng hòa Trung Hoa. Cương lĩnh (hay học thuyết) chính trị này bao gồm: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc”.
- Dân tộc độc lập: Phản đối chủ nghĩa đế quốc và quân phiệt cấu kết xâm lược, mưu cầu bình đẳng dân tộc và quyền tự quyết dân tộc . Dân quyền tự do: Thi hành chính sách dân chủ, ngăn cản sự lạm dụng chế độ hiện hành của Âu-Mỹ, nhân dân có quyền bầu cử, kêu gọi bầu cử, sáng tạo, trưng cầu dân ý để thông qua đó chọn ra các cơ quan lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Dân sinh hạnh phúc: Quyền về đất đai của mỗi người dân và kiểm soát vốn, tư nhân không thể thao túng sinh kế quốc dân.
- 2. Ảnh hưởng của học thuyết Tam dân đến tư tưởng Hồ Chí Minh Khi đã trở thành người mácxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Người.
- Nói về những ảnh hưởng sâu sắc của Tôn Trung Sơn với Hồ Chí Minh, tác giả Đặng Thanh Tịnh – Đại học Sư phạm Hà Nội nhắc lại lời của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng “Lâu nhất trong đời hoạt động hải ngoại của Người, Hồ Chủ tịch ở Trung Hoa có cảm tình nồng nàn với Tôn Văn, với cách mạng và nhân dân Trung Quốc ”. Trong tư tưởng và phương pháp cách mạnh của Hồ Chí Minh, chúng ta đều thấy có dấu ấn sâu đậm của chủ nghĩa Tam dân kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Tác giả cũng tìm hiểu những học hỏi, vận dụng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Tác giả kết luận “Sự ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với Hồ Chí Minh trên đây là hoàn toàn phù hợp với thực tế Hồ Chí Minh đã coi Tôn Trung Sơn như một nhà cách mạng tiền bối quý mến gần cùng chí hướng với mình nên đã đón nhận chủ nghĩa Tam dân và phương pháp cách mạng của Tôn Trung Sơn một cách hứng khởi”.
- Còn PGS. Nguyễn Văn Hồng trong bài “Tôn Trung Sơn – Hồ Chí Minh mối đồng cảm lịch sử và thời đại” đã nhấn mạnh “Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở Tôn Trung Sơn những đồng cảm, tâm huyết của một nhân vật thế hệ đàn anh đi trước, đáng kính như người thày”. Và tác giả phát hiện ra một điều lý thú “Sự gặp gỡ ngẫu nhiên kỳ diệu trong lịch sử là Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh, cả hai lãnh tụ dân tộc của châu Á, nửa đầy thế kỷ XX này đều được hai dân tộc tôn xưng là Người cha của dân tộc”.
- Sau này, cách mạng 1945 thắng lợi, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường ca ngợi tình hữu nghị lâu đời giữa hai nước Việt – Trung và không quên tôn vinh chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Ngày 12/10/1945, nhân danh Chủ tịch nước, Người đã ký sắc lệnh số 49 về việc ghi rõ quốc hiệu Việt Nam Dân chủ cộng hoà trên các công văn, điện văn, công điện, trát, đơn từ, báo chí, chúc từ và sau đó (chưa rõ ngày tháng năm nào), chúng ta lại thấy phía dưới dòng tiêu đề: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xuất hiện trang trọng ba cặp biểu ngữ: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc phản ánh niềm khát vọng muôn đời của biết bao thế hệ con dân nước Việt Nam yêu quý.
- Ba tiêu ngữ này hẳn là “tác phẩm” của chủ tịch Hồ Chí Minh vốn có nguồn gốc từ ba chủ nghĩa “Dân” của Tôn Trung Sơn được Người tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo ở Việt Nam trong cả quá trình đấu tranh giải phóng giành Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do và Dân sinh hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là ba chính sách. Tại phiên họp bế mạc kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 9/11/1946, Người đã long trọng phát biểu: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém”
- Và Người cũng từng nói: “chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên có ưu điểm là thích hợp với điều kiện nước chúng tôi Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của ông” Nhưng khi tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, ở Hồ Chí Mah vẫn có những chỗ khác biệt, kể cả sắp xếp ngôn từ lẫn giới thuyết nội dung tư tưởng như: “Tôn Trung Sơn viết “Tam dân chủ nghĩa” tức là Chủ nghĩa ba dân: chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân quyền, chủ nghĩa dân sinh. Tôn Trung Sơn không nói: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngược lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh không viết “chủ nghĩa” dân tộc độc lập
- Về nội dung, Hồ Chí Minh chủ trương dân tộc bị áp bức Việt Nam đoàn kết với Liên Xô, với giai cấp vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức khác đánh đổ chủ nghĩa đế quốc thống trị Việt Nam, gắn chủ nghĩa quốc tế, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nông. Sau khi giành được độc lập rồi, phải củng cố nền độc lập, xây dựng một quốc gia giàu mạnh, bình đẳng với các nước trên thế giới, độc lập gắn liền với tự do. Bởi thế mà Hồ Chí Minh mới nhấn mạnh trong tư tưởng của Người đã có thêm một mệnh đề khái quát tầm cỡ triết học mang tính thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và luôn gắn kết ý nghĩa thực tiễn “độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”.
- Ngoài ra, ảnh hưởng của tư tưởng Lão – Trang cũng thể hiện đậm nét trong con người Chủ tịch Hồ Chí Minh với lòng yêu thiên nhiên , lối sống giản dị, hòa mình với thiên nhiên của Người. Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư tưởng phương Đông như Lão tử, Mặc tử, Quản tử
- Link tham khảo: bit.ly/
- 1. Nguyễn Văn Huy 2. Nguyễn Vũ Bảo 3. Vương Hưng Thanh Hùng 4. 5. 6. 7. Đoàn Công Lập