Bài giảng Triết học Mác-Lênin (Trình độ Cao đẳng)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Triết học Mác-Lênin (Trình độ Cao đẳng)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_triet_hoc_mac_lenin_trinh_do_cao_dang.doc
Nội dung text: Bài giảng Triết học Mác-Lênin (Trình độ Cao đẳng)
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Bài giảng triết học 1 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Chương I Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội I.- Triết học là gì 1.Triết học và đối tượng của triết học a) Khái niệm triết học, nguồn gốc của triết học -Triết học ra đời cả ở phương Đông và phương Tây (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên ) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc,ấn Độ, Hy Lạp. Theo người Trung Quốc thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết. Triết học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con người. ở Ân Độ, triết học có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí , là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp. nếu chuyển từ tiếng hy Lạp cổ sang tiếng La tinh thì triết học là phylosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với người Hy lạp, phylosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người. Như vậy, dù ở phương Đông hay phương tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội. -Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người và cuộc sống cộng đồng nói riêng. và thể hiện nó dưới dạng duy lý. Khái quát lại, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy. Với tư cách là hệ thống lý luận chung nhất triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện sau : +Con người phải có vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. 2 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng + Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hoá các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời. Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Về nguồn gốc nhận thức, là lúc con người đạt đến trình độ trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận. Về nguồn gốc xã hội, là lúc lao động phải phát triển đến mức có sự phân chia lao động chân tay và lao động trí óc, tức là xã hội đã phát triển đến mức chế độ Công xã nguyên thuỷ bị thay bằng chế độ Chiếm hữu nô lệ- chế độ có giai cấp đầu tiên của nhân loại. Vì vậy, từ khi ra đời, triết học, tự nó đã mang tính giai cấp, nghiã là nó phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định. *Lưu ý :Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau và sự phân chia chúng chỉ có tính chất tương đối b- Đối tượng của triết học; sự biến đổi của đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử. +Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là triết học tự nhiên, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Thời kì này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tri thức thời hiện đại cả trong vật lý, toán học, hoá học, thiên văn học .cho đến mỹ học, đạo đức học dân tộc học. Nổi bật trong triết học của Đêmôcrit. + Thời kì trung cổ:. Triết học chỉ còn nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của những nội dung trong kinh thánh. Nền triết học tư nhiên được thay bằng triết học kinh viện . +Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV- XVI đã tạo một cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng triết học. Triết học duy vật chủ nghĩa đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII- XVIII ở Anh, Pháp, Hàlan, 3 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát triển trong các học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen, . + Đầu thế kỷ XIX, do hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt với quan niệm "triết học là khoa học của mọi khoa học", triết học Mác xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học nghiên cứu thế giới bằng những phương pháp của riêng mình . Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. 2- Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan Thế giới quan : là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó. - Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. + Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan. Song, tri thức chỉ ra nhập thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin. + Niềm tin định hướng cho hoạt động của con người - Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu về thế giới quan. + Xét theo quá trình phát triển có thể chia thế giới quan thành 3 loại hình cơ bản: thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo, và thế giới quan triết học . .Thế giới quan huyền thoại : là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên thuỷ. Trong thế giới quan huyền thoaiị, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới. 4 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng .Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu; tín ngưỡng cao hơn lí trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người. . Triết học diễn tả quan niệm của con người dưới dạng hệ thống các phạm trù, quy luật đóng vai trò bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với ý nghĩa như vậy triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát triển của thế giới quan. Như vậy: triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan; triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân mỗi cộng đồng trong lịch sử ii- vấn đề cơ bản của triết học. CNDV và CNDT triết học. 1- Vấn đề cơ bản của triết học *Vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học vì: + Trong thế giới có vô vàn hiện tượng , nhưng chung quy lại chúng chỉ phân thành 2 loại :1 là những hiện tượng vật chất, 2 là những hiện tượng tinh thần . + Việc giải quyết vấn đề này không chỉ là cơ sở và điểm xuất phát để giảIiquyết các vấn đề khác của triết học ; mà nó còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường thế giới quan của các triết gia và các học thuyết của họ * Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất: giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thứ hai: con người có khả năng nhân thức được thế giới hay không? 2- Các trường phái triết học . a- Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm . Giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân định các trường phái triết học. Có ba cách giải quyết; Một là, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức . Hai là, ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thứ hai của vật chất . 5 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Ba là, vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng không có quan hệ sản sinh và cũng không nằm trong quan hệ quyết định nhau. *Cách giải quyết thứ nhất và cách giải quyết thứ hai giống nhau là đều thừa nhận tính thứ nhất của một nguyên thể ( hoặc vật chất , hoặc ý thức). Hai cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên. Trong triết học nhất nguyên, những người khẳng định tính thứ nhất của vật chất thuộc trường phái nhất nguyên duy vật, còn gọi là chủ nghĩa duy vật . Những người khẳng định tính thứ nhất của ý thức thuộc trường phái triết học nhất nguyên duy tâm, còn gọi là chủ nghĩa duy tâm - Chủ nghĩa duy vật: + Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại. Tuy còn rất nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại về cơ bản là đúng. Vì nó đã lấy tự nhiên để giải thích tự nhiên. + Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm tôn giáo, điển hình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời phục hưng + Chủ nghĩa duy vật biện chứng :không chỉ phản ánh hiện thực như chính bản thân nó tồn tại ,mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy - Chủ nghĩa duy tâm: +Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức. Sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác . + Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức. Nhưng theo họ đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. * Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo cách thứ ba: thừa nhận vật chất và ý thức tồn tại hoàn toàn độc lập với mhau, thuộc về triết học nhị nguyên Triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hoà chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm b- Thuyết không thể biết: 6 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Là 1 kết quả của việc giảI quyết mặt thứ 2 của vấn đề cơ bản của triết học là :con người có thể nhận thức được thế giới hay không ? . Theo thuyết này, con người không thể hiểu được đối tượng hoặc có hiểu chăng chỉ là hiểu hình thức bề ngoài Thuyết không thể biết ra dời từ trào lưu hoài nghi luận trong triết học Hy Lạp cổ đại . Những người theo trào lưu này nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan. III- siêu hình và biện chứng 1- Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng. a- Phương pháp siêu hình Phương pháp siêu hình là phương pháp : +Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối. + Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng . Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ quan điểm cho rằng : muốn nhận thức một đối tượng nào đó , trước hết , con người phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định.Vì vậy , phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định b- Phương pháp biện chứng. Phương pháp biện chứng là phương pháp : +Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, ràng buộc nhau. +Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động, biến đổi, trong khuynh hướng chung là phát triển. Đó là quá trình thay đổi về chất của sự vật hiện tượng mà nguồn 7 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng gốc của sự thay đổi là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng. Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo , linh hoạt, ; phản ánh hiện thực đúng như nó đang tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới. 2- Các giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng +Phép biện chứng tự phát thời cổ đại: Các nhà biện chứng thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hoá trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì mà họ thấy được chỉ là trực kiến chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. +Phép biện chứng duy tâm : Đỉnh cao của hình thức này thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ, người hoàn thiện là Hêghen. Theo họ, biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, giới hiện thực chỉ là sao chép ý niệm +Phép biện chứng duy vật:. Được thể hiện trong triết học do Mác và Ănghen xây dựng sau đó dược Lênin phát triển. Mác và Ănghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là một học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất. Iv- sự ra Đời triết học Mác - Lênin và thực chất cuộc cách mạng mà nó thực hiện 1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác a- Điều kiện kinh tế-xã hội Điều kiện kinh tế - xã hội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX? - Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất TBCN trong điều kiện cách mạng công nghiệp Sự phát triển rất mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc 8 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Nhờ vậy, tính hơn hẳn của chế độ TBCN so với chế độ phong kiến được thể hiện 1 cách rõ nét Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội ngày càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt. đối kháng xã hội thêm sâu sắc, những xung đột giữa giai cấp vô sản và tư sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp . - Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử vơi tính cách một lực lượng chính trị xã hội độc lập. Khi cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản phát triển , thì giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng nữa giai cấp vô sản xuất hiên trên vũ đài lịch sử không chỉ có sứ mệnh là "kẻ phá hoại" chủ nghĩa tư bản , mà còn là lực lượng đI tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội . -Nhu cầu lý luận của thực tiễn cách mạng : Những vấn đề của thời đại do sự phát triển của CNTB đặt ra đã được phản ánh trong các học thuyết – với tính cách là 1 hệ thống những quan điểm lý luận về triết học , kinh tế và chính trị – xã hội khác nhau .Ví dụ : Sự lý giảI về những khuyết tật của CNTB đương thời , về sự cần thiết phảI thay thế nó bằng xã hội tốt đẹp hơn , thực hiện được sự bình đẳng xã hội đã sản sinh ra nhiều biến tướng của CNXH (CNXH phong kiến , CNXH tư sản , CNXH tiểu tư sản ) Đặc biệt , sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận tiến bộ và cách mạng mới. Đó là . Lý luậndo Mác và Ăngghen sáng tạo nên , trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở lý luận chung - cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. b- Nguồn gốc lý luận và những tiền đề của khoa học tự nhiên. - Nguồn gốc lý luận. Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và phoiơbăc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mac. Mác - Ăngghen đã đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Hêghen . Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Mác đã dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật triết học mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật triết học 9 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng củaPhoiơ băc; đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính chất siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó. Từ đó, hai ông đã xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ. là CNDVBC .K. Sự hình thành tư tưởng triết học ở Mác và Ăngghen diễn ra trong sự tác động qua lại với quá trình Mác - Ăngghen kế thừa và cải tạo lý luận kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A.Dam Smith, D.Ricardo Đồng thời , trong chủ nghĩa Mác ,những quan điểm triết học được hình thành không tách rời với những quan điểm chính trị – xã hội qua việc cảI tạo 1 cách có phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp - một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác. . Vì vậy tìm hiểu nguồn gốc lý luận của triết học Mác không chỉ ở nguồn gốc lý luận về triết học mà ở cả trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác. - Tiền đề khoa học tự nhiên Trong những thập kỷ đầucủa thế kỷ XIX , khoa học tự nhiên đã phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng . Những phát minh mới của khoa học tự nhiên ,1 mặt, làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp, bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhân thức thế giới ; mặt khác , với những phát minh của mình , khoa học đã cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật. Trong số những thành tựu của KHTN thời đó ,Ăngghen nêu bật ý nghĩa của ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng : Định luật bảo toàn chuyển hoá năng lượng, Thuyết tế bào Thuyết tiến hóa của Đacuyn .Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa các dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhât vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động phát triển của nó. Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác đã ra đời như là một tất yếu lịch sử, không chỉ vì đời sống và thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách 10 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng mạng của giai cấp công nhân; mà còn vì nhân loại đã tạo ra những tiền đề cho sự ra đời lý luận mới . 2- Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. +Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình . +Triết học Mác ra đời tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử triết học nhân loại -Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học Nhưng,chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là sự lắp ghép phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen, - Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người: - Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi.Triết học trước mác chỉ giải thích thế giới. Triết học Mác đặc biệt đề cao vai trò của thực tiễn, coi lý luậnlà phải phục vụ thực tiễn cải tạo thế giới. . Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất .Vì : sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ tự phát lên tự giác - Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng của nhiều nhà triết học duy tâm coi triết học là " khoa học của các khoa học" đứng trên mọi khoa học. V- Vai trò của triết học trong đời sống xã hội 11 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng 1 - Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học Chức năng thế giới quan Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Chức năng phương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp . Phương pháp luận là một bộ phận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét theo phạm vi, tác dụng của nó; phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ: phương pháp luận ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con ngươì trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp . 2- Vai trò của triết học Mác - Lênin. a.Vai trò của triết học mác trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn . Triết học Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người. Trong triết học mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa CNDV và PBClàm cho CNDV trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; 12 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy của con người. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là sự diễn tả quan niệm về thế giới, là lý luận về thế giới quan Hệ thống các quan điểm của CNDV mác xít, do tính đúng đắn và triệt để của nó , đã trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận. Vì thế , Nắm vững triết học Mác- Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan khoa học mà còn xác đinh một phương pháp luân đúng đắn. Như vậy , sự thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận đã làm cho triết học Mác , như Lênin nhận xét : là 1” CNDV triết học hoàn bị” đồng thời là “công cụ nhận thức vĩ đại “ b- Triết học Mác-Lênin với các khoa học khác. Triết học Mác-Lênin không thay thế các khoa học khác trong việc nhận thứcc thế giới. Triết học Mác-Lênin phủ nhận quan niệm xem triết học là khoa học của mọi khoa học, mà xem triết học vơi các khoa học khác có mối quan hệ biện chứng với nhau, xem sự gắn bó của triết học với các khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Chính vì vậy, sự hợp tác chặt chẽ giữa triết học và khoa học khác là điều hết sức cần thiết. 3.ý nghĩa của việc nghiên cứu triết học Mác – Lênin : +Quán triệt thế giới quan , phương pháp luận khoa học của triết học Mác – Lênin sẽ giúp chúng ta có thể tiếp thu được những quan điểm kinh tế và chính trị – xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin theo tinh thần khoa học , tránh được những sai lầm do chủ nghĩa chủ quan và phương pháp tư duy siêu hình gây ra +Việc nghiên cứu , nắm vững triết học Mác-Lênin sẽ giúp con người tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của công cuộc đổi mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng thành công CNXH. Tuy nhiên, triết học Mác -Lêninkhông phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn cách giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. 13 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Bởi vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tránh cả hai thái Xem thường triết học sẽ xa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện cực sai lầm: hoặc xem thường triết học hoặc là tuyệt đối hoá vai trò của triết học . pháp cụ thể nhất thời, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động và sáng tạo. Tuyệt đối hoá vai trò của triết học sẽ xa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý, những quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những trường hợp riêng, dẫn đến những vấp váp dễ thất bại. Bồi dưỡng thế giới quan DVvà rèn luyện tư duy biện chứng đề phòng và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình vừa là kết quả, vừa là mục đích của việc học tập, nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác- Lênin nói riêng Chương II Vật chất và ý thức I- Vật chất và các hình thức tồn tại của nó 1- Định nghĩa phạm trù vật chất. a. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là "ý chí của thượng đế", là "ý niệm tuyệt đối" Chẳng hạn, Platon cho rằng, vật chất bắt nguồn từ "ý niệm", Sự vật cảm tính là cái bóng của "ý niệm". Beccli nhà triết học duy tâm chủ quan lại đưa ra công thức chung "tồn tại tức là được tri giác". Hêghen lại cho rằng: vật chất là do ý niệm tuyệt đối sinh ra . 14 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng b.Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn tại vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng. + Vào thời cổ đại các nhà duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó, tức là với những vật thể hữu hình cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. ở Trung hoa cổ đại các nhà duy vật coi khí là thực thể của thế giới. ở ấn độ cổ đại, phái Nyaya, Vaisesika coi mguyên tử là một thực thể của thế giới. ở Hylạp cổ đại, Ta lét coi thực thể của thế giới là nước Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrit. Nguyên tử là những phần tử cực nhỏ, cứng và không thể xâm nhập được, không cảm giác được. Nguyên tử có mhiều loại. Sự kết hợp hay tách rời nguyên tử theo trật tự khác nhau của không gian tạo nên toàn bộ thế giơí. +Thời phục hưng - cận đại : -Thời phục hưng : Phranxi Bêcơn coi thế giới vật chất tồn tại khách quan, vật chất là tổng hợp các hạt, coi tự nhiên là tổng hợp những vật thể có chất lượng muôn màu, muôn vẻ, vận động là một thuộc tính không tách rời khỏi vật chất. Đêcáctơ trong học thuyết vật lý duy vật của mình đã xuất phát từ vật chất vận động để giải thích thế giới . Xpinôda cho rằng chỉ có tự nhiên là tồn tại, tồn tại là nguyên nhân tự nó, để tồn tại thì tự nhiên chẳng cần cái gì khác . -Thời cận đại : Điđrô cho rằng, trong vũ trụ, trong con người, trong mọi sự vật chỉ có một thực thể duy nhất là vật chất. Vật chất là nguyên nhân duy nhất của mọi cảm giác của chúng ta. Khi phê phán quan điểm máy móc về vận động, ông nêu tư tưởng biện chứng rằng, bản tính cố hữu của vật chất là vận động, vận động là năng lực sống động của vật chất, Vận động có cả ở dạng vật chất đang vận động lẫn dạng đứng yên. Đặc biệt Hônbách, khẳng định rằng tự nhiên là nguyên nhân đầu tiên của vạn vật. Vật chất, theo Hônbách đó là tất cả những gì tác động bằng cách nào đó vào cảm giác của chúng ta. c- Định nghĩa của Lênin về vật chất, 15 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Đến thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện những phát minh mới trong khoa học tự nhiên Những phát minh đó là bước tiến của loài người trong việc nhận thức và làm chủ giới tự nhiên, nó bác bỏ quan niệm siêu hình về vật chất. Song trong nhận thức lúc đó,những phát minh mới của khoa học tự nhiên ( các hạt điện tích và trường điện từ) lại bị coi là cái gì đó phi vật chất. Lợi dụng điều đó chủ nghĩa duy tâm tấn công vào chủ nghĩa duy vật, nó cho rằng " vật chất" đã tiêu tan, nền tảng của chủ nghĩa duy vật đã sụp đổ. Trong hoàn cảnh đó , Lênin đã kháI quát thành tựu của khoa học tự nhiên và chỉ rõ rằng: vật chất không bị tiêu tan. Cái bị tiêu tan, bị bác bỏ chính là giới hạn hiểu biết trước đây về vật chất, là quan điểm siêu hình, máy móc trong nhận thức khoa học Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm triết học. Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất, một định nghĩa mà cho tới ngày nay khoa học hiện đại vẫn phải thừa nhận: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Ở định nghĩa này Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng: + Trước hết, cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng, của các dạng vật chất khác nhau. vật chất với tư cách là một phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó. + Thứ hai, trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng nhất để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan. Khách quan theo Lênin là "cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người". Trong đời sống xã hội, "vật chất là cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người". Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có gì khác 16 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng hơn: "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người và được ý thức con người phản ánh". Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin gồm những nội dung cơ bản sau: - Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức hay chưa nhận thức được. -Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan của con người. - Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. +Ý nghĩa của định nghĩa : - Khi khẳng định vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác", "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", Lênin đã thừa nhận rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái "được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh", Lênin muốn nhấn mạnh rằng: bằng những phương thức nhận thức khác nhau(chép lại, chụp lại , phản ánh ) con người có thể nhận thức thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất. Đồng thời định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới. - Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội, từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lí luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất; trên cơ sở ấy người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển. 2. Vật chất và vận động: a- Quan điểm Duy tâm, siêu hình về vận động + Quan điểm Duy tâm: Do thừa nhận ý thức có trước vật chất nên họ cho rằng vận động là sự tự vận động của “ý niệm”, của “ý niệm tuyệt đối”. Những người duy 17 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng tâm không tìm nguồn gốc của vận động ở bên trong bản thân sự vật, mà đi tìm nguồn gốc ở ngoài sự vật. + Quan điểm siêu hình: cho rằng, không có sự vận động của vật chất, sự vật luôn tĩnh tại không vận động, biến đổi; hoặc nếu có vận động thì cũng chỉ là sự tăng giảm về số lượng, sự dịch chuyển vị trí của vật thể trong không gian. Họ không thấy được nguồn gốc của sự vận động, phát triển. b- Quan điểm duy vật biện chứng về vận động "Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất –tức được hiểu là 1 phương thức tồn tại của vật chất , là thuộc tính cố hữu của vật chất - thì bao tất cả gồm mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ sự thay đổi vị trí giản đơn cho đến tư duy". * Vận động là "thuộc tính cố hữu của vật chất ", "là phương thức tồn tại của vật chất ". + Với tính cách "là một thuộc tính cố hữu của vật chất", vận động là sự tự thân vận động của vật chất , được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các yếu tố nội tại trong cấu trúc vật chất . + Vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi ,thì vận động – với tính cách là phương thức tồn tại tất yếu của vật chất - cũng vậy, cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra. Song cần hiểu tính bất diệt của vận động không chỉ đơn thuần về mặt số lượng, mà cần hiểu cả về mặt chất lượng nữa : nếu 1hình thức vận động nào đó của sự vật mà mất đI, thì tất yếu nảy sinh các hình thức vận động khác thay thế . *Khi nghiên cứu các hình thức vận động của vật chất, Ăngghen đã chia vận động thành 5 hình thức - Vận động cơ học ( sự di chuyển vị trí các vật thể trong không gian) - Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt, điện ) - Vận động hoá học ( vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp phân giải các chất) - Vận động sinh học (sự biến đổi trong các cơ thể sống ,thể hiện ở sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường ) 18 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng - Vận động xã hội ( sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các HT KT- XH). *Chú ý:. +Các hình thức vận động trên tồn tại trong mối liên hệ không tách rời nhau .Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau về chất . +Các hình thức vận đọng cao xuất hiện trên cơ sở các hình ehức vận động thấp , bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp, Ngược lại , các hình thức vận động thấp lại không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn Bởi vậy , mọi sự quy giản hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp đều là sai lầm . +Trong sự tồn tại của mình , mỗi sự vật có thể gắn với nhiều hình thức vận động khác nhau . Nhưng bản thân sự tồn tại của sự vật bao giờ cũng được đặc trưng bằng 1 hình thức vận động cơ bản . * Vận động và đứng im Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận rằng : quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà cò bao hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối. Đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im tương đối [hay trạng thái cân bằng tạm thời của sự vật trong quá trình vận động của nó] là, Trước hết hiện tượng đứng im tương đối chỉ xẩy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ trong cùng một lúc.(ví dụ) . Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải mọi thình thức vận động trong cùng một lúc. Thứ ba, đứng im là biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối ,trong khi nó còn là nó chưa bị phân hoá thành cái khác . . Do đó, đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi của chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Thứ tư là vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó, còn vận động nói chung, tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và 19 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng hiện tượng làm cho tất cả không ngừng biến đổi. Vì thế đứng im chỉ là một hiện tượng tạm thời. 3- Không gian và thời gian a- Quan điểm duy tâm và siêu hình Trong lịch sử triết học, xung quanh các phạm trù không gian và thời gian đã từng có rất nhiều vấn đề tranh cãi. Những người theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan của không gian và thời gian. Chẳng hạn Beccơli và Hium, coi không gian và thời gian chỉ là nội dung của ý thức cá nhân. Cantơ "coi không gian và thời gian là hình thức của trực quan của con người chứ không phải là thực tai khách quan"1. Các nhà DVSH thế kỷ XVII-XVIII lại tách rời không gian và thời gian với vật chất . Niutơn cho rằng, không gian và thời gian là những thực thể đặc biệt không gắn bó gì với nhau và tồn tại độc lập bên cạnh vật chất cũng tương tự như các vật tồn tại độc lập bên cạnh nhau vậy b- Quan điểm duy vật biện chứng về không gian và thời gian + Cùng với vận động thì không gian và thời gian cũng là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật chất. Lênin viết: "trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian". + Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất đều có vị trí, hình thức kết cấu, có độ dài ngắn, cao thấp. Tất cả những thuộc tính đó gọi là không gian. + Các sự vật tồn tại trong trạng thái biến đổi với tốc độ nhanh chậm khác nhau, kế tiếp và chuyển hoá lẫn nhau, những thuộc tính đó gọi là thời gian. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính: độ lâu của sự biến đổi. Trình tự xuất hiện, mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất. + Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng không gian và thời gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và cả hai đều là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không thể có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian và thời gian, cũng như không thể có không gian và thời gian nào tồn tại ngoài vật chất. F. Engels viết: "Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian . 20 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Quan điểm trên của triết học duy vật biện chứng đã được xác nhận bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên. Chẳng hạn Lôbatsepxki, trong hình học phi Ơcơlit của mình, bằng con đường hướng vào bản thân thực tại và vào bản chất của sự vật, ông đã nêu định đề thứ 5 khác với Ơclít rằng, "Qua một điểm ở ngoài đường thẳng người ta có thể kẻ không phải là một mà ít nhất là hai đường thẳng song song với đường thẳng đó". Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau: - Tính khách quan nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian tồn tại khách quan . - Tính vĩnh cửu và vô tận, nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về bên phải lẫn bên trái, cả về phía trên lẫn phía dưới; cả về quá khứ lẫn tương lai. - Không gian luôn luôn có ba chiều. Còn thời gian chỉ có một chiều ( từ quá khứ đến tương lai) 4- Tính thống nhất vật chất của thế giới Các trường phái duy vật cho rằng: mọi hiện tượng của thế giới đều được cấu tạo từ những vật thể ban đầu giống nhau, thống nhất với nhau, cùng bị chi phối bởi một số quy luật nhất định. Các nhà DV thời cổ đại cho rằng thế giới thống nhất vì nó được cấu tạo từ lửa (Hêracrit), nước ( Talét), hoặc không khí (Anaximen), hoặc từ ngũ hành (theo quan điểm triết học Trung hoa cổ đại) . Các nhà triết học duy tâm đi tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ở "ý niệm tuỵệt đối" hoặc ở ý thức con người và khẳng định rằng sở dĩ thế giới là thống nhất vì nó được người ta nghĩ về nó như cái thống nhất Ăng ghen chỉ rõ rằng :. " Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó". Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của khoa học, CNDV BCđã chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật chất , thế giới thống nhất ở tính vật chất . Điều đó thể hiện ở những điểm cơ bản sau: 21 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại kq,có trước và độc lập với ý thức của con người. Hai là, mọi bộ phận của thế giới có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất . Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn vô hạn và vô tận, không được sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có cái gì khác ngoài quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và là kết quả của nhau . Sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm DT tôn giáo tìm nguồn gốc bản chất thế giơí từ thần thánh, từ những lực lượng siêu nhiên Nếu như tôn giáo chia thế giới thành ba bộ phận khác nhau về bản chất : trần gian , địa ngục, thiên đường, do đấng thiêng liêng nào đó tạo ra và chi phối , thì trái lại, Khoa học tự nhiên và triết học duy vật đã chứng minh rằng, thế giới xung quanh ta từ những vật vô cùng lớn đến những vật vô cùng nhỏ, từ tự nhiên đến xã hội, từ giới vô sinh đến giới hữu sinh, từ thực vật đến động vật tuy rất khác nhau song đều có cùng một bản chất vật chất và thống nhất ở bản chất vật chất ấy. Xã hội loài người là cấp độ cao nhất của cấu tạo vật chất, là cấp độ đặc biệt của tổ chức vật chất. Xã hội là một bộ phận của thế giới vật chất, có nền tảng tự nhiên, có kết cấu và quy luật vận động khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Vật chất dưới dạng xã hội là kết quả hoạt động của con người. Quan niệm duy vật về lịch sử của triết học Mác -Lênin đã đóng góp quan trọng trong việc chứng minh vị trí hàng đầu, ưu thế của các quan hệ kinh tế trong hệ thống các quan hệ xã hội đã tạo cơ sở khoa học để nhận thức đúng đắn các hiện t- ượng xã hội, để nghiên cứu các quy luật khách quan của xã hội . Như vậy, thế giới về bản chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất của nó. thế giới có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận với vô số những biểu hiện muôn hình muôn vẻ. II- Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức. 1- Nguồn gốc của ý thức 22 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng a- Nguồn gốc tự nhiên Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là óc người. Cần thấy : +Bộ óc của con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật và xã hội. +Trong bộ óc người , quá trình ý thức không đồng nhất , cũng không tách rời , độc lập hay song song với quá trình sinh lý . Đó là 2 mặt của 1 quá trình – quá trình sinh lý thần kinh mang nội dung ý thức . +Ngày nay,sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra những máy móc tinh khôn thay thế cho 1 phần lao động trí tuệ của con người ; nhưng điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người . Tuy nhiên , nếu chỉ có bộ óc người , mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh thì cũng không có ý thức . Vì vậy : Mối liên hệ vật chất giữa bộ óc với thế giới khách quan đã hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào óc người , hình thành ý thức . *Chú ý : + Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. + Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao từ giản đơn đến phức tạp. - Trong giới tự nhiên vô sinh chỉ có những phản ánh vật lý, hoá học. Những phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng lựa chọn. -Trong giới tự nhiên hữu sinh : Phản ánh đã pháe triển lên hình thức cao hơn là phản ánh sinh vật - đã có sự định hướng,có sự lựa chọn. Nhờ đó, các sinh vật thích nghi với môi trường để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh sinh vật được thể hiện qua các hình thức : .Sự kích thích trong cơ thể do tác động của môI trường ở thực vật . 23 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng .Các phản xạ ở động vật có hệ thần kinh . .Tâm lý ở động vật cấp cao có bộ óc . Tuy nhiên, tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối. .Hình thức cao nhất của sự phản ánh hiện thực là ý thức Rõ ràng , ý thức bắt nguồn từ 1 thuộc tính của vật chất - thuộc tính phản ánh phát triển thành . Như vậy : bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc là nguồn gốc tự nhiên của ý thức . b- Nguồn gốc xã hội Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc người , dưới ảnh hưởng của lao động , ngôn ngữ và các quan hệ xã hội . +Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại; lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động, con người tách ra khỏi giới động vật. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó. . Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con người, làm biến đổi thế giới đó. +Ngôn ngữ : Trong quá trình lao động , ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm , trao đổi tư tưởng cho nhau .Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ . Như vậy: Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. -Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa là công cụ của tư duy. -Ngôn ngữ là phương tiện để truyền kinh nghiệm , trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ người này sang người khác , từ thế hệ này sang thế hệ khác. 24 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng - ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân,mà là một hiện tượng có tính chất xã hội; do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Vậy , nguồn gốc trực tiếp , quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động và thực tiễn xã hội . 2- Bản chất của ý thức -Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức sinh ra vật chất . -Các nhà triết học duy vật trước Mác: đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánh sự vật đó. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi quan điểm siêu hình - máy móc, nên họ đã coi ý thức là sự phản ánh thụ động , giản đơn , máy móc sự vật; không thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản ánh. -Chủ nghĩa duy vật biện chứng: coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người một cách năng động sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú: +Trên cơ sở những cái đã có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán dự báo được tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao. +Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người là quá trình năng động sáng tạo thống nhất ba mặt sau: - Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. - Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. - ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình . 3- Kết cấu của ý thức. a- Theo chiều ngang 25 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Ý thức gồm các yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí. trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi. Tri thức là kết quả quá trình con người nhận thức thế giới ,là sự phản ánh thế giới khách quan Ngày nay, vai trò động lực của tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật. Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức thì đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn Tình cảm là sự cảm động của con người là sự cảm động của con người trong quan hệ với thực tại xung quanh và với bản thân mình. b- Theo chiều dọc Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô thức - Tự ý thức : Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ về với ý thức về thế giới bên ngoài Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của xã hội, của một giai cấp của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai cấp mình, hay của tầng lớp mình . - Vô thức Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ , hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí. Vô thức có vai trò, tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con người. Vì vậy, không thể phủ nhận cái vô thức trong cuộc sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người.Nhưng cũng không nên cường điệu , tuyệt đối hoá vô thức . Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con người có ý thức.CáI giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải là vô thức -Tiềm thức 26 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có từ trướcnhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm năng. Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng trong cả hoạt động tâm lý hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học III.MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THƯC : Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó vật chất quyết định ý thức đồng thời ý thức cũng có vai trò tác động trở lại vô cùng quan trọng đối với vật chất. * Vật chất quyết định ý thức + Vật chất là nguồn gốc sinh ra ý thức. Não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc người, là hình ảnh của thế giới khách quan. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, +Vật chất quyết định nội dung của ý thức. Y thức con người gồm : ý thức thông thường và ý thức khoa học . Y thức thông thường : là những tình cảm, tâm trạng , thói quen, tập quán, những ước muốn và mục đích cuộc sống được hình thành trên cơ sở những điều kiện sinh sống của con người . Y thức khoa học : cũng là sự phản ánh hiện thực khách quan dưới hình thức những phạm trù , nguyên lý , quy luật và được trình bày thành những hệ thống học thuyết nhất định . +Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức . Y thức ra đời từ vật chất . Khi những điều kiện vật chất thay đổi, thì ý thức ra đời từ những điều kiện vật chất đó cũng thay đổi . +Vật chất là điều kiện khách quan để hiện thực hoá ý thức tư tưởng . 27 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Mỗi con người ,mỗi tổ chức xã hội thường có những chương trình , kế hoạch hành động thể hiện ý chí , nguyện vọng của mình ; nhưng ý chí , nguyện vọng đó chỉ được thực hiện trên cơ sở những điều kiện vật chất nhất định . * Vai trò của ý thức ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song khi sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vai trò của ý thức là ở chỗ +Trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. +Con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để tổ chức các hoạt động thực tiễn. +Bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. *Y nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức : Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở khách quan của nguyên tắc phương pháp luận khoa học : Mọi suy nghĩ và hành động phảI xuất phát từ thực tế khách quan ,tôn trọng tính khách quan của vật chất , tôn trọng quy luật khách quan lấy thực tế khách quan làm cơ sở cho mọi hoạt động của mình . Đồng thời , phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, , ngồi chờ *Sự vận dụng của Đảng ta: Trong cương lĩnh thông qua tại Đại hội VII,Đảng khẳng định “Đảng đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Trên cơ sở đó, Đảng đã rút ra bài học quan trọng là "mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan" Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Đảng chủ trương " Huy động ngày càng cao mọi nguồn 28 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng lực cả trong và ngoài nước , đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước “ Muốn vậy, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,phát huy sức mạnh toàn dân tộc , đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển thực hiện” dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 29 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Chương III Hai nguyên lý Của phép biện chứng duy vật i- nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 1- Khái niệm về mối liên hệ phổ biến. + Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia, chúng không có sự phụ thuộc sự ràng buộc và quy đinh lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau cũng chỉ là sự quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Cũng có những người theo quan điểm siêu hình cho rằng, các sự vật hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau Họ tìm cơ sở của sự liên hệ ,sự tác động qua lại giữa các sự vật , hiện tượng ở các lực lượng siêu tự nhiên hoặc ở ý thức , cảm giác con người +,Những người theo quan điểm biện chứng coi thế giới như là một chỉnh thể thống nhất; các sự vật hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Đồng thời những người theo quan điểm duy vật biện chứng cũng khẳng định rằng : cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới . Theo quan điểm này, các sự vật hịên tượng trên thế giới dù đa dạng , khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của 1 thế giới duy nhất là thế giới vật chất . Trên cơ sở đó , triết học duy vật biện chứng khẳng định : Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới. 2 - Các tính chất của mối liên hệ - Tính khách quan của mối liên hệ Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. - Tính phổ biến của mối liên hệ 30 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng + Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. + Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất bao quát nhất của thế giới - Tính đa dạng: Dựa vào tính đa dạng đó có thể chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới, mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp, trong đó sự tác động qua lại không phải qua khâu trung gian mới thực hiện được, mối liên hệ giữa các sự vật hay mối liên hệ giữa các mặt hay giữa các giai đoạn phát triển của một sự vật . Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy, trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định. Mỗi loại mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vận động phát triển của sự vật.Trong đó mối liên hệ bên trong , bản chất , chủ yếu giữ vai trò quyết định , các mối liên hệ khác ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật *Lưu ý +Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, Tuy sự phân chia thành các mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, nhưng sự phân chia đó lại hết sức cần thiết, vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò khác nhau trong sự vận động phát triển của sự vật. +Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên , xã hội và tư duy, thì phép biện chứng chỉ tập trung nghiên cứu những loại liên hệ chung , mang tính phổ biến . II - Nguyên lý về sự phát triển . 31 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng 1 - Những quan điểm khác nhau về sự phát triển . * Khĩ xem xét sự phát triển : + Quan điểm siêu hình, coi sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lượng, không có sự thay đổi về chất Đồng thời , họ cũng coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại sự vật đang có, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Hoặc là những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co thăng trầm, phức tạp. + Quan điểm biện chứng coi sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần vừa nhảy vọt, đưa đến sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Sự phát triển là kết quả của sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc *Về nguồn gốc của sự phát triển :. + Quan điểm duy tâm tôn giáo tìm nguồn gốc của phát triển ở thần linh, thượng đế, ở các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức của con người + chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là do chính mâu thuẫn trong chính sự vật đó quy định. Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định : Phát triển là 1 phạm trù triết học ding để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao , từ giản đơn đến phức tạp , từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật .: . Sự phát triển chỉ là trường hợp đặc biệt của sự vận động. trong quá trình phát triển , sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ ,cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động , chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn. .2- Tính chất của sự phát triển 32 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng a) Tính khách quan. Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan, là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng ý chí, ý thức của con người, dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn luôn luôn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất . b) Tính phổ biến . Nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy, ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. + Trong giới vô cơ : Sự phát triển biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất , sự tác động qua lại giữa chúng . + Trong giới hữu cơ : Khả năng thích nghi của sinh vật với sự biến đổi phức tạp của môI trường ; ở sự hoàn thiện thường xuyên quá trình trao đổi chất giữa cơ thể với môI trường ; ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn Ngay cả các Khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển, c) Tính đa dạng và tính phong phú. Mặc dù phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song mỗi sự vật mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, thời gian khác nhau, sự vật sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi. III - Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển * Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện . 33 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng + Với tư cách là 1 nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật , hiện tượng ; quan điểm toàn diện yêu cầu : Phải nhận thức sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Đồng thời , quan điểm toàn diện cũng yêu cầu chúng ta phải phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý đến mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Cần lưu ý: - Sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định - Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý tới nhiều mặt , nhiều mối liên hệ ; mà quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phảI đI từ tri thức về nhiều mặt , nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ kháI quát để rút ra cáI bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật , hiện tượng . -Quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn trải ,liệt kê các tính quy dịnh khác nhau của sự vật,hiện tượng . + Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận khoa học trong hoạt động thực tiễn : Quan điểm toàn diện yêu cầu , khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó, mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải sử dụng đồng bộ những biện pháp, phương tiện khác nhau để tác động đem lại hiệu quả cao nhất. * Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân, chúng ta cần có quan điểm phát triển. Nghĩa là: khi xem xét bật kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi chuyển hoá của chúng. - Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật. 34 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng - Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở đó để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, - Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. - Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận khoa học trong hoạt động thực tiễn ,quan điểm phát triển yêu cầu chúng ta phảI tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giảI quyết mâu thuẫn , nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo đúng quy luật khách quan vốn có của nó . *Mọi sự vật đều tồn tại trong không gian , thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian , thời gian đó , nên khi xem xét , giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra , phải có quan điểm lịch sử – cụ thể Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra , tồn tại và phát triển. Vận dụng quan điểm này vào điều kiện nước ta : - Để xác định đường lối chủ trương của từng giai đoạn cách mạng , của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ,cũng như bối cảnh quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó. Tất nhiên, trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng cũng bổ xung và điều chỉnhcho phù hợp với hoàn cảnh mới . 35 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng i- Khái lược về phạm trù và phạm trù triết học 1- Định nghĩa phạm trù và phạm trù triết học Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Phạm trù của phép biện chứng duy vật là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực ( bao gồm cả tự nhiên , xã hội , tư duy). Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào đều có những mặt, những thuộc tính những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm trù của phép BCDV. Giữa phạm trù triết học và phạm trù của các khoa học cụ thể có mối quan hệ biện chứng vơí nhau đó là quan hệ giữa cái chung và cái riêng. 2- Bản chất của phạm trù. + Phái duy thực cho rằng: phạm trù là những thực thể ý niệm, tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người. + Phái duy danh lại cho rằng: phạm trù chỉ là những từ trống rỗng do con người tưởng tượng ra, không biểu hiện cái gì của hiện thực. + Cantơ cho rằng phạm trù có sẵn trong con người một cách bẩm sinh, tiên nghiệm . + CNDVBC cho rằng: -Các phạm trù được hình thành trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cuả con người. - Các phạm trù được hình thành bằng con đường trừu tượng hoá, khái quát hoá những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có bên trong của bản thân sự vật. 36 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Vì vậy, nội dung của nó mang tính khách quan, bị thế giới khách quan quy định -Các phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức của con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vì thế giới khách quan luôn vận động, phát triển,nên các phạm trù phản ánh thế giới khách quan cũng phải vận động và phát triển Do đó, Hệ thống phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là hệ thống đóng kín , bất biến ; mà nó thường xuyên được bổ sung bằng những phạm trù mới cùng với sự phát triển của thực tiễn và của nhận thức khoa học ii- cái riêng, cái chung và cái đơn nhất 1- Khái niệm "cái riêng", "cái chung" và "cái đơn nhất" + Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định . + Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Cần phân biệt "cái riêng" với "cái đơn nhất" . + "Cái đơn nhất" là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một sự vật, hiện tượng, một kết cấu vật chất mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. 2- Quan hệ biện chứng giữa "cái riêng", "cái chung" và "cái đơn nhất". +Phái duy thực cho rằng : Cái riêng chỉ tồn tại tạm thời , tháng qua , không phảI là cáI tồn tại vĩnh viễn ; chỉ có cái chung mới tồn tại vĩnh viễn , thật sự và độc lập với ý thức con người . cái chung không phụ thuộc vào cái riêng , mà còn sản sinh ra các riêng . +PháI duy danh cho rằng : Chỉ có cái riêng tồn tại thực sự ; còn cáI chung là những tên gọi trống rỗng , do tư tưởng của con người bịa đặt ra không phản ánh gì trong hiện thực cả . *Phép BCDV cho rằng giữa cái riêng cái chung, cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Thể hiện: 37 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, cái phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc diểm chung , cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng. Thứ tư, trong quá trình phát triển của sự vật cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện cái cái cũ cái lỗi thời bị phủ định. 3- Một số kết luận về mặt phương pháp luận. - Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng. Thí dụ, - Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tuỳ theo từng cái riêng cụ thể để vận dụng cho thích hợp. - Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành "cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận 38 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái chung" và "cái chung " bất lợi trở thành "cái đơn nhất" iii - nguyên nhân và kết quả 1- Khái niệm nguyên nhân và kết quả a- Định nghĩa: - Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra. Thí dụ, cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là nguyên nhân của cuộc cách mạng vô sản (kết quả). Lưu ý : - Không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật khác nhau -Cần phân biệt nguyên nhân với nguuyên cớ và nguyên nhân với điều kiện. Nguyên cớ và điều kiện không sinh ra kết quả, mặc dù nó xuất hiện cùng với nguyên nhân . b- Tính chất của mối liên hệ nhân quả PBCDV khẳng định ;mối liên hệ nhân quả có những tính chất sau; - Tính khách quan , mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó gây nên biến đổi nhất định. Con người không thể sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả của hiện thực từ trong đầu mình. -Tính phổ biến: thể hiện ở chỗ: mọi sự vật, hiện tượng ở trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Vì vậy , . Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực. - Tính tất yếu: Cùng một nguyên nhân, trong những hoàn cảnh giống nhau chỉ có thể gây ra kết quả như nhau . Tuy nhiên trong thực tế không thể có nhũng sự vật hoàn toàn giống nhau lại tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. 39 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Vì vậy, tính tất yếu của mối liên hệ nhân qủa trên thực tế phải được hiểu là: nguyên nhân tác động trong những điều kiện , hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra càng giống nhau bấy nhiêu. 2- Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả a - Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện ra khi nguyên nhân đã xuất hiện . Tuy nhiên không phải bất kỳ sự nối tiếp nào trong thời gian của các sự vật, hiện tượng cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả. Thí dụ , ngày kế tiếp đêm nhưng không phải đêm là nguyên nhân của ngày, cũng tương tự chớp không phải là nguyên nhân của sấm Cái để phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ kế tiếp về thời gian là ở chỗ nguyên nhân và kết quả có quan hệ sản sinh ra nhau, trong đó nguyên nhân sinh ra kết quả. Nguyên nhân của ngày và đêm là do trái đất luôn quay quanh trục của nó, nên mặt trời chỉ chiếu sáng được phần trái đất hướng về phía nó, phần đó là ngày. Nguyên nhân của sấm và chớp đều do sự phóng điện giữa hai đám mây tích điên trái dấu sinh ra. Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mặt khác, một nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những kết quả khác nhau. Thí dụ, chặt phá rừng có thể gây ra nhiều hậu quả như lũ lụt, hạn hán, đất đai bị sói mòn, tiêu diệt một số loài sinh vật Nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại nếu những nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau, thì sẽ làm cản trở tác dụng của nhau, điều đó sẽ ngăn chặn sự xuất hiện của kết quả. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn phải phân tích vai trò của từng loại nguyên nhân để có thể chủ động tạo ra điều kiện thuận lợi cho những nguyên nhân quy định sự xuất hiện của kết quả (mà con người mong muốn) phát huy tác dụng. 40 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Thí dụ , trong nền kinh tế thi trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, mỗi thành phần kinh tế có vị trí nhất định đối với việc phát triển nền kinh tế chung. Các thành phần kinh tế vừa tác động hỗ trợ nhau , vừa mâu thuẫn nhau, thậm chí còn cản trở nhau phát triển. Muốn phát huy được tác dụng của các thành phần kinh tế để phát triển sản xuất , làm cho dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ văn minh, thì phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đócó điều kiện phát triển, trong đó thành phần kinh tế nhà nước phải đủ sức giữ vai trò chủ đạo, hướng các thành phần kinh tế khác hoạt động theo định hướng XHCN b- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân . Kết quả do nguyên nhân sinh ra nhưng sau khi xuất hiện , kết quả lại có ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai hướng: thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực), hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân ( hướng tiêu cực) Thí dụ , trình độ dân trí thấp do kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục. Nhưng dân trí lại là nhân tố cản trở việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vì vậy lại kìm hãm sản xuất phát triển. Ngược lại trình độ dân trí cao là kết quả của chính sách phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt nó, dân trí cao lại tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế giáo dục. c- Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả. Một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại . chuỗi nhân quả là vô cùng "không đầu" "không đuôi", và một hiện tượng nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể . 3- Một số kết luận về mặt phương pháp luận. -Mối liên hệ nhân quả mang tính khách quan và tính phổ biến; nên, muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc của con người, tách rời thế giới hiên thực . 41 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng - Vì nguyên nhân có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuật hiện . - Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực. -1 hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả , trong mối quan hệ khác lại là nguyên nhân ; nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng cần xem xét nó trong những quan hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân , cũng như trong quan hệ nó là kết quả . -Vì mối liên hệ nhân – quả là tất yếu , nên chúng ta phải dựa vào mối liên hệ nhân quả để hành động .Trong quá trình hành động cần lưu ý : Muốn loại bỏ 1 hiện tượng nào đó , cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó . Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện , cần tạo ra nguyên nhân , cùng các điều kiện cần thiết cho nguyên nhân sinh ra nó phát sinh tác dụng . -Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng nhằm đạt mục đích. Chẳng hạn, chúng ta cần phải tận dụng những kết quả đã đạt được trong xây dựng kinh tế phát triển giáo dục của 20 năm đổi mới để tiếp tục đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm xây dựng thành công CNXH ở nước ta. Iv - tất nhiên và ngẫu nhiên. 1 - Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên + Tất nhiên (tất yếu) là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế không thể khác được. 42 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng + Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện như thế khác. *Lưu ý -:Phạm trù tất nhiên có quan hệ với phạm trù cái chung", nguyên nhân, tính quy luật nhưng không đồng nhất với những phạm trù đó. Cái tất yếu là cái chung nhưng không phải mọi cái chung đều là tất yếu. -Cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên đều có nguyên nhân . Sư khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ : cái tất nhiên gắn với nguyên nhân cơ bản , nội tại của sự vật ; còn cáI ngẫu nhiên là kết quả tác động của 1 số nguyên nhân bên ngoài . Không nên cho những hiện tượng con người chưa nhận thức được nguyên nhân là hiện tượng ngẫu nhiên, còn những hiện tượng con người đã nhận thức được nguyên nhân và chi phối được nó là cái tất nhiên. -Tất nhiên và ngẫu nhiên đều có quy luật,nhưng ,những quy luật quy định sự xuất hiện của cái tất nhiên khác với quy luật quy định sự xuất hiện cái ngẫu nhiên. 2. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên a- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển cuả sự vật Trong quá trình phát triển của sự vật ,cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng. Nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển đó b- Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau : Biểu hiện: cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số những cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên. c- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau. +Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật và trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hoá thành cái ngẫu nhiên và ngược lại. 43 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Thí dụ: trong xã hội công xã nguyên thuỷ, việc trao đổi vật này lấy vật khác là hoàn toàn ngẫu nhiên. Vì khi đó LLSX hết sức thấp kém , mỗi công xã chỉ sản xuất đủ cho riêng mình chưa có sản phẩm dư thừa. Nhưng về sau nhờ có phân công lao động, mà người ta sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn, dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Khi đó việc trao đổi sản phẩm trở nên thường xuyên hơn và trở thành một hiện tượng tất yếu. ,+Khi xem xét trong mối quan hệ này thông qua mặt này thì sự vật, hiện tượng đó là cái ngẫu nhiên, nhưng khi xem xét trong mối quan hệ khác, thông qua mặt khác thì sự vật, hiện tượng đó lại là cái tất nhiên. Như vậy, ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối. Do vậy không nên cứng nhắc khi xem xét sự vật, hiện tượng. 3- Một số kết luận về mặt phương pháp luận - Vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngấu nhiên không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không xảy ra, nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên chứ không thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Nhưng cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên. - Cái ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc. Do vậy ,trong hoạt động thực tiễn ngoài phương án chính cần có các phương án dự phòng cho trường hợp các sự biến ngẫu nhiên bất ngờ xuất hiện. - Vì cái tất nhiên tồn biểu lộ qua vô vàn cái ngẫu nhiên. Do vậy, muốn nhận thức cái tất nhiên cần bắt đầu từ cái ngẫu nhiên, phải nghiên cứu so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên vì không phải cái chung nào cũng là cái tất yếu, nên khi nghiên cưú cái ngẫu nhiên không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung, mà cần tìm ra cái chung tất yếu. - Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hoá thành cái tất nhiên. Do vậy, trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn không nên bỏ qua cái ngẫu nhiên, mà cần tạo điều kiện để sự chuyển hoá diễn ra theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn V - nội dung và hình thức 44 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng 1. khái niệm nội dung và hình thức + Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. + Hình thức là phương thức tồn tại phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó. 2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức Nội dung và hình thức luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần tuý không chứa đựng nội dung, ngược lại, cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung nào có hình thức đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Không phải bao giờ một nội dung cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình thức nhất định, và một hình thức luôn chỉ chứa một nội dung nhất định; mà một nội dung ,trong quá trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau . Do đó , phải tận dụng mọi loại hình thức có thể có , kể cả 1 số hình thức cũ ,để phục vụ cho nội dung mới . * Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức ,trong quá trình vận động phát triển của sự vật. Vì nội dung có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi, còn hình thức thì tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung vì vậy hình thức sẽ trở nên lạc hậu hơn so với nội dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của nội dung Song,.do xu hướng sự phát triển chung của sự vật, hình thức không thể kìm hãm mãi sự phát triển của nội dung mà sẽ phải thay đổi cho phù hợp với nội dung mới, Ví dụ, lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất. quan hệ sản xuất biến đổi chậm hơn, lúc đầu quan hệ sản xuất còn là hình thức thích hợp cho lực lượng sản xuất Nhưng do lực lượng sản xuất biến đổi nhanh hơn nên sẽ đến lúc quan hệ sản xuất sẽ lạc hậu 45 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sẽ trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển con người phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất . Như vậy sự biến đổi của nội dung quyết định sự biến đổi của hình thức . * Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung Sự tác động đó thể hiện ở chỗ: Nếu hình thức phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nội dung phát triển; Nếu không phù hợp, thì nó sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung. Chẳng hạn trong thời kỳ bao cấp ở nước ta do quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nên không kích thích được tính tích cực của của người sản xuất, không phá huy được năng lực sẵn có của lực lượng sản xuất Nhưng từ sau đổi mới, khi chúng ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Do vậy tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. 3- Một số kết luận về mặt phương pháp luận - Vì nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống mọi khuynh hướng tách rời nội dung và hình thức. Chống cả hai thái cực sai lầm hoặc là tuyệt đối hoá hình thức, xem thường nội dung hoặc là ngược lại. Đặc biệt cần chống chủ nghĩa hình thức. - Cùng một nội dung trong quá trình phát triển của sự vật có thể có nhiều hình thức, và ngược lại một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn, của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn khác nhau. - Nội dung quyết định hình thức, do vậy, để nhận thức và cải tạo được sự vật, trước hết phải căn cứ vào nội dung, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung, do vậy trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức ,làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển. 46 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng VI- Bản chất và hiện tượng 1- Khái niệm bản chất và hiện tượng Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triểncủa sự vật Hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất. *Lưu ý : + Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung.nhưng không đồng nhất với cái chung +Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại hay cùng một bậc. Tuy nhiên bản chất và quy luật không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt , một khía cạnh của bản chất. Bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn phong phú hơn quy luật 2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng +CNDTCQ cho rằng bản chất không tồn tại thực sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người bịa đặt ra, còn hiện tượng dù nó có tồn tại nhưng đó chỉ là cảm giác của con người. +CNDT KQ tuy thừa nhận sự tồn tại thực sự của bản chất nhưng đó không phải là của bản thân mà đó chỉ là những thực thể tinh thần. Chẳng hạn, Platon cho rằng, thế giới những thực thể tinh thần tồn tại vĩnh viễn và bất niến là bản chất chân chính của sự vật. Những sự vật mà chúng ta cảm nhận chỉ là hình bóng của thực thể tinh thần mà thôi. Đó là những quan điểm sai lầm. + CNDV BC cho rằng, cả bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan, là cái vốn có của sự vật, CNDV BC còn cho rằng: giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ biện chứng, vừa thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu tuẫn đối lập nhau. a- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng : -Bản chất luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng; còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện 47 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất. Lênin viết: "bản chất hiện ra, hiện tượng là có tính bản chất" - Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp vơí nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì những hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo. Thí dụ , bản chất của giai cấp tư sản, của CNTB là bóc lột giá trị thặng dư. Bản chât này được bộc lộ ở nhiều hiện tượng trong CNTB như bần cùng hoá giai cấp vô sản, thất nghiệp, khủng hoảng Khi không còn GCTS, không còn chế độ bóc lột giá trị thặng dư thì những hiện tượng trên cũng không còn. Tóm lại, bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất nàymà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn hiện tượng bên ngoài b- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng Biểu hiện: - bản chất phản ánh cái chung cái tất yếu, quyết định sự tồn tại phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng cái cá biệt. -Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tuỳ theo thay đổi của điều kiện hoàn cảnh - Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên thay đổi - Bản chất là mặt bên trong ẩn dấu sâu xa của hiện thực khách quan; còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiên thực khách quan đó. bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau. hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất. 3- Một số kết luận về mặt phương pháp luận 48 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng - Bản chất không tồn tại thuần tuý ,mà tồn tại trong sự vật. Vì vậy, muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện tượng quá trình thực tế . Hơn nữa, bản chất của sự vật không được biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật. Do vậy phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật. PhảI thấy, nhận thức sự vật là quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. - Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy, nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật, còn trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật, không được dựa vào hiện tượng. VII- Khả năng và hiện thực 1. Khái niệm khả năng và hiện thực: - Khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới, nhưng sẽ tới, sẽ có khi có các điều kiện tương ứng - Hiện thực là tất cả những cái gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự. 2- Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực. -Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Điều đó có nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có điều kiện lại biến thành hiện thực mới. Quá trình đó diễn ra liên tục làm cho sự vận động phát triển diễn ra liên tục trong thế giới vật chất. - Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng. 49 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng Thí dụ, sau khi hoà bình lập lại năm 1954 MB đứng trước những khả năng: đi lên chủ nghĩa xã hội, cũng có khả năng đi lên chủ nghĩa tư bản , thậm chí có khả năng dừng lại ở nền sản xuất nhỏ. Ngoài những khả năng vốn có sẵn, trong những điều kiện mới thì sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện. Chẳng hạn, nước ta vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của nhân dân còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng sản xuất KD, trao đổi buôn bán càng lớn. Để khả năng biến thành hiện thực không phải chỉ cần có một điều kiện mà là một tập hợp nhiều điều kiện. Thí dụ để cho một hạt thóc có khả năng nảy mầm Hay để cho cuộc cách mạng XHCN có thể nổ ra như Lênin nói: 1. Giai cấp thống trị trở nên thối nát ; 2. Giai cấp bị trị bần cùng quá mức bình thường; 3. Tính tích cực của quần chhúng tăng lên đáng kể; 4. Giai cấp cách mạng có đủ năng lực tiến hành những hành động cách mạng mạnh mẽ đủ sức đập tan chính quyền của giai cấp thống trị . 3- Một số kết luận về mặt phương pháp luận - Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng để định ra chủ trương, phương hướng hành động. - Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không được dựa vào khả năng, nhưng cũng phải tính đến khả năng để việc đề ra chủ trương kế hoạch hành động sát hợp. Khi tính đến khả năng phải phân biệt được các loại khả năng gần và khả năng xa, khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên . Từ đó mới tạo được các điều kiện thích hợp để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển. - Việc chuyển khả năng thành hiện thực trong tự nhiên được thực hiện một cách tự động, nhưng trong xã hội điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con 50 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng người. Vì vậy trong xã hội chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực của con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Chính vì vậy, Đảng ta xác định "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là: tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan; hai là, hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực Chương V Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật i- quy luật là gì 1- Định nghĩa quy luật Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lắp lại giữa các mặt các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau . - Các quy luật mang tính khách quan. Con người không thể sáng tạo ra hay xoá bỏ quy luật mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn . Các quy luật được phản ánh trong các khoa học không phải là sự sáng tạo tuỳ ý của con người. Các quy luật do khoa học phát hiện ra chính là sự phản ánh các quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội cũng như tư duy của con người. 2- Phân loại Quy luật - Căn cứ vào trình độ tính phổ biến các quy luật chia thành: + Những quy luật riêng là những quy luật chỉ tác động trong một phạm vi nhất định của các sự vật hiện tượng cùng loại như: những quy luật vận động của cơ giới, vận động hoá học, vận động sinh học + Những quy luật chung là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy luật riêng, chúng tác động trong nhiều loại sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn quy luật bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng. 51 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i
- TriÕt häc m¸c lªnin tr×nh ®é cao ®¼ng + Những quy luật phổ biến tác động tất cả các lĩnh vực : tự nhiên, xã hội , tư duy. Đây chính là các quy luật của phép BCDV nghiên cứu. - Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được chia thành Quy luật tự nhiên là quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể cả cơ thể con người , không qua hoạt động của con người. Quy luật xã hội những quy luật hoạt động của chính con người trong các quan hệ xã hội. Những quy luật đó không thể nảy sinh ngoài hoạt động có ý thức của con người, tuy vậy quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan. Quy luật của tư duy là những quy luật nói lên mối liên hệ nội tại của những khái niệm, phạm trù, những phán đoán. Nhờ đó trong tư tưởng con người hình thành tri thức nào đó về sự vật . Với tư cách là một khoa học, phép BCDV nghiên cứu những quy luật phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy. II- quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại 1- Khái niệm về chất và khái niệm về lượng a- Khái niệm về chất + Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là những cái khác. - Mỗi sự vật, hiện tượng trên thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng - Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật hiện tượng chỉ bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các sự vật hiện tượng khác. Vì vậy,muốn nhận thức đúng về những thuộc tính của sự vật, phải thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta hoặc thông qua quan hệ, mối liên hệ của sự vật đó với sự vật khác. 52 Chñ biªn: NguyÔn ThÞ Nhêng trêng cao ®¼ng kinh tÕ - kü thuËt th¬ng m¹i