Bài giảng Triết học cổ điển và hiện đại

pdf 133 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Triết học cổ điển và hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_triet_hoc_co_dien_va_hien_dai.pdf

Nội dung text: Bài giảng Triết học cổ điển và hiện đại

  1. TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN VÀ HIỆN ĐẠI I. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN Ngày nay triết học, khoa học xã hội, khoa học nhân văn, khoa học tự nhiên đều cho rằng không gian, thời gian là hai biến số độc lập. Để xác định một đại lượng tự nhiên vĩ mô hoặc trạng thái của một hệ vĩ mô, người ta không phải chỉ biết địa điểm, thời điểm mà còn phải biết hàng chục, hàng trăm các thông số khác. Để xác định n phân tử khí đựng trong một bình kín, người ta phải biết 6 n thông số ( mỗi phân tử cần biết sáu thông số là: x, y, z và vx, vy, vz ). Một mét khối không khí ở điều kiện thường có khoảng 1025 phân tử. Muốn biết trạng thái không khí ở nơi ta đang ngồi, ta cần có giá trị của 6. 1025 thông số khác nhau. Một con số quá lớn, không thực tế vì không thể biết được, và nếu có biết được cũng không thể sử dụng được. Người phương Đông xưa giải quyết vấn đề hơi khác. Cách giải quyết này vừa mang tính triết học vừa mang tính kinh nghiệm, không hoàn toàn khẳng định và không lí giải triệt để. Kinh Dịch chia mặt đất thành tám phương vị
  2. lần lượt là: Đông, Đông - Nam, Nam, Tây - Nam, Tây, Tây - Bắc, Bắc, Đông - Bắc. Các phương vị này cũng đặc trưng cho bốn mùa: Hướng Nam - Mùa hạ Hướng Bắc - Mùa đông Hướng Đông - Mùa xuân Hướng Tây - Mùa thu Nếu cho rằng không gian của mỗi sự vật là căn cứ chỉ ra sự tồn tại của sự vật ấy, là căn cứ để phân biệt sự vật ấy với sự vật khác, và thời gian thường được biểu hiện bằng sự thay đổi vị trí của vật thì sự thống nhất không thời gian trong Kinh Dịch không đơn thuần là một hình thức mô tả và đã thực sự lớn hơn kinh nghiệm. Triết học phương Đông quan niệm cái tôi là một (một tiểu càn khôn) và vũ trụ cũng là một (một đại càn khôn). Tiểu càn khôn cùng tồn tại và thống nhất với đại càn khôn. Mỗi sinh vật, mỗi vật thể cũng là một tiểu càn khôn. Trời đất với ta cùng sinh Vạn vật với ta là một
  3. Có "cái tâm đồng nhất giữa nhân thể và vũ trụ, giữa nhân thể với vạn vật". "Cái tôi" không thể là một nhân tố độc lập tự phát sinh, tự phát triển và có khả năng cải tạo thế giới. Lão Tử nói: Trời đất không có nhân Coi vạn vật như loài chó rơm. Thánh nhân không có nhân Coi trăm họ như loài chó rơm. Cái khoảng giữa trời đất giống như ống bễ Trống rỗng mà vô tận, Càng động, hơi càng ra "Vạn vật với ta là một" nên cả vũ trụ chỉ có một biến. Biến ấy là không gian hay thời gian cũng vậy. Trong Tử Vi, Bốc Phệ, Kinh Dịch, Phong Thủy đều thấy bóng dáng một biến. Một biến đậm đặc ở Tử Vi và Bốc Phệ. Ở Tử Vi, cuộc đời của mỗi con người được xác định hoàn toàn bằng thời điểm ra đời của người ấy (giờ, ngày, tháng, năm). Mỗi con người là hàm một biến thì cả
  4. vũ trụ cũng là hàm một biến. Đó là sự tương đồng giữa đại càn khôn với tiểu càn khôn. Để vơi đi phần nào sự hoài nghi của bạn đọc, ta hãy xét cụ thể: Giả sử có một tiểu càn khôn A và một tiểu càn khôn Y. Nếu A độc lập với Y thì A sẽ * vận động theo những quy luật của chính nó. ở thời điểm t A, tiểu càn khôn A * * * ở trạng thái A . A hoàn toàn xác định bởi t A (một biến). Tương tự như A, ở + + - thời điểm t Y, tiểu càn khôn Y ở trạng thái Y (một biến). ở thời điểm t A với - - - - trạng thái A , tương ứng với trạng thái Y thời điểm t Y (chọn t A là thời điểm A gần Y nhất chẳng hạn). Sự tương ứng giữa A và Y khiến hai hệ độc lập với nhau cũng chỉ xác định - - bằng một biến t A (hoặc t Y). Nếu A và Y lệ thuộc lẫn nhau sao cho các trạng thái, các thời điểm tương ứng nhau. 1 2 3 n tY tY tY tY n Y1 Y2 Y3 Y
  5. 1 2 3 n tA tA tA tA n A1 A2 A3 A Ta chỉ cần biết giá trị của một trong bốn đại lượng tA, A, tY, Y là suy ra giá trị của ba đại lượng còn lại. Lịch sử thế giới có thể chỉ ra tính một biến của cộng đồng nhân loại: Khi các vua Hùng (200 năm trước Công nguyên) bàn kế sách dựng nước thì Thích Ca (- 544 - 464) giảng đạo ở ấn Độ, Khổng Tử ( - 551 - 479) giảng đạo ở Trung Quốc. Khi Nguyễn Du viết Kiều ( 1765 - 1820 ) thì Lí Nhữ Trâm (1763 - 1830) viết Kinh Hoa Duyên, Mozart ( 1756 - 1791 ) soạn nhạc, Napoleon ( 1768 - 1821) đưa quân đánh chiếm châu Âu. Một loạt câu hỏi được đặt ra là: - Lịch sử có thể xảy ra khác đi được không? - Các sự kiện có thể đến sớm hoặc muộn hơn được không? - Nếu có thể khác được thì sự khác ấy là như thế nào và tại sao lại khác được?
  6. Đương nhiên là lịch sử phải xảy ra như thế chứ không thể khác được. Lịch sử đã đi qua, các sử gia đã ghi chép. Biết khoảng thời gian Nguyễn Du viết Kiều là biết thời gian Kinh Hoa Duyên góp mặt, biết châu Âu đang chìm trong máu lửa (đồng đại). Lịch sử những sự kiện, những cá nhân hoàn toàn cố định, lịch sử thế giới trước năm 2000 hoàn toàn cố định thì lịch sử thế giới sau năm 2000 cũng hoàn toàn cố định. Cố định theo đồng đại và theo lịch đại. Biết một sự kiện trong cuốn lịch ấy thì ta có thể suy ra các sự kiện khác. Trong khoa học tự nhiên, mỗi hệ thường có nhiều đặc tính, nhiều mối quan hệ. Ngày xưa, thiếu phương pháp tính toán nên người ta thường bỏ qua những mối quan hệ có ảnh hưởng không lớn đến giá trị của những đại lượng cần xác định để mỗi đại lượng thường chỉ phụ thuộc vào một vài biến số nào đó. Ngày nay, do đầy đủ phương tiện tính toán, người ta có thể xem xét đến mọi đặc tính, mọi mối quan hệ nên giá trị của một đại lượng liên quan đến hàng chục, hàng trăm hoặc nhiều hơn nữa những giá trị của các đại lượng khác. Tại sao có sự gia tăng số biến số và tại sao sự gia tăng biến số này được thực tế khoa học kĩ thuật công nhận. Chúng ta phải đo giá trị của hàng trăm biến số x1, x2, x3 x10 vì chúng ta không biết sự lệ thuộc lẫn nhau giữa các biến số này, và nếu có biết thì sự
  7. tính toán còn phức tạp hơn phép đo trực tiếp nên người ta không tính hoặc không tìm cách tính. Một hàm số y = f (x1, x2, x100) xác định thông qua 100 thông số xi với 100 cách khác nhau mà ở đó (100 thông số) chỉ có một thông số độc lập thì bản thân mỗi giá trị của y đã là giá trị trung bình: y1 + y2 + y100 y = 100 y là giá trị trung bình của 100 giá trị khác nhau nên y chính xác (ít thay đổi) II. CON NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ A. VŨ TRỤ VỚI CON NGƯỜI LÀ MỘT HỆ HỮU HẠN VÀ HỞ Triết học của chúng ta ngày nay dùng mẫu hệ vô hạn. Hệ vô hạn là một khái niệm lí thuyết thuần túy. Khái niệm hệ vô hạn ra đời nhờ phản chứng: Nếu không gian vũ trụ của chúng ta là hữu hạn thì ngoài phần hữu hạn, ngoài giới hạn đó là cái gì?
  8. Đúng ! Nhưng mọi định luật thực nghiệm đều tiến hành trên hệ cô lập (kín) hoặc gần như cô lập. Con người không thể hình dung được một hệ vô hạn. Trong hệ vô hạn không có khoa học, vì khoa học yêu cầu được kiểm chứng, mà hệ vô hạn không cho khả năng kiểm chứng. Thế có chắc vũ trụ của chúng ta là cô lập không? Phải chăng các định luật, quy luật của khoa học là hoàn toàn đúng? Hiểu biết của chúng ta thường xuyên thay đổi và ngày càng hoàn thiện. Bởi vậy, coi vũ trụ là kín, là cô lập cũng chưa thỏa đáng. Từ thực tế, thực nghiệm, chúng ta nên xem vũ trụ là một hệ hữu hạn và hở. Mức độ hở từ 6% đến 4% và nhỏ hơn nữa. Mức độ hở này được lấy từ mức độ chính xác của các định luật thực nghiệm trong khoa học tự nhiên. Với chênh lệch từ 4% đến 6% (hoặc nhỏ hơn) ta có thể coi vũ trụ của chúng ta là hoàn toàn kín. Người phương Đông quan niệm trong vũ trụ (đại càn khôn), mọi thứ đều biến đổi. Biến đổi là giả tượng, là vô minh. "Vô minh là hiện hữu, là khởi Thủy, là tận cùng, là vô thủy vô chung". Phương Đông khẳng định mọi sự đều biến đổi (vô thường), chỉ riêng khẳng định này là bất biến (thường). Tuy
  9. biến đổi nhưng vĩnh hằng. Từ vĩnh hằng, ta đi ngược trở về bất biến, và từ bất biến, ta có vũ trụ cô lập, tuần hoàn. "Tư tưởng nhân loại hoạt động trong một vòng tròn giới hạn, và lần lượt hiện ra, và biến đi nhưng vẫn luôn luôn còn đấy". B. CON NGƯỜI VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN Triết học Đông phương cho rằng: "Tâm thân của mỗi cá nhân được gọi chung là danh và sắc. Danh chỉ yếu tố tâm lí, sắc chỉ yếu tố vật lí. Tâm vật hay tinh thần và vật chất tương đương nhau, có cùng có không cùng không". "Thân thể và tinh thần là một giả hợp những trạng thái tâm lí" Con người vật chất là trọng lượng, là chiều cao, là có thể phân thành đầu, mình, tứ chi, ngũ quan, lục phủ. Là có thể chỉ ra tóc ở trên, chân ở dưới, da ở ngoài, kinh tạng ở trong. Thân thể vật chất có thể nhận biết thông qua các giác quan, và có thể thay thế các giác quan bằng máy móc, thiết bị. Triết học đương đại phân chia tinh thần thành cảm giác, tri giác, biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí ở đây, chúng tôi phân tách thành tình cảm, tâm trạng, suy tư, tư tưởng Cảm giác là một hình thức phức tạp sẽ được phân tích riêng.
  10. Tình cảm, tâm trạng, tư tưởng là không thể phân chia, không thể chỉ ra ở lưng hay ở tay. Không thể nói khát vọng ở chính giữa, day dứt ở bên phải, lo lắng ở bên trái Nó luôn luôn là một trên toàn bộ con người. "Khi ta thực sự suy tư thì ta không biết mình suy tư về cái gì". Tinh thần có thể phân biệt bằng sự xuất hiện sớm hay muộn, lâu hay mau. Nghĩa là chỉ được phân định bằng thời gian. Chỉ trong "lãnh địa tinh thần", thời gian mới tồn tại độc lập, không gắn với không gian. Thời gian độc lập với không gian, không cần thể hiện qua không gian chỉ thấy trong lĩnh vực tinh thần, ý thức. Chỉ dựa vào vật lí hoặc khoa học tự nhiên thì không giải quyết được khái niệm thời gian. Tinh thần là sự "nhìn nhận từ bên trong", là thực tại chủ quan, không thể nhận ra bằng các giác quan, bằng máy móc thiết bị. Tinh thần và vật chất cùng có một không gian tồn tại, cùng tồn tại ở một con người. Tinh thần và thân thể là một tồn tại được phân định từ "hai phương diện". Trong Phong Thủy, chúng ta thường thấy không gian, vật chất. Trong Tử Vi, Độn Giáp, chúng ta thường thấy thời gian. ở mỗi con người, "tinh thần như một dòng nước mang mọi ý tưởng, ấy là thực tại (trực tiếp) duy nhất". Về một mặt nào đó, cũng có thể nói tinh thần bảo toàn. Phật Thích Ca đã giải quyết xong khái niệm vật chất và tinh thần, mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần.
  11. Thích Ca đã đạt đến đỉnh cao của triết học nhân sinh. Triết học phương Tây là triết học của nền sản xuất vật chất xã hội. Triết học nhân sinh là triết học của sự hòa đồng, của sự đồng nhất giữa không gian với thời gian. Triết học phương Tây là triết học của sự phân liệt. Theo triết học này chưa có quan niệm thống nhất về thời gian. C. QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VỚI VŨ TRỤ 1. Người ta cho rằng con người ngoài cấu trúc hữu hình mà chúng ta thường cảm nhận được, còn nhiều lớp cấu trúc "vô hình". Những lớp cấu trúc vô hình tạo bởi những mạng lưới hình ống, những plasma sinh học, những hạt rất nhỏ với nhiều cấp độ cấu tạo tinh tế khác nhau. Những sóng dừng cũng có mặt ở mọi nơi, chúng phản xạ ở phía trong mặt da, phía trong các tạng phủ, mặt trong các màng tế bào và giao nhau ở các huyệt. Các sóng dừng có tần số từ 8 đến 10 héc, từ 13 đến 25 héc, từ 5 đến 7 héc, từ 1 đến 4 héc. Sóng 1 héc tạo khả năng con người tương tác với năng lượng thường trực của toàn vũ trụ và nhờ đó mà nắm bắt được nhiều thông tin từ những cõi xa thẳm. Sóng 7,8 héc là sóng đặc trưng của não. Sự tồn tại những cấu trúc vô hình, những sóng dừng phần nào thể hiện qua sự tái lập các phần cơ thể đã mất, sự cảm thấy phần cơ thể (hữu hình) đã mất và những thanh âm như tiếng sáo thoát ra khỏi cơ thể người già trước khi qua đời một vài ngày. Toàn bộ
  12. những cấu trúc hữu hình, vô hình ấy có đồng hồ sinh học riêng và chung. Đó là nhịp tim, nhịp thở, nhịp điệu sinh sản và phân hủy tế bào, nhịp điệu tuần hoàn của kinh mạch và huyệt, sự tán tụ của các sóng dừng, và cuối cùng là nhịp điệu sinh hoạt cá nhân, gia đình và xã hội. Với cấu trúc phức tạp, tinh vi và hoàn chỉnh như vậy mà con người vẫn không có được chân như (tri thức) của khách thể ngoại giới. Chân như (tri thức) về khách thể ngoại giới (theo khoa học ngày nay) đặt cơ sở ở cảm giác. Nhưng cảm giác không phải là khách thể ngoại giới. Khách thể ngoại giới tồn tại tự nó và cho nó. Khách thể ngoại giới là một tiểu càn khôn hở. Nhờ sự hở của khách thể mà có "vật gửi đến ta". Sự hở ở đây theo nghĩa thông thường. Ta chỉ có phần vật gửi đến (như mùa đông, trăng tròn, trời tối) và phần vật gửi đến phải cùng với hoạt động của các giác quan mới có cảm giác. Chúng ta không nhận diện được phần vật gửi đến và phần ta ứng ra, chỉ nhận được sự tổng hòa của chúng gọi là cảm giác. Cảm giác là ta, không phải là vật. Cảm giác là ta ở thời điểm vật gửi đến ta. Không phải ta hiểu vật mà là ta nhận ra ta ở trạng thái quan hệ với vật. Trong ta không có gì là vật. Hai anh em trai sinh đôi thường hiểu nhau rất cặn kẽ vì: - Cùng giới tính.
  13. - Cùng tách ra từ một hợp tử. - Cùng cha mẹ, gia đình. - Cùng thời đại. - Cùng dân tộc. - Cùng là con người. - Sự hiểu ở đây là sự tương đồng, sự "suy bụng ta ra bụng người". Những người văn minh cảm thấy người chậm phát triển giống như gỗ đá. Đấy là vế thứ nhất. Ngược lại, người chậm phát triển cũng cảm thấy người văn minh như gỗ đá. Không phải chỉ có ta thấy con trâu, con bò là ngu si mà trâu bò cũng thấy ta là ngu si. Đừng thấy chúng sợ ta mà cho rằng chúng phục tài ta. Có thể chúng sợ ta cũng như ta sợ cơn bão sắp đến, ngôi nhà đang đổ, mặt đất sụt lở. Ta bảo đất đá là vô tri vô cảm, có thể đất đá cũng bảo ta là vô tình vô thức. Không thể hiểu vũ trụ ngoại giới thông qua các giác quan. Phật Thích Ca tìm sự thật về cuộc sống và cái chết, sự thật về nguồn gốc con người
  14. bằng cách quay ngược trở lại. "Tìm thực nghiệm trong nội quan để khám phá cái tột cùng ở bản thân mình" Từ thực tại tột cùng của bản thân, Phật đi ra ngoài vũ trụ ngoại giới bằng con đường: Trời đất với ta cùng sinh Vạn vật với ta là một Phật và những người theo Phật đều công nhận Phật đã đi đến tận cùng của con đường này - bằng thực nghiệm tâm lí để nhận ra cái tâm đồng nhất của con người với vũ trụ ngoại giới. Sự thật, chân lí đòi hỏi mỗi con người phải tự tìm kiếm; không thể cho, xin, mua, bán được. Chúng ta chưa thể đến với chân lí bằng con đường thực nghiệm tâm lí, nhưng chúng ta có thể nhận ra tính bắt buộc và hợp lí của phương pháp này. Con người hiện hữu được tạo lập, dung dưỡng, loại bỏ khỏi trần thế, nhưng bao giờ và ở đâu cũng là một phần rất nhỏ của vũ trụ. Cuộc sống trần thế là tấm gương ghi nhận mọi biến động của vũ trụ ngoại giới, rõ nhất là những biến động có chu kì. ở mỗi con người có những chu kì, ở vũ trụ cũng có những chu kì. Đó là chu kì tự quay của Trái đất (ngày), chu kì của Mặt trăng
  15. quay quanh Trái đất (tháng), chu kì Trái đất quay quanh Mặt trời (năm), chu kì vết đen trên Mặt trời (10,75 năm), chu kì 10 năm và chu kì 60 năm. Trong các chu kì, có một chu kì rất đặc biệt được gọi là đại nguyên. Đại nguyên dài 129.600 năm. Chữ nguyên có thể chỉ là do 129.600 chia hết cho ngày và năm xuân phân. 365,242199 x 129.600 = 47.335.388,9904 ngày Con số đúng có thể là: 47.335.389 ngày hoặc 47.335.388 ngày Phần lẻ (sau dấu phẩy) là do phép đo độ dài năm xuân phân chưa chính xác hoặc đây cũng là một phép lấy gần đúng. Ngoài đại nguyên, còn có các chu kì nhỏ hơn: 129.600 Hội 10.800 năm = năm 12
  16. 129.600 Vận 3.600 năm = năm 36 129.600 Thế 30 năm = năm 4320 Ta lưu ý chu kì vết đen trên mặt trời cỡ 1,75 năm đến 10,8 năm, chu kì hành tinh Thổ quay quanh Trái đất là 29,457 năm, chu kì hành tinh Mộc quay quanh Trái đất là 12,012 năm. Chu kì chung của các hành tinh có thể lấy gần đúng là 360 năm 360 x 360 = 129.600
  17. Những chu kì này tạm gọi là nhịp điệu vũ trụ. Nếu chúng ta tìm được mối liên hệ giữa nhịp điệu vũ trụ và nhịp điệu nhân thể là chúng ta đã làm sáng tỏ những luận đoán trong bộ sách Tử vi cổ điển. III. THIÊN BÀN CỦA TỬ VI A. BÁT QUÁI Theo truyền thuyết Tiên thiên bát quái đồ là do Phục Hi vẽ, nên được gọi là “Phục Hi bát quái đồ”. Nó gồm 2 loai là “Phục Hi bát quái phương vị đồ” và “Phục Hy bát quái thứ tự đồ”. Còn Hậu Thiên bát quái là do Văn Vương làm ra nên được gọi là “Văn Vương bát quái đồ”. Nó cũng gồm 2 loại là: “Văn Vương bát quái phương vị đồ” và “Văn Vương bát quái thứ tự đồ”. BÁT QUÁI CỦA PHỤC HI (TIÊN THIÊN BÁT QUÁI) Trêi Giã tèn ChÇm ®oµi Nam §«ng nam T©y nam T©y Löa §«ng T©y b¾c N­íc §«ng b¾c ChÊn B¾c CÊn §Êt nói
  18. BÁT QUÁI CỦA VĂN VƯƠNG (HẬU THIÊN BÁT QUÁI) Löa ly §Êt Giã kh«n tèn G¸i nhì G¸i lín MÑ chÊn SÊm SÊm G¸i nhá Trai lín §o¸i chÇm Cha Trai nhá CÊn Trai nhì nói Trêi N­íc kiÒn kh¶m
  19. Bát quái của độn giáp Ly Số tuyệt âm 2 Tốn Tỵ Ng ọ Mùi Khôn 9 7 Thìn Thân Chấn Mão 4 5 Dậu 6 Đoài Dần Tuất
  20. B. THIÊN BÀN CỦA TỬ VI Thiên bàn của Tử vi là sơ đồ diễn tả các vì tinh tú (sao) chiếu theo từng vị trí thời gian (12 vị trí từ Tý đến Sửu ) Trên cơ sở thiên bàn mà người ta dự báo sự kiện.
  21. - HỎA + HỎA - THỔ + KIM + THỔ - KIM THIÊN BÀN CỦA TỬ - MỘC + THỔ VI + MỘC - THỔ + THỦY - THỦY Có thể nói thiên bàn của Tử vi là bát quái của độn giáp được đưa thêm vào bốn cung: âm Hoả, dương Thủy, âm Thổ, dương Thổ và đổi chỗ hai cung Kim, hai cung Thổ để chứa hết mười hai chi và qui luật một âm, một dương kế tiếp nhau. Thêm vào bốn cung nên thiên bàn của tử vi đối xứng hơn và các cung Hoả, cung Thủy không có tính đặc biệt như ở độn giáp. Mười hai cung của Tử vi là địa bàn nhưng địa bàn cũng thuộc thiên bàn nên có tên chung là thiên bàn.
  22. Nam Mùi Thân Tây Đôn Ngọ - Tị - tì g tiểu bàng tim trường quang Thìn - Giờ ngày Bắc Dậu- vị thận Tháng Mão năm Tuất đại tâm bào trường Hợi Dần - Sửu- Tí- mật phế gan tam tiêu
  23. Địa bàn có mười hai cung: - Chính Bắc cung Tí - Chính Nam cung Ngọ - Chính Đông cung Mão - Chính Tây cung Dậu Ở chính giữa mười hai cung ghi thời điểm nhân số ra đời (giờ, ngày, tháng, năm). Không gian và thời gian được biểu diễn chung. Trên hình vẽ là phương vị không gian, cũng là thời gian (giờ, ngày, tháng, năm), cũng là địa bàn của nhân thế. Đã có sự thống nhất không thời gian cá nhân và đưa không thời gian cá nhân vào không thời gian vũ trụ. Ngoài mười hai cung cố định, ở thiên bàn còn có mười ba cung chỉ ra vận mệnh của đương số, cũng gọi là mười ba cung động. Đầu tiên, người ta tìm vị trí của mệnh (tháng thuận, giờ nghịch) rồi ngược chiều Kim đồng hồ là các cung bào, thê, tử, tài, ách, di, nô, quan, điền, phúc, phụ (12 cung). Ngoài mười hai cung xếp liên tục còn một cung xếp độc lập là cung Thân.
  24. DI ÁCH TÀI TỬ THÂN NÔ THÊ QUAN BÀO ĐIỀN PHÚC PHỤ MỆNH Mười ba cung động được an vào mười hai cung tĩnh, coi như được mười hai cung tĩnh dung dưỡng khống chế. CHƯƠNG HAI ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH, THẬP NHỊ ĐỊA CHI
  25. I. SỰ RA ĐỜI CỦA ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH THẬP NHỊ ĐỊA CHI Truyền thuyết kể rằng Tây bắc Trung nguyên bốn ngàn năm trước có một nước nhỏ gọi là Hoa Tư. Đến Hoa Tư không thể bằng ngựa, xe, thuyền bè mà chỉ có một cách duy nhất là thần du, tức là gửi hồn đến đó mà thôi. Ướm chân mình vào vết chân khổng lồ ở đầm Sấm, một cô gái Hoa Tư đã có thai rồi sinh ra Phục Hi. Phục Hi làm ra Kinh Dịch với Bát quái đồ, thường gọi là Tiên thiên bát quái. Thần Nông - Viêm Đế làm vua ở phương Nam. Thần Nông dạy dân làm ruộng, làm thuốc, xác định giờ giấc. Sau Viêm Đế là Hoàng Đế - một thiên thần cai quản cả thượng giới và trần gian. Hoàng Đế có bốn mắt, thấy được mọi sự. Hoàng Đế nhường ngôi cho chắt mình là Chuyên Húc. Chuyên Húc cắt đứt đường liên hệ giữa thiên đình và hạ giới, đặt ra các luật lệ phân biệt nam nữ, sang hèn. Đế Cốc là người cai quản ở phương Đông, rất giỏi âm nhạc. Đế Cốc sinh ra Đế Nghiêu. Nghiêu sống hết lòng với dân. Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn (Thuấn không phải là con Nghiêu). Thuấn nhường ngôi cho Vũ (Vũ không phải là con Thuấn). Theo lệ lúc bấy giờ nếu Vũ chết thì Ích sẽ thay Vũ, nhưng con của Vũ là Khải đã đoạt ngôi của Ích (Ích không phải là con của Vũ). Kể từ đó nhà Hạ cha truyền con nối. Nhà Hạ truyền ngôi được mười
  26. đời đến Kiệt thì bị Thành Thang Vương diệt. Thành Thang Vương lập ra nhà Thương. Nhà Thương truyền ngôi đến Trụ thì bị Chu Văn Vương diệt. Chu Văn Vương là người vạch ra Hậu thiên bát quái. Chu Văn Vương viết lời quẻ, em Chu Văn Vương là Cơ Đán viết lời hào cho Kinh Dịch. Học thuyết âm dương ngũ hành bắt đầu từ hai quan làm lịch họ Hy và họ Hòa thời Nghiêu Thuấn. Kinh Thi mở đầu Nghiêu Điển viết: "Bèn sai họ Hy họ Hòa tuân theo trời rộng, ghi số thứ tự những hiện tượng ngày đêm, tinh tú, kính dậy cho người về thời tiết". "Ngày xưa gọi nhật là dương tinh, gọi nguyệt là âm tinh, chia 28 tinh là đường ngang, 5 tinh là đường dọc (Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hoả tinh, Thổ tinh". (Đoạn này Thổ tinh có thể là hành tinh Thổ). "Thần là một ngày một đêm. Thiên Hồng Phạm ở Kinh Thư quyển Một viết: "Trước hết là 5 hành Năm hành: Một là Thủy, hai là Hoả, ba là Mộc, bốn là Kim, năm là Thổ". Thời Chiến quốc, Trâu Diễn xây dựng cả một học phái âm dương ngũ hành.
  27. Trí thức thời Hán mê tín âm dương ngũ hành. Họ lấy cái định lí lên lên xuống xuống tuần hoàn của âm dương, cùng các định lí sinh khắc của ngũ hành đem ứng dụng vào tất cả công việc hàng ngày như: Thời tiết, khí hậu, phương hướng, màu sắc Ngũ hành chi nghĩa phồn lộ viết: " Trời có năm hành: 1 - Mộc, 2 - Hoả, 3 - Thổ, 4 - Kim, 5 - Thủy. Năm hành lấy Thổ làm giữa". "Mộc là bắt đầu của ngũ hành, Thủy là cuối cùng của ngũ hành. Mộc sinh ra Hoả, Hoả sinh ra Thổ (Thổ ở đây có thể là Trái đất), Thổ sinh ra Kim, Kim sinh ra Thủy, Thủy sinh ra Mộc Mộc ở bên phải, Kim ở bên trái, Hoả ở đằng trước, Thủy ở đằng sau, Thổ ở giữa". Thứ tự này đúng là thứ tự ngũ hành của hệ mặt trời, kể từ hành tinh Mộc (xa) đến hành tinh Thủy là gần nhất. Mộc Hoả Trái Đất Kim Thủy Mặt Trời Các hành tinh kế tiếp nhau là tương sinh, các hành tinh cách nhau một hành tinh khác là tương khắc. Mộc khắc Thổ (trái đất), Thổ khắc Thủy; rồi quay lại Thủy khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc. "Mộc ở phương Đông,
  28. chủ về mùa xuân; Hoả ở phương Nam, chủ về mùa hạ; Kim ở phương Tây, chủ về mùa thu; Thủy ở phương Bắc, chủ về mùa đông". "Thế nên Mộc chủ về sinh, Kim chủ về sát". "Cái khí của trời đất hợp mà làm một, phân ra âm dương, chia ra bốn mùa, bay ra năm hành. Hành là đi vậy. Cách đi (thay đổi) không giống nhau nên gọi là năm hành". Năm hành có cái bản thể đồng nhất ở bên trong. Cổ nhân phân định âm dương ngũ hành như sau: Ngũ hành Mộc Hoả Thổ Kim Thủy Âm dương + + - - Tứ tượng Mộc Hoả Trung cung Kim Thủy Âm dương + + - - Tất cả các đoạn trích dẫn trên đều chỉ ra Thổ tương ứng với trái đất. Riêng việc dùng Thổ để xác định "đường dọc" là chưa nhận ra ý tứ của tiền nhân.
  29. II. CẤU TRÚC VŨ TRỤ Vũ trụ mà chúng ta quan sát được có đường kính là 15 tỉ năm ánh sáng, chứa khoảng một triệu thiên hà như thiên hà của chúng ta. Thiên hà như một chiếc bánh dẹt với bán kính cỡ 100.000 năm ánh sáng, bề dày cỡ 16000 năm ánh sáng, chứa khoảng một tỉ sao. Mỗi sao là một mặt trời.Thiên hà Tiên nữ cách thiên hà của chúng ta cỡ 100.000 năm ánh sáng. Các sao trong vũ trụ hay đi thành cặp. Sao đi thành cặp gọi là sao đôi. Sao chiếu sáng dữ dội (so với mặt trời của chúng ta) gọi là sao siêu mới. Sao chứa toàn notron gọi là sao notron. Có khoảng 60 sao notron có bán kính chỉ trên 10 km. Sao notron như một hạt nhân khổng lồ với khối lượng riêng siêu lớn cỡ 1011kg/cm3. Nếu khối lượng sao lớn hơn bốn lần khối lượng mặt trời của chúng ta thì đến cuối đời nó sẽ co lại thành một khối cầu siêu đặc. Khối cầu siêu đặc này gần như không cho bất kì một dạng vật chất nào của nó thoát ra ngoài. Vì vậy, ta khó có được những thông tin "trực tiếp" của sao. Sao siêu đặc này có tên là hốc đen. Có khoảng 30% số sao có thể trở thành hốc đen, và ở tâm thiên hà của chúng ta cũng có một hốc đen. Sao già nhất ra đời cách đây 15 tỉ năm, nghĩa là bằng tuổi vũ trụ của chúng ta. Sự tồn tại và vận động của các sao chỉ tuân
  30. theo một số lượng nhỏ những định luật vật lí như: Định luật vạn vật hấp dẫn, định luật bảo toàn mô men động lượng. Có một sự liên hệ giữa khối lượng của sao và khối lượng của các proton tạo nên sao. Khối lượng của sao tỉ lệ thuận với khối lượng mặt trời và tỉ lệ nghịch với bình phương khối lượng của proton. Điều này rất đáng quan tâm vì nó hình như chỉ ra rằng mỗi proton nhỏ bé có liên hệ với tất cả các hạt khác tạo nên sao. Hệ mặt trời Các sao trong vũ trụ đều như mặt trời của chúng ta. Khối lượng của trái đất: 598.1024 kg. Khối lượng của mặt trời: 1,99. 1030 kg Bán kính của mặt trời: 6,96. 105 km Chu kì tự quay của mặt trời: Từ 25 đến 27 ngày Mặt trăng là vệ tinh của trái đất Khối lượng của mặt trăng: 7,35. 1022 kg Khoảng cách từ mặt trăng đến trái đất: 384.400 km
  31. CÁC SỐ LIỆU VỀ 9 HÀNH TINH TRONG HỆ MẶT TRỜI: Bán Chu kì Góc Góc Khối trục lớn quay Đường Chu kì nghiên nghiêng Hành lượng (đến Tâm quanh kính tự g với với tinh (5,98.1024 mặt sai mặt cực quay hoàng hoàng kg) trời) trời (km) (ngày) đạo đạo (km) (ngày) 5.787.101 Thuỷ 0,056 0,2056 700’11” 87,969 4.800 88 00 0 10.814.10 3023’37 224,70 Kim 0,82 0,0068 12.300 243 00 4 ” 1 365,24 T đất 1 150.106 00 6.357 24g 23027’ 2
  32. 1 năm 0,108 + 24g37’ 24048’ Hoả 2.278.105 0,0933 1051,1” 6.710 321,72 22,7” 9 11 năm 9g50’ 318,36 0 1 18’31 133.20 Mộc 7.778.105 0,0483 306’ 314,83 ” 0 9 9g56’ 95,22 0 29 năm 0,0558 2 29’33 107.20 Thổ 1.430.106 10g11’ 26044’ 9 ” 0 166,98 84 năm T 14,58 0 0,0463 0 46’20 vươn 2.880.106 51.000 10g42’ 980 7,45 4 ” g ngày H 6 0 17,26 4.494.10 0 45.000 19 0,0089 1 46’45 164 vươn
  33. g 9 ” năm 280,3 Diêm 248 1708’34 vươn 0,1 5.900.106 0,2485 năm 5.800 ” g 245,5 Theo tư liệu cổ thì năm hành tinh là Thủy, Kim, Thổ (trái đất), Hoả, Mộc, nhưng cũng có thể đây là cách nói tắt nhóm chín hành tinh của mặt trời. Khái niệm âm ứng với hai hành tinh gần mặt trời (so với trái đất) là hành tinh Thủy, hành tinh Kim và chu kì tự quay lớn (tĩnh). Khái niệm dương ứng với những hành tinh ở xa mặt trời (so với trái đất) có chu kì tự quay nhỏ và có thể chính những chu kì tự quay vào cỡ chu kì tự quay của trái đất này có ảnh hưởng lớn đến con người và cũng có thể nhờ chúng mà tác dụng của mặt trời đến con người mạnh hơn. Bản thân chu kì tự quay của TRÁI ĐẤT là 24 giờ (12 giờ cổ).
  34. Chu kì tự quay của hành tinh HOẢ là 24 g 37' 22,7'' 12 giờ cổ đã có nội dung thập nhị địa chi (12)(1[1]). Chu kì tự quay của hành tinh MỘC từ 9g50' đến 9g56' 5 giờ cổ. Chu kì tự quay của hành tinh THỔ là 10 g 11' 5 giờ cổ(2). Chu kì tự quay của thiên vương tinh là 10g42' 5 giờ cổ (ngũ hành). Chỉ cần ghép mấy chu kì tự quay, ta có ngay ngũ hành thập nhị địa chi. Bội số chung của 5 và 12 là 60 (lục thập hoa giáp). Trong cấu trúc hệ hành tinh có mấy điều đáng lưu ý: Chu kì hành tinh Mộc quay quanh trái đất là 12,012 năm - thập nhị địa chi của năm. Chu kì tự quay của hành tinh Thủy, hành tinh Kim rất lớn, sự quay của thiên vương tinh là quay ngược và trục quay gần như nằm trong mặt phẳng hoàng đạo. Ba chu kì tự quay của hành tinh Thủy (cũng là ba chu kì quay quanh mặt trời của hành tinh Thủy) xấp xỉ bằng thời gian mang thai của các bà mẹ. 88 ngày x 3 = 264 ngày 29,53 x 9 = 265,77 ngày (1[1]), (2) Ngũ hành, thập nhị địa chi ở đây là: ngũ, thập nhị thời gian huyệt mở
  35. Mười ngày đầu của đứa trẻ có thể liên hệ với chu kì 10 ngày kinh chủ đạo. (Việt Nam vẫn có tục ăn đầy cữ). III. ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH THẬP NHỊ ĐỊA CHI TRÊN CƠ THỂ NGƯỜI Sách châm cứu cho biết nhân thể có 12 đường kinh chính: - Kinh thái âm phế ở tay (-) - Kinh dương minh đại trường ở tay (+) - Kinh dương minh vị ở chân (+) - Kinh thái âm tì ở chân (-) - Kinh thiếu âm tâm ở tay (-) - Kinh thái dương tiểu trường ở tay (+) - Kinh thái dương bàng quang ở chân (+) - Kinh thiếu âm thận ở chân (-) - Kinh quyết âm tâm bào ở tay (-) - Kinh thiếu dương tam tiêu ở tay (+)
  36. - Kinh thiếu dương đởm ở chân (+) - Kinh quyết âm can ở chân (-) Nan Kinh viết: "Kinh mạch vận hành khí huyết, thông lợi âm dương sung dưỡng cho cơ thể con người. Bắt đầu từ lúc sáng sớm, khởi tự trung tiêu chạy đến kinh thủ thái âm phế (giờ Dần), thủ dương minh đại trường (giờ Mão), kinh túc dương minh vị (giờ Thìn), kinh túc thái âm (giờ Tỵ), kinh thủ thiếu âm tâm (giờ Ngọ), kinh thủ thái dương tiểu trường (giờ Mùi), kinh túc thái dương bàng quang (giờ Thân), kinh túc thiếu âm thận (giờ Dậu). Từ kinh túc thiếu âm thận chạy qua kinh thủ quyết âm tâm bào (giờ Tuất), kinh thủ thái dương tam tiêu (giờ Hợi), kinh túc quyết âm can (giờ Sửu). Hết một vòng. Từ kinh túc quyết âm can lại chuyển đến kinh thủ thái âm phế vào giờ Dần (sáng sớm). Đây có lẽ là nền tảng thứ nhất của lí thuyết sinh mệnh, cũng là nền tảng của lí thuyết con người vũ trụ. Sự ra đời của con người, sự khởi của các sao trong tử vi đều đặt cơ sở hoặc có liên hệ đến vòng tuần hoàn này. Ở chu kì ngày - chu kì của sự vận hành khí huyết, thời điểm khí huyết qua kinh thủ thái âm phế là thời điểm ổn định và dễ nhận ra nhất (mạnh). Thời điểm này là thời điểm chuẩn (giờ Dần).
  37. BẢNG XÁC ĐỊNH ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH CỦA CÁC ĐƯỜNG KINH VÀ TẠNG PHỦ TƯƠNG ỨNG Đường Âm Thiên STT kinh và Ngũ hành dương can tạng phủ 1 Đởm + Mộc Giáp 2 Can - Mộc Ất 3 Tiểu trường + Hoả Bính 4 Tâm - Hoả đinh 5 Vị + Thổ Mậu 6 Tì - Thổ Kỉ 7 Đại trường + Kim Canh 8 Phế - Kim Tân
  38. 9 Bàng + Thủy Nhâm quang 10 - Thủy Quý Thận 11 + Tướng Nhâm Tam tiêu Hoả 12 - Quý Tâm bào Tướng Hoả Chúng ta hãy lưu ý Giáp (đởm), Đinh (tâm), Kỉ (tì), Tân (phế), Nhâm (bàng quang, tam tiêu), Quý (thận, tâm bào). Kinh tam tiêu là cha của các đường kinh dương, thuộc tướng Hoả cùng với kinh bàng quang đóng ở can Nhâm. Kinh tâm bào là mẹ của các đường kinh âm, thuộc tướng Hoả đóng ở can Quý cùng với đường kinh thận. BẢNG XÁC ĐỊNH ĐỊA CHI CỦA CÁC ĐƯỜNG KINH:
  39. Bàn Ta Tiểu Đườ Đại Tâ Đở Ca Ph T Tâ g Thậ m ng trườ Vị m trườ m n ế ì m quan n tiê kinh ng bào ng g u Địa Sử Dầ Thì T Ng Thâ Dậ Tu Tí Mão Mùi Hợi chi u n n ị ọ n u ất Người xưa thấy khí huyết đi trong các đường kinh như dòng nước, bắt đầu từ lòng đất ngầm, chảy qua một khe nhỏ (huyệt tỉnh) rồi quanh co nhẹ nhàng ở các lòng suối (huyệt vinh), hợp dòng tại một ngã ba sông (huyệt du) rồi chảy mạnh trên sông lớn (kinh), cuối cùng đổ ra biển (hợp). Ở các đường kinh chính đều có năm huyệt là tỉnh, vinh, du, kinh, hợp. Nói chính xác thì đây là năm loại huyệt. Tại mỗi đường kinh chúng có tên riêng. Năm loại huyệt này gọi là huyệt ngũ du. Đông y xác định các huyệt ngũ du của các đường kinh bằng bảng sau:
  40. Huyệt Tỉnh Vinh Du Kinh Hợp Kinh Hành Kim Thủy Mộc Hoả Thổ dương Đởm Mộc Khiếu Hiệp khê Lâm Dương Dương lăng âm khấp phụ tuyền Tiểu Hoả Thiếu Tiểu cốc Hậu Dương Tiêu hải trường trạch khê cốc Vị Thổ Lệ đoái Nội đình Hàm Giải Túc tam lí cốc khê Đại Kim Thương Nhị gian Tam Dương Khúc trì trường dương gian khê Bàng Thủy Chi âm Thông Thúc Côn Ủy trung quang cốc cốt luân
  41. Tam Tướng Quan Dịch Trung Chi câu Thiên tinh tiêu Hoả xung môn chử Ngoài năm huyệt ngũ du, các đường kinh dương còn có huyệt nguyên là khâu khư, uyển cốt, xung dương, hợp cốc, kinh cốt, dương trì. Huyệt Tỉnh Vinh Du Kinh Hợp Kinh Hành Mộc Hoả Thổ Kim Thủy âm Can Mộc đại đôn Hành Thái Trung Khúc gian xung phong toàn Tâm Hoả Thiếu Thiếu Thân Linh Thiếu xung phủ môn đạo hải
  42. Tì Thổ Ẩn bạch Đại đô Thái Thương Âm lăng bạch khâu tuyền Phế Kim Thiếu Ngư tế Thái Kinh cừ Xích thương uyên trạch Thận Thuỷ Dũng Nhiêu Thái Phục Âm cốc toàn cốc khê lưu Tâm Tướng Trung Lao Đại Giản sử Khúc bào Hỏa xung cung lăng trạch Các đường kinh âm không có huyệt nguyên. Có thể coi huyệt du là huyệt nguyên của kinh âm. Trên nhân thể, tại mỗi thời điểm các đường kinh không có vai trò như nhau. Tại mỗi thời điểm, trong các đường kinh có một đường kinh tách ra và nhận vai trò chủ đạo các đường kinh khác, trong việc dẫn khí huyết đi chu lưu trên cơ thể.
  43. Đường kinh chủ đạo mang thiên can là thiên can của ngày chứa thời điểm mà kinh này bắt đầu giữ vai trò chủ đạo. Mỗi kinh giữ vai trò chủ đạo 11 giờ (giờ cổ) rồi chuyển vai trò chủ đạo cho đường kinh khác. Mười đường kinh lần lượt nắm vai trò chủ đạo: 10 x 11 = 110 giờ (9 ngày 2 giờ). Mười giờ cuối cùng là thời gian chuyển tiếp từ chu kì này sang chu kì khác. Do vậy mỗi chu kì kinh chủ đạo là 120 giờ = 10 ngày. Đường kinh dương chủ đạo dẫn khí (dương) qua các huyệt ngũ du của các đường kinh dương vào giờ dương. Khí đi trước dẫn huyết theo sau. Đường kinh âm chủ đạo dẫn huyết (âm) qua các huyệt ngũ du của các đường kinh âm vào giờ âm. Huyết đi trước dẫn khí theo sau. Một chu kì kinh chủ đạo là 120 giờ = 10 ngày, được phân bố như sau: (xem bảng trang sau) 1. Từ giờ số 0 (giờ Hợi, ngày Quý) đến giờ số 10 (giờ Dậu, ngày Giáp) kinh THẬN giữ vai trò chủ đạo, Đường kinh chủ đạo mang thiên can là can QUÝ của ngày chứa thời điểm mà đường kinh thận bắt đầu giữ vai trò chủ đạo. 2. Từ giờ số 11 (giờ Tuất ngày Giáp) đến giờ số 21 (giờ Thân ngày Ấ t) kinh ĐỞM giữ vai trò chủ đạo, đường kinh chủ đạo mang thiên can là thiên can.
  44. GIÁP của ngày chứa thời điểm mà đường kinh ĐỞM bắt đầu giữ vai trò chủ đạo. 3. Từ giờ số 22 (giờ Dậu, ngày ất) đến giờ số 32 (giờ Mùi, ngày Bính) kinh CAN giữ vai trò chủ đạo, đường kinh chủ đạo mang thiên can Ất. 4. Từ giờ số 33 (giờ Thân, ngày Bính) đến giờ số 43 (giờ Ngọ, ngày Đinh) kinh TIỂU TRƯỜNG giữ vai trò chủ đạo, đường kinh chủ đạo mang thiên can Bính. 5. Từ giờ 44 (giờ Mùi, ngày Đinh) đến giờ số 54 (giờ Tỵ, ngày Mậu) kinh TÂM giữ vai trò chủ đạo, đường kinh chủ đạo mang thiên can Đinh. 6. Từ giờ số 55 (giờ Ngọ, ngày Mậu) đến giờ số 65 (giờ Thìn, ngày Kỷ) kinh VỊ giữ vai trò chủ đạo, đường kinh giữ vai trò chủ đạo mang thiên can Mậu, 7. Từ giờ số 66 (giờ Tỵ, ngày Kỷ) đến giờ số 76 (giờ Mão, ngày Canh) kinh TỲ giữ vai trò chủ đạo, đường kinh giữ vai trò chủ đạo mang thiên can Kỷ. 8. Từ giờ số 77 (giờ Thìn, ngày Canh) đến giờ số 87 (giờ Dần, ngày Tân) kinh ĐẠI trường giữ vai trò chủ đạo, đường kinh giữ vai trò chủ đạo mang thiên can CANH.
  45. 9. Từ giờ số 88 (giờ Mão, ngày Tân) đến giờ số 98 (giờ Sửu, ngày Nhâm) kinh PHẾ giữ vai trò chủ đạo, đường kinh giữ vai trò chủ đạo mang thiên can Tân. 10. Từ giờ số 99 (giờ Dần, ngày Nhâm) đến giờ số 109 (giờ Tý, ngày Quý) kinh BÀNG QUANG giữ vai trò chủ đạo, đường kinh giữ vai trò chủ đạo mang thiên can Nhâm Từ giờ số 110 (giờ Sửu, ngày Quý) đến giờ 119 (giờ Tuất, ngày Quý) là thời gian chuyển tiếp. Thời gian chuyển tiếp nằm hoàn toàn trong ngày Quý, bắt đầu từ giờ Sửu, kết thúc ở giờ Tuất. Vào giờ chót của ngày kinh chủ đạo, khí huyết được nạp vào kinh cha hoặc kinh mẹ. Các giờ dương là: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm. Các giờ âm là: Ất, đinh, Kỷ, Tân, Quý. Hai kinh tam tiêu (cha), tâm bào (mẹ) không làm vai trò chủ đạo như 10 đường kinh trên. Giờ tí, giờ Sửu không là giờ khởi dẫn của một đường kinh chủ đạo nào. Chỉ có kinh tì nhận vai trò chủ đạo vào chính thời điểm khí huyết qua kinh tì (giờ Tỵ). Vậy giờ này có thể là thời điểm chuẩn của chu kì
  46. 120 giờ = 10 ngày. Ngoài giờ chuẩn này có lẽ nên thêm giờ Hợi của ngày Quý, giờ Tý của ngày Giáp. Các huyệt ngũ du trên các đường kinh cũng hoạt động theo chu kì 10 ngày. CHU KỲ KINH CHỦ ĐẠO 01- 05- 13- 15- 17- 21- 23- 03- 07- 09- 11- 19- 03 07 15 17 19 23 01 05 09 11 13 21 Ngày Sử Mã M Thâ Dậ Hợ Tý Dần Thìn Tỵ Ngọ Tuất u o ùi n u i Ngà M 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 y ã
  47. Qu ý 1 Quý tỉn 0 h thậ n 10 8 2 4 6 Qu 7 Tâ 11 Ất Đi Kỷ ý 1 3 9 Can n Giáp Giá 5 12 nh 1 Giá Bín Nhâ vin kin h tỉnh p Mậu Ất hợ tỉnh, p h m 0 h, (1) h, , 0 p, đởm can * tỳ tâm phế bào 15 16 22 13 14 17 18 19 20 21 23 24 Ất 2 Mậu Kỷ Ất Bín Đi Can Tâ Nhâ Qu Giá Bín Đin * Là các số có ý nghĩa được ghi ở bảng sau phần ghi chú
  48. h nh (2) h n m ý p tỉn h h kinh h, vinh 0 hợp, 0 vinh vin , đại can , tiểu bàn , h, trườ g tam tâm trườ ng qua tiêu ng ng 32 28 30 33 ất Tâ Qu Bín 29 31 35 26 n ý bin h 36 25 27 34 Nhâ Giá Mậu Bín Kỷ h, Kỷ 3 Mậ Can Đi kin m hợ p tỉnh, h tâ vinh u h nh (3) h, p, tiểu 0 0 m , vị ph thậ trườ bà ế n ng o Đin 41 42 45 4 6 37 38 39 40 43 44 47 48 4 h Giáp Ất Mậu Kỷ Can Tâ Nhâ Qu Bín Đin Can Tâ
  49. h n m ý hợp, 0 h h vin h n đởm h, (4) kinh, 0 du, tỉnh (5) tỳ bàng tam tâm quan tiêu g 54 50 57 Đi Qu 52 55 Can 51 53 nh 58 59 ý 56 49 Ất Mậ h 60 Giá Bín Tâ Nhâ Mậ du, Kỷ 5 Nhâ hợ u vinh Qu kin p h n m u tâ m p, tinh, , đại ý h, 0 0 0 m 0 (6) can vị trườ thậ bà ng n o 61 63 65 66 72 64 67 68 69 70 71 62 Giá Bín Mậu kỷ Ất Kỷ 6 Đi Can Tâ Nhâ Qu Giá Ất p h kinh tỉn kin nh h n m ý p kinh hợp, tâm h, h,
  50. , tiểu tiêu tỳ 0 vin 0 (7) can đở trườ h, m ng ph ế 79 83 76 74 77 Nhâ Bín kỷ Đi Can m 80 81 82 h kin 73 nh h 78 vinh 84 Qu Giá Gi Can 75 h, kinh 7 Bín hợ tỉnh, Tâ , Đi ý p áp h Mậu tâ , h p, đại n 0 bàn nh m 0 (9) (3) tâm tâ trườ g bà trườ m ng qua o ng ng 88 89 90 91 94 87 92 96 85 93 Tâ Nhâ Qu Giá Đi 86 Can 95 Ất Kỷ Tân 8 Mậ Bín n m ý p nh Kỷ h Mậu hợ u h tỉn vin (9) kin 0 0 p, hợp, h, h, h,
  51. tam ph thậ tâ tỳ tiêu ế n m 98 99 Tâ 107 101 Nhâ 10 n Can Giá 10 103 105 10 m 10 10 0 97 h p 2 Bín Mậu 6 Nhâ hợ tỉnh, 4 8 Qu 9 Can hợp, Ất h Kỷ m p, bàn Đi Tâ ý vinh kinh h đại tâ g nh n , 0 (10) , vị trườ 0 m qua đởm ng bà ng o 109 111 11 11 11 11 11 113 115 117 119 Nhâ Giá 6 1 0 4 8 Quý 2 Bín Mậ Can Nhâ m p Kỷ 0 Qu Đi Tâ Ất h u h m tỉnh, ý nh n 0 0 tam
  52. tiêu Ghi chú: Số (1) - là viết tắt của 3 Số (6) - là viết tắt của 2 huyệt: huyệt: - Huyệt du của kinh đởm. - Huyệt du của kinh tâm. - Huyệt nguyên của kinh vị. - Huyệt nguyên của kinh tâm bào. Số (7) - là viết tắt của 2 huyệt: Số (2) - là viết tắt của 2 - Huyệt du của kinh thận huyệt: - Huyệt nguyên của kinh đại trường. - Huyệt du của kinh vị. Số (8) - là viết tắt của 2 huyệt: -Huyệt nguyên của kinh đởm. - Huyệt du của kinh can Số (3) - là viết tắt của 2 huyệt: - Huyệt nguyên của kinh đại trường.
  53. - Huyệt du của kinh tỳ. Số (9) - là viết tắt của 2 huyệt: -Huyệt nguyên của kinh can. - Huyệt du của kinh can Số (4) - là viết tắt của 2 - Huyệt nguyên của kinh phế huyệt: Số (10) - là viết tắt của 3 huyệt: - Huyệt du của kinh đại trường. - Huyệt du của kinh tiểu trường. - Huyệt nguyên của kinh tiểu - Huyệt nguyên của kinh bàng quang. trường. - Huyệt nguyên của kinh tam tiêu. Số (5) - là viết tắt của 2 huyệt: - Huyệt du của kinh phế -Huyệt nguyên của kinh tâm. Du, Vin Hợ Du Hợ Kin Vin Tỉn Du, Tỉn Kin Kin B h p, kin p, h, h, h, kin h, h, h, Kin ố kin kin h kin kin kin kin h kin kin kin
  54. m h h h phế h h vị h tỳ h tiểu h h h ẹ đở can đại tâm trườ bàn thậ tâm Ta m trườ ng g n bào m ng qua tiêu ng Tả Kin Vin Hợ Vin Tỉn Tỉn Du, Hợ Du, Tỉn Du, Hợ co h, h, p h, h, h, kin p, kin h kin p, n kin kin kin kin kin kin h kin h kin h tinh h h h h h vị h tỳ tâm h bàn h tam tam đở can phế đại tâm g thậ bào tiêu m trườ quan n ng g Hàng trên cùng của bảng ghi địa chi của giờ. Cột đầu ghi ngày, bên trong có 120 ô ứng với 120 giờ của 10 ngày. Mỗi ô bố trí như sau: Dòng trên, bên trái ghi số thứ tự của giờ, lần lượt từ 0 đến 119, bên phải ghi thiên can của giờ. Không ghi đủ chữ mà ghi tắt. Như
  55. vậy ô số 1 là Giáp Tí, ô số 2 là ất Sửu , ô số 12 là ất Hợi, ô số 60 là Quý Hợi. Ô số 61 quay lại giáp tí, ô 120 là giờ Quý Hợi. Giờ 120 là giờ số 0 của chu kì sau. Dòng thứ hai của các ô ghi các huyệt mở, tức là các huyệt mà ngày giờ đó khí hoặc huyết thịnh, đường kinh dẫn khí huyết qua đó. Muốn biết tên cụ thể các huyệt, ta quay trở lại bảng ghi tên huyệt ngũ du của các đường kinh. Ví dụ: 6 Kỷ, Kinh Nghĩa là: giờ số 6 từ ngày Quý đến ngày Giáp đến giờ Kỷ Tỵ, huyệt kinh của Kinh tì mở. Tra bảng tên các huyệt ngũ du , ta biết huyệt kinh của kinh tì là huyệt thương khâu. Vào giờ số 6 (giờ Tỵ, âm) nằm trong khoảng thời gian kinh thận đóng vai trò chủ đạo, huyết khí qua huyệt thương khâu thịnh, huyệt thương khâu mở.
  56. Sự vận hành của ngày kinh chủ đạo chỉ có 10 ngày lại chia thành hai chiều nghịch, thuận và ba đoạn khác nhau. Bắt đầu (theo dòng thời gian) là kinh thận, kinh đởm, kinh can (thuận), rồi tiếp tục theo chiều ngược (so với sự vận hành khí huyết trong một ngày) đến kinh tiểu trường, kinh tâm, kinh vị, kinh tì, kinh đại trường, kinh phế và dãn cách năm cung đến kinh bàng quang. Sự kết thúc ở kinh bàng quang và nhóm vận hành thuận: Thận, đởm, can (có qua tâm bào, tam tiêu) là đáng lưu ý, đặc biệt là đoạn vận hành thuận Vị tì. SỰ LUÂN CHUYỂN CỦA KINH CHỦ ĐẠO Tì Tâm Tiểu Bàng quang trường  Vị  Thận
  57. Đại Tâm bào trường Phế x Can Đởm Tam tiêu BẢNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH, THẬP CAN, THẬP NHỊ CHI TỔNG HỢP Số Tạng Thiên Địa Ngũ Âm thứ phủ can chi hành dương tự 1 Đởm Giáp Tì Mộc + 2 Can Ất Sửu Mộc -
  58. Số Tạng Thiên Địa Ngũ Âm thứ phủ can chi hành dương tự 3 Phế Tân Dần Kim - 4 Đại Canh Mão Kim + trường 5 Vị Mậu Thìn Thổ +  6 Tì Kỉ Tị Thổ - 7 Tâm Đinh Ngọ Hỏa - 8 Tiểu Bính Mùi Hỏa + trường
  59. Số Tạng Thiên Địa Ngũ Âm thứ phủ can chi hành dương tự 9 Bàng Nhâm Thân Thủy + quang 10 Thận Quý Dậu Thủy - 11 Tâm Quý Tuất Tướng - bào Hỏa 12 Tam Nhâm Hợi Tướng + tiêu Hỏa CÁC BỘ PHẬN TRÊN CON NGƯỜI VÀ ĐẶC TÍNH CỦA CON NGƯỜI CŨNG ĐƯỢC XÁC ĐỊNH THEO NGŨ HÀNH
  60. Bộ phận cơ thể Ngũ hành năm hình tình ngũ thanh tạng thể chí quan âm Mộc Can Gân Giận Mắt Hét Hỏa Tâm Mạch Mừng Lưỡi Cười Thổ Tì Thịt Lo Miệng Hát Da Kim Phế Buồn Mũi Khóc lông Thủy Thận Xương Sợ Tai Rên Giờ ngày tháng năm vừa có can chi vừa có hành. Người xưa có qui tắc xác định hành theo các cặp can chi. Cách này trong tử vi là cách xác định ngũ
  61. hành của mệnh (hay nói tắt là xác định mệnh) theo can chi năm sinh của nhân số. BẢNG XÁC ĐỊNH NGŨ HÀNH THEO CẶP CAN CHI can chi Giáp Bính Mậu Canh Nhâm Ất Đinh Kỷ Tân Quý Tý, Sửu, Kim Thủy Hỏa Thổ Mộc Ngọ,Mùi Dần, Mão, Thủy Hỏa Thổ Mộc Kim Thân, Dậu Thìn, Tỵ, Hỏa Thổ Mộc Kim Thủy Tuất, Hợi H À N H
  62. Ngũ hành tương ứng với ngũ âm; bởi vậy cách xác định ngũ hành cho các cặp can chi cổ nhân gọi là "nạp âm can chi" Ngũ âm là: Cung, thương, giốc, chủy, vũ. Cung thuộc: Thổ. Thương thuộc: Kim. Giốc thuộc: Mộc. Chủy thuộc: Hỏa. Vũ thuộc: Thủy. Sách Hiệp Kỉ Biện Phương Thư viết: "Can vi thiên, chi vi địa, âm vi nhân". Âm vi nhân rồi nạp âm can chi là minh chứng cho những hệ dao động khác nhau trong nhân thể. Can vi thiên. Môi trường vũ trụ xung quanh con người là thiên. Thiên vận hành theo can. Thiên có thể là toàn thể vũ trụ, là bản thì vũ trụ. Chi vi địa. Địa có thể đơn giản là nhân tố tĩnh trong con người. Trên nhân thể chỉ có 10 chi được phân biệt dễ dàng. Tam tiêu và tâm bào lại cùng can với bàng quang và thận.
  63. Nội Kinh Tố Vấn Linh Khu viết:"Chỗ xuất ra gọi là tỉnh, chỗ lưu gọi là vinh, chỗ trú gọi là du, chỗ hành gọi là kinh, chỗ nhập gọi là hợp. Con đường vận hành của nhị thập thất khí đều ở ngũ du huyệt vậy". Trong kinh tâm bào, huyệt tỉnh là huyệt trung xung ở đầu ngón tay giữa. Trong kinh can, huyệt tỉnh là huyệt đại đôn ở chòm lông góc ngoài móng chân cái. Nhị thập thất khí ở đâu xuất ra đầu ngón tay giữa, góc móng chân cái này? Nếu nhị thập thất khí lấy từ ngoài cơ thể thì có thể nghĩ rằng sự sống (sự hoạt động của các kinh mạch) được vũ trụ đưa tới và dung dưỡng, sinh mệnh con người là sinh mệnh vũ trụ. IV. ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH THẬP THIÊN CAN, THẬP NHỊ ĐỊA CHI TRONG TỬ VI Tử vi lấy thời gian làm điểm xuất phát, nhưng thời gian cổ xưa là thời gian nhân thể lồng ghép với thời gian vũ trụ, nên âm dương, ngũ hành, can chi của Tử vi cũng gắn liền với âm dương ngũ hành can chi của thời gian nhân thể. A. THỜI GIAN VỚI NGÀY, GIỜ, THÁNG, NĂM
  64. Người xưa nói: “Con người là thước đo của vạn vật”. Đây là câu nói theo triết lý: Thiên nhân hợp nhất, nghĩa là: Thiên có cấu trúc, động thái thế nào thì Nhân cũng có như thế. Từ đây, các nhà Dịch lý Trung Hoa đi đến cái chân lý: con người (nhân) là nội giới, Thiên (nhật), nguyệt tinh - mặt trăng mặt trời, các vì tinh tú thiên hà, siêu thiên hà là ngoại giới. Đối với Nhân nếu không có sự tương ứng với ngoại giới (không đồng nhất thể) thì không tồn tại ngoại giới (không đồng nhất thể) (như người khiếm thị, khiếm thính không có khái niệm màu sắc âm thanh). Từ đây người xưa đưa ra khái niệm hiện hữu - điều mà người nay gọi là tồn tại. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa nội giới (nhân, con người) với ngoại giới (thiên) khoa học thường chỉ từ các thực nghiệm cụ thể, cân đo đong đếm rồi đi đến chân lý, tìm quy luật song khoa học cũng phải thừa nhận rằng, cái kết quả mà “chân lý”, “quy luật” phản ánh chỉ phản ánh phần nào một tồn tại khách quan (Thiên), do vậy, khoa học, triết học duy vật coi chân lý khoa học là tương đối chứ không có tuyệt đối. Song tư tưởng Dịch lý phương Đông lại tìm cái chân lý tuyệt đối tại nơi con người, qua sự tác động của Thiên (tồn tại khách quan) tới mình qua thiên nhân hợp nhất. Phương tiện để tìm các đồng nhất giữa Thiên, Nhân (nội giới, ngoại giới) để biết mình vận động, tồn tại ra sao trong suốt cuộc đời là thời gian Can, Chi.
  65. Ngày là thời gian trái đất quay được một vòng quanh trục của nó với các hiện tượng nửa đêm, mờ sáng, giữa trưa, chập tối, cũng là chu kì vận hành của khí huyết trên nhân thể. Độ dài của giờ là độ dài của thời gian huyệt mở. Thời gian huyệt mở bằng 1/12 ngày. Mỗi chu kì kinh chủ đạo có 10 ngày. Ngày thứ nhất gọi là ngày Giáp, ngày thứ hai gọi là ngày ất Ngày thứ mười gọi là ngày Quý (ngày cuối). Ở ngày Giáp, kinh thận chủ đạo từ giờ Tý đến giờ Dậu, kinh đởm chủ đạo giờ Tuất, giờ Hợi. Các giờ Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất của ngày Quý là thời gian chuyển tiếp trước khi bước sang chu kì mới. Ở 120 giờ (10 ngày), nhân thể thay đổi liên tục. Để ghi nhận sự thay đổi đó, người ta đặt tên giờ bằng cách ghép thập can với thập nhị địa chi để có 60 giờ khác nhau, gọi là lục thập hoa Giáp. Lục thập hoa Giáp có 60 tên giờ. Nếu ghép cả tên giờ với tên ngày, chúng ta sẽ có 120 thời điểm khác nhau trong 10 ngày: Giờ Tý của ngày thứ nhất là Giáp Tý.
  66. Giờ Tý của ngày thứ hai là Bính Tý. Giờ Tý của ngày thứ năm là Nhâm Tý. Giờ Tý của ngày thứ sáu trở lại là Giáp Tý. Giờ Tý của ngày thứ mười trở lại là Nhâm Tý. Các tên giờ (theo can chi) của ngày thứ nhất như ngày thứ sáu, ngày thứ bảy như ngày thứ hai, ngày thứ chín như ngày thứ tư Trong chu kì 10 ngày, ta có 10 giờ tí, 10 giờ Sửu 10 giờ Hợi. Để thể hiện sự thay đổi của nhân thể trong khoảng thời gian lớn hơn 10 ngày, người ta đặt tên ngày theo lục thập hoa Giáp. Người xưa cũng đặt tên tháng, tên năm theo lục thập hoa Giáp. BẢNG LỤC THẬP HOA GIÁP (DÙNG CHO CẢ GIỜ, NGÀY, THÁNG, NĂM): 1 Giáp Tý thuộc 31 Giáp Ngọ thuộc Kim Kim
  67. 2 Ất Sửu Kim 32 Ất Mùi Kim 3 Bính Dần Hỏa 33 Bính Thân Hỏa 4 Đinh Mão Hỏa 34 Đinh Dậu Hỏa 5 Mậu Thìn Mộc 35 Mậu Tuất Mộc 6 Kỷ Tỵ Mộc 36 Kỉ Hợi Mộc 7 Canh Ngọ Thổ 37 Canh Tý Thổ 8 Tân Mùi Thổ 38 Tân Sửu Thổ 9 Nhâm Thân Kim 39 Nhâm Dần Kim 10 Quý Dậu Kim 40 Quý Mão Kim 11 Giáp Tuất Hỏa 41 Giáp Thìn Hỏa
  68. 12 Ất Hợi Hỏa 42 Ất Tỵ Hỏa 13 Bính Tý Thủy 43 Bính Ngọ Thủy 14 Đinh Sửu Thủy 44 Đinh Mùi Thủy 15 Mậu Dần Thổ 45 Mậu Thân Thổ 16 Kỉ Mão Thổ 46 Kỉ Dậu Thổ 17 Canh Thìn Kim 47 Canh Tuất Kim 18 Tân Tỵ Kim 48 Tân Hợi Kim 19 Nhâm Ngọ Mộc 49 Nhâm Tý Mộc 20 Quý Mùi Mộc 50 Quý Sửu Mộc 21 Giáp Thân Thủy 51 Giáp Dần Thủy
  69. 22 Ất Dậu Thủy 52 Ất Mão Thủy 23 Bính Tuất Thổ 53 Bính Thìn Thổ 24 Đinh Hợi Thổ 54 Đinh Tỵ Thổ 25 Mậu Tý Hỏa 55 Mậu Ngọ Hỏa 26 Kỉ Sửu Hỏa 56 Kỉ Mùi Hỏa 27 Canh Dần Mộc 57 Canh Thân Mộc 28 Tân Mão Mộc 58 Tân Dậu Mộc 29 Nhâm Thìn Thủy 59 Nhâm Tuất Thủy 30 Quý Tỵ Thủy 60 Quý Hợi Thủy Nếu chu kì trên phản ánh đúng chu kì sinh giới thì chúng ta sẽ có các chu kì:
  70. 1 ngày = 12 giờ can chi 5 ngày = 60 giờ 10 ngày = 120 giờ 60 ngày 2 tháng 1 năm = 12 tháng 5 năm = 12 x 5 và thêm tháng nhuận 60 năm (lục thập hoa Giáp của năm) Tử vi lấy chu kì này là dài nhất. Tất nhiên đây cũng là cách lấy gần đúng. Tháng âm dương lịch Âm dương lịch chia hoàng đạo thành 12 cung bằng nhau. Ngày mặt trời đi qua đường phân cách giữa hai cung gọi là tiết khí. Ngày mặt trời đi qua chính giữa mỗi cung gọi là trung khí. Mỗi khí có đặc trưng riêng. Tên của mỗi khí chính là đặc điểm thời tiết của khí đó. Tất cả có 24 khí.
  71. Các tiết khí Các trung khí Lập xuân (đầu xuân) 1 Vũ Thủy (ẩm ướt) 1 Kinh trập (sâu nở) 2 Xuân phân (giữa xuân) 2 Thanh minh (trong sáng) 3 Cốc vũ (mưa thuận) 3 Lập hạ (đầu hạ) 4 Tiểu mãn (lúa xanh tốt) 4 Mang chủng (lúa trổ) 5 Hạ chí (giữa hạ) 5 Tiểu thử (nắng vừa) 6 Đại thử (nắng to) 6 Lập thu (đầu thu) 7 Xử thử (nắng yếu) 7 Bạch lộ (mưa ngâu) 8 Thu phân (giữa thu) 8 Hàn lộ (mát mẻ) 9 Sương giáng (sương sa) 9
  72. Lập đông (đầu đông) 10 Tiểu tuyết (ít tuyết) 10 Đại tuyết (nhiều tuyết) 11 Đông chí (giữa đông) 11 Tiểu hàn (rét vừa) 12 Đại hàn (rét đậm) 12 Tháng âm dương lịch được xác định bằng chu kì tròn, khuyết của mặt trăng. Các ngày của tháng được xác định bằng hình dạng của mặt trăng. - Ngày đầu tháng trăng non gọi là ngày sóc. - Ngày cuối tháng không trăng gọi là ngày hối. - Ngày 16 của tháng đủ (30 ngày) và ngày 15 của tháng thiếu (29 ngày) gọi là ngày vọng. Tháng âm dương lịch liên quan đến chu kì tình dục và sinh sản. Mỗi ngày có hai tên: - Tên theo can chi (của chu kì mười ngày kinh chủ đạo)
  73. - Tên theo hình dạng mặt trăng (của tháng âm dương lịch) Tháng âm dương lịch trung bình có 29,53 ngày; vì thế mà tháng có thể có cả ngày tiết khí cả ngày trung khí, có thể có chỉ có ngày tiết khí mà không có ngày trung khí hoặc chỉ có ngày trung khí mà không có ngày tiết khí. Tháng không có ngày trung khí gọi là tháng nhuận. Năm có tháng nhuận gọi là năm nhuận. Cứ 19 năm âm dương lịch thì có 7 năm nhuận. Năm xuân phân (dương lịch) có 365,242199 ngày. Năm âm dương lịch có thể dài hơn hoặc ngắn hơn năm dương lịch (do có hoặc không có tháng nhuận). Vì sự "co dãn" khá nhiều của năm âm dương lịch, nên ngày đầu của năm âm dương lịch nằm trong khoảng từ 21 tháng 1 đến 20 tháng 2 của năm dương lịch. Các tên tháng của năm âm dương lịch có thể viết: Nhất nguyệt, nhị nguyệt, tam nguyệt thập nhị nguyệt. Cũng có thể viết theo mùa: Mạnh xuân, trọng xuân, Quý xuân; mạnh hạ, trọng hạ, Quý hạ; mạnh thu, trọng thu, Quý thu; mạnh đông, trọng đông, Quý đông. Tên tháng và tên năm cũng đặt theo lục thập hoa Giáp nhưng ý nghĩa can chi của chúng rất phức tạp. Năm là khoảng thời gian trái đất quay được một vòng quanh mặt trời. Nếu ta chỉ xét ảnh hưởng của vũ trụ (không kể mặt trời) thì sự quay của trái đất quanh trục của nó, và sự quay của trái đất quanh mặt trời là như nhau. Sự
  74. tương đương giữa ngày và năm khiến cho năm cũng có chu kì âm dương (hai năm), chu kì thập can (10 năm) và chu kì 60 năm. Chu kì hai năm âm dương có thể là: 365 x 2 = 730 = 10 x 73 Nghĩa là 2 năm bằng 73 chu kì mười ngày kinh chủ đạo. Trong vật lí vi mô cho biết: Một hệ nhận hai dao động có tần số  1 và  2, hệ sẽ dao động với hai tần số phụ nữa là  = 1  2. Chuyển sang công thức dạng chu kì T1. T2 T= T1 T2 Nếu áp dụng công thức trên cho hệ ba thiên thể mặt trời, trái đất, mặt trăng thì ta cũng có chu kì hai năm. áp dụng cho hệ mặt trời với 6 hành tinh, ta có được chu kì 5 năm (ngũ hành). Kết hợp chu kì 2 năm, 5 năm, 12 năm thì ta sẽ có chu kì 60 năm.
  75. B. ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH THẬP THIÊN CAN, THẬP NHỊ ĐỊA CHI TRONG TỬ VI + Hỏa, - Thổ, + Kim, - Hỏa, Tỵ Ngọ Mùi Thân + Thổ, - Kim, Thìn Dậu - Mộc, + Thổ, Mão Tuất + Mộc, - Thổ, + Thủy, - Thủy, Dần Sửu tí Hợi Mười hai ô là mười hai phương vị (không gian), mười hai giờ, mười hai ngày, mười hai tháng, mười hai năm (thời gian). Tử vi lấy chu kì 60 năm là lớn nhất (tất nhiên đây cũng là một qui tắc gần đúng). Trên 12 cung thiên
  76. bàn đã chỉ rõ không gian và thời gian đều được phân định vào âm dương ngũ hành. Y học phương đông quan niệm: - Dương chỉ bên ngoài - hiện tượng, đa dạng, thay đổi nhanh - Âm chỉ bên trong - sâu kín, mạnh, thay đổi chậm Thí dụ: Tâm, tiểu trường có quan hệ biểu lí với nhau. Tâm ở bên trong, tĩnh (tương đối), tiểu trường ở bên ngoài, động. Cho nên, tâm là âm, tiểu trường là dương. Các đường kinh được chia làm 5 loại: Thủy, Kim, Thổ, Hỏa, Mộc. Chúng quan hệ với nhau theo qui tắc tương sinh, tương khắc. Các đường kinh bắt đầu đóng vai trò chủ đạo vào ngày dương là kinh dương. Các đường kinh bắt đầu đóng vai trò chủ đạo vào ngày âm là kinh âm. Mỗi kinh lạc tương ứng với một sao trong tử vi. Đây là một qui tắc. Qui tắc này sẽ được làm sáng tỏ ở những phần sau. ở đây, ta tạm thừa nhận và áp dụng. Các sao tương ứng với các kinh lạc nên các sao cũng được phân định bằng âm dương ngũ hành và quan hệ với các cung, với cục, mệnh theo qui luật sinh khắc của âm dương ngũ hành.
  77. BẢNG NGŨ HÀNH CỦA CÁC SAO Giờ 1 Địa kiếp - 31 Tuế phá - Can, tháng, Hỏa Hỏa giờ, nam, nữ 2 32 55 Khúc - Long đức - Mộc dục - 3 33 56 Thủy Thủy Thủy 4 34 57 Xương - Hổ - Quan đới - 5 Kim 35 Kim 58 Kim Thai phụ - 36 Phúc đức - 59 Lâm quan - Thổ Thổ Thủy 6 60 Phong cáo- Điếu - Đế vượng - 7 37 61 Thổ Hỏa Thủy 8 62 Tháng Trực phù - Suy - 9 38 Kim 63 Thủy Diêu -
  78. Thủy 39 Can chi (của 64 Bệnh - năm) Hỏa 10 Hình - 65 Hỏa Tuần - Tử - 11 40 Mộc Hỏa Phụ - 12 41 66 Thổ tháng, ngày Mộ - 13 42 67 Thổ Bật - Tam thai - 14 Thổ 43 Hỏa 68 Tuyệt - Kim 15 Can (của 44 Bát tọa - 69 năm) Mộc Thai - 16 45 70 Thổ Kình - 46 71 Thổ Dưỡng - Chi, giờ, 17 47 72 Hỏa Đà - nam, nữ 18 Thổ 48 73 Can, tháng, Hỏa - giờ, ngày 19 Triệt - 49 Hỏa 74 Kim Cơ - Mộc 20 50 Linh - 75 Lộc - Hỏa Cự -
  79. 21 Thổ 51 Can, nam, 76 Thủy nữ 22 Bác sĩ - 52 77 Tham - Thủy Lực sĩ - Mộc 23 78 Hỏa Khôi - Liêm - 24 53 79 Hỏa Thanh long - Hỏa 25 Thủy 80 Việt - Đồng - 26 Hỏa 54 Tiểu hao - 81 Thủy Hỏa 27 Chi (của 82 Tử - năm) Tướng quân - Thổ 28 83 Mộc Thiên không - Phủ - 29 84 Hỏa Tấu thư - Thủy 30 Kim 85 Mã - Âm - Hỏa Phi liêm 86 Thủy - Hỏa Hồng - 87 Vũ - Thủy Hỉ thần - Kim Hỏa Hỉ - Dương -
  80. Thủy Bệnh phù - Hỏa Hỏa Thiên đức - Tướng - Hỏa Đại hao - Thủy Hỏa Nguyệt đức - Lương - Hỏa Phục binh - Thổ Hỏa Long - Sát - Thủy Quan phủ - Kim Hỏa Phượng - Phá - Thổ chi, tháng, Thủy giờ Tuế - Cục, ngày, Hỏa Đẩu quân - can Hỏa Thiếu dương - Hóa lộc Hỏa can, tháng, Hóa quyền giờ(cục) Tang - Hóa khoa Mộc Tràng sinh - Thuỷ Hóa kị Thiếu âm
  81. Quan phù - Thương - Hỏa Thủy Tử phù - Sứ - Thủy Thủy La Võng C. TỬ VI VÀ THẦN THỨC Đứng trước một phong cảnh đẹp, một đề tài thơ hay một hiện tượng tự nhiên, kĩ thuật, ai có đủ năng lực may mắn sẽ có tranh, thơ, định luật, định lí để lại cho đời sau. Thành quả không do học hỏi, bắt chước, suy luận (tuy có liên quan đến học hỏi, bắt chước, suy luận) mà nhờ vào tư chất bẩm sinh và hoàn cảnh thời điểm đã đánh thức những tư chất bẩm sinh ấy. Hiện tượng này tạm gọi là thần thức. Lí thuyết là sự sắp xếp những tư liệu hiện thực và thêm vào đó những suy nghĩ của con người. Ở hiện thực khách quan (ta quen gọi như vậy) và suy nghĩ chủ quan đều có những yếu tố cơ bản đầu tiên, không được lí giải, xây
  82. dựng từ những yếu tố khác. Những yếu tố cơ bản đầu tiên này cũng ra đời nhờ thần thức. Thần thức cho cách ứng xử thích hợp trong những hoàn cảnh hiểm nghèo chưa từng gặp, chưa từng học hỏi, cho khả năng nhìn qua đất đá, điều khiển được sự làm việc của thận, tim, gan ở một số người này, cho những cảm nhận tinh tế thường nhật ở một số người khác. Nếu những ứng xử "nhờ thần", những khả năng đặc biệt tái hiện nhiều lần thì con người dần dần điều khiển được nó rồi truyền dạy được cho nhau. Khi ấy, bản năng, thần thức ngẫu nhiên đã chuyển sang lĩnh vực ý thức (Bản năng thần thức khu trú ở tủy sống, Thân não. ý thức khu trú ở vỏ não). Có lẽ Tử vi là một hạt cát của nền văn minh trước đại hồng Thủy, và dùng trang phục thần thức, kinh nghiệm để bước vào thời đại Trần Đoàn. CHƯƠNG BA DỊCH LÝ VÀ CƠ THỂ NGƯỜI I. TẠNG PHỦ Thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, nước ta đã có Thôi Vĩ là người châm cứu giỏi. Kế bước Thôi Vĩ là Trâu Cảnh (thế kỉ14), Nguyễn Đại Năng, Nguyễn Trực (thế kỉ 15), Li Công Tuân, Lê Hữu Trác (thế kỉ 17), Vũ Bình Phố (thế kỉ 20).
  83. Châm cứu có cơ sở thực nghiệm và lí thuyết hoàn chỉnh về huyệt, lạc, kinh, phủ, tạng. Mỗi nhân thể có sáu tạng (tâm, can, tì, phế, thận, tâm bào), sáu phủ (vị, đại trường, tiểu trường, tam tiêu, bàng quang, đởm) và phủ kì hằng (não tủy, bào cung). Tạng chứa giữ tinh khí, phủ truyền hóa Thủy cốc. Phủ kì hằng có chức năng giống như tạng, có hình thức giống như phủ. Y học phương đông chú trọng phần chức năng (dụng) nhiều hơn phần vật chất (thể). Bởi vậy, ngoài phần hữu hình (tạng, phủ, khí, dinh, huyết, tân dịch, tinh ) còn có phần "vô hình" (thần) A. TẠNG 1. Tâm Tâm chủ về huyết mạch, về mọi hoạt động của sinh mệnh, đứng đầu các tạng phủ. Tâm bệnh thì đau ngực trái, chân tay lạnh, mạch trì (hàn); trong lòng buồn bực, nói nhảm, lưỡi cứng, mạch sác (tâm nhiệt); hồi hộp, sợ hãi, mất ngủ, hay quên (tâm hư); tinh thần rối loạn, hay cười, nói nhảm, bực dọc (tâm thực). 2. Can
  84. Can chủ về sơ tiết, tàng huyết, chủ mưu lược, tính cương cường. Các chứng giận dữ, gắt gỏng thường do can. Can bệnh thì đau bụng dưới, mửa khan ra bọt (can hàn); mắt đỏ đau, nhiều khi co giật, đau buốt ở bộ phận sinh dục (can nhiệt); hay chóng mặt, mắt quáng gà, móng tay móng chân khô, chuột rút, gân co (can hư); đau sườn kéo chằng xuống bụng dưới, ợ chua, hay giận bực (can thực). 3. Tì Tì quản lí việc lưu thông huyết, vận hóa Thủy cốc, Thủy thấp. Đại tiện ra huyết, lậu huyết thường do tì. Tì bệnh thì tiêu hóa kém, chân tay lạnh, nôn mửa, ỉa lỏng, đau bụng, mạch trì (tì hàn); môi đỏ hoặc mọc mụn, đau bụng quặn từng cơn, đại tiện ra bọt (tì nhiệt); sắc mặt vàng bệch, chân tay mỏi mệt, kém ăn (tì hư); bụng đầy chướng, bí hơi (tì thực). 4. Phế Phế chủ về phần khí. Phế khí không giáng xuống được sinh ra chứng ho suyễn, khó thở. Phế cũng tham gia việc điều hòa huyết mạch. Phế bệnh thì sợ lạnh, chảy nước mũi, ho ra đờm (phế hàn); chảy máu mũi, đau họng, ho khạc ra máu (phế nhiệt); da lông khô, hơi thở yếu ngắn, sắc da trắng bệch, sợ lạnh (phế hư); lồng ngực đầy tức, hơi thở gấp và to mạnh (phế thực).
  85. 5. Thận Thận chủ việc tàng tinh (tinh sinh dục và tinh của các tạng phủ). Thận có chức năng quản lí phần nước của toàn thân. Thận bệnh thì chân tay giá lạnh, hay nằm co, ỉa lỏng vào buổi sáng (thận hàn); nước tiểu đỏ sẻn, đại tiện táo vón, đau răng, chảy máu chân răng (thận nhiệt); ù tai, mỏi lưng mỏi gối, di tinh, ra mồ hôi trộm (thận hư); thường cảm thấy có hơi đưa từ bụng dưới dồn lên (thận thực). 6. Tâm bào lạc Tâm bào lạc là bộ phận bảo vệ cho tâm. Thường bệnh tà tác dụng vào tâm bào lạc trước. Triệu chứng chủ yếu là lòng bàn tay nóng, trong tâm nóng dữ dội, mắt đỏ. B. PHỦ 1. Đởm Đởm chủ về quyết đoán có quan hệ biểu lí với gan. Đởm bệnh thì nôn mửa, chóng mặt, thâu đêm không ngủ, rêu lưỡi cáu nhờn (đởm hàn); miệng đắng, tai ù, sườn đau, rét xong rồi lại sốt (đởm nhiệt); nằm lơ mơ không ngủ, khi
  86. ngủ hay giật mình tỉnh giấc, chóng mặt, hay thở dài (đởm hư); hay giận, tức sườn ngực, ngủ nhiều, chảy nước mắt (đởm thực). 2. Vị Vị là bể chứa thức ăn có quan hệ biểu lí với tì. Vị bệnh thì đau lâm râm ở dưới mỏ ác, đau liên tục, nôn mửa, mứa nước trong, lưỡi trắng, môi thâm nhợt, mạch chậm (vị hàn); miệng hôi, môi đỏ, lợi răng sưng đau, trong bụng có cảm giác cồn cào, ăn mau đói, khát nước (vị nhiệt); môi lưỡi trắng nhợt, biếng ăn, bị tức ở dưới mỏ ác (vị hư); bụng đầy đau tức, ợ mùi chua, đại tiện không thông (vị thực). 3. Tiểu trường Tiểu trường nhận thức ăn đã qua tiêu hóa của vị rồi tiếp tục tiêu hóa gạn lọc ra thứ thích hợp. Thứ thích hợp được đưa vào ngũ tạng, thứ không thích hợp được dồn xuống đại trường để bài tiết ra ngoài. Tiểu trường bệnh thì nước tiểu đỏ, sẻn, đau nhức, trong bộ phận sinh dục (tiểu truờng nhiệt); hay đi đái vặt, són đái (tiểu trường hư); cơn đau xoắn ruột (tiểu trường thực); nước tiểu trong (tiểu trường hàn). 4. Đại trường
  87. Đại trường có chức năng, bài tiết cặn bã do tiểu trường đưa xuống có quan hệ biểu lý với phế. Đại trường bệnh sẽ đại tiện lỏng, đau bụng, sôi bụng (đại trường hàn); khô miệng, ráo môi, đại tiện táo kết, hoặc hậu môn nóng, ỉa ra máu, phân mùi nồng nặc (nhiệt); đại tiện không tự chủ hoặc không táo bón mà bị khó đi, lòi dom (đại trường hư); đại tiện táo bón, đau bụng sợ xoa nắn (đại trường thực). 5. Bàng quang Bàng quang là nơi nước dồn xuống để bài tiết ra ngoài, có quan hệ biểu lí với thận. Bàng quang bệnh thì nước tiểu trong, hay đái luôn, lượng nước tiểu nhiều, hay ngáp vặt (bàng quang hàn); nước tiểu đỏ sẻn, són đái, đái ra máu, nóng trong ống đái phát ban (bàng quang nhiệt), tiểu trường không tự chủ, són đái (bàng quang hư); bí đái, bụng dưới đầy và đau xoắn (bàng quang thực). 6. Tam tiêu Tam tiêu có chức năng truyền thông tân dịch, lưu thông đường nước. - Thượng tiêu từ tâm vị đến cuống lưỡi, liên quan đến tâm phế.
  88. - Trung tiêu từ tâm vị đến môn vị, liên quan đến tì, vị. - Hạ tiêu từ môn vị đến tiền âm, hậu âm; liên quan đến can, thận. Khí tam tiêu thống lĩnh hết các phủ tạng dinh vệ, kinh lạc, cả trên dưới, phải trái, trong ngoài. Khí tam tiêu thông thì thân thể bình yên. Ngược lại, là bệnh lí từng phần hay toàn bộ. Do đó, muốn biết bệnh lí của thượng, trung, hạ tiêu, ta phải xét bệnh lí của các tạng phủ liên quan. C. PHỦ KÌ HẰNG 1. Não là bể của tủy Tủy sinh ra từ tinh hoa của thận. Tinh hoa của thận bắt đầu từ tinh hoa của thức ăn. Tủy có tác dụng nuôi dưỡng xương. Não tủy liên hệ chặt chẽ với thận. Muốn bổ não tủy thường phải bổ thận. Não tủy không đầy đủ hoặc bị bệnh thường sinh ra các chứng choáng đầu, ù tai, chóng mặt, mờ mắt, đau nhức trong xương ống. 2. Tử cung là chủ kinh nguyệt và bào thai. Chức năng của tử cung lệ thuộc vào hai mạch xung, nhâm và hai tạng can, thận.
  89. D. QUAN HỆ GIỮA CÁC PHỦ, TẠNG, KHIẾU 1. Quan hệ giữa tạng với tạng Can sinh tâm Tâm sinh tì Tì sinh phế Phế sinh thận Thận sinh can Và: Thận khắc tâm Tâm khắc phế Phế khắc can Can khắc tì Tì khắc thận 2. Quan hệ giữa tạng với phủ
  90. Giữa tạng với phủ, dựa theo kinh lạc mà có quan hệ biểu lí hay quan hệ âm dương. Phế với đại trường Tâm với tiểu trường Can với đởm Tì với vị Thận với bàng quang Tâm bào với tam tiêu 3. Quan hệ giữa ngũ tạng với các khiếu Can khai khiếu ở mắt Tâm khai khiếu ở lưỡi Tì khai khiếu ở miệng, môi Phế khai khiếu ở mũi Thận khai khiếu ở tai
  91. 4. Giữa các phủ có quan hệ thu nhận, tiêu hóa, phân bố, bài tiết các thức ăn, gọi là quan hệ truyền hóa. 5. Dinh, vệ, khí Thức ăn được tiêu hóa ở vị, tiểu trường lên phế để đưa đi nuôi cơ thể. Chất dinh dưỡng chia làm hai phần. Phần trong gọi là dinh đi ở trong mạch, phần đục gọi là vệ đi ở ngoài mạch. - Huyết màu đỏ do tâm điều hành đi tuần hoàn trong cơ thể để nuôi các bộ phận. - Khí chỉ những dạng vật chất khó thấy như khí trời, khí độc, khí ẩm thấp đồng thời cũng chỉ chức năng hoạt động như phế khí, can khí, vị khí. Huyết lưu hành nhờ sự lưu hành của khí. - Tinh gồm tinh dinh dưỡng và tinh sinh dục. Tinh sinh dục là tinh tiên thiên, tinh dinh dưỡng là tinh hậu thiên. - Thần là thứ vô hình chỉ vào ý thức, tư duy của con người (hồn, phách, ý chí). Thần là biểu hiện sự sống: Có thần thì sống, mất thần thì chết. Người xưa coi Tinh, Khí, Thần là ba thứ quí giá nhất trong con người. 6. Nguyên nhân bệnh
  92. Bệnh có thể do nguyên nhân bên ngoài mà cũng có thể do nguyên nhân bên trong. Nguyên nhân bên ngoài là phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa, dịch lệ. Bệnh có thể do nguyên nhân bên trong. Nguyên nhân bên trong thường do thất tình. Thất tình là bảy bậc biểu hiện: vui, giận, buồn, lo, bi quan, khủng khiếp, sợ hãi. Bảy biểu hiện này nếu quá mạnh hoặc quá dài thì sẽ ảnh hưởng đến sự lưu thông của huyết khí, đến hoạt động của nội tạng nên hóa thành bệnh. Bệnh cũng có thể sinh ra do ăn uống không điều độ, ăn phải độc, ăn thứ không thích hợp. II. HỆ KINH LẠC inh Ba thủ TAY thái kinh âm inh C thủ HÍNH thài KINH inh túc Ba K thái I kinh N CHÂ âm inh túc H N thái Kinh L nhánh Ạ ạch C KINH dốc MẠC H ạch nhâm 12 KINH ạch BIỆT xung 5 lạc
  93. Kinh lạc là nơi khí vận hành, duy trì hoạt động của cơ thể, xương, cơ khớp, đồng thời là nơi yếu tố gây bệnh xâm nhập, nơi phản ánh những thay đổi bệnh lý của cơ thể, là nơi dẫn truyền thuốc và những kích thích, châm cứu để phòng và chữa bệnh. Ba kinh âm ở tay bắt đầu từ ngực ra tay. Ba kinh dương ở tay bắt đầu từ tay lên đầu. Ba kinh âm ở chân bắt đầu đi từ chân lên ngực. Ba kinh dương ở chân bắt đầu đi từ đầu xuống chân. Mạch Nhâm bắt đầu từ hội âm đi dọc lên
  94. bụng ngực tới cằm. Mạch dốc bắt đầu đi từ trường cường đi dọc sống lưng lên đầu vòng qua mặt (hình 1). Đường tuần hành của 12 kinh chính là mạch Nhâm, Đốc nối tiếp nhau thành một đường tuần hoàn kín đi khắp cơ thể.
  95. Hình 1 Chức năng và tác dụng của kinh lạc Hình 2
  96. Luồng mạch đi thẳng và sâu (lý) gọi là kinh, luồng mạch nổi hiện lên ở trong da (biểu) và chẽ ra nằm ngang gọi là lạc, lạc lại có tia chẽ ra gọi là tôn lạc (tôn mạch). Lạc là con đường nhánh của kinh (hình 2). Về sinh lý: Dưới sự thúc đẩy của kinh khí, khí huyết tuần hoàn không ngừng trong kinh lạc đưa dinh dưỡng đến ngũ tạng lục phủ, cửu khiếu, ngũ quan, bì mao, làm cho cơ thể trong ngoài, trên dưới giữ được cân bằng và tiến hành các hoạt động tâm, sinh lý trong trạng thái bình thường. Về bệnh lý: Kinh lạc là đường liên hệ nối thông phần ngoài cơ thể với nội tạng. Khi ngoại tà xâm nhập cơ thể thì bì mao cơ nhục bị bệnh trước rồi sau đó truyền theo kinh lạc vào tạng phủ. Trong trạng thái bình thường kinh lạc có thể giữ được cân bằng, điều khiển nhịp nhàng những hoạt động của cơ thể. Nhưng nếu kinh lạc không giữ được cân bằng, không điều hoà được hoạt động thường sẽ xuất hiện bệnh. (hình 3a, 3b)
  97. A. MƯỜI HAI KINH CHÍNH
  98. Mười hai kinh chính là phần chính của học thuyết kinh lạc. Mỗi kinh chính đều có một vùng phân bố nhất định ở mặt ngoài thân thể, đều thuộc một tạng hay một phủ nhất định, có quan hệ biểu lí với phủ hoặc tạng tương ứng. Kinh mạch là nơi tuần hoàn của khí huyết đi nuôi dưỡng toàn thân để duy trì hoạt động của cơ thể. Bệnh tật của cơ thể có thể thấy được qua trạng thái bệnh lí của kinh mạch, như phế bệnh thì đau ngực, cánh tay; can bệnh thì đau ở hai bên sườn lan xuống bụng dưới; tâm bệnh thì đau ở mặt trong hai cánh tay; bàng quang bệnh thì nóng ở hai bên vai. Hay nếu đau đầu mà ở vùng trán thì liên quan đến kinh dương minh, đau ở sau đầu thì liên quan đến kinh thái dương, đau ở cạnh đầu thì liên quan đến kinh thiếu dương, đau ở đỉnh đầu thì liên quan đến kinh quyết âm. thủ thái âm phế (mỗi bên 11 huyệt) Bắt đầu đi từ trung tiêu (vị) xuống liên lạc với đại trường rồi vòng lên quanh môn vị, qua cơ hoành cách tới phế, từ đản trung (XIV- 17) đi vòng lên cổ qua thiên đột (XIV-22) đi ngang ra nách và chạy ở mặt trong bờ trước cánh
  99. tay, xuống tận cùng ở đầu ngón cái, giao hội với kinh thủ dương minh đại trường ở phía trong đầu ngón tay trỏ là huyệt thương dương (II-1) (hình 4) Hìn h 4:
  100. Biểu hiện bệnh lý: - Kinh bị bệnh: Hố trên xương đòn đau, mắt tối sầm, tim loạn lên, mặt trong tay đau. - Tạng bị bệnh: Ngực phổi đầy tức, ho xuyễn, khó thở, khát, đái rắt, đái vàng, ngực bồn chồn, gan bàn tay nóng; nếu cảm phong hàn thì có sốt. Trị các bệnh: Sốt, bệnh ở phổi, ở ngực, khí huyết ứ trệ, đái ít, có tác dụng là hành khí, hoạt huyết, lợi tiểu. 2. Kinh thủ dương minh đại trường (mỗi bên 20 huyệt) Bắt đầu đi từ đầu ngón tay trỏ là huyệt thương dương (II-1) dọc theo bờ trước ngón tay trở lên qua xương bàn 1 và 2: nhị gian (II-2), chạy theo bờ trước của mặt ngoài cánh tay lên vai (kiên ngung: II- 15), hội hợp với các kinh dương ở khoảng giữa C7 và D1 (đại chuỳ: XIII-14), rồi ra phía trước xuống hố đòn chia hai nhánh ở huyệt tứ bạch (III-2): một nhánh vào ngực nối với tạng phế rồi xuống cơ hoành đi vào phủ đại trường: thiên khu (III- 25); nhánh thứ hai đi lên cổ, qua má vào lợi răng, họng rồi vòng trở ra đi lên môi trên, giao nhau ở 1/3 trên rãnh môi, mạch trái đi sang phải, mạch phải đi
  101. sang trái, tận cùng ở hai bên chân mũi và giao tiếp với kinh túc dương minh vị (hình 5). VII1 III xiii26 1 III II20 vi 4 12 II19 II xiii14 15 III12 II15 III25 III37 HìnH×nh 5: Kinh thñ d­¬ng minh ®¹i tr­êng h 5:
  102. Biểu hiện bệnh lí - Kinh bị bệnh: Cổ sưng, hàm dưới với vai và cẳng tay đau, ngón trỏ khó vận động. Nơi đường kinh đi qua có thể sưng đau hoặc sợ lạnh. - Phủ bị bệnh: Mắt vàng, miệng khô, họng đau, chảy máu mũi, bụng sôi đau. Nếu hàn thì ỉa chảy. Nếu nhiệt thì ỉa phân nhão dính hoặc táo vón. Tà khí thịnh có thể sốt cao phát cuồng. Trị các chứng bệnh: ở đầu, mặt, tai, mắt, mũi, răng, họng, ruột và sốt. 3. Kinh túc dương minh vị (mỗi bên 45 huyệt) Bắt đầu di từ bờ dưới của khoang mắt (tình minh: VII-1), đi xuống má (thừa khấp: III-1) ngoài mũi (nhân trung: XII-26), đi vào răng lợi, trở ra vòng quanh môi, xuống rãnh môi dưới (thừa tương: XIV-24) rồi theo cạnh hàm ra góc hàm (đại nghinh: III-5) chia làm hai nhánh: một nhánh từ góc hàm đi ngược lên phía trước tai qua thái dương lên đầu; nhánh thứ hai từ góc hàm đi xuống, men theo yết hầu vào khuyết bồn (III-12). Từ khuyết bồn có nhánh đi qua có hoành cách vào phủ vị, liên lạc với tỳ. Lại có một nhánh từ khuyết bồn đi xuống qua vú, qua bụng đi gần rốn, xuống mặt ngoài bờ trước của đùi, xuống cẳng chân, bàn chân, tận cùng ở phía ngoài móng ngón chân thứ 2. Khi tới mu bàn chân, phân ra một nhánh nữa giao tiếp với kinh túc thái âm tỳ (ẩn bạch: IV-1) (hình 6).
  103. Hìn h 6: Biểu hiện bệnh lý: - Kinh bị bệnh: Mũi chảy máu, miệng mọc mụn, họng đau, cổ sưng, mồm méo, ngực đau, chân sưng lạnh. Tà khí thịnh sốt cao, ra mồ hôi, có thể phát cuồng.
  104. - Phủ bị bệnh: Ăn nhiều, đái vàng, bồn chồn, có thể phát cuồng (vị nhiệt); đầy bụng, ăn ít (vị hàn). Trị các bệnh ở ruột, răng, họng. 4. Kinh túc thái âm tỳ (mỗi bên 21 huyệt) Bắt đầu từ ngón chân cái (ẩn bạch: IV-1) đi đến trước mắt cá trong, rồi theo bờ trước mặt trong cẳng chân và đùi lên bụng, vào tạng tỳ liên hệ với vị. Từ vị chia hai nhánh: một nhánh qua cơ hoành cách lên yết hầu nối với cuống lưỡi, tán ra lưỡi; nhánh thứ hai từ vị đi qua cơ hoành cách tới tạng tâm tiếp hợp với kinh thủ thiếu âm tâm (hình 7).
  105. Hìn h 7: Biểu hiện bệnh lý:
  106. - Kinh bị bệnh: Người ê ẩm, nặng nề, da vàng, lưỡi cứng đau, mặt trong chân phù, cơ teo. - Tạng bị bệnh: Bụng trên đau, bụng đầy, ăn không tiêu, nôn, nuốt khô, vùng tâm vị đau cấp, ỉa chảy, đái không lợi. Trị các chứng bệnh ở dạ dày, ruột, hệ sinh dục, tiết niệu. 5. Kinh thủ thiếu âm tâm Bắt đầu từ thượng tiêu (tâm) qua cơ hoành cách xuống liên lạc với tiểu trường, rồi lên phế, đi ngang ra phía dưới hõm nách và chạy ở mặt trong bờ sau cánh tay, xuống dưới tận cùng ở đầu ngón tay út, giao hội với kinh thủ thái dương tiểu trường ở đầu ngón tay út (thiếu trạch: VI-1) (hình 8).
  107. N·o vi1 vi 9 HìnH×nh 8: Kinh thñ thiÕu ©m t©m h 8: Biểu hiện bệnh lý:
  108. - Kinh bị bệnh: Vai, mặt trong chi trên đau, gan bàn tay nóng, miệng khô muốn uống nước, mắt đau. Tạng bị bệnh: Đau vùng tim, nấc khan, sườn ngực đau, chứng thực thì phát cuồng, chứng hư thì bi ai, khiếp sợ. Trị các chứng bệnh ở tim, ngực, tâm thần. 6. Kinh thủ thái dương tiểu trường (mỗi bên 9 huyệt) Bắt đầu từ ngón tay út (thiếu trạch: VI-1) dọc theo bờ sau mặt ngoài của bàn tay, cẳng tay, cánh tay, lên bả vai rồi đi vào hố trên đòn chia ba nhánh: một nhánh trên thượng tiêu liên lạc với tạng tâm, rồi theo thực quản qua cơ hoành cách với vị vào phủ tiểu trường; một nhánh theo cổ lên má, tới đuôi mắt ngoài rồi vào tai; còn nhánh thứ ba thì từ má chạy tách biệt ra tới hố mắt, tới mũi rồi đi ra gò má giao tiếp với kinh túc thái dương bàng quang (tinh minh: VII-1) (hình 9).
  109. Hìn h 9: Biểu hiện bệnh lý: - Kinh bị bệnh: Điếc, mắt vàng, hàm sưng, họng đau, vai và cánh tay đau, cổ gáy cứng.
  110. - Phủ bị bệnh: Bụng dưới đau chướng, đau thắt lưng, đau tinh hoàn, ỉa lỏng hoặc đau bụng ỉa táo, ỉa khô. Trị các bệnh ở đầu, gáy, mắt, mũi, họng, não, sốt. 7. Kinh túc thái dương bàng quang (mỗi bên 67 huyệt) Bắt đầu từ khoé mắt lên qua trán (tinh minh: VII-1), giao hội ở đỉnh đầu, từ đó chia ba nhánh: một nhánh đi từ đỉnh đầu tới góc tai, dọc theo gáy xuống bả vai, đi sát hai bên cột sống thẳng với thắt lưng (thận du: VII-23), vào trong liên lạc với tạng thận và phủ bàng quang; từ thắt lưng (bạch hoàn du: VII-30) lại chia một nhánh đi sát cột sống, xuyên qua mông xuống khoeo chân; nhánh thứ ba từ hai bên bả vai cũng chạy ở hai bên cột sống, đi xuống mặt ngoài của đùi, xuống hội hợp với nhánh thứ hai ở kheo chân (uỷ trung: VII-40), rồi từ đó đi xuống bụng chân, chạy theo mặt ngoài cẳng chân tới phía sau mắt cá ngoài và kết thúc ở ngón chân út, tiếp hợp với kinh túc thiếu âm thận (hình 10).
  111. Hìn h Biểu hiện bệnh lý:
  112. - Kinh bị bệnh: Mắt đau, chảy nước mắt nước mũi, chảy máu cam, đầu gáy lưng, thắt lưng, xương cùng cột sống, mặt sau chi dưới đau buốt. - Phủ bị bệnh: Đái không lợi, đau tức bụng dưới, đái dầm. Trị các chứng bệnh ở mắt, mũi, đầu, gáy, thắt lưng, hậu môn, não, sốt, bệnh tạng phủ (dùng các huyệt ở lưng) 8. Kinh túc thiếu âm thận (mỗi bên 27 huyệt) Bắt đầu từ dưới ngón chân út, đi lệch vào lòng bàn chân (dũng tuyền: VIII- 1), chui lên trước mắt cá trong rồi vòng qua phía mắt cá trong, đi lên dọc theo mặt trong cẳng chân, vào khoeo chân, lên mặt trong bờ sau đùi, qua xương sống vào tạng thận, liên lạc với bàng quang. Có hai nhánh: một nhánh từ thận tới can, chui qua cơ hoành cách tới phế, men theo yết hầu tới sát cuống lưỡi; nhánh thứ hai từ phế ra liên lạc với tạng tâm, rồi vào ngực tiếp hợp với kinh thủ quyết âm tâm bào (hình11).
  113. Hìn h Biểu hiện bệnh lý:
  114. - Kinh bị bệnh: Miệng nóng, lưỡi khô, miệng và thanh quản sưng, cột sống đau, mặt trong chân đau, lòng bàn chân nóng. - Tạng bị bệnh: Phù thũng, đái không lợi, ho ra máu, muốn nằm, xuyễn, mắt hoa, tim đập, da sạm, ỉa chảy lúc canh năm. Trị các chứng bệnh ở hệ sinh dục, tiết niệu, ruột, họng, ngực. 9. Kinh thủ quyết âm tâm bào (mỗi bên 9 huyệt) Bắt đầu từ thượng tiêu (tâm bào lạc) đi qua cơ hoành cách xuống liên lạc với trung tiêu, hạ tiêu rồi đi ra phía mạng sườn, lên hõm nách chạy xuống mặt trong chính giữa cánh tay tận cùng ở đầu ngón tay giữa, giao hội với kinh thủ thiếu dương tam tiêu ở đầu ngón đeo nhẫn (hình 12).
  115. Hình 12: Kinh thủ quyết âm tâm bào
  116. Biểu hiện bệnh lý: - Kinh bị bệnh: Đau vùng tim, bồn chồn, tức ngực sườn, tim đạp mạnh, cuồng, nói lảm nhảm, hôn mê. Trị các chứng bệnh ở ngực, tim, dạ dày, bệnh tâm thần, sốt. 10. Kinh thủ thiếu dương tam tiêu (mỗi bên 23 huyệt) Bắt đầu từ ngón tay đeo nhẫn (quan xung: X-1) đi theo bờ sau của ngón tay đó lên cổ tay, rồi theo chính giữa mặt ngoài của cẳng tay, cánh tay, đi lên vai, qua hố trên đòn (khuyết bồn: III-12) chia hai nhánh: một nhánh đi xuống ngực vào thượng tiêu liên lạc với tâm bào rồi qua cơ hoành cách xuống bụng vào trung tiêu, hạ tiêu; nhánh thứ hai đi lên cổ vào tai, rồi ra phía trước tai, tận cùng ở đuôi ngoài của mắt, tiếp hợp với kinh túc thiếu dương đởm (hình 13).
  117. Hìn h Biểu hiện bệnh lý:
  118. - Kinh bị bệnh: Tai điếc, tai ù, thanh quản và họng sưng đau, mắt đau, má sưng. Phía sau tai, vai, cánh tay, khuỷu tay đau, ngón tay đeo nhẫn vận động khó. - Phủ bị bệnh: Bụng đầy chướng, bụng dưới cứng, đái không thông, đái són, đái rắt, phù. Trị các bệnh ở tai, đầu, mắt, họng, sốt. 11. Kinh túc thiếu dương đởm (mỗi bên 44 huyệt) Bắt đầu từ đuôi mắt ngoài (đồng tử liêu: XI-1), lên góc đầu xuống sau tai, theo cổ đi xuống lồi cầu chấm xuống vai, vào hố trên đòn (khuyết bồn: III- 12), xuống ngực, qua cơ hoành cách liên lạc với tạng can vào phủ đởm, qua sườn đi vào phía xương mu rồi qua vùng mấu chuyển lớn xương đùi, đi dọc mặt ngoài đùi và cẳng chân tới mắt cá ngoài, tận cùng ở bờ ngoài ngón chân thứ tư (mé ngón út) và tiếp hợp với kinh túc quyết âm can (hình 14).
  119. Hìn h Biểu hiện bệnh lí:
  120. - Kinh bị bệnh: Sốt rét, điếc, đau đầu, hàm, mắt, hố trên xương đòn, nách sưng, lao hạch, khớp háng và chi dưới đau, bàn chân nóng, ngón chân thứ tư vận động khó. - Phủ bị bệnh: Cạnh sườn đau, ngực đau, mồm đắng, nôn. Trị các bệnh ở đầu, mặt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, sốt. 12. Kinh túc quyết âm can (mỗi bên 14 huyệt) Bắt đầu từ ngón chân cái (đại đôn: XII-1), đi giữa ngón chân cái và ngón chân thứ hai qua mu bàn chân tới trước mắt cá trong 1 thốn, tiếp lên trên mắt cá trong 8 thốn đi vào khoeo chân, qua mặt trong đùi vào ở bộ phận sinh dục, lên phía trên bụng dưới, cùng đi với kinh vị vào tạng can liên lạc với phủ đởm, qua cơ hoành cách tán ra ở sườn, đi lên sau yết hầu vào xương hàm nối với mắt, ra trán vào giao hội với mạch đốc ở đỉnh đầu (bách hội: XIII-20). Từ mắt có một nhánh đi xuống vòng trong môi. lại có một nhánh nữa sau khi qua tạng can và cơ hoành cách tới tiếp hợp với kinh thủ thái âm phế (hình 15).
  121. Hìn h Biểu hiện bệnh lý:
  122. - Kinh bị bệnh: Đầu đau, đầu váng, mắt hoa, tai ù, sốt cao có thể co giật, đái dầm, đái không thông lợi. - Tạng bị bệnh: Ngực tức, nôn nấc, bụng trên đau, da vàng, ỉa lỏng, họng như bế tắc, thoát vị, bụng dưới đau. Trị các chứng bệnh ở hệ sinh dục, bàng quang, ruột, ngực, sườn, mắt. D. BÁT MẠCH KỲ KINH (TÁM MẠCH). Tám mạch là mạch đốc, mạch Nhâm, mạch xung, mạch đới, mạch dương duy, mạch âm duy, mạch dương kiểu, mạch âm kiểu. Mạch khác kinh ở những điểm sau: - Mạch không đi thẳng vào tạng phủ như kinh chính, chỉ có ba mạch đốc, nhâm, xung đi vào dạ con (kì phủ) và mạch đốc đi vào não tủy. - Trừ mạch đới đi vòng quanh lưng còn các mạch khác đều đi từ dưới lên, không có mạch nào đi ở hai chi trên cả. Các kinh chính âm đi từ dưới lên, các kinh chính dương đi từ trên xuống. Kinh đi trên cả tứ chi. - Mạch không gắn với ngũ hành, không có quan hệ biểu lí như kinh chính.
  123. - Trừ hai mạch đốc, Nhâm có huyệt riêng, các mạch khác không có huyệt riêng. Mỗi kinh chính đều có huyệt riêng. Mạch xung giao hội với kinh tì Mạch âm duy giao hội với kinh tâm bào Mạch đốc giao hội với kinh tiểu trường Mạch dương kiểu giao hội với kinh bàng quang Mạch đới giao hội với kinh đởm Mạch dương duy giao hội với kinh tam tiêu Mạch Nhâm giao hội với kinh phế Mạch âm kiểu giao hội với kinh thận - Tám mạch có tác dụng bổ sung chỗ thiếu hụt của 12 kinh - Tám mạch có tác dụng điều hòa sự thịnh suy của khí huyết trong 12 đường kinh chính. 1. Mạch đốc (có 28 huyệt)
  124. Bắt đầu từ tầng sinh môn qua trường cường (XIII-1) đến giữa lưng, lên gáy vòng qua đầu, rồi xuống sống mũi, chỗ Giáp lợi và môi trên. Liên lạc với tạng thận, bào cung (tử cung), tuỷ, não. Liên hệ với các kinh dương ở tay, chân, tiếp hợp với kinh thủ thái dương tiểu trường ở hậu khê (VI-3) (hình 6). Biểu hiện bệnh lý: Cột sống vận động khó hoặc uốn ván, đầu váng, lưng yếu. Điều trị: huyệt vùng đầu, cổ trị các chứng rối loạn thần kinh, não, sốt. Huyệt vùng lưng trị bệnh phổi, tâm, tâm bào, can, bàng quang, tì, vị, bệnh lưng, hông chân. Huyệt vùng thắt lưng trị bệnh thận, bàng quang, đại, tiểu trường; liệt, đau.
  125. Hình 16: Mạch đốc 2. Mạch nhâm (có 24 huyệt) Bắt đầu từ hội âm (XIV-1) qua giữa bụng, ngực, đi lên mặt đến dưới mắt (thừa khấp: III-1). Liên lạc với bào cung (tử cung), mắt. Liên hệ với các kinh âm ở tay, chân, tiếp hợp với kinh thủ thái âm phế ở liệt khuyết (I-7) (hình 17). Biểu hiện bệnh lý: Nam thoát vị; nữ khí hư, bụng có u, không sinh đẻ.
  126. Điều trị: bệnh vùng ngực, bụng, rốn, bệnh tiêu hoá, tiết niệu, sinh dục, chứng lạnh.
  127. Hình 17: Mạch nhâm 3. Mạch xung (huyệt chung với các kinh) Bắt đầu từ hội âm (XIV-1) qua nếp bẹn, hợp với kinh túc thiếu âm thận đi lên bụng, ngực, hợp với mạch nhâm lên mặt, vòng quanh môi vào vòm miệng, đến dưới mắt. Từ nếp bẹn dọc theo mặt trong chi dưới, đến mắt cá trong rồi gan bàn chân, một nhánh tách ra từ mắt cá trong đi đến mu ngón cái. Hợp với mạch đốc ở lưng. Liên lạc với bào cung (tử cung), mắt, tuỷ sống, tạng thận. Liên hệ với hai mạch nhâm, đốc, kinh túc dương minh vị, túc thiếu dương đờm và tiếp hợp với kinh túc thái âm tì ở công tôn (IV-4) (hình 18). Biểu hiện bệnh lý: Kinh nguyệt không đều, khí hư, không sinh đẻ, đái dầm, thoát vị, khí từ bụng xông lên làm đau vùng tim, đái không lợi. Điều trị các bệnh bụng ngực đau cấp xuyễn, các chứng của thiếu âm thận.
  128. Hình 18: Mạch xung 4. Mạch đới (huyệt chung với các kinh)
  129. Bắt đầu từ đốt thắt lưng thứ hai (XI-26: đới mạch) vòng quanh bụng và lưng. Liên hệ đôn đốc các kinh đi thẳng dọc qua lưng và tiếp hợp với kinh túc thiếu dương đởm ở túc lâm khấp (XI-41) (hình 19). Biểu hiện bệnh lý: Bụng đầy chướng, lưng lạnh, kinh nguyệt không đều, khí hư, chân có thể bị teo liệt. Điều trị: đau, đầy vùng thượng vị, viêm màng phổi, nôn mửa, khó tiêu, sôi bụng, ỉa chảy có nhầy, ợ hơi, đau mạng sườn, đau ở dưới rốn, chảy máu ruột, sốt rét, sót rau, ngất sau đẻ.
  130. 5. Mạch dương kiểu (huyệt chung với các đường kinh chính) Bắt đầu từ mắt cá ngoài qua mặt ngoài chi dưới, phân bố ở cạnh sườn, vòng qua vai lên mép rồi dầu, mắt, hợp với mạch âm kiểu đến sau tai và não. Liên lạc với tai, mắt, não. Liên hệ với ba kinh dương ở chân, kinh thủ thái dương tiểu trường, kinh thủ thái dương minh đại trường, mạch đốc, quản lý kinh dương toàn thân, và tiếp hợp với kinh túc thái dương bàng quang ở thân mạch (VII-62) (hình 20). Biểu hiện bệnh lí: Bệnh mắt, mất ngủ, động kinh, lưng đau. Điều trị: đau cứng vùng eo lưng, sưng chân, thở khò khè, đau đầu, ra mồ hôi đầu, đau mắt đỏ, đau khớp xương, liệt bàn tay và chân, ngất, điếc, động kinh, phù nề