Bài giảng Triết học

ppt 391 trang phuongnguyen 1940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Triết học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pptbai_giang_triet_hoc.ppt

Nội dung text: Bài giảng Triết học

  1. CHƯƠNG I KHÁI LUẬN CHUNG VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
  2. I. ĐỐI TƯỢNG CỦA LỊCH SỬ TRIẾT HỌC. 1. Triết học là gì. Xã hội loài người xuất hiện cách đây khoảng gần 4 triệu năm, nhưng triết học mới xuất hiện cách đây vào khoảng hơn hai nghìn năm, vào thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ ở cả phương Ðông và phương Tây.
  3. Triết học xuất hiện đầu tiên ở một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Ðộ, Hy Lạp. Vì vậy, theo người Trung Quốc, triết học có ý nghĩa là Trí bao hàm sự hiểu biết, sự nhận thức sâu sắc của con người về thế giới. Theo tiếng Hy Lạp, thuật ngữ triết học được cấu tạo bởi hai từ là Philos và Sophia. Philos có nghĩa là tình bạn, tình yêu, là khát vọng để vươn tới. Còn Sophia là sự khôn ngoan, hiểu biết, là sự thông thái. Như vậy theo người Hy Lạp thì triết học là Philosophia nghĩa là yêu mến sự thông thái.
  4. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy.”
  5. 2. Vấn đề cơ bản của triết học, các trường phái triết học và các phương pháp triết học. 2.1 Vấn đề cơ bản của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (hay tồn tại và tư duy). Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học; đặc biệt là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
  6. Như vậy, vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn. - Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào ? - Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không ? Hai mặt nói trên trong vấn đề cơ bản của triết học có mối liên hệ chặt chẽ thống nhất với nhau. Việc giải quyết vần đề cơ bản của triết học là cơ sở để xác định tính chất của các trường phái triết học xem đó là duy vật hay duy tâm.
  7. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIÊT HỌC 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA 2. CON NGƯỜI NHẬN THỨC ĐƯỢC VC & Ý THỨC THẾ GIỚI HAY KHÔNG
  8. 2.2 Các trường phái triết học + Ðối với mặt thứ nhất vần đề cơ bản của triết học: – Trường phái triết học nào cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức thì được gọi chung là chủ nghĩa duy vật. CNDV chất phác • CHỦ NGHĨA DUY VẬT CNDV siêu hình CNDV biện chứng
  9. -Trường phái triết học nào cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất thì được gọi chung là chủ nghĩa duy tâm. Trong chủ nghĩa duy tâm được chia thành hai phái là: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
  10. Ngoài chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nói trên gọi là các trường phái nhất nguyên luận, còn có một trào lưu khác gọi là trường phái nhị nguyên luận. Tiêu biểu là Ðềcác (1596-1650). Trường phái này cho rằng: Vật chất và ý thức là hai thực thể đầu tiên song song tồn tại, không cái nào quyết định cái nào.
  11. + Ðối với mặt thứ hai trong vần đề cơ bản của triết học: Con người có thể nhận thức được thế giới hay không? Trả lời câu hỏi nói trên tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả duy vật và duy tâm) đều thừa nhận khả năng nhận thức của con người
  12. Bên cạnh quan điểm của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nói trên, chủ nghĩa hoài nghi lại nghi ngờ khả năng nhận thức của con người về thế giới. Họ cho rằng : muốn biết sự vật có tồn tại hay không là vấn đề nan giải, về nguyên tắc thì không thể nhận thức được bản chất của sự vật.
  13. Tóm lại: Việc giải quyết vần đề cơ bản của triết học đã hình thành các trường phái khác nhau, đó là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trong đó chủ nghĩa duy vật, nhất là chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học, nó đem lại cho con người sự nhận thức ngày càng đúng đắn về thế giới.
  14. 2.2 phương pháp triết học. Trong lịch sử Triết học đã hình thành hai phương pháp nhận thức đối lập nhau đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
  15. + Phương pháp siêu hình Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời không liên hệ, vận động, phát triển. Phương pháp siêu hình được hình thành từ thời kì cổ đại nhưng biểu hiện rõ nét nhất là ở thế kỉ 17- 18.Vì vậy chủ nghĩa duy vật thời kì này được gọi là chủ nghĩa siêu hình. Phương pháp siêu hình làm cho con người chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy. Do đó, phương pháp siêu hình phản ánh không đúng bức tranh sinh động của thế giới khách quan.
  16. + Phương pháp biện chứng. Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức đối tượng trong mối liên hệ vận động phát triển không ngừng. Phương pháp biện chứng được hình thành từ thời cổ đại mà người khởi xướng là nhà triết học duy vật có tên là Hêraclit. Ông cho rằng :Các sự vật hiện tượng của thế giới nằm trong quá trình vận động biến đổi như dòng chảy của con sông.ông nêu lên luận điểm nổi tiêng:Người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông.
  17. -> Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã thể hiện dưới ba hình thức lịch sử: PHÉP BC CHẤT PHÁC (TK CỔ ĐẠI) PHÉP BIỆN CHỨNG PHÉP BC DUY TÂM (TH HÊ-GHEN) PHÉP BC DUY VẬT(MÁC- A- LÊNIN)
  18. Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo linh hoạt về hiện thực. Nhờ vậy nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
  19. 3. Đối tượng của lịch sử triết học. Đối tượng của lịch sử triết học là nghiên cứu quá trình hình thành, phát sinh và phát triển của các học thuyết triết học trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
  20. Với tư cách là một khoa học, lịch sử triết học không dừng lại ở mô tả nội dung các học thuyết các phương pháp mà nhiệm vụ của nó là : “Thông qua di sản của các nhà tư tưởng,lịch sử triết học tìm ra bản chất của các học thuyết và xác định chỗ đứng của nó trong các trường phái triết học. Đánh giá được những cống hiến, những hạn chế của các học thuyết, các phương pháp triết học trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể.”
  21. II.PHÂN KỲ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC (Giáo trình tr5). 1. Những nguyên tắc phương pháp luận của sự phân chia các thời kỳ lịch sử triết học.
  22. 2.Những thời kỳ lớn của lịch sử triết học –Triết học thời kỳ cổ đại. –Triết học thời trung đại. –Triết học thời phục hưng. –Triết học thời cận đại. –Triết học thời cổ điển Đức. –Triết học thời Mác-Lênin. –Những trào lưu triết học tư sản thời hiện đại.
  23. III. Những nguyên tắc cơ bản của việc nghiên cứu lịch sử triết học. 1. Nguyên tắc khách quan. 2. Nguyên tắc biện chứng 3. Nguyên tắc tính đảng, tính giai cấp.
  24. CHƯƠNG II TRIẾT HỌC ẤN ÐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại. 1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại.
  25. * Điều kiện tự nhiên Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa dạng. Đất nước này vừa có dãy núi Hymalaya hùng vĩ, vừa có biển Ấn Độ Dương rộng mênh mông; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có sông Hằng chảy về phía Đông tạo nên những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ. Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt ấy là cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn giáo triết học.
  26. * Điều kiện kinh tế - xã hội. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình “công xã nông thôn” mà đặc trưng của nó là: - Ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước. - Gắn liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân trong công xã. - Quan hệ giữa gia đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản. - Xã hội được phân chia thành các đẳng cấp.
  27. Xã hội được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: • Tăng lữ: những người làm công việc tôn giáo. • Quý tộc: gồm vương công, tướng lĩnh, võ sĩ. • Bình dân tự do: gồm thương nhân, thợ thủ công và dân chúng của công xã. • Nô lệ cùng đinh.
  28. Sự phân chia đẳng cấp đó đã làm phức tạp thêm các quan hệ xã hội, tạo ra những mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân, thợ thủ công, nô lệ với các đẳng cấp khác trong xã hội.
  29. *Điều kiện về khoa học và văn hoá. + Về khoa học: ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những thành tựu về KHTN. Đặc biệt là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y học
  30. +Văn hoá Ấn Độ cổ, trung đại: được chia làm ba giai đoạn: – Giai đoạn thứ nhất: Khoảng thế kỷ XXV-XV tr.CN gọi là nền văn minh sông Ấn. – Giai đoạn thứ hai: Từ thế kỷ XV – VII tr.CN gọi là nền văn minh Vê đa.
  31. – Giai đoạn thứ ba: Từ thế kỷ VI – I tr.CN. Đây là thời kỳ hình thành các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và không chính thống. trong đó có 6 trường phái triết học chính thống và 3 trường phái triết học không chính thống. Tiêu chuẩn của chính thống và không chính thống là có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay không.
  32. Tóm lại: Tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên là cơ sở cho sự nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời cổ, trung đại với các hình thức phong phú đa dạng.
  33. 2. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại -Triết học Ấn Độ cổ, trung đại chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo rất khó phân biệt. Trong các quan niệm triết học, kể cả các quan niệm duy vật đều ẩn sau các lễ nghi tôn giáo huyền bí, và các nhà triết học cũng là những người làm công việc tôn giáo. -Triết học Ấn Độ ít có những cuộc cách mạng lớn, chủ yếu có tính cải cách; các trường phái triết học đi sau thường không đặt ra mục đích tạo ra một thứ triết học mới mà thường là kế thừa, bảo vệ, làm rõ quan điểm của các trường phái đi trước.
  34. -Trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại, quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm thường đan xen vào nhau trong quá trình vận động phát triển. -Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đặc biệt chú ý đến vấn đề con người. Hầu hết các trường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề “nhân sinh” và tìm con đường “giải thoát” cho con người khỏi nỗi khổ đau trong đời sống trần tục.
  35. II. SỰ PHÁT SINH PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI 1. Triết học Vê đa. Vêđa theo nghĩa đen của từ này là tri thức, là sự hiểu biết, tương tự như Philosophia tức là yêu mến sự thông thái của Hy lạp.
  36. Trong nghĩa cụ thể, Vêđa là những tác phẩm văn học tập hợp những câu ca dao, vịnh phú, thần thoại, diễn ca, những tư tưởng quan điểm về tập tục lễ nghi được sáng tác bằng phương thức truyền miệng trong một thời gian khá dài. Đến khoảng thế kỷ thứ X tr.CN, các tác phẩm đó mới được ghi lại bằng tiếng Phạn (Sancrit) thành bộ sách gọi là thánh kinh Vêđa làm cơ sở giáo lý cho đạo Bàlamôn và chế độ phân chia đẳng cấp. Các tác phẩm này còn lại tới ngày nay dưới dạng 4 tập chính là: Rigveda, Samaveda, Atharvaveda, Yajurveda
  37. • Rigveda: Là bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ bao gồm 1028 khúc hát dùng để ca ngợi công đức của các vị thánh thần và cầu nguyện cho con người có sức khoẻ, có thức ăn, có gia súc, có mưa thuận gió hoà. • Samaveda: Là tuyển tập các đoạn trong Rigveda, dùng để ca chầu trong khi tiến hành nghi lễ. • Atharvaveda: Là bộ kinh gồm 731 bài văn vần có tính chất huyền bí dùng để khẩn cầu những điều tốt đẹp cho con người.
  38. Yajurveda: Là bộ kinh gồm hai bộ phận là Yajurveda trắng và Yajurveda đen. Yajurveda trắng gồm các câu thần chú để sử dụng trong nghi lễ, còn Yajurveda đen nêu lên các ý kiến về nghi lễ và thảo luận các ý kiến đó.
  39. Tóm lại: Triết học Vêđa là hình thức tôn giáo cổ nhất Ấn Độ, nó thể hiện thế giới quan của người Ấn Độ lúc bấy giờ đang tự nhận thức mình và nhận thức giới tự nhiên. Nhưng họ chưa phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa mình với tự nhiên. Chính vì vậy, đối với họ các hiện tượng tự nhiên đều có linh hồn và được nhân cách hoá thành các vị thần.
  40. 2. Sáu trường phái triết học chínhthống. 2.1. Trường phái Samkhya. Trường phái Samkhya lúc đầu là duy vật họ không thừa nhận thần Brahman sáng tạo ra thế giới. Họ cho rằng thế giới vật chất do một dạng vật chất đầu tiên cấu tạo nên là Prakriti. Prakriti là một loại vật chất đặc biệt tiềm ẩn không thể nhận thức được bằng giác quan.
  41. Nhưng về sau, trường phái này cũng rơi vào QĐ duy tâm thừa nhận có linh hồn (Purusa) tồn tại song song bên cạnh bản nguyên vật chất (Prakriti).
  42. 2.2. Trường phái Mimansa. Trường phái này lúc đầu là duy vật họ không thừa nhận sự tồn tại của thần linh. Họ cho rằng không chứng minh được sự tồn tại của thần, cảm giác không nhận ra thần. Nhưng về sau họ lại rơi vào quan điểm duy tâm thừa nhận có thần và bảo vệ uy tín của kinh Vêđa và triết lý của đạo Bàlamôn.
  43. 2.3. Trường phái Vedanta. Vedanta là một trường phái hoàn toàn duy tâm, họ không thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất, theo họ vật chất là không chân thực.
  44. Họ thừa nhận Brahman là tinh thần vũ trụ sáng tạo ra muôn loài. Atman là linh hồn cá biệt, là một bộ phận của Brahman, nhưng nó có thể nhập vào hết người này đến người khác theo luật luân hồi. Chỉ khi nào con người khổ công tu luyện đạt đến sự giác ngộ thì khi đó linh hồn được giải phóng nó bay trở về đồng nhất với Brahman
  45. 2.4. Trường phái Yoga. Yoga là một trường phái triết học chính thống do đạo sĩ Patanjali sáng lập. Nội dung cơ bản của học thuyết triết học Yoga là đề cập đến những phương pháp tu luyện nhằm giải thoát linh hồn khỏi sự ràng buộc của thể xác và đạt đến sức mạnh siêu nhiên.
  46. Để đạt được điều đó, trường phái này đưa ra tám phương pháp (bát bảo tu pháp) tu luyện sau đây: • 1) Chế giới: Phải có tình thương yêu rộng rãi. • 2) Nội chế: Phải tự kiềm chế (tự ức chế). • 3) Tọa pháp: Giữ thân thể ở vị trí nhất định. • 4) Điều tức pháp: Điều khiển sự thở cho hợp lý. • 5) Chế cảm pháp: Điều khiển cảm giác tư duy. • 6) Tổng trì pháp: Chú ý vào một điểm. • 7) Tĩnh lự pháp: Giữ tâm thống nhất (thiền định). • 8) Tam muội pháp: Thiền cao độ khi đó hoàn toàn làm chủ được tâm, sẽ đạt tới tuệ bằng sự bừng sáng tư duy.
  47. • Tóm lại: Trường phái Yoga là một tôn giáo còn có quan điểm duy tâm là thừa nhận có thần hay thượng đế, thừa nhận con người có linh hồn và thể xác. Tuy nhiên trường phái này đã đưa ra được các phương pháp rèn luyện sức khoẻ cho con người mà hiện nay vẫn được nhiều nước sử dụng.
  48. 2.5. Trường phái Nyaya và Vaisesika. Đây là hai trường phái độc lập nhau nhưng về sau thống nhất thành một trường phái, có những quan điểm giống nhau và có đóng góp trên ba phương diện: thuyết nguyên tử, lý luận nhận thức và logic học.
  49. * Về nguyên tử luận: Hai trường phái này đều thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất, thế giới ấy được tạo nên bởi nguyên tử. Nguyên tử là những hạt vật chất vô cùng nhỏ bé, không phân chia được và tồn tại vĩnh viễn. Họ còn cho rằng, sự kết hợp khác nhau của các nguyên tử tạo nên sự phong phú và đa dạng của các vật thể.
  50. * Về lý luận nhận thức: Hai trường phái này đều thừa nhận khả năng nhận thức của con người về thế giới. Họ thừa nhận tính khách quan của khách thể nhận thức. Họ cho rằng, nhận thức có thể tin cậy được. Tiêu chuẩn của sự tin cây là sự phản ánh trung thành với đối tượng.
  51. *Về logic học: Trường phái này cho rằng, để đi đến kết luận một vấn đề cần phải trải qua 5 bước suy luận gồm có: luận đề, nguyên nhân, chứng minh bằng ví dụ, suy đoán, kết luận.
  52. Ví dụ: • 1.Trên đồi có lửa • 2. Vì trên đồi có khói. • 3. Ở đâu có khói là ở đó có lửa, như ở trong bếp lò. • 4. Trên đồi đang bốc khói.nhất định trên đồi có lửa. • 5. Do đó, trên đồi có lửa.
  53. Nhưng về sau hai trường phái này lại rơi vào quan điểm duy tâm họ thừa nhận có thần, có linh hồn. Họ cho rằng thầndùng nguyên tử để cấu tạo nên thế giới.
  54. 3. Ba trường phái triết học không chính thống. *Trường phái Jaina. Jaina là một trường phái tôn giáo nhưng có quan điểm duy vật và tư tưởng biện chứng về thế giới. Họ thừa nhận thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn các dạng cụ thể của TG nằm trong quá trình vận động biến đổi không ngừng. Nhưng hạn chế của họ là ở chỗ họ thừa nhận có linh hồn
  55. 3.2 Trường phái Lokayata Đây là trường phái duy vật tương đối triệt để trong triết học Ấn Độ cổ trung đại. Trường phái này cho rằng thế giới xung quanh ta là thế giới vật chất. Thế giới vật chất là do 4 yếu tố đầu tiên là: địa, phong, thủy, hỏa tạo thành. Cả con người và sinh vật cũng do 4 yếu tố vật chất nói trên tạo nên. Họ không thừa nhận thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới.
  56. Về năm sinh của phật hiện nay có nhiều tài liệu khác nhau nhưng nhìn chung nhiều ý kiến cho rằng phật sinh vào năm 563 tr.CN. Ông sinh ngày 8/4 năm 563 tr.CN nhưng theo truyền thống phật lịch thì tính là ngày 15/4 ( rằm tháng tư )gọi là ngày phật đản
  57. Mặc dù sinh ra trong gia đình qúy tộc dòng dõi Đế Vương, nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt,với sự bất lực của con người trước những khó khăn của cuộc đời và xã hội đã khiến ông sớm có ý định từ bỏ cuộc đời giàu sang phú quý để đi tìm đạo lí cứu đời. Vì vậy năm 29 tuổi người đã rời bỏ hoàng cung xuất gia tu đạo ,đến năm 35 tuổi người đã đắc dạo tìm ra chân lí. Ông trở thành người sáng lập ra tôn giáo mới gọi là phật giáo.
  58. Từ đó người đi khắp nơi để truyền bá đạo lí của mình, sau này ông được suy tôn với nhiều danh hiệu khác nhau: đức phật (Buddha), Người giác ngộ hay Thích Ca - mâu ni (sakyamuni),Thánh thích ca (vị thánh dòng họ thích ca )
  59. Xét về mặt triết học, phật giáo được coi là triết lí thâm trầm sâu sắc về vũ trụ và con người. Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ của con người,phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động.nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của cácdân tộc Châu Á. Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi là Tam tạng kinh bao gồm:Tạng kinh, Tạng luật,Tạng luận.
  60. * Quan điểm về thế giới quan của phật giáo. Quan điểm về thế giới quan của phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của ba phạm trù là: vô ngã, vô thường, và duyên.
  61. Vô ngã (không có cái tôi) Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố là vật chất và tinh thần. Trong đó vật chất gọi là sắc, tinh thần gọi là danh. Sắc (v.chất) + danh (thụ, tưởng, hành, thức) = 5 yếu tố (ngũ uẩn) Ngũ uẩn tác động qua lại tạo nên sự vật và con người. Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó không có cái tôi chân thực.
  62. Vô thường (vận động biến đổi không ngừng). Phật giáo cho rằng mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động biến đổi không ngừng theo chu trình bất tận là sinh, trụ, dị, diệt. Do đó không có cái gì là trường tồn bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm DVBC về thế giới.
  63. Duyên (Điều kiện giúp nguyên nhân thành KQ). Phật giáo cho rằng mọi sự vật,hiện tượng trong quá trình vận động đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả lại trở thành nguyên nhân cho một quá trình mới tạo thành kết quả mớicũng cần phải có điều kiện.Cứ như vậy tạo nên sự vận động biến đổi không ngừng của các sự vật. VD: duyên( đất, nước,ánh sáng ) hạt lúa cây lúa (nguyên nhân) (kết quả) duyên cây lúa những hạt lúa (nguyên nhân) (kết quả)
  64. Như vậy, thông qua các phạm trù vô ngã, vô thường, duyên, triết học phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế giới nằm trong quá trình biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.
  65. *Về triết lý nhân sinh của phật giáo. Nội dung triết lý nhân sinh của phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ diệu đế” tức là bốn chân lý tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được. Một là khổ đế: Là triết lý về cuộc đời và con người là bể khổ. Hai là nhân đế (tập đế): Triết lý về nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng nỗi khổ của con người là có nguyên nhân, phật giáo đưa ra 12 nguyên nhân của sự khổ gọi là thuyết “thập nhị nhân duyên”.
  66. 1) Vô minh: Là không sáng suốt. 2) Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động. 3) Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối. 4) Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan cảm giác (mắt, tai , mũi, lưỡi, thân thể và ý thức). 5) Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan. 6) Duyên xúc: Là sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
  67. 7) Duyên thụ: Là sự cảm thụ, sự nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngoài. 8) Duyên ái: Là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới bên ngoài. 9) Duyên thủ: Do yêu thích rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy. 10) Duyên hữu: Là sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được. 11) Duyên sinh: Là sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại. 12) Duyên lão tử: Là già và chết vì có sự sinh thành.
  68. –Ba là diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt tới trạng thái niết bàn. –Bốn là đạo đế: Là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, đó cũng là con đường giải thoát khỏi nỗi khổ để đạt tới hạnh phúc.
  69. Phật giáo đưa ra ra tám con đường chân chính gọi là (bát chính đạo). • 1) Chính kiến: Là hiểu biết đúng đắn tứ diệu đế. • 2) Chính tư duy: Là suy nghĩ đúng đắn. • 3) Chính ngữ: Nói năng phải đúng đắn. • 4) Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách đúng đắn, không làm việc xấu, nên làm việc thiện.
  70. • 5) Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn. • 6) Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng, không biết mệt mỏi. • 7) Chính niệm: Là tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát. • 8) Chính định: Là kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu đế, về vô ngã, vô thường.
  71. * Ngoài tám con đường chính để diệt khổ, phật giáo còn đưa ra năm điều răn để mỗi người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người. Đó là: bất sát (không được sát sinh); bất dâm (không được dâm dục); bất vọng ngữ (không được nói năng thô tục, bậy bạ); bất ẩm tửu (không được rượu trà); bất đạo (không được trộm cướp).
  72. Liên hệ vai trò Phật giáo ở nước ta. Phật giáo truyền vào nước ta từ những năm đầu công nguyên, với bản chất từ bi, bác ái, phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên mảnh đất này. Từ khi vào Việt Nam đến nay phật giáo tồn tại và phát triển phù hợp với truyền thống Việt Nam. Phật giáo trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lý, Lê, Trần, góp phần bảo vệ chế độ phong kiến Việt Nam giữ vững nền độc lập dân tộc.
  73. Phật giáo có công đào tạo tầng lớp trí thức cho dân tộc trong đó có nhiều vị thiền sư, quốc sư đức độ tài cao giúp nước an dân như: Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh,Pháp Nhuận Vào các thời kì hưng thịnh, phật giáo là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế ,chính trị ,văn hóa ,giáo dục, kiến trúc,hội họa Và đã để lại những giá trị mang đậm đà bản sắc dân tộc.Từ cuối thế kỉ XIII đến nay phật giáo không phải là quốc giáo nữa. Nhưng tư tưởng tích cực của nó vẫn là nhu cầu, là sức mạnh tinh thần của nhân dân ta.
  74. CHƯƠNG III TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ, TRUNG ĐẠI
  75. I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại. 1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Hoa cổ, trung đại. 1.1 Sự hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Hoa. + Quá trình chuyển hóa của XH công xã nguyên thủy dẫn đến sự hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Hoa kéo dài khỏang vài ba ngàn năm trước công nguyên. Thời kỳ này có ba sự kiện quan trọng dẫn đến sự ra đời của XH chiếm hữu nô lệ.
  76. – Toại nhân phát minh ra lửa để nấu chín thức ăn và rèn ra công cụ sản xuất. – Phục Hy phát minh ra lưới để săn thú, bắt cá và thuần dưỡng gia súc. – Thần Nông phát minh ra cách trồng lúa nước và làm ra lưỡi cày đặt nền móng cho sự ra đời của nghề nông. Những phát hiện nói trên làm cho LLSX phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự ra của chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX, phân hóa xã hội thành những giai cấp dẫn đến sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Hoa.
  77. XH chiếm hữu nô lệ Trung Hoa phát triển qua các triều đại Nhà Hạ, Nhà Ân ( Thương) và đạt đến sự phát triển hòan thiện ở triều đại Nhà Chu. + Đặc điểm thời kỳ Nhà Chu: Do kế thừa được kinh nghiệm SX của lịch sử để lại, do thiên nhiên thuận lợi cùng với sự quản lý xã hội chặt chẽ làm cho XH Nhà Chu phát triển mạnh mẽ. -Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà Chu quản lý ruộng đất theo phương pháp tĩnh điền. -Trong lĩnh vực XH: Nhà Chu tổ chức theo các quy tắc chặt chẽ ( vua, chư hầu ); xã hội phân chia thành các đẳng cấp.
  78. 1.2.Thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (770 – 221 TCN). Thời kỳ này có những đặc điểm như sau: - Do sự phát triển của SX mà đặc biệt là SX nông nghiệp tạo điều kiện cho sự chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc các ngành thủ công nghiệp dịch vụ dẫn đến sự hình thành các đô thị PK. - Phân hóa XH diễn ra sâu sắc dẫn đến chiến tranh liên miên giữa bảy nước (Tề, Tần, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu,Yên) làm cho thời đại Xuân Thu chuyển thành thời đại Chiến Quốc. Trong sự chuyển mình dữ dội của lịch sử,nhiều trường phái triết học ra đã đời tạo thành hệ thống triết học khá hòan chỉnh.
  79. 2. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại. Thứ nhất là nền triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư tưởng triết học Trung Hoa cổ, trung đại, tư tưởng liên quan đến con người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt. Thứ hai là các triết gia Trung Hoa đều tập trung vào lĩnh vực luân lý đạo đức, xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.
  80. Thứ ba là triết học Trung Hoa ít có những cuộc cách mạng lớn, chủ yếu là có tính cải cách; các trường phát triết học đi sau thường kế thừa và phát triển tư tưởng của các trường phái đi trước. Thứ tư là trong lịch sử triết học Trung Hoa, tư tưởng duy vật và tư tưởng duy tâm thường đan xen vào nhau trong quan điểm của một trường phái triết học.
  81. II. Các trường phái triết học Trung Hoa cổ, trung đại 1. Thuyết Âm- Dương , Ngũ Hành. 1.1. Tư tưởng triết học về Âm- Dương. Theo quan niệm của Triết học Trung Hoa cổ đại: âm và dương là khái niệm chỉ hai khuynh hướng đối lập nhau, nhưng lại liên hệ tác động lẫn nhau, thống nhất với nhau tạo nên sự vận động phát triển của sự vật. VD: Dương: mặt trời (nóng), sáng , cao, giai cấp thống trị,Quân tử, giống đực,chồng Âm: trái đất (lạnh), tối , thấp, giai cấp bị trị, Tiểu nhân, giống cái, vợ
  82. Tóm lại, bằng quan niệm âm dương triết học Trung Hoa cổ đại đã thừa nhận các mặt đối lập tồn tại khách quan.Chính sự liên hệ tác động của các mặt đối lập đã thúc đẩy sự vận động phát triển của sự vật. Đó là quan điểm duy vật biện chứng sơ khai về thế giới.
  83. 1.2. Tư tưởng triết học về Ngũ hành. Thuyết ngũ hành cho rằng thế giới vật chất là do kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tạo thành.
  84.  Kim (kim loại) tượng trưng cho tính chất: trắng, khô, cay, phía Tây.  Thuỷ (nước) tượng trưng cho tính chất: đen, mặn, phía Bắc.  Mộc (gỗ) tượng trưng cho tính chất: xanh, chua, phía Đông.  Hoả (lửa) tượng trưng cho tính chất: đỏ, đắng, phía Nam.  Thổ (đất) tượng trưng cho tính chất: vàng, ngọt, ở giữa.
  85. • Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh - khắc với nhau theo hai nguyên tắc sau: • + Tương sinh (sinh hoá cho nhau): Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, • + Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ
  86. Tóm lại: bằng quan niệm ngũ hành, triết học Trung Hoa cổ đại thừa nhận thế giới xung quanh ta là thế giới vật chất, các sự vât, hiện tượng của thế giới có sự liên hệ tác động lẫn nhau tuân theo quy luật. Quan điểm nói trên về thế giới tuy còn mộc mạc chất phác nhưng rất đáng trân trọng.
  87. 2. Trường phái triết học Nho Gia. 2.1. Khổng Tử (551- 479 tr.CN). *Thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử Khổng Tử là người mở đầu khai sinh ra trường phái Nho gia. Ông tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra tại nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc.
  88. Ông sinh ra trong gia đình quý tộc nhưng đã bị sa sút. Cha Khổng Tử đã từng làm quan võ của nước Lỗ, có lúc làm quan đại phu của nước Lỗ. Nhưng khi Khổng Tử ra đời cha đã về hưu (cha có ba vợ: vợ đầu có chín con gái, vợ hai có một con trai nhưng bị bệnh. Năm 70 tuổi cha cưới vợ ba sinh ra Khổng Tử,đến năm 73 tuổi thì cha mất).
  89. Khổng Tử là người thông minh, ôn hòa,nghiêm trang, khiêm tốn và hiếu học. Với ông (học không biết chán, dạy không biết mỏi). Ông là người đầu tiên mở trường học ở Trung Quốc. Khổng Tử từng làm quan nhưng không được trọng dụng.Cuộc đời ông không thành đạt trong quan trường nhưng lại rực rỡ trong lĩnh vực triết học nhân sinh. Khổng Tử mất vào năm 73 tuổi.
  90. Khổng Tử viết nhiều tác phẩm (8 tác phẩm) * Quan điểm triết học của Khổng Tử về chính trị xã hội + Quan niệm về đức nhân Theo Khổng Tử, đức nhân có nhiều nghĩa, nhưng nghĩa chính là thương người, là nhân đạo đối với con người. Nhân cũng là đức hạnh của người Quân tử.
  91. Theo Khổng Tử, đức nhân dựa trên hai nguyên tắc: - Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. - Mình muốn đứng vững thì giúp người khác đứng vững, mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. Trên cơ sở hai nguyên tắc này ông cụ thể hóa thành các tiêu chuân đạo đức đối với các tầng lớp xã hội
  92. Đặc biệt là đối với tầng lớp Quân tử. Ông cho rằng, đối với người làm chính trị quản lý xã hội, muốn có đức nhân phải có năm điều: Một là kính trọng dân. Hai là khoan dung độ lượng với dân Ba là giữ lòng tin với dân Bốn là mẫn cán (tận tụy trong công việc.) Năm là đem lòng nhân ái đối sử với dân.
  93. + Quan niệm về lễ: Khổng Tử cho rằng để đạt được đức nhân phải chủ trương dùng lễ để duy trì xã hội. Lễ trước hết là lễ nghi, cách thờ cúng, tế, lễ; lễ là kỷ cương, trật tự xã hội, là những quy định có tính pháp luật đòi hỏi mọi người phải chấp hành. Ai làm trái những điều quy định đó là trái với đạo đức. Như vậy lễ là biện pháp để đạt đến đức nhân.
  94. + Quan niệm về chính danh Quy định rõ danh phận của mỗi người trong xã hội. Khổng Tử cũng như các nhà nho đều có hoài bão về một xã hội có kỷ cương. Thời đại Không Tử là thời đại xã hội rối loạn vì vậy điều căn bản của việc làm chính trị là xây dựng xã hội chính danh để mỗi người, mỗi đẳng cấp xác định rõ danh phận của mình mà thực hiện.
  95. - Chính danh gồm có hai bộ phận danh và thực: * Danh là tên gọi, là địa vị, là thứ bậc của con người. * Thực là quyền lợi mà con người được hưởng phù hợp với danh. Khổng Tử cho rằng danh và thực phải thống nhất với nhau.
  96. Từ đó ông chia xã hội thành năm mối quan hệ gọi là ngũ luân: • Vua – tôi (Quân thần): vua nhân – tôi trung • Chồng – Vợ (phu phụ): chồng biết điều – vợ nghe lẽ phải • Cha – Con (phụ tử): Cha hiền – con thảo • Anh – em (huynh đệ): anh tốt – em ngoan • Bạn – bè (bằng hữu): chung thủy. Khổng Tử cho rằng nếu mỗi người, mỗi đẳng cấp thực hiện đúng danh phận của mình thì xã hội có chính danh và xã hội có chính danh là xã hội có kỷ cương thì đất nước sẽ thái bình thịnh trị.
  97. * Quan điểm triết học của Khổng Tử về thế giới: - Trong quan điểm về thế giới thì Khổng Tử có sự giao động giữa lập trường duy vật và lập trường duy tâm. Bởi vì khi thì ông tin có mệnh trời, ông cho rằng; tử sinh có mệnh, sống chết tại trời, không thể cải được mệnh trời. - Không Tử cho rằng người Quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời thánh nhân. Trong đó sợ nhất là sợ mệnh trời. Nhưng có khi Khổng Tử lại không tin có mệnh trời, ông cho rằng: trời chỉ là lực lượng tự nhiên không có ý trí, không can thiệp vào công việc của con người.
  98. Tóm lại, mặc dù đứng trên lập trường thế giới quan duy tâm bảo thủ nhằm bảo vệ trật tự xã hội nhà Chu suy tàn, nhưng triết học của Khổng Tử có nhiều yếu tố tiến bộ ở chỗ đề cao vai trò đạo đức kỷ cương xã hội, đề cao nguyên tắc giáo dục đào tạo con người, trọng người hiền tài, nhân đạo đối với con người và những quan điểm tiến bộ của ông nhằm xây dựng xã hội thái bình thịnh trị.
  99. 2.2. Mạnh Tử (327 – 289 tr.CN) Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư,sinh tại nước Lỗ , nay thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc. Ông là người kế thừa và phát triển tư tưởng của trường phái Nho Gia . Quan điểm triết học của Mạnh tử thể hiện ở 3 nội dung :
  100. * Quan điểm của Mạnh Tử về thế giới : Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà không do mệnh trời , mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy . Từ đó, Mạnh Tử đưa ra học thuyết “ vạn vật đều có đủ trong ta , nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được tất cả ”nghĩa là không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dưỡng nội tâm là biết được tất cả .
  101. * Quan điểm về bản chất con người : Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện , tính thiện đó là do thiên phú chứ không phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm cho tính thiện ngày càng mạnh thêm, nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai một đi thì con người càng thêm nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú. Từ đó Mạnh Tử kết luận : bản chất con người là thiện nhưng con người hiện thực có thể là ác. Đó là do xh rối loạn , luân thường đạo lí bị đảo lộn. Cho nên để thiết lập quốc gia thái bình thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng đường lối chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.
  102. * Quan điểm về chính trị xã hội : Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư tưởng của ông về “Dân quyền”, tức đề cao vai trò của quần chúng nhân dân . Ông cho rằng trong một QG quí nhất là dân rồi mới tới vua , đến của cải xã tắc “ dân vi quí ,quân vi khinh, xã tắc thứ chi ”. Với tinh thần ấy Mạnh Tử chủ trương xây dựng một chế độ bảo dân , dưỡng dân tức là phải chăm lo , bảo vệ nhân dân, ông yêu cầu người trị vì đất nước phải quan tâm đến dân , phải tạo cho dân có nhà cửa , ruộng vườn , tài sản bởi vì họ “ hằng sản mới hằng tâm”.
  103. Ông là người chủ trương khôi phục chế độ tĩnh điền để cấp đất cho dân . Ông khuyên các bậc vua chúa tiết kiệm chi tiêu , thu thuế của dân có chừng mực. Đó là những quan điểm hết sức mới mẻ và tiến bộ của ông khiến ông mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị của trường phái Nho Gia hàng loạt vấn đề mới mẻ toát lên tinh thần nhân bản theo con đường lấy dân làm gốc .
  104. 2.3 Tuân Tử (298 – 238 tr CN). • Tuân Tử thường gọi là Tuân Huống, Tự là Tuân Khanh; ông sinh tại nước Triệu. Ông là người kế thừa, phát triển tư tưởng của trường phái Nho gia. Ông được coi là nhà triết học duy vật kiệt xuất trong lịch sử Triết học Trung Hoa Cổ trung đại.
  105. Quan điểm triết học của ông được thể hiện ở những nội dung sau: • Quan điểm về thế giới: Ông có quan điểm duy vật tương đối triệt để về thế giới. Khác với quan điểm của Mạnh Tử và Khổng Tử vừa duy vật, vừa duy tâm. Tuân tử cho rằng, vũ trụ gồm có 3 bộ phận đó là: Trời có 4 mùa, Đất có sản vật, Người có văn tự. + Theo ông, trời chỉ là một bộ phận của vũ trụ như những bộ phận khác, trời không có linh hồn, không có ý chí, không can thiệp vào công việc của con người, song trời có đạo của trời. Đạo trời ở đây được hiểu là quy luật của tự nhiên, nó hoạt động không phụ thuộc vào ý chí con người.
  106. + Theo Tuân Tử, đạo trời diễn ra theo lẽ tự nhiên nhất định, không liên quan đến đạo người. Đạo trời chi phối sự biến đổi của vạn vật, sự thay đổi của vũ trụ không phụ thuộc vào sự sáng suốt hay ngu muội của con người. Như vậy, với cách hiểu về trời và đạo trời như vậy, Tuân Tử đã phủ nhận vai trò quyết định của thiên mệnhđối với vận mệnh xã hội và con người, đồng thời ông cũng thừa nhận tính khách quan của quy luật tự nhiên.
  107. Quan điểm về lý luận nhận thức. • Trong triết học của mình, Tuân Tử đã xây dựng học thuyết về nhận thức trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật. Ông khẳng định rằng: con người có khả năng nhận thức được thế giới và quy luật của nó. Trong đó, đối tượng của nhận thức là thế giới khách quan. • Ông thấy rằng, quá trình nhận thức của con người bắt đầu từ kinh nghiệm do cảm quan (giác quan) đưa lại; mỗi giác quan đều có tính năng riêng biệt phản ánh một mặt nào đó của sự vật bên ngoài. Do vậy, muốn nhận thức đúng, nhận thức sâu sắc về sự vật còn phải dựa vào một “khí quan đặc biệt” là tư duy mà ông gọi là “Tâm”.
  108. • Ông cho rằng, chỉ có qua sự suy lý của tư duy thì mới có thể phân biệt hoặc phán đoán đúng được tính chất của sự vật do các cơ quan cảm giác phản ánh. Nhưng hoạt động của tư duy (tâm) cũng phải lấy hoạt động của các cơ quan cảm giác làm cơ sở. • Như vậy, Tuân Tử đã khái quát được những vấn đề cơ bản của quá trình nhận thức, ông đã giải quyết đúng mối quan hệ giữa cảm giác và tư duy, trong quá trình nhận thức và coi tri thức là kết quả của quá trình nhận thức.
  109. Quan điểm về con người. • Tuân tử là người đi sâu nghiên cứu con người, ông coi con người là một bộ phận của thế giới, ông tin ở khả năng con người. Ông cho rằng, việc trị hay loạn, lành hay dữ là do con người làm ra chứ không phải tại trời. Từ đó Tuân Tử khuyên con người hãy tin ở mình, biết làm chủ mình. Theo ông, chỉ cần ra sức sản xuất nông nghiệp và tiết kiệm tiền của thì trời sẽ không để cho con người nghèo đói và nếu giữ gìn thân thể khỏe manh, ăn ở điều độ thì trời sẽ không để cho con người ốm đau bệnh tật. Với tinh thần ấy, Tuân Tử mạnh dạn đề ra học thuyết “con người có thể cải tạo được tự nhiên bằng trí khôn của mình” .
  110. • Như vậy, so với quan điểm của Khổng Tử và Mạnh Tử thì Tuân Tử đã đánh giá cao vai trò của con người trong thế giới. Con người trong triết học của Khổng – Mạnh là nạn nhân của số phận, của thiên mệnh; trong khi đó, con người của Tuân Tử là con người chống lại định mệnh, cải tạo số phận của chính mình và cải tạo giới tự nhiên (đây là quan điểm mới mẻ về con người của ông).
  111. Quan điểm về bản chất con người • Trong triết học của Tuân Tử, quan điểm về bản chất con người đối lập với quan điểm của Mạnh Tử. Nếu Mạnh Tử cho rằng, bản chất của con người là thiện thì Tuân Tử cho rằng bản tính của con người là ác. Nghĩa là con người sinh ra đã có sẵn bản tính ác. • + Sở dĩ bản tính của con người là ác vì con người sinh ra vốn có lòng ham lời và dục vọng. Để thỏa mãn những ham muốn và dục vọng đó, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên của mình. Điều đó, ắt dẫn đến sự tranh giành, cướp bóc, chiếm đoạt của nhau. Nghĩa là dẫn đến những điều ác.
  112. • Ông cho rằng, “Người ta sinh ra là có sự hiếu lợi, thuận theo tính ấy mà có sự phản tặc mà mất lòng trung tín. Người ta sinh ra là có cái dục của tai mắt, có cái đam mê âm thanh và màu sắc”. Thuận theo tính ấy nên sinh ra dâm loạn mà mất lễ nghĩa. • Do đó, xã hội phải được tổ chức thành khuôn mẫu và dùng chuẩn mực pháp lý để giáo hóa con người, đưa con người trở về với cái thiện. (Đó là xuất phát điểm của đường lối pháp gia sau này).
  113. Quan điểm về chính trị xã hội. • Trong quan điểm chính trị xã hội, Tuân Tử kế thừa những tư tưởng tiến bộ của Khổng Tử, Mạnh Tử, đồng thời ông bổ sung phát triển thêm những quan điểm mới. • Tuân Tử cho rằng, trị nước chỉ có đạo đức và lễ nghĩa không thôi có lẽ chưa ổn. Đạo đức và lễ nghĩa nặng về phần xây, nhẹ về phần chống. Theo ông, đường lối chính trị tốt nhất là phải kết hợp cả hai mặt đó. Có nghĩa là phải kết hợp cả lễ trị và pháp trị. Nói cách khác là phép trị nước phải kết hợp cả lễ giáo và hình phạt. • Tuân Tử cho rằng, đối với những người đến với ta với ý tốt thì ta dùng lễ mà đối xử với ho, đối với người đến với ta với ý xấu thì ta dùng hình phạt để đối xử với họ.
  114. • Mặt khác, Tuân Tử là người kế thừa và phát triển tư tưởng đề cao vai trò quần chúng nhân dân của Mạnh Tử; ông kêu gọi người đứng đầu đất nước phải quan tâm đến dân, phải chăm lo sản xuất nông nghiệp, tích trữ của cải, phát triển sản xuất, tiết kiệm tiêu dùng; chăm lo cho dân có cái ăn, cái mặc, có công việc từ mùa đông đến mùa hè, làm sao cho trên dưới cùng giàu có.
  115. • So với Khổng Tử và Mạnh Tử, Tuân Tử là người đã thấy được sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân.Ông cho rằng, “Vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền và nước cũng lật thuyền”. Đó là những quan điểm hết sức tiến bộ cuả ông về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. • Tóm lại, so với Khổng Tử và Mạnh Tử, triết học của Tuân Tử là một trình độ phát triển cao và có nhiều quan điểm mới. Vì vậy, triết học của Tuân Tử là triết học duy vật tiến bộ. Học thuyết của Tuân Tử là tập đại thành các học thuyết đời trước, được phê phán, kế thừa, phát triển những quan điểm tiến bộ, đồng thời mở màn cho trường phái pháp gia sau này.
  116. 3. Trường phái Đạo gia Đạo gia là một trường phái triết học lớn trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại, nó có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đến tư tưởng mà cả truyền thống văn hóa cuả hầu hết các dân tộc Châu Á. Đạo gia gắn liền với tên tuổi của Lão Tử và Trang Tử, vì vậy còn gọi là đạo Lão – Trang.
  117. 3.1 Triết học của Lão Tử (Sinh khoảng TK VI – V trước CN): a. Thân thế và sự nghiệp của Lão Tử • Lão Tử được lịch sử Trung Hoa coi là ông tổ của Đạo gia. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được đời sau viết lại mang nhiều tính huyền thoại. • Nhưng theo “sử ký” của Tư Mã Thiên, Lão Tử là người sống cùng thời với Khổng Tử. Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự là Bá Dương, người đời gọi ông một kính trọng là lão Đam.
  118. • Lão Tử là người nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc Nhân (thuộc tỉnh Hồ Nam – Trung Quốc ngày nay), ông đã từng làm quan sử giữ kho sách cho nhà Chu. • Lão Tử là người đọc nhiều, hiểu rộng, đi nhiều nơi, song thích sống ẩn dật. Toàn bộ tư tưởng của ông được trình bày ngắn gọn trong tác phẩm “đạo đức kinh”. Những quan điểm triết học của ông mang tính chất gợi mở và đạt đến độ thâm trầm sâu sắc. Tư tưởng của Lão Tử được thể hiện ở những nội dung sau đây:
  119. b. Nội dung tư tưởng triết học của Lão Tử Tư tưởng về Đạo: • Tư tưởng về Đạo là điểm xuất phát đồng thời cũng là hạt nhân trong triết học của Lão Tử. Trong khi trình bày tư tưởng về Đạo, Lão Tử đã bộc lộ rõ thế giới quan duy vật và phép biện chứng tự phát. • + Trong triết học Trung Hoa, Đạo lúc đầu là con đường, dần dần về sau Đạo còn được bao hàm nội dung bản thể luận và quy luật.
  120. • Theo quan điểm của Lão Tử, Đạo là nguồn gốc, là bản chất sâu kín của vạn vật, theo ông đạo là khối hỗn độn, không có hình thể, không có tính chất, mập mờ thấp thoáng, .không biết đặt tên gì nên đặt tên Đạo. • Lão Tử cho rằng, Đạo thể hiện ở hai tính chất: Tự nhiên thuần phác và trống không. • Tính tự nhiên của Đạo được hiểu như là tính khách quan vốn có của sự vật, nó tồn tại không phụ thuộc vào ý chí con người. Tuy nhiên, tính tự nhiên khách quan của Đạo không thể hiểu như khái niệm tồn tại khách quan của triết học phương Tây. Bởi vì, Đạo chứa đựng và hòa đồng cả cái tồn tại và cái không tồn tại, cả cái tĩnh lặng và cái biến đổi, cả cái tương đối và cái tuyệt đối. Nghĩa là nó tồn tại tự nhiên, nhưng không phải tồn tại có định tính hình thái, mà là trạng thái chứa đựng tất cả
  121. • Như vậy xét về bản chất, Đạo trước hết được hiểu là nguồn gốc của vũ trụ, là bản thể đầu tiên của vũ trụ, sinh ra cả trời, đất, thần linh. • + Mặt khác, trong triết học của Lão Tử, Đạo không chỉ được hiểu là nguồn gốc của vũ trụ mà còn theo nghĩa là quy luật vận hành của vũ trụ. Lão Tử cho rằng không ở đâu là không có Đạo, không ở đâu là không theo Đạo, Đạo là cái vô hình nhìn không thấy, đón không gặp, đuổi không được nhưng ở đâu cũng có Đạo. Ông cho rằng, trời có Đạo mà trong, đất có Đạo mà yên, thần có Đạo mà linh.
  122. • Từ đó Lão Tử rút ra kết luận: Đạo có hai tính chất cơ bản đó là tính phổ biến, gọi là đạo thường và tính khách quan gọi là Đạo Vô Vi (nghĩa là Đạo hoạt động không phụ thuộc vào ý chí con người). Lão Tử cho rằng, không cần ai ra lệnh, Đạo tự mình làm, Đạo vốn tự nhiên lạnh lùng trước con người, nó không vì rét mà dẹp bỏ mùa đông, không vì nóng mà bỏ mùa hè. • Như vậy, thông qua phạm trù Đạo, Lão Tử vừa thừa nhận nguồn gốc của thế giới là vật chất, đồng thời ông cũng thừa nhận sự tồn tại khách quan của quy luật chi phối sự vận động của tự nhiên và xã hội.
  123. 3.2 Tư tưởng về phép biện chứng Triết học của Lão Tử bao hàm nhân tố đặc sắc về phép biện chứng chất phác. + Phép biện chứng của Lão Tử là sự phát triển tư tưởng về sự biến dịch trong “kinh dịch” của triết học Trung Hoa. Ông cho rằng: Toàn bộ thế giới là cuộc đại chuyển tiếp không ngừng. Sự vận động biến đổi của vạn vật không phải là hỗn loạn mà tuân theo những qui luật tất yếu. Đây là những qui luật nghiêm ngặt, không sự vật nào đứng ngoài qui luật kể cả trời đất, thần linh.
  124. + Theo Lão Tử: Toàn thể vũ trụ bị chi phối bởi 2 qui luật phổ biến: Đó là qui luật quân bình và qui luật phản phục. • Luật quân bình: luôn giữ cho sự vận động được thăng bằng không để cho cái gì thái quá, thiên lệch hay bất cập. Nghĩa là, cái gì khuyết sẽ được tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng, cái gì vơi sẽ được bù đắp cho đầy, cái gì cũ sẽ đổi mới lại. Đó là đạo tự nhiên. Lão Tử viết “Khuyết tắc toàn, cong thì ngay, trũng lại đầy, cũ thì lại mới”- Đạo đức kinh, thượng thiên chương 22.
  125. • Ví dụ: Biểu tượng của luật quân bình là nước, nước có bản tính mềm mại, gặp chỗ trống thì nhảy vào, gặp chỗ đầy dư thì chảy ra, lánh chỗ cao, tìm chỗ thấp. Vì thế nó ngày đêm chảy mãi không ngừng. Lên trên thành thành mưa thấm nhuần vạn vật, xuống dưới thành sông lạch, tưới mát muôn loài. Chính nhờ luật quân bình mà vận vật tồn tại biến đổi không ngừng theo một trật tự tự nhiên nhất định. • Quá trình biến đổi của vạn vật còn tuân theo luật phản phục nghĩa là phát triển tới cực điểm sẽ trở thành cái đối lập với chính nó.
  126. • Luật phản phục của Lão Tử có hai ý nghĩa: - Phản phục có nghĩa là vạn vật biến hóa trao đổi cho nhau theo một vòng tuần hoàn đều đặn, kế tiếp, nhịp nhàng bất tận như 4 mùa xuân, hạ, thu, đông thay đổi qua lại. - Phản phục còn có ý nghĩa là trở về với Đạo tự nhiên Vô vi. Nghĩa là trở về với chính bản tính tự nhiên của mình, không thái quá, không bất cập. Theo Lão Tử nếu không trở về với đạo tự nhiện Vô vi, có tính can thiệp vào cái bản tính tự nhiên của tạo hóa là chuốc lấy thất bại. Ông cho rằng nếu trời không trong sẽ vỡ, đất không yên sẽ lở, hang không đầy sẽ cạn.
  127. Như vậy sự trở về với Đạo có nghĩa là sự hòa nhập, đồng nhất với cái tĩnh lặng, mộc mạc, thuần phác, tự nhiên của Đạo. + Trong phép biện chứng của mình Lão Tử đã đi sâu lí giải về nguồn gốc của sự vận động biến đổi. Theo ông mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt đối lập. Hai mặt này vừa xung khắc đối lập, lại vừa liên hệ ràng buộc bao hàm lẫn nhau và không thể thiếu được nhau. Lão Tử viết trong vạn vật không vật nào mà không “cõng âm bồng dương” hai mặt này vừa nương tựa phụ thuộc vào nhau lại vừa xung khắc với nhau trong sự vật.
  128. Ở đây Lão Tử đã vạch ra được bản chất của mối quan hệ là thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật, đó là nguồn gốc của mọi sự biến đổi. - Theo Lão Tử, các mặt đối lập trong sự vật trong quá trình đấu tranh có thể chuyển hóa lẫn nhau, khi sự phát triển đạt đến cực điểm thì sẽ trở thành mặt đối lập với chính nó do đó họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ náu của họa. Gió to không suốt sáng, mưa lớn không suốt ngày
  129. • Tuy nhiên theo Lão Tử, sự đấu tranh chuyển hóa của các mặt đối lập không theo khuynh hướng phát triển dẫn đến xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của luật “phản phục”. Hơn nữa Lão Tử không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh của các mặt đối lập mà chủ trương lấy cái tĩnh, cái mềm, cái Vô vi, cái điều hòa để tạo thành sự chuyển hóa (đây là mặt hạn chế trong phép biện chứng của ông).
  130. 3.3 Tư tưởng về Đạo Vô vi Vô vi là một khái niệm triết học đạo đức của người Trung Hoa cổ đại để chỉ phương pháp sống tự nhiên mộc mac, thuần phác không bị cưỡng chế gò ép. Khái niệm Vô vi của Lão Tử: cũng xuất phát từ ý nghĩa này nhưng cốt lõi thực sự của nó là nghệ thuật sống của con người trong sự hòa nhập với tự nhiên, thuận theo bản tính tự nhiên của con người. Khái niệm Vô vi của Lão Tử có ba ý nghĩa chính.
  131. • Một là, vạn vật đều có bản tính tự nhiên của mình, chúng tồn tại, vận động, biến hóa theo lẽ tự nhiên không cần biết đến ý nghĩa mục đích của bản thân chúng. Ví dụ: bản tính tự nhiên của cá là bơi lội dưới nước, chim là bay trên trời. Vì vậy không nên can thiệp vào quá trình vận hành của các sự vật, biết chấp nhận, thích ứng với mọi hoàn cảnh, môi trường. • Hai là, Vô vi còn có nghĩa là tự do “tuyệt đối” không bị ràng buộc bởi bất cứ ý tưởng, dục vọng, đam mê, ham muốn nào.
  132. Theo Lão Tử nếu trong đời sống người ta cố chạy theo những nhu cầu ham muốn trái với khả năng, bản tính tự nhiên của mình sẽ đánh mất chính bản thân mình. Chính những ham muốn dục vọng làm con người mất tự do. • Ba là, Vô vi còn có nghĩa là luôn bảo vệ, giữ kín bản tính tự nhiên của mình, biết ngăn chặn, bài trừ những gì làm hại đến bản tính tự nhiên. Như vậy thực chất của Vô vi không phải là thụ động, bất động hay không hành động mà Vô vi là hành động theo bản tính tự nhiên của Đạo.
  133. + Từ quan điểm Vô vi Lão tử rút ra những điểm căn bản trong nghệ thuật sống của con người đó là những đức tính: Từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung, tri túc .theo tư tưởng này cần phải từ bỏ những gì là nhân tạo, phi đạo pháp tự nhiên. Tinh thần ấy dẫn Lão Tử đến chỗ quan niệm một cuộc sống, một phong cách sống theo Đạo đến mức chối bỏ truyền thống nhân tạo. + Trong đường lối trị nước an dân, Lão Tử nhất trí với Khổng Tử là người đứng đầu nhà nước phải là một thánh nhân.
  134. Nhưng nếu Khổng Tử chủ trương, thánh nhân trị vì thiên hạ bằng nhân, lễ, nghĩa, trí, tín thì Lão Tử chủ trương thánh nhân trị vì thiên hạ bằng Đạo Vô vi. Nghĩa là trong mô hình xã hội của Lão Tử ông chủ trương xóa bỏ hết mọi ràng buộc của con người bởi các qui phạm đạo đức pháp luật, tri thức, công nghệ để trả lại con người cái bản tính tự nhiên nguyên thủy vốn có của nó (Đây là mặt hạn chế của ông)
  135. • Kết luận: Tư tưởng của Lão Tử về Đạo cũng như phép biện chứng và chủ nghĩa Vô vi là rất sâu sắc và độc đáo. Với trình độ tư duy lí luận cao, những quan điểm ấy của Lão Tử đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển tư tưởng triết học phương Đông. Tuy nhiên Lão Tử trong tư tưởng triết học của ông vẫn còn những hạn chế bởi điều kiện lịch sử khi giải quyết những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận hay phép biện chứng. Nhưng dù sao về phương diện lịch sử chúng ta cũng phải nghiêng mình trước di sản tài hoa và sắc sảo của ông.
  136. CHƯƠNG IV TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại. 1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại. - Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn bao gồm miền nam bán đảo Ban Căng thuộc Châu Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êgiê và cả miền ven biển của bán đảo Tiểu Á. Điều kiện địa lý thuận lợi cho nên từ rất sớm các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại đã phát triển.
  137. - Về mặt xã hội, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp thịnh hành một cách phổ biến vào khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII tr.CN. Đây là thời kỳ xã hội đã phân chia thành hai giai cấp cơ bản: chủ nô và nô lệ. - Thời kỳ này cũng diễn ra mâu thuẫn gay gắt giữa tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc. Trong đó chủ nô dân chủ là phái chủ nô tiến bộ, đứng về phía NDLĐ, còn chủ nô quý tộc đại biểu cho xu hướng phản động muốn duy trì một xã hội độc tài. Cuộc đấu tranh đó có tác động tích cực tới việc phát triển LLSX.
  138. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thúc đẩy sự phân công lao động xã hội. Do đó, thời kỳ này lao động trí óc đã tách khỏi lao động chân tay, xã hội đã hình thành một bộ phận trí thức chuyên nghiên cứu triết học và khoa học. Điều này góp phần vào việc phát sinh các ngành khoa học, trong đó có triết học.
  139. Do nhu cầu của hoạt động thực tiễn, nhất là nhu cầu phát triển thương mại và hàng hải ở Hy Lạp đã quyết định sự phát sinh và phát triển của những tri thức về thiên văn, khí tượng, toán học, vật lý, Vì vậy thời kỳ này ở Hy Lạp đã xuất hiện sớm một số ngành khoa học tự nhiên, nhưng các ngành khoa học này chưa đủ sức để trở thành những ngành khoa học độc lập. Lúc này tất cả các khoa học tự nhiên nằm chung trong triết học.
  140. Do đó, triết học lúc đó gọi là triết học tự nhiên và các nhà triết học thời kỳ này cũng là những nhà khoa học tự nhiên. Qua đó thấy triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi mới ra đời đã gắn chặt với nhu cầu của thực tiễn, gắn liền với những thành tựu của khoa học tự nhiên.
  141. 2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại - Triết học Hy lạp cổ đại có đặc điểm riêng độc đáo của nó. Đó là nền triết học phong phú rực rỡ, nhiều màu sắc, nhiều trường phái với nhiều triết gia tiêu biểu. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “ Từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của tư tưởng triết học cổ Hy Lạp đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
  142. - Triết học Hy Lạp cổ đại hình thành phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học tự nhiên và các nhà triết học thời kỳ này đồng thời cũng là những nhà khoa học tự nhiên. - Trong lịch sử triết học Hy lạp cổ đại, chủ nghĩa duy vật có đặc điểm là mộc mạc, chất phác, gắn liền với phép biện chứng sơ khai, tự phát.
  143. II. Một số triết gia tiêu biểu. 1. Hêraclit (520 – 460 tr.CN). Hêraclit vừa là nhà triết học vừa là nhà vật lý. Ông là nhà triết học duy vật có tư tưởng biện chứng về thế giới. Quan điểm triết học của ông thể hiện ở những nội dung sau đây.
  144. * Quan điểm về thế giới: Hêraclit thừa nhận thế giới là vật chất mà cơ sở đầu tiên, duy nhất của nó là Lửa. lửa là nguồn gốc, là cái có trước, là bản chất của mọi sự vật và là cơ sở của mọi sự biến đổi.
  145. Ông cho rằng, dưới tác động của lửa, đất biến thành nước, nước biến thành không khí và ngược lại giống như hàng hoá trao đổi thành vàng và vàng thành hàng hoá. Theo Hêraclit, mọi sự vật luôn ở trạnh thái vận động biến đổi chuyển hoá không ngừng giống như dòng chảy của con sông. Ông nêu lên luận điểm bất hủ rằng: “Người ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
  146. Nguồn gốc của sự vận động biến đổi của sự vật, theo ông là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật. Thông qua “đấu tranh” bản chất sự vật bộc lộ ra và nhờ đó con người nhận thức đúng về sự vật. Theo Hêraclit Sự vận động và phát triển của sự vật tuân theo quy luật (ông gọi là Logos). Người nào thấu hiểu được Logos và làm đúng theo Logos thì người đó là người có trí tuệ.
  147. * Quan điểm về lý luận nhận thức: Hêraclit cho rằng, nhiêm vụ của nhận thức là phải hiểu biết sâu sắc về tự nhiên. Con người nhận thức tự nhiên bằng cả cảm giác và tư duy. Trong đó tư duy có vai trò cực kỳ quan trọng. Nhận thức chân thực là nhận thức Logos của sự vật, song chân lý phải là cụ thể.
  148. Quan điểm về chính trị- xã hội: Hêraclit đứng trên lập trường của chủ nô quý tộc chống lại phái chủ nô dân chủ. Ông đề cao vai trò của những cá nhân “ưu tú” và tỏ ra khinh miệt quần chúng nhân dân lao động. Ông coi một người ưu tú sánh với hàng vạn người khác. Tóm lại: Hêraclit có rất nhiều đóng góp về mặt triết học cả vấn đề thế giới quan cũng như nhận thức luận, đặc biệt là phép biện chứng. Tuy còn mộc mạc, chất phác, nhưng về cơ bản những quan niệm đó là đúng đắn.
  149. 2. Đêmôcrit (460 – 370 tr.CN). Đêmôcrit là nhà triết học duy vật vĩ đại trong thế giới cổ đại. Ông là người nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực và nắm được hầu hết những kiến thức đương thời: triết học, logic học, toán học, vũ trụ học, vật lý học, sinh vật học, tâm lý học, giáo dục học, đạo đức học, mỹ học, ngôn ngữ học. Vì vậy, ông được coi là người có bộ óc bách khoa đầu tiên trong người Hy Lạp. quan điểm duy vật của ông được thể hiện ở những nội dung sau.
  150. *Quan điểm về thế giới: Đêmôcrit cho rằng, cơ sở đầu tiên cấu tạo nên mọi sự vật là nguyên tử. Nguyên tử là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được nữa, không nhìn thấy được, không âm thanh, không màu sắc, không mùi vị và tồn tại vĩnh viễn.
  151. Theo quan điểm của Đêmôcrit, các sự vật là do các nguyên tử liên kết lại với nhau tạo nên. Tính đa dạng của nguyên tử làm nên tính đa đạng của thế giới các sự vật. Nguyên tử tự thân vận động nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể làm cho vật thể và thế giới vận động không ngừng.
  152. Lần đầu tiên trong lịch sử Đêmôcrit nêu lên khái niệm không gian, theo ông không gian là khoảng trống mà ở đó các nguyên tử vận động liên kết lại với nhau. Ông là người đã thấy được mối liên hệ giữa vật chất, vận động và không gian. Ở đây Đêmôcrit đã thể hiện lập trường duy vật về tự nhiên.
  153. *Quan điểmvề lý luận nhận thức: Đêmôcrit là người có công lớn trong việc xây dựng lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại. Ông cho rằng đối tượng của nhận thức là vật chất, là thế giới xung quanh con người và nhờ vào sự tác động của đối tượng nhận thức vào giác quan nên con người mới nhận thức được sự vật.
  154. Đêmôcrit chia nhận thức thành 2 dạng là: nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối là nhận thức do các giác quan đem lại. Nhận thức chân lý là nhận thức do sự phân tích sâu sắc sự vật để nắm bản chất bên trong của nó. Hai dạng nhận thức trên có mối liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó nhận thức chân lý sâu sắc hơn vì nó phản ánh được bản chất bên trong của sự vật.
  155. Đêmôcrit còn là người đặt nền móng cho sự ra đời của logic học với tư cách là khoa học của tư duy. Ông là người đầu tiên trong lịch sử viết tác phẩm “ Bàn về logic học” ông coi logic học là một công cụ để nhận thức các hiện tượng của tự nhiên. Ông là người nhấn mạnh phương pháp quy nạp. Tức là phương pháp đi từ cái riêng đến cái chung nhằm vạch ra bản chất của sự vật.
  156. * Quan điểm về chính trị xã hội: Đêmôcrit là người phê phán mạnh mẽ tôn giáo. Ông cho rằng những thần thánh của tôn giáo Hi Lạp chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng của tự nhiên hay thuộc tính của con người. Đêmôcrit là người đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô dân chủ chống lại bọn chủ nô quý tộc,bảo vệ chế độ dân chủ nô, ông coi chế độ Nô Lệ là hợp lý .
  157. Đêmôcrit có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Theo ông phẩm chất con người không phải ở lời nói mà ở việc làm.Con người cần hành động có đạo đức, còn hạnh phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, ở khả năng tinh thần nói chung,và đỉnh cao của hạnh phúc là trở thành nhà thông thái. Tóm lại những quan điẻm triết học của Đêmôcrit tuy còn mộc mạc chất phác, song đã đưa triết học duy vật Hi Lạp cổ đại lên bước tiến mới,đóng góp cho kho tàng triết học của nhân loại những thành quả vô giá.
  158. 3. Platon (427 – 347 tr.CN). Platon là nhà triết học duy tâm khách quan, quan điểm triết học của ông đối lập với triết học duy vật của Đêmôcrit. Quan điểm triết học của ông được thể hiện ở những nội dung sau đây
  159. * Quan điểm về thế giới: Platon coi ý niệm là thế giới chân thực, có trướcvà sinh ra thế giới các sự vật. Còn thế giới các sự vật là không chân thực. Bởi vì ở đó các sự vật không ngừng biến đổi. Do đó, không có cái gì là ổn định vĩnh viễn. Như vậy, khi giải quyết vấn đé cơ bản của triết học Platon đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm khách quan.
  160. *Quan điểm về lý luận nhận thức Platon cũng có tính chất duy tâm. Theo ông, nhận thức của con người không phải là phản ánh các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn về thế giới ý niệm, về những điều mà linh hồn đã bắt gặp khi còn ở thế giới ý niệm, khi chưa trú ngụ vào thể xác con người. Trên cơ sở đó, Platon phân hai loại tri thức: tri thức hoàn toàn đúng đắn tin cậy và tri thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn trước khi nhập vào thể xác và có được nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai lẫn lộn đúng sai, là tri thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, ở đó không có chân lý.
  161. * Quan điểm về chính trị xã hội Platon chủ trương cần phải duy trì các hạng người trong xã hội, cũng có nghĩa là duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi người. Theo ông Nhà nước ra đời cũng là để đáp ứng những nhu cầu đó. Ông đưa ra mô hình “Nhà nước lý tưởng”.
  162. Trên cơ sở phê phán các hình thức nhà nước đã có trong lịch sử Platon đưa ra mô hình Nhà nước lý tưởng dựa trên cơ sở phân chia xã hội thành ba đẳng cấp dựa vào đặc trưng đạo đức: -Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học, các nhà thông thái giữ vị trí lãnh đạo xã hội. - Đẳng cấp thứ hai là quân nhân có trách nhiệm bảo vệ Nhà nước lý tưởng. - Đẳng cấp thứ ba là dân lao động tự do, thợ thủ công có nhiệm vụ sản xuất ra của cải vật chất để đảm bảo cuộc sống cho nhà nước.
  163. Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước lý tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công các ngành nghề và giải quyết mâu thuẩn giữa các nhu cầu xã hội. Sự vinh quang của nhà nước phụ thuộc vào các phẩm chất: Sự thông thái, sự dũng cảm, sự chính nghĩa và phong độ duy trì chuẩn mực xã hội. Trong đó sự thông thái là tri thức cao nhất và là niềm vinh quang của riêng nhà triết học.
  164. Tóm lại: Platon là nhà triết học duy tâm khách quan đã đề cập một cách có hệ thống nhiều vấn đề của triết học. Tuy còn nhiều hạn chế, song Platon đã đóng góp công lao to lớn vào việc nghiên cứu những vấn đề về hình thái ý thức xã hội, về tư duy lý luận.
  165. CHƯƠNG V TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG (THẾ KỶ XV – XVI) I. Hoàn cảnh ra đời của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng. Thời kỳ Phục hưng ở các nước Tây Âu là từ thế kỷ XV đến XVI. Gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là thời kỳ này có sự khôi phục (làm sống lại) và phát triển những giá trị văn hoá thời cổ đại. Xét về mặt hình thái kinh tế - xã hội, đây là thời kỳ các nước Tây Âu đang chuỷên dần từ XHPK lên XHTB. Trong thời kỳ này, nhiều công cụ lao động đã được cải tiến và hoàn thiện, đã tạo ra điều kiện cho các công trường thủ công tư bản từng bước nâng cao năng suất lao động.
  166. Những phát kiến địa lý như tìm ra châu Mỹ và đường hàng hải sang Ấn Độ và Trung Quốc qua châu Phi, đã mở rộng giao lưu hàng hoá giữa các nước, giữa Đông và Tây. Nhờ đó, sản xuất và thương nghiệp phát triển, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành, phát triển nhanh chóng. Giai cấp tư sản mới hình thành là giai cấp tiến bộ, có nhu cầu phát triển khoa học tự nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển sản xuất và cần có CNDV làm vũ khí tư tưởng để chống lại thế giới quan DT của GCPK.
  167. Từ những đặc điểm KT,CTXH nói trên ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tư tưởng triết học. Do đó triết học thời kỳ này có đặc điểm là gắn bó chăt chẽ với KHTN; các nhà KHTN thời kỳ này không những là những người khổng lồ về mặt trí tuệ mà còn là những người có bản lĩnh dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống CNDT tôn giáo để bảo vệ chân lý khoa học.
  168. II. Một số triết gia tiêu biểu. 1.Nicôlai Côpécnic (1473 – 1543). Nicôlai Côpécnic là nhà thiên văn học và triết học người Ba Lan. Ông là người đầu tiên đã đưa ra thuyết Nhật tâm, coi mặt trời là trung tâm, trái đất và các hành tinh khác đều quay quanh mặt trời. Thuyết “Nhật tâm” của ông có ý nghĩa rất lớn về triết học và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Nó bác bỏ thuyết địa tâm của Ptôlêmê và do đó đã giáng một đòn quyết định vào chính nền tảng của thế giới quan tôn giáo và đánh dấu sự giải phóng khoa học tự nhiên khỏi thần học và tôn giáo. Phát minh của Côpécníc là “một cuộc cách mạng trên trời”, báo trước một cuộc cách mạng trong các quan hệ xã hội.
  169. 2. Gióocđanô Brunô (1548 – 1600). Brunô là nhà triết học đồng thời là một nhà khoa học tự nhiên vĩ đại, ông cũng là tu sĩ nghiên cứu thần học ở Italia. Brunô là người kế thừa và phát triển thuyết “Nhật tâm” của Côpécníc. Ông cho rằng: xung quanh trái đất có một bầu không khí và nó cùng xoay với trái đất. Theo ông có vô vàn thế giới giống như thái dương hệ của chúng ta, thế giới chúng ta đang sống cũng như thế giới “nhà trời” đều do vật chất tạo nên.
  170. Brunô cũng có đóng góp quan trọng trong sự phát triển phép biện chứng. Ông đã có tư tưởng biện chứng “về sự phù hợp của các mặt đối lập”. Theo ông, trong tự nhiên, mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, cái này mất đi thì cái khác ra đời. Các mặt đối lập cũng chuyển hóa lẫn nhau: tình yêu chuyển thành căm thù và ngược lại; chất độc có thể trở thành bài thuốc tốt nhất và ngược lại Tư tưởng biện chứng của ông đã vượt xa các nhà triết học Hy Lạp cổ đại vì ông đã dựa trên thành tựu của toán học và cơ học thời đại của mình.
  171. Về mặt nhận thức luận, khi xây dựng phương pháp mới của khoa học, Brunô đòi hỏi khoa học tự nhiên phải dựa trên thực nghiệm. Đồng thời, khi đề cao vai trò của thực nghiệm và kinh nghiệm, ông cũng hết sức coi trọng tư duy lý tính trong quá trình nhận thức. Ông cho rằng, mục đích cao nhất của tư duy là nắm bắt quy luật của tự nhiên. Theo ông, con đường nhận thức là từ cảm giác đến lý trí và cuối cùng là trí tuệ. Với những tư tưởng tiến bộ nói trên, Brunô đã bị toà án tôn giáo kết án tử hình và thiêu sống tại La Mã.
  172. 3. Galilêô Galilê (1564 – 1642). Galilê là nhà toán học, nhà thiên văn học, nhà vật lý và là nhà triết học cuối thời Phục hưng ở Italia, là người mở đầu cho sự phát triển của khoa học thực nghiệm. Galilê đã có nhiều đóng góp cho cơ học, đặc biệt là quy luật quán tính, lực rơi và gia tốc trọng trường. Ông cũng đã chế ra kính viễn vọng để quan sát bầu trời, phát hiện ra các vệ tinh, quan sát mặt trời, mặt trăng
  173. Các phát minh khoa học của ông có ý nghĩa triết học sâu sắc. Nó giúp cho ông có cơ sở để khẳng định tính thống nhất vật chất của toàn bộ vũ trụ và chứng minh thuyết “nhật tâm” của Côpécnic. Do ảnh hưởng của các quan niệm “hai chân lý” đang thịnh hành thời đó, ông cho rằng kinh thánh và khoa học đều cần cho con người. Kinh thánh gần gũi với cuộc sống hàng ngày của con người, dạy cho con người điều hay lẽ phải; còn khoa học giúp cho con người khám phá được các quy luật của giới tự nhiên, nhận thức được bản chất đích thực của chúng.
  174. Đề cao nhận thức trí tuệ của con người trong việc nhận thức thế giới. Ông cho rằng khả năng nhận thức của con người là vô hạn, cảm giác là bước đầu của nhận thức còn bước cuối là hoạt động của lý trí, ở bước này kinh nghiệm được kiểm tra lại và những yếu tố rời rạc của tri thức được liên kết lại. Không có chân lý cuối cùng. Galilê có nhiều phát minh vĩ đại, có vai trò lớn cho sự phát triển của khoa học và triết học. Nhưng nó lại là mối nguy hiểm cho chủ nghĩa kinh viện và giáo hội La Mã lúc bấy giờ. Vì vậy Giáo hoàng La Mã ra lệnh truy tố và bỏ tù ông, tòa án tôn giáo đã quản thúc một cách nghiêm ngặt cho tới khi ông qua đời.
  175. Triết học vào thời kỳ Phục hưng đã tạo ra một bước ngoặt trong sự phát triển của triết học sau đêm trường Trung cổ. Nó tạo tiền đề cho triết học tiếp tục phát triển vào thời kỳ cận đại.
  176. CHƯƠNG VI TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ CẬN ĐẠI (Thế kỷ XVII – XVIII)
  177. I. Hoàn cảnh lịch sử của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại. Từ cuối thế kỷ XVI–XVIII ở các nước Tây Âu là TK nổ ra các cuộc CMTS. Đầu tiên là CMTS Hà Lan (1560–1570), sau đó là CMTS Anh (1642–1648), rồi đến CMTS Pháp (1789–1794). Trong đó CMTS Pháp là triệt để nhất. Đây là thời kỳ PTSX tư bản được xác lập và trở thành PTSX thống trị, nó tạo ra những vận hội mới cho KHKT phát triển mà trước hết là KHTN.
  178. Do đó thời kỳ này các ngành khoa học đã dần tách ra khỏi triết học để trở thành khoa học độc lập .Đặc biệt là các ngành cơ học, vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế học ra đời và phát triển. Từ những thay đổi sâu sắc trong đời sống xã hội và những thành tựu mới trong KHTN, triết học thời kỳ này đã có một bước phát triển mới. Trong đó nổi bật là CNDV Anh TK XVII và CNDV Pháp TK XVIII.
  179. II.Những nền triết học với những triết gia tiêu biểu. 1. Triết học Anh thế kỷ XVII. 1.1. Phranxi Bêcơn (1561 - 1626). Bêcơn sinh ra trong một gia đình quý tộc, là con một quan chức cao cấp nước Anh. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông làm nhiều công việc khác nhau: ngoại giao, tư pháp, thượng thư báo chí, bầu vào nghị viện, thủ tướng Anh, được phong bá tước. Bêcơn là người sáng lập chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện đại. Bắt đầu từ Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai đoạn mới.
  180. *Quan điểm của Bêcơn về vai trò, nhiệm vụ của triết học và khoa học. Theo Bêcơn thì nhiệm vụ của triết học là cải tạo lại toàn bộ các tri thức mà con người đã đạt được ở thời đại đó, nhằm “nắm bắt trật tự của giới tự nhiên”.Theo ông, tri thức là sức mạnh để con người chinh phục tự nhiên. Muốn chinh phục tự nhiên thì con người phải nhận thức các quy luật của nó và vận dụng các quy luật ấy vào trong đời sống. Từ đó, Bêcơn cho rằng sự phát triển của triết học và khoa học là nền tảng canh tân đất nước.
  181. *Quan điểm về thế giới Bêcơn đứng trên lập trường DV trên cơ sở kế thừa, phát triển quan điểm DV thời kỳ cổ đại. Đặc biệt là quan điểm của Đêmôcrit về nguyên tử. Theo Bêcơn, sự tồn tại của thế giới vật chất khách quan là không thể tranh cãi được, khoa học không thể biết cái gì ngoài thế giới vật chất cả. Và ông khẳng định vật chất không tách rời vận động, nhận thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Bêcơn đã tiến hành phân loại các hình thức vận động. Ông nêu ra 19 hình thức vận động của vật chất. Ở đây ông đã thấy được mối quan hệ vật chất và vận động.
  182. *Quan điểm về lý luận nhận thức Lý luận nhận thức của Bêcơn nêu lên và giải quyết những vấn đề dưới đây: Theo Bêcơn, không có tri thức bẩm sinh, mọi tri thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm và thực hiện sự “chế biến” những kinh nghiệm đó thành một hệ thống, nhờ đó ta biết được bản chất, của sự vật.
  183. Từ đó, Bêcơn phê phán những người kinh nghiệm luận máy móc giống như Con Kiến chỉ biết tha nhặt những cái lẻ tẻ, vụn vặt và sử dụng chứ không biết chế biến chúng. Còn những người giáo điều thì giống như Con Nhện dùng lý trí của mình giăng những cái mạng vô hình, vô nghĩa. Đối với những nhà khoa học chân chính, theo ông phải như Con Ong, vừa biết góp nhặt nhụy hoa vừa biết tạo ra “Mật khoa học” cho đời.
  184. Trên cơ sở đó, Bêcơn cho rằng phương pháp tốt nhất để nhận thức bản chất của sự vật là phương pháp quy nạp. Tức là trên cơ sở những kinh nghiệm do nhận thức cảm tính mang lại, phải biết phân tích, tổng hợp, chế biến thông tin để rút ra kết luận về bản chất của sự vật
  185. Tuy nhiên, trong lý luận nhận thức, Bêcơn không đứng vững trên lập trường vô thần, khi thừa nhận chân lý có tính hai mặt: khoa học và thần học. Ông cho rằng khoa học và thần học không nên can thiệp vào công việc của nhau. Khoa học nghiên cứu cái mà thần học không thể có được. Thần học nghiên cứu cái mà khoa học không thể vươn tới.
  186. *Quan điểm chính trị xã hội Bêcơn chủ trương xây dựng nhà nước tập quyền mạnh, bảo vệ lợi ích xã hội tư bản, chống lại đặc quyền của bọn quý tộc. Ông khẳng định sự phát triển công nghiệp và thương nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhất trong đời sống xã hội. Bêcơn mơ ước xây dựng một xã hội phồn vinh bằng con đường giáo dục và bằng các phát minh kỹ thuật. Tất cả những tư tưởng đó phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của giai cấp tư sản đang lên và tầng lớp quý tộc mới ở nước Anh vào thế kỷ thứ XVII
  187. Tóm lại: Bêcơn là người sáng tạo ra CNDV Anh, mang trong mình mầm mống của sự phát triển tòan diện. Mặc dù còn dưới hình thức mộc mạc, song những quan điểm DV đó có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của triết học và khoa học
  188. 1.2. Tômát Hốpxơ (1588 -1679). Hốpxơ là một triết gia nổi tiếng, đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII. Ông là người hệ thống hoá chủ nghĩa duy vật của Bêcơn. Quan điểm duy vật của ông được thể hiện những nội dung sau đây:
  189. *Quan điểm về thế giới Hôpxơ đứng trên lập trường duy vật. Ông cho rằng, thế giới vật chất tồn tại khách quan, không do thần thánh sáng tạo ra và cũng không phụ thuộc vào ý thức con người . Theo ông, thế giới vật chất là thế giới của các vật thể, cùng với những quan hệ số lượng cơ học, toán học của nó. Quan niệm của Hốpxơ về thế giới vật chất là quan niệm duy vật siêu hình. Tất cả đều được quy về quan hệ số lượng, quan hệ toán học và vận động theo quy luật cơ học. Cả con người cũng được ông giải thích như một cổ máy.
  190. *Quan điểm về lý luận nhận thức Về cơ bản lý luận nhận thức của Hôpxơ thuộc về phái cảm giác luận. Ông coi cảm giác là cơ sở của nhận thức. Nhưng ông chưa giải quyết được mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, giữa cái chung và cái riêng. Do đó, ông cho rằng chỉ có những sự vật cảm tính mới tồn tại khách quan, còn các khái niệm chỉ là những cái tên, những ký hiệu do con người tùy tiện đặt ra. Như vậy, lý luận nhận thức của ông bị chủ nghĩa duy danh chi phối.
  191. *Quan điểm về nhà nước và xã hội. Vấn đề nhà nước là một phần quan trọng trong học thuyết của Hốpxơ. Lý luận này được ông trình bày trong tác phẩm “về công dân”. Ông cho rằng, con người là một thực thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Về bản tính tự nhiên, mọi người sinh ra đều như nhau. Nhưng con người ai cũng có khát vọng, nhu cầu riêng của mình. Đó là những tiền đề cho con người làm điều ác. Để khắc phục tình trạng trên, cần phải xây dựng “một khế ước xã hội” như bản hợp đồng, giao kèo giữa nhà nước và công dân. Trên cơ sở đó, hình thành những đạo luật để mọi công dân có nghĩa vụ tuân theo và nhà nước dựa vào đó để quản lý XH.
  192. 1.3. Gióocgiơ Béccli (1684 - 1753). Béccli sinh ra trong một gia đình quí tộc ở miền Nam Ailen; học ở Trường Tổng hợp Đublin. Ông say mê nghiên cứu thần học, toán học và triết học. Béccli là nhà triết học duy tâm, vị linh mục. Quan điểm triết học của ông thể hiện nội dung sau:
  193. *Quan điểm về thế giới Ông phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Ông cho rằng khái niệm vật chất chỉ là sự trừu tượng trống rỗng. Theo ông, “vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức hợp của cảm giác”. Ví dụ, cái bàn, đó không phải là một vật thể hữu hình mà chỉ là do mắt ta nhìn thấy nó có hình khối; màu sắc. Hương vị của hoa quả cũng chỉ do cảm giác của con người nhận biết, chúng không tồn tại thật.
  194. Ông giải thích: “Tôi nhìn thấy quả anh đào này, sờ thấy nó, nếm nó nó có thật. Gạt bỏ cảm giác mềm dịu, mát, đắng, màu đỏ đi tức là tiêu diệt quả anh đào”. Tóm lại, theo Béccli, mọi vật chỉ tồn tại trong chừng mực mà người ta cảm biết được chúng. Tồn tại có nghĩa là được cảm biết.
  195. *Quan điểm về lý luận nhận thức Beccli cũng đứng trên lập trường duy tâm.Từ chỗ phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới vật chất, Béccli đã đi tới phủ nhận chân lý khách quan. Ông cho rằng: tìm chân lý không phải là trong sự phù hợp của tri thức với sự vật bên ngoài, mà là sự so sánh các quan niệm trong ý thức con người, là tính rõ ràng các tri giác cảm tính, là sự đơn giản và dễ hiểu của các quan niệm, là sự phù hợp với ý chúa.
  196. 2. Triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. 2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội. Xã hội Pháp vào nửa cuối thế kỷ XVIII chứa đựng những mâu thuẫn sâu sắc. Giai cấp phong kiến Pháp đứng đầu là vua Lu-i XVI đã thâu tóm vào tay mình những quyền lực vô hạn. Chỗ dựa xã hội của nhà vua là các đẳng cấp đặc quyền và chiếm số ít trong dân cư: quí tộc và tăng lữ. Đời sống của đại đa số nhân dân lao động, trước hết là nông dân hết sức khốn khổ, nạn đói do mất mùa hoành hành, những cuộc nổi dậy của nông dân chống chế độ phong kiến xảy ra thường xuyên. Tất cả cái đó là nguyên nhân kinh tế - xã hội của cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794). Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII là những người chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng về chính trị sôi động đó.
  197. Thế kỷ XVIII ở Pháp, với những đặc điểm kinh tế - xã hội, chính trị của nó cũng đồng thời tạo những tiền đề cho sự ra đời của những tư tưởng triết học và tư tưởng văn hoá nói chung. Triết học thời kỳ này được gọi là triết học khai sáng (ánh sáng) nghĩa là coi trọng trí tuệ, đề cao trí tuệ của con người.
  198. 2.2. Một số triết gia tiêu biểu. a). Giulen Ôphrơ La Mettri (1709 – 1751). La Mettri sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông nghiên cứu y học và trở thành bác sĩ, đồng thời say mê nghiên cứu triết học và khoa học. La Mettri là một trong những nhà triết học duy vật điển hình của triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Ông cùng với các nhà Bách khoa toàn thư Pháp chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789.
  199. *Quan điểm về thế giới. La Mettri đã có những bước tiến quan trọng trong quan điểm về bản chất thế giới so với những nhà triết học khác cùng thời đại. Theo ông, thực thể vật chất là thống nhất ba hình thức của nó trong giới tự nhiên như: giới vô cơ, thực vật, động vật (bao gồm con người).
  200. Ông cho rằng, trong thế giới chúng ta không có gì khác ngoài vật chất đang vận động vĩnh viễn. Nguyên nhân sự vận động của vật chất không phải do lực lượng bên ngoài mà “Vật chất chứa đựng một lực lượng làm nó sống động, và là nguyên nhân trực tiếp của mọi qui luật vận động”.
  201. Theo La Mettri, vật chất không chỉ có thuộc tính không gian và vận động mà còn có năng lực cảm giác. Nhưng năng lực cảm giác không phải xuất hiện ở bất cứ dạng vật chất nào, mà chỉ xuất hiện ở các “vật thể có tổ chức đặc biệt” đó là giới sinh vật. Cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy và ý thức của anh ta. Mọi tư tưởng, suy nghĩ của con người đều bị qui định bởi cấu trúc cơ thể của anh ta và chịu sự tác động của môi trường và các điều kiện sống.
  202. *Quan điểm về lý luận nhận thức. La Mettri có những đóng góp có giá trị cho lý luận nhận thức duy vật. Ông cho rằng mọi nhận thức đều bắt đầu từ cảm giác, tiến lên tư duy trừu tượng - đó là phán đoán và suy lý. Phán đoán là so sánh, kết hợp các biểu tượng có được nhờ trí nhớ ghi lại các cảm giác của con người trong đời sống hàng ngày. Còn suy lý là sự so sánh, kết hợp các phán đoán với nhau nhằm khẳng định hay phủ định một vấn đề nào đó.
  203. Quan niệm của La Mettri về quá trình nhận thức, không chỉ là quan điểm duy vật mà còn có những yếu tố biện chứng. Tuy nhiên lý luận nhận thức của ông vẫn mang tính trực quan, siêu hình, quá nhấn mạnh vai trò cơ chế tâm sinh lý trong nhận thức
  204. *Quan điểm về xã hội. La Mettri chủ trương thực hiện quyền sở hữu tài sản. Chủ trương một xã hội được quản lý theo pháp luật, bảo đảm quyền tự do chính trị, quyền công dân, tự do buôn bán Là người có tư tưởng khai sáng, La Mettri cho rằng, thông qua giáo dục, truyền bá tư tưởng tiên tiến cho mọi người thì sẽ giải quyết được mọi sự tiến bộ xã hội. Ông cho rằng đối với người làm khoa học thì không cần đến tôn giáo. Nhưng đối với đại đa số nhân dân không có học, nghèo khổ thì họ lại cần tôn giáo.
  205. b). Đêni Điđrô (1713 - 1784). Điđrô là nhà triết học duy vật điển hình ở Pháp thế kỷ XVIII, là nhà văn, nhà lý luận nghệ thuật, đại biểu phái khai sáng, người chủ biên bộ “Bách khoa toàn thư”, của Pháp- một trong những di sản văn hóa vĩ đại của nước Pháp và Châu Âu thế kỷ XVIII.
  206. *Quan điểm về thế giới Điđrô đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của Béccơli và tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật Anh. Theo ông, trong vũ trụ chỉ có một thực thể duy nhất, đó là vật chất; nó là cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng. Vật chất là toàn bộ các vật thể có quảng tính, có hình thức và luôn luôn vận động. Vận động là một thuộc tính của vật chất. Nguyên nhân của sự vận động là sự tự thân vận động của vật chất.
  207. Điđrô cho rằng, chính trong quá trình vận động và phát triển, giới tự nhiên sẽ loại bỏ những cái không thích nghi và chọn lọc những gì giúp cho nó ngày càng hoàn thiện. Do vậy, kết cấu và trạng thái của sinh vật là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên. Với quan niệm này, Điđrô là bậc tiền bối của học thuyết Đácuyn về chọn lọc tự nhiên. Những quan niệm về bản thể luận trên đây của Điđrô rất gần với quan điểm duy vật hiện đại.
  208. *Quan điểm về lý luận nhận thức. Điđrô xây dựng lý luận nhận thức trên lập trường duy vật. Theo ông, cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là giai đoạn thứ nhất trong nhận thức; còn lý trí, tư duy là giai đoạn thứ hai. Trên cơ sở cảm giác mà xuất hiện tư duy; cảm giác là bằng chứng, lý trí là quan tòa, dùng lý trí để kiểm soát cảm giác. Dùng thí nghiệm và quan sát để kiểm tra những luận điểm về lý luận.
  209. Đề cao vai trò đặc biệt của quá trình nhận thức đối với sự phát triển của xã hội, Điđrô đưa ra tư tưởng biện chứng khẳng định tính vô cùng tận trong sự phát triển của tự nhiên, cũng như quá trình nhận thức của con người. Mặc dù khả năng nhận thức của mỗi cá nhân là hữu hạn, nhưng nhân loại về nguyên tắc có thể nhận thức toàn bộ thế giới, mặc dù quá trình đó là vô cùng tận. Có thể nói, nhận thức luận của Điđrô đã tiến đến gần nhận thức luận duy vật biện chứng.
  210. *Quan điểm về chính trị - xã hội. Trên cơ sở khẳng định vật chất là thực thể duy nhất của mọi vật, Điđrô phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, coi đó chỉ là sự thần thánh hóa các điều kiện sống hiện thực của con người. Vì thế, không phải tôn giáo sáng tạo ra con người, mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo.
  211. Khoa học thì hướng tới vũ trang cho chúng ta quan niệm đúng về thế giới, làm cho con người lớn mạnh thêm, còn tôn giáo thì chỉ đem lại những điều ảo tưởng, làm cho con người mềm yếu đi. Tuy nhiên, ông chỉ nhìn nguồn gốc của tôn giáo ở yếu tố tâm lý sợ chết của con người chứ chưa nhìn thấy cơ sở kinh tế - xã hội của sự tồn tại tôn giáo.
  212. c). Pôn Hăngri Điđrich Hônbách (1729 – 1789). Hônbách là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật và vô thần thế kỷ XVIII, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản cách mạng Pháp, là cộng tác viên tham gia soạn thảo “Bách khoa toàn thư” do Điđrô đứng đầu.
  213. *Quan điểm về thế giới . Hônbách đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật và dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên khẳng định tính vật chất của thế giới.
  214. Theo ông: “vật chất là tất cả những gì tác động bằng một cách nào đó vào các giác quan của chúng ta, còn các đặc tính mà chúng ta gán cho các chất khác nhau thì dựa trên những cảm giác khác nhau hay những biến đổi khác nhau do chúng gây ra trong chúng ta”. Những đặc tính chủ yếu của vật chất là: quảng tính (độ dài - khoảng cách), vận động, tính có thể phân chia, tính chắc chắn, trọng lực
  215. Theo Hônbách, vật chất tồn tại vĩnh viễn, không ai sáng tạo ra và cũng không mất đi. Vật chất hoạt động là do sức mạnh của tự bản thân nó và không cần có sự thúc đẩy bên ngoài. Công lao lớn nhất của Hônbách thể hiện ở chỗ ông thừa nhận vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Nhưng vì là nhà duy vật siêu hình và do hạn chế của điều kiện lịch sử, nên ông quan niệm vận động chỉ là vận động cơ giới, là sự đổi chỗ giản đơn của các vật thể trong không gian.
  216. *Quan điểm Về nhận thức luận . Lý luận nhận thức của Hônbách dựa trên cảm giác luận duy vật. Theo ông, vật chất là tính thứ nhất, các hình thức ý thức là tính thứ hai. Khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, Hônbách cho rằng trí tuệ con người có khả năng nhận biết được thế giới và các quy luật của nó.
  217. Song lý luận nhận thức của Hônbách còn hạn chế là chưa thấy được quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính, chưa vạch ra được tính tích cực của ý thức và vai trò của thực tiễn xã hội trong nhận thức.
  218. *Quan điểm về xã hội. Quan điểm xã hội của Hônbách mang tính chất duy tâm, ông coi sự phát triển xã hội như một quá trình định mệnh chi phối. Là nhà triết học trong phái khai sáng, ông quả quyết rằng loài người có thể thoát khỏi ách phong kiến bằng việc phổ cập giáo dục, làm cho lý tính thắng chủ nghĩa ngu dân thời Trung cổ. Hônbách mong muốn có sự quá độ hòa bình từ chế độ phong kiến sang xã hội tư bản bằng con đường lập pháp “hoàn thiện”. Ông sợ phong trào cách mạng của quần chúng, mà muốn có “cách mạng từ trên xuống”.
  219. CHƯƠNG VII TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
  220. I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức. 1. Hoàn cảnh ra đời của triết học cổ điển Đức. -Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX các nước Tây Âu như Anh, Pháp, Italia, đã hoàn thành cuộc cách mạng tư sản và thiết lập chủ nghĩa tư bản. Tình hình đó đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển về khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
  221. -Trong khi đó nước Đức vẫn còn là một quốc gia phong kiến lạc hậu cả về kinh tế lẫn chính trị. Nông nghiệp bị đình đốn, công nghiệp không phát triển (năm 1822, cả nước Đức mới chỉ có 2 máy hơi nước). Vào đầu thế kỷ XIX nước Đức có khoảng 300 công quốc khác nhau. Mỗi công quốc giống như tiểu vương quốc tách biệt gây trở ngại cho sự phát triển đất nước.
  222. - Đặc biệt, triều đình vua Phổ vẫn ngoan cố tăng cường quyền lực để duy trì chế độ phong kiến thối nát cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. - Mặc dù lạc hậu về kinh tế và chính trị, nhưng nước Đức lại có những bước phát triển mới về triết học, văn hóa, nghệ thuật. Điều này thể hiện sự phát triển của ý thức tư tưởng có lúc không hoàn toàn phụ thuộc một chiều vào điều kiện về kinh tế.
  223. - Do ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật của thế giới lúc bấy giờ tác động làm cho giai cấp tư sản Đức và những nhà tư tưởng thấy được những hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình. Vì vậy, cần phải có sự cải cách, cần phải thay thế bằng phương pháp tư duy biện chứng. Do đó, ở nước Đức thời kỳ này có sự phát triển mạnh mẽ về mặt triết học. Sự phát triển đó trở thành màn giáo đầu cho cuộc cách mạng về chính trị sau này.
  224. 2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức. - Một là, triết học cổ điển Đức thời kỳ này biểu hiện khá rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng về tư tưởng với sự bảo thủ cải lương về lập trường chính trị xã hội của các nhà triết học. - Hai là, trước đây triết học phương Tây chủ yếu bàn về những vấn đề thuộc về bản thể luận, nhận thức luận, thì triết học cổ điển Đức bàn đến con người, coi con người vừa là kết quả của quá trình hành động của mình vừa là chủ thể của quá trình ấy. Đó là một thành tựu mới đáng được khẳng định. - Ba là, triết học cổ điển Đức có một cách nhìn mới, biện chứng về thế giới hiện thực. Nếu gạt bỏ những yếu tố duy tâm thì cách nhìn này là một đóng góp lớn cho tri thức nhân loại.
  225. Với những lý do nói trên triết học cổ điển Đức được coi là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của triết học phương Tây cận đại và là nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác sau này.
  226. II. Một số triết gia tiêu biểu. 1. Cantơ ( 1724-1804). • Cantơ là nhà triết học mở đầu cho nền triết học cổ điển Đức, ông sinh ra trong một gia đình quý tộc Phổ ở Kennixbec, và học ở trường đại học tổng hợp Kennixbec. Sau đó giảng dạy môn triết học và các môn khoa học tự nhiên ở đây. • Cantơ là người nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực: toán học, logíc học, mỹ học, triết học.Triết học của Cantơ được chia làm hai thời kỳ gắn liền với sự chuyển biến tư tưởng của ông.
  227. *Thời kỳ trước phê phán (1746-1770). Thời kỳ này Cantơ chú trọng nghiên cứu các vấn đề khoa học tự nhiên với những phát minh nổi tiếng: - Cantơ là người đầu tiên đã khám phá ra ảnh hưởng, của lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng đối với các hiện tượng thuỷ triều. Ông cho rằng, do sức hút của mặt trăng và trái đất đưa tới hiện tượng nước thuỷ triều lên xuống và đã ảnh hưởng tới tốc độ xoay vòng của trái đất. Cantơ cho rằng vòng xoay của trái đất sẽ bị chậm lại là do sự ma sát khi nước thuỷ triều lên gây ra.
  228. Trong tác phẩm “ lịch sử tự nhiên phổ thông và lý thuyết bầu trời” viết năm 1755, Cantơ đã nêu lên giả thuyết có giá trị về sự hình thành vũ trụ bằng các cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân. Như vậy ông thừa nhận các hiện tượng trong thế giới có mối liên hệ vận động phát triển. Trái đất, bầu trời cũng như toàn vũ trụ quá trình sinh thành, biến đổi. Những phát minh về KHTN nói trên chứng tỏ rằng Cantơ là người có quan điểm duy vật biên chứng về thế giới.
  229. *Thời kỳ phê phán (1770 trở đi). -Nếu thời kỳ trước phê phán, triết học của Căntơ thể hiện tính chất duy vật biện chứng về thế giới thì thời kỳ phê phán triết học của ông lại mang tính chất duy tâm, bất khả tri về thế giới. -Trước hết Cantơ thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất ở bên ngòai con người, thế giới đó có thể nhận thức được bằng cảm giác. Về điểm này ông là nhà duy vật.
  230. Nhưng ông lại cho rằng nhận thức của con người chỉ biết được hiện tượng bề ngoài , không xâm nhập được vào bản chất đích thực của sự vật thì khi đó ông lại là người duy tâm bất khả tri. Tính chất duy tâm trong triết học của Cantơ còn thể hiện ở chỗ ông coi không gian, thời gian, các quy luật của tự nhiên không phải Là sản phẩm của giới tự nhiên mà là sản phẩm của lý trí tiên nghiệm Tóm lại triết học của Cantơ là sự dung hòa giữa CNDV Và CNDT và sự kết hợp hai khuynh hướng đó trong một hệ thống triết học.
  231. 2. Hêghen (1770-1831). 2.1. Tóm tắt tiểu sử và tác phẩm. Hêghen sinh ra trong một gia đình quan chức cao cấp ở Đức. Thời trẻ ông học khoa học triết học và thần học ở trường Đại học Tubingen. Sau khi tốt nghiệp đại học, Hêghen làm giáo sư dạy tư trong các gia đình, về sau ông được bổ nhiệm làm giáo sư hiệu trưởng trường trung học và sau đó làm giáo sư ở trường Đại học Hayđenbéc; cuối đời ông là giáo sư ở trường Đại học Béclinh.
  232. Hêghen là nhà triết học duy tâm khách quan, là nhà biện chứng lỗi lạc, triết học của ông là “tập đại thành” của triết học cổ điển Đức. Đúng như Ph.Ăngghen đã từng đánh giá “Hêghen không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực, ông xuất hiện ra là một người vạch thời đại”. Như vậy, đủ biết Hêghen giữ vai trò như thế nào trong lịch sử phương Tây nói chung và lịch sử triết học cổ điển Đức nói riêng.
  233. Các tác phẩm lớn của Hêghen gồm: • - Hiện tượng học tinh thần (1807) trình bày quá trình phát sinh phát triển của nhận thức cá thể và nhận thức loài. • - Khoa học logic học (1812-1814) trình bày những quy luật và phạm trù của phép biện chứng. • - Bách khoa toàn thư các khoa học triết học (1817) là các bài giảng về lịch sử triết học, triết học pháp quyền, triết học mỹ học, tôn giáo do học trò của Hêghen tập hợp lại xuất bản.
  234. 2.2. Nội dung quan điểm triết học của Hêghen. * Hêghen là triết học duy tâm khách quan. - Trong hệ thống triết học của mình, Hêghen coi ý niệm tuyệt đối là điểm xuất phát, là nền tảng. Theo ông, ý niệm tuyệt đối là thực thể sinh ra mọi cái trên thế giới, là đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và xã hội. Mọi sự vật hiện tượng xung quanh chúng ta chỉ là sản phẩm, là kết quả của sự sáng tạo của ý niệm tuyệt đối.
  235. Theo Hêghen, con người cũng sản phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người chính là công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình và trở về chính bản thân mình. Như vậy, khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Hêghen đứng trên lậo trường của CNDT khách quan.
  236. Từ quan điểm duy tâm khách quan, Hêghen xây dựng hệ thống triết học của minh gồm 3 phần chủ yếu: Phần thứ nhất: Hêghen trình bày ở cuốn “logic học” ông hình dung “ý niệm tuyệt đối” còn hoạt động trong dạng nguyên chất của tư duy thuần tuý. Phần thứ hai: Là học thuyết duy tâm về tự nhiên được Hêghen trình bày trong “ Triết học tự nhiên”. Ở đây giới tự nhiên được hiểu là “sự tồn tại khác” của tinh thần hay ý niệm đã trở thành kẻ sáng tạo ra giới tự nhiên. Phần thứ ba: là lý luận duy tâm về đời sống xã hội, phần này được Hêghen trình bày chủ yếu trong “ Triết học tinh thần”. Trong phần này, Hêghen trình bày lịch sử của con người và sự nhận thức của con người dưới hình thức duy tâm.
  237. Như vậy, xét toàn bộ thì hệ thống triết học của Hêghen là chủ nghĩa duy tâm khách quan mang nặng tính chất thần bí phục vụ đắc lực cho tôn giáo. Tuy nhiên nếu nghiên cứu kỹ toàn bộ hệ thống triết học này, đặc biệt là logic học của Hêghen ta có thể tìm thấy những “hạt nhân hợp lý”, những tư tưởng thiên tài về phép biện chứng đó chính là chỗ mà ông vượt xa các tiền bối của mình.
  238. * Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển Đức. Hêghen là nhà biện chứng duy tâm. Ông là người có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và cũng là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình. Nghĩa là, trong sự liên hệ, vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
  239. Trong khuôn khổ hệ thống triết học duy tâm của mình, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù như: chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn mà ông còn là người diễn đạt được các quy luật của phép biện chứng như “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của phủ định” với tư cách là sự phát triển diễn ra theo hình “xoáy ốc” và quy luật mâu thuẫn với tư cách là nguồn gốc của động lực của sự phát triển.
  240. - Như vậy, những vấn đề cốt lỗi nhất của phép biện chứng đã được Hêghen đề cập một cách bao quát nhất. Nhưng khi trình bày các quy luật của phép biện chứng Hêghen lại cho rằng, tất cả những quy luật đó chỉ là sản phẩm của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Do đó, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, hệ thống triết học của ông là hệ thống triết học duy tâm. - Mác-Ănghen đã phê phán một cách triệt để tính chất duy tâm trong PBC của Hêghen. Đồng thời các ông đã tiếp thu, kế thừa, phát triển những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng ấy để XD nên PBCDV và các ông coi Hêghen là người có nhiều công lao trong việc phát triển PBC.
  241. + Quan điểm về xã hội của Hêghen. Trong các quan điểm về xã hội, Hêghen đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa cải lương,bảo thủ, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là hiện thân của tinh thần “vũ trụ mới”. Chế độ nhà nước phổ đương thời được Hêghen xem nó như đỉnh cao của sự phát triển của nhà nước và pháp luật.
  242. Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng bảo thủ nói trên, Hêghen đã nêu ra nhiều tư tưởng biện chứng quý báu về sự phát triển của đời sống xã hội. Trong đó, ông đặc biệt quan tâm nghiên cứu về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Hêghen tìm nguồn gốc nhà nước từ mâu thuẫn xã hội, ông còn cho rằng: “nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp, mà còn là tổng thể các quy chế kỷ cương, chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa của xã hội, nhờ đó mà xã hội được phát triển bình thường.
  243. Tóm lại: Tuy cón có nhiều nhược điểm là mâu thuẫn giữa phép biện chứng có tính cách mạng với hệ thống duy tâm có tính chất bảo thủ, nhưng triết học của Hêghen thật sự là một hệ thống đồ sộ, kỳ vĩ nhất trong lịch sử trước Mác nói chung và trong triết học cổ điển Đức nói riêng.
  244. 3.Phơ-Bách(1804-1872). 3.1. Tóm tắt tiểu sử và tác phẩm. Phơ-Bách sinh năm 1804 trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức. Thời trẻ ông theo học trường Đại học Béclinh, tham gia phái Hêghen trẻ. Về sau ông tách khỏi phái này, phê phán hệ thống triết học của Hêghen, và xây dựng hệ thống triết học riêng của mình, gọi là CNDV Phơ-Bách. Công lao của Phơ-Bách là đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII và làm phong phú một cách sáng tạo thế giới quan duy vật.
  245. Ông viết khá nhiều tác phẩm: • Luận văn tiến sĩ (1828) với đề tài: “Về lý tính vô hạn duy nhất và phổ quát. • Những ý nghĩ về cái chết và sự bất tử (1830). Trong đó ông khẳng định: Chỉ có những hành động vĩ đại của lý tính con người mới bất tử còn cá nhân con người thì không bất tử. • Góp phần phê phán triết học Hêghen (1839). Đây là tác phẩm giải quyết một cách duy vật vấn đề cơ bản của triết học.
  246. • Bản chất đạo thiên chúa (1841), tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm nói chúng và trực tiếp là chủ nghĩa duy tâm Hêghen. • Những quan điểm cơ bản của triết học tương lai (1842) đây là lời nhắn nhủ các nhà triết học tương lai.