Bài giảng Toàn cầu hóa: Viễn cảnh Toàn cầu hóa

pdf 17 trang phuongnguyen 2140
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Toàn cầu hóa: Viễn cảnh Toàn cầu hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_toan_cau_hoa_vien_canh_toan_cau_hoa.pdf

Nội dung text: Bài giảng Toàn cầu hóa: Viễn cảnh Toàn cầu hóa

  1. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Viễn cảnh Toàn cầu hóa Niên khóa 2005 – 2006 Bài đọc Viễn cảnh Toàn cầu hóa Trường Doanh Nghiệp Harvard (HBS) 9-701-048 số 15/1/2002 Trong một bài báo đăng trên tờ New York Times năm 1998, Fareed Zakaria, sinh viên tốt nghiệp Khoa Chính quyền của ĐH Harvard, đồng thời là biên tập của tạp chí Đối ngoại uy tín, đã viết: Trật tự của thế giới mới phát hiện một giai đoạn thế giới mới. Đã có thời dư luận quốc tế chỉ tập trung vào Đại hội đồng Liên hiệp quốc hoặc các hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Nga, thì trong thập niên vừa qua, quốc tế lại ca tụng Davos, một khu nghỉ mát có trượt tuyết trên núi ở Thụy sĩ. Ở đó, hằng năm vào cuối tháng giêng, tinh hoa ngành doanh nghiệp và truyền thông tập trung tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đồng thời các nước đang phát triển hết sức nỗ lực để gây ấn tượng đối các đại biểu bằng cách cử các vị tổng thống và thủ tướng, hoặc tốt hơn nữa, các nhà kinh tế học, tham gia diễn đàn. Đã một thời, các nhân vật rực rỡ nhất trên trường quốc tế là các nhà ngoại giao như Acheson, Eden, Kissinger; bây giờ họ lại là các nhà kinh tế học như Chubais, Cavallo, Summers. Nước nào xứng đáng cũng đều có một nhà kinh tế trẻ tuổi, lỗi lạc vạch hướng đi cho đất nước đó. (Nhà kinh tế này luôn trẻ tuổi và luôn lỗi lạc). Mỗi năm lại có một chế độ cải cách mới bùng lên đầy hứa hẹn. Người Ukraine, Tunisia và Bồ đào nha đều có 15 phút vinh quang – và đất nước họ tài trợ cho khoản giao dịch với giá cao hơn 15%. Quan điểm chung cho rằng toàn cầu hoá kinh tế ở cấp bậc và quy mô chưa từng có là ở trong tầm tay. Nhiều nhà hoạch định chính sách, quản lý doanh nghiệp và phân tích học thuật tin rằng toàn cầu hoá là kết quả của thành tựu công nghệ và thắng lợi tất yếu của ý thức hệ tư bản. Trường hợp tham khảo này đưa ra những quan điểm của một số nhà tư tưởng, quản lý doanh nghiệp và học giả xuất chúng về các tiến trình và tác động của toàn cầu hoá. [Xem cứ liệu 1 và 2 để biết một vài chỉ số lịch sử của toàn cầu hóa] GS Yasheng Huang đã chuẩn bị trường hợp tham khảo này từ những nguồn thông tin đã công bố. Các trường hợp của HBS chỉ được phát triển trên cơ sở thảo luận tại lớp và không nhằm mục đích chứng nhận không phải là nguồn dữ liệu cơ sở, hoặc minh hoạ cho công tác quản lý hiệu quả hay thiếu hiệu quả. Thời đại Toàn cầu hoá Thế giới không biên giới Trích tác phẩm Thế giới không biên giới (New York: Nhà xuất bản Harper Collins, 1999) của Kenichi Ohmae. Tập sách này được xuất bản đầu tiên năm 1991 và là một trong Yasheng Huang 1 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  2. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc những tác phẩm bán chạy nhất về chủ đề doanh nghiệp. Ông Ohmae trước đây là Giám đốc Công ty McKinsey & Company. Nền kinh tế toàn cầu đi theo logic của riêng nó và phát triển mạng lưới quyền lợi của chính nó, đây là điểm rất khác với biên giới lịch sử giữa các nước. Kết quả là quyền lợi của quốc gia như một thực thể kinh tế, đối nghịch với thực thể chính trị, đã mất đi nhiều ý nghĩa. Đồng thời do thông tin về các sản phẩm ngày càng phổ biến trên khắp thế giới nên người tiêu dùng ở đâu cũng có thể có được sự lựa chọn với đầy đủ thông tin hơn đối với sản phẩm họ cần. Nguồn gốc của thông tin ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Chính quyền – và biên giới quốc gia mà họ đại diện – trở nên vô hình trong hình thức tìm kiếm này. Chính quyền không đóng một vai trò trực tiếp nào cả. Không ai yêu cầu họ tiếp tục chọn lựa sản phẩm cần sản xuất hay bán ra, hoặc quyết định sản phẩm nào tốt, sản phẩm nào xấu. Quyền lợi kinh tế cần được đáp ứng là quyền lợi của cá nhân người tiêu dùng. Chính quyền không cần cách ly hoặc bảo vệ người tiêu dùng khỏi các lời mời chào của các công ty đa quốc gia. Người tiêu dùng có thể tự chọn lựa. Và họ đã chọn lựa. Ý nghĩa của tập đoàn công ty Trích từ bài “Toàn cầu hoá Thị trường”, Tạp chí Harvard Business Review, Tháng 5- 6, 1983 của Theodore Levitt. Theodore Levitt là giáo sư Trường Doanh nghiệp Harvard, và đoạn này được trích từ một trong số những bài GS Levitt đã xuất bản trong tạp chí Harvard Business Review. Toàn cầu hoá thị trường đang ở trong tay. Với nó, thế giới thương mại đa quốc gia tiến gần đến điểm kết thúc, và các công ty đa quốc gia cũng thế. Công ty đa quốc gia không phải là công ty toàn cầu. Công ty đa quốc gia hoạt động ở một số nước và điều chỉnh sản phẩm cũng như phương pháp hoạt động ở mỗi nước – với chi phí tương đối cao. Công ty toàn cầu hoạt động với tính bất biến dứt khoát – với chi phí tương đối thấp như thể cả thế giới là một chủ thể duy nhất; nó bán cùng một loại sản phẩm bằng cùng một cách thức ở tất cả mọi nơi. Tranh cãi về Kinh tế và Xã hội Những sắp xếp về mặt xã hội trong các nền kinh tế phát triển Trích bài Có phải toàn cầu hoá đã đi quá xa? (Washington, D.C.: Viện Kinh tế Quốc tế, 1997) của Dani Rodrik. Dani Rodrik là giáo sư trường Kennedy School of Government của ĐH Harvard. Dưới đây là trích đoạn từ biện pháp phòng chống có ảnh hưởng rất lớn của ông đối với tác động kinh tế và xã hội của việc toàn cầu hoá. Yasheng Huang 2 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  3. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc Trình bày vấn đề: Ví dụ về Lao động trẻ em Xét trường hợp công ty XYZ, một công ty giả định cỡ vừa của Mỹ sản xất giày ở thành phố Pleasantvilel, bang Ohio. Dưới sức ép ngày càng tăng từ sự cạnh tranh của các sản phẩm ngoại nhập và với lợi nhuận giảm sút nghiêm trọng, công ty quyết định cho 300 công nhân ở Pleasantville nghỉ việc tạm thời và ký hợp đồng lại với một công ty ở Honduras để thực hiện các công đoạn sản xuất cần tăng cường lao động. Biện pháp này làm chi phí của công ty XYZ giảm đáng kể và lợi nhuận được phục hồi. Sau cùng thì số công nhân bị giản việc ở Pleasantville cũng tìm được việc làm ở nơi khác, nhưng nhiều người đã phải chuyển qua các thành phố khác và hầu hết đều phải làm những công việc có thù lao thấp. Theo tiêu chuẩn của lý thuyết thương mại quốc tế thì đây là một câu chuyện về sự thành công. Thương mại quốc tế cho phép được chuyên môn hóa theo lợi thế tương đối, và kết quả là cả Mỹ lẫn Honduras đều thu lợi cao hơn về mặt kinh tế. Các nhà kinh tế học thương mại sẽ nhanh chóng chỉ ra rằng tiến trình này không thể nào xảy ra mà lại không gây những hậu quả về phân chia, như trong ví dụ nêu trên. Trong thực tế, theo tiêu chuẩn mà các nhà kinh tế học quốc tế sử dụng thì hậu quả phân chia về thương mại làm giảm sút khoản đóng góp ròng vào thu nhập quốc gia 1. Sự đền bù cho kẻ mất có thể giải quyết được vấn đề vì vẫn tốt hơn khi phần lợi nhuận kinh tế lớn hơn từ thương mại, về nguyên tắc, có thể được sử dụng để đền bù đầy đủ cho kẻ mất khi phải chia tay với người được hưởng lợi – là người phải chia xẻ một phần lợi nhuận của mình cho kẻ mất. Và đó thực sự là lý lẽ trước tiên người ta dùng để biện hộ trong lớp học hay trong phần lớn các cuộc tranh luận về chính sách khi nhà kinh tế trình bày tình huống bênh vực cho các lợi ích từ thương mại. Tuy nhiên, trong thực tế, việc đền bù hiếm khi xảy ra và không bao giờ đủ. Về lý thuyết, có nhiều lý do thuyết phục liên quan đến sự thiếu thông tin, không thể thực hiện việc chuyển tiền trọn gói, và thiếu văn bản hướng dẫn về thuế/trợ cấp, tại sao lại phải có những điều này 2. Nhưng lý do biện minh thuyết phục hơn cả đối với hậu quả phân chia trong thương mại được kết hợp trong phần tiếp theo. Trước tiên, cần lưu ý là việc cản trở giao dịch – nghĩa là, cấm công ty XYZ tiến hành những hoạt động giao dịch với nước ngoài – cũng gây ra tác động phân chia: đó là cản trở việc các cổ đông và số công nhân còn lại của công ty XYZ tăng thu nhập của mình. Có một số ý kiến cân nhắc về việc làm thế nào để xã hội đánh giá hai khoản phân chia – một từ thương mại và một không từ thương mại – và do đó làm thế nào để quyết định liệu thương mại có phải là ý đồ tốt hay không. Một cân nhắc đơn giản là đối chiếu mức 1 Theo các thông số tiêu biểu thì việc giảm giới hạn thương mại sẽ đem lại 5 đô-la hoặc thu nhập cao hơn được hoán chuyển qua lại giữa các nhóm cho mỗi 1 đô-la lãi ròng - nghĩa là, theo tỉ lệ tăng trưởng lớn hơn do có nhiều chính sách thương mại tự do hơn. Tuy nhiên, giả định lý thuyết về trường hợp này không đủ mạnh, và người ta có thể để dàng đưa ra các mô hình ngược lại. Bằng chứng thực tế về liên kết để phát triển thương mại chưa bao giờ đủ thuyết phục như người ta đôi khi từng tin tưởng. 2 Người ta nói rằng nhà kinh tế học là một người nhìn thấy một cái gì đó có hiệu quả trong thực tế, và tự hỏi liệu nó có thể có hiệu quả trong lý thuyết không. Câu nói này được bổ sung vào lợi ích của nhà kinh tế học, là người phù hợp với câu ngạn ngữ trên. Yasheng Huang 3 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  4. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc lợi nhuận tương đối với các khoản thua lỗ cũng như sự cố thua lỗ. Chúng ta có khuynh hướng ủng hộ một chính sách đem lại lợi nhuận cao dàn trải trên một nền tảng rộng hơn là chấp thuận một chính sách tạo ra một khoản lãi ròng nhỏ rồi lại phải nhọc công tái phân chia thu nhập. Thứ hai, việc nhận diện người được, kẻ mất cũng không kém phần quan trọng. Ví dụ, các khái niệm về công lý của Rwalsia ám chỉ cần ưu tiên cho sự tái phân chia cải thiện phúc lợi của nhóm bị thiệt thòi nhất. Thứ ba, chúng ta có thể có gợi ý từ lý thuyết “triển vọng” trong kinh tế và coi trọng cái mất hơn là cái được, điều sẽ dẫn tới định kiến đối với hiện trạng. Trong nền kinh tế thị trường, có lẽ sự trắc nghiệm quan trọng nhất được áp dụng trong việc khẳng định liệu những thay đổi về phân chia có được xã hội chấp nhận không là sự trắc nghiệm sau: có phải sự thay đổi đặt ra là hậu quả của những hành động cá nhân không vi phạm chuẩn mực chơi sòng phẳng? Nói cách khác, có phải ưu thế phân chia đạt được bằng phương tiện mà xã hội cho là hợp pháp? Nếu câu trả lời là đúng thì chúng ta có thể chấp nhận hậu quả, ngay cả trong trường hợp một vài cá nhân hoặc nhóm người phải chịu thiệt thòi vì nguyên nhân trên 3. Lấy trường hợp cải tiến công nghệ làm ví dụ. Một nhà phát minh tìm ra một quy trình hoặc một sản phẩm mới nhờ miệt mài lao động và thông minh được tôn vinh như một anh hùng, ngay cả khi phát minh này thay thế các công nhân đã gắn bó với công việc theo công nghệ cũ. Có ai lại đi nghĩ tới việc cấm sản xuất bóng đèn điện để làm vui lòng người sản xuất đèn cầy đâu. Về mặt kinh tế, việc mở cửa đón nhận thương mại quốc tế cũng có tác động tương tự đối với tiến bộ công nghệ. Cả hai đều đem lại nhiều lợi ích kinh tế hơn với khoản chi phí có thể phát sinh từ việc tái phân chia thu nhập 4. Nếu chúng ta giả định rằng tiến bộ công nghệ là tốt và cần được khuyến khích hơn là hạn chế, thì tại sao không chấp nhận điều tương tự đối với việc tự do hoá thương mại quốc tế? Phép loại suy giải thích một điểm mấu chốt: chỉ riêng những hàm ý về sự phân chia, dù thấy trái ngược, cũng không biện minh được cho việc áp đặt những biện pháp hạn chế đối với ngoại thương. Tôi cho rằng đây là lý lẽ ủng hộ cho việc duy trì biên giới mở đối với thương mại thế giới. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc bảo vệ tự do thương mại này là một việc bảo vệ ngẫu nhiên, đặc biệt đòi hỏi sự trao đổi tạo ra lợi nhuận từ thương mại phải nhất quán với những nguyên tắc và luật “chơi sòng phẳng” tại nước mình. Trở lại vấn đề loại suy về tiến bộ công nghệ, những nhà sáng chế đạt được mục đích của họ bằng cách nói dối, lừa đảo, ăn cắp ý tưởng, hoặc vi 3 Nguyên văn của nhà triết học Rovbert Nozick (1974, 151): “Sự phân chia chỉ có thể trung thực khi nó phát xuất từ sự phân chia khác bằng phương tiện hợp pháp.” 4 Với bối cảnh trong nước, chúng ta nghĩ đến một “chức năng sản xuất” tiêu biểu cho công nghệ mà qua đó, đầu vào trực tiếp và yếu tố chính được biến thành hàng hoá sau cùng. Thương mại quốc tế hoàn toàn đồng dạng với chức năng sản xuất ấy. Hàng hoá mà chúng ta bán ra nước ngoài cho phép chúng ta mua về các mặt hàng nhập khẩu và từ đó hàng xuất khẩu của chúng ta có thể được xem như đầu vào được chuyển đổi thành hàng nhập khẩu (đầu ra). Giá phổ biến trên thị trường quốc tế quy định hệ số “đầu vào-đầu ra” trong quy trình chuyển đổi này. Và, tiếp nối sự tương tự đó, sự cải thiện thương mại (ví dụ, nhờ tiêu chuẩn lao động thấp ở nước đối tác) đóng vai trò tiến bộ kỹ thuật trong công nghệ này qua việc giảm các hệ số đầu vào-đầu ra. Yasheng Huang 4 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  5. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc phạm các chuẩn mực được áp dụng rộng rãi thì bị chỉ trích hơn là được biểu dương 5. Trong thực tế, các chính phủ thường xuyên can thiệp vào hoạt động nghiên cứu & phát triển (NC&PT) để đảm bảo các hoạt động này thống nhất với những chuẩn mực do xã hội đề ra. Thực nghiệm về đối tượng người và thú vật được quy định chặt chẽ là một ví dụ. Các cân nhắc về đạo đức giới hạn chặt chẽ những nghiên cứu công nghệ sinh học. Và trong hai thế kỹ qua, các nước giàu đã xây dựng luật lao động cùng các tiêu chuẩn siết chặt bản chất của quy trình sản xuất. Điều cốt lõi là một khi chúng ta bị buộc phải đưa ra luận cứ bảo vệ cho thương mại tự do thì không thể tránh né vấn đề sòng phẳng và hợp pháp. Có lẽ điều oái oăm là các nhà theo thuyết tự do (libertarians), là những người bảo vệ tự do thương mại dũng cảm nhất, sẽ đồng ý rằng trường hợp tự do thương mại là trường hợp thuộc phạm trù đạo đức. Thí dụ, James Bovard của Viện Cato, bênh vực mạnh mẽ trường hợp này, cho rằng chính phủ chẳng có quyền gì để hạn chế tự do thương mại (1991); “Mọi biện pháp hạn chế tự do thương mại đều liên quan đến đạo đức, quyết liệt hy sinh một số người Mỹ này vì quyền lợi của một số người Mỹ khác.” Hệ quả tất yếu là việc dỡ bỏ rào cản thương mại sẽ đảo ngược sự hy sinh đó. Vì thế, nếu bỏ chữ “quyết liệt” đi thì tôi đồng ý với phát biểu của Bovard. Tuy nhiên, khi những nhà theo thuyết tự do tách công ty ra khỏi con người thì người ta tin rằng tự do kinh doanh là tiêu chí cao nhất đối với nền công lý phân chia – do đó mới có việc sử dụng từ “quyết liệt” trích dẫn ở trên. Để làm cho ý nghĩa của lý lẽ biện minh được cụ thể hơn, chúng ta hãy trở lại với công ty XYZ. Giả sử sau khi công ty đã phục hồi tình trạng có lãi nhờ thuê lao động bên ngoài thì có một nhà báo từ Pleasantville sang thăm nhà máy hợp đồng ở Honduras. Anh ta báo cáo nhà máy là doanh nghiệp bóc lột công nhân tàn tệ, nơi trẻ em 12 tuổi phải làm việc trong môi trường gian khổ và thiếu vệ sinh. Tin này làm chấn động cộng đồng. Quần chúng biểu tình phản đối trước bản doanh công ty và vài ngày sau, chủ tịch công ty tuyên bố chấm dứt quan hệ hợp đồng với xí nghiệp ở Honduras. Chủ tịch còn tuyên bố XYZ sẽ tiếp tục thuê nhân công trong nước. Chuyện vừa tiết lộ là các nhóm to mồm ở Pleasantville tuyên bố không thể chấp nhận được việc thay các công nhân Mỹ thành niên bằng bọn trẻ 12 tuổi lao động trong điều kiện nguy hiểm. Thông điệp là: chúng tôi không chấp nhận việc này như là sự trao đổi hợp pháp và công bằng khi đặt thêm gánh nặng trên một bộ phận của xã hội. Đó có phải là điều tốt đẹp không? Và nếu tốt, tại sao không biến cách làm ấy thành cái chung rồi thông qua một đạo luật cấm tất cả các mặt hàng nhập khẩu do trẻ em sản xuất?6 Làm như thế sẽ vi phạm quy chế của Tổ chức Thương mại Thế giới quy định chỉ chấp nhận một ngoại lệ là lao động trong nhà 5 Trong lĩnh vực kinh tế học, một ví dụ có liên quan khác là lệnh cấm buôn bán trong nội bộ. Luật cấm này ít được áp đặt hơn vì do tính hiệu quả – yếu tố khó có thể tạo ra và có thể gây tác động ngược – hơn là vì tính công bằng. 6 Một đạo luật được đề xuất tại Quốc hội năm1995. Đó là Đạo luật Cấm Sử dụng Lao động Trẻ em, được soạn thảo để thực hiện đúng mục đích đó. Yasheng Huang 5 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  6. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc tù (Điều XX[e]) nhưng lại không cho phép phân biệt đối xử đối với hàng hoá hoặc quốc gia vì sự khác biệt trong phương thức sản xuất. 7 Hầu hết các nhà kinh tế học cũng sẽ cho rằng việc áp đặt các biện pháp giới hạn thương mại đối với nước khác vì lý do có sự khác biệt trong phương thức sản xuất của quốc gia đó là không thể chấp nhận được 8. Trong một trong những cuộc thảo luận rốt ráo nhất về vấn đề này, T.N Srinivasan (1995) lý luận rằng áp đặt những quan ngại về tiêu chuẩn lao động vào việc soạn thảo quy chế chính sách thương mại là một ý đồ tồi. Hầu hết các lý lẽ phản bác của ông đều có liên quan đến tính thiếu hiệu quả của chính sách thương mại, hoặc có thể là không đáp ứng được kỳ vọng khi đề cập đến phúc lợi của công nhân tại các nước xuất khẩu. Ví dụ, qua việc từ chối các trẻ em làm trong ngành sản xuất giày dép ở Honduras vào thị trường Mỹ, XYZ có thể đẩy chúng vào hoàn cảnh tồi tệ hơn. Hơn nữa, nếu cá nhân người Mỹ quan tâm đến những em này, họ có thể chuyển tiền trả cho chúng hơn là sử dụng một công cụ gián tiếp như chính sách thương mại. Kết luận của Srinivasan và nhiều nhà kinh tế học khác là nhu cầu từ chối không nhập hàng do lao động trẻ em làm ra đã phản ánh khá rõ tham vọng của những người Mỹ theo chủ nghĩa bảo hộ thương mại để loại bỏ các mặt hàng cạnh tranh. Nhưng dù động cơ của những người theo chủ nghĩa bảo hộ thương mại là quá rõ tại nhiều cuộc thảo luận về một “chương trình nghị sự” mới để bàn về chính sách thương mại – về tiêu chuẩn lao động, môi trường lao động và chính sách cạnh tranh – thật sai lầm khi không nhận ra rằng những động cơ này cũng phản ánh sự bực dọc thực sự của các nước nhập khẩu với những ngụ ý về đạo đức hoặc xã hội đối với thương mại. Tôi xin đưa ra 2 bằng chứng. Bằng chứng thứ nhất lấy từ một bài viết mới đây của Alan Krueger (1996). Krueger đã tiến hành một cuộc trắc nghiệm thú vị về giả thuyết chủ nghĩa bảo hộ bằng cách nghiên cứu các nhà bảo trợ của Đạo luật Cấm Sử dụng Lao động Trẻ em. Đạo luật được đề xuất này cấm nhập các mặt hàng do lao động trẻ em làm ra. Những mặt hàng này chủ yếu cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm sản xuất tại các điạ phương có khuynh hướng sử dụng lao động tay nghề thấp. Nếu động cơ chủ yếu của các nhà bảo trợ đạo luật này là quyền lợi của các nhà bảo hộ, thì có thể dự kiến là họ bị lôi kéo một cách mất cân đối bởi các địa phương đó. Thực tế, Krueger đã phát hiện điều ngược lại. Tỉ lệ học sinh trung học bỏ học giữa chừng ở một địa phương cao chừng nào thì khả năng để đại biểu của địa phương ấy trở thành nhà bảo trợ đạo luật càng 7 Ví dụ, khi Mỹ cấm nhập khẩu cá hồi của Mê-hi-cô do nước này đã không tiến hành biện pháp giảm số lượng cá heo vùng nhiệt đới Đông Thái bình dương bị giết hại do việc săn bắt cá hồi, Mê-hi-cô đã viện dẫn Hiệp ước Chung về Biểu thuế và Thương mại (GATT) và đã thắng cuộc. Một phần lý lẽ diễn dịch quy chế của GATT là vì Mỹ đã áp dụng biện pháp giói hạn thương mại dựa vào quy trình sản xuất. 8 Hiến chương của Tổ chức Thương mại Quốc tế có liên quan đến tiêu chuẩn lao động và thương mại. Hiến chương có nguyên một điều khoản về tiêu chuẩn lao động bình đẳng (Điều 7), quy định “tất cả các nước có cùng quan tâm về việc đạt được và duy trì các tiêu chuẩn lao động liên quan đến năng suất và nhờ đó cải thiện được tiền lương cũng như điều kiện làm việc mà năng suất cho phép.” Ngoài ra, “Điều kiện lao động không bình đẳng, đặc biệt trong sản xuất hàng xuất khẩu, gây khó khăn đối với thương mại quốc tế, và, do đó, mỗi thành viên phải có bất kỳ động thái nào phù hợp và khả thi để loại bỏ những điều kiện đó trong lãnh thổ của mình.” Vì vậy, những vấn đề này luôn được các nhà thiết kế hệ thống kinh tế quốc tế thời hậu chiến quan tâm. Yasheng Huang 6 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  7. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc thấp chừng đó. Ngược lại, hỗ trợ dành cho đạo luật đến từ các địa phương có thu nhập cao hơn và dựa hẳn vào lý do nhân đạo hơn là vật chất.9 Chứng cứ thứ hai có thể lấy từ diễn biến của câu chuyện về công ty XYZ. Giả sử, thay vì thuê lao động nước ngoài, công ty lại đóng cửa nhà máy ở Pleasantville và xây dựng một nhà máy mới gần biên giới Mê-hi-cô và đem trẻ em 12 tuổi từ Hoduras vào như dân nhập cư ngắn hạn. Trên quan điểm hiệu quả kinh tế, biện pháp giải quyết vấn đề cạnh tranh này của công ty cũng tương tự như giải pháp trước, là thuê lao động bên ngoài thông qua thương mại. Phúc lợi của tất cả các bên – công nhân bị giãn việc, cổ đông công ty và trẻ em Honduras – đều bị tác động như nhau. Sự khác biệt trong thực tế là việc sử dụng phương án này sẽ vi phạm pháp luật. Luật lao động ở các nước công nghiệp tiên tiến chỉ cho phép một số ít ngoại lệ đối với quy chế theo đó lao động nhập cư – ngắn hay dài hạn – đều phải làm việc theo quy chế như nhau, tương tự quy chế áp dụng đối với công nhân trong nước. Chắc chắn các quy chế này thường bị bỏ qua. Tuy nhiên, khi vi phạm quy chế và bị phát hiện, công luận sẽ phản ứng kịch liệt và kẻ vi phạm sẽ bị trừng phạt. Theo quan điểm của tôi, điều này cho thấy nguyên tắc phổ biến hiện nay là không chấp nhận hạ thấp mức sinh hoạt của công nhân Mỹ bằng cách lợi dụng phương thức sử dụng lao động thấp hơn các phương thức đề ra trong các tiêu chuẩn của Mỹ. Điều thú vị là, đại đa số các nhà kinh tế học không gặp khó khăn với ví dụ thuê nhân công nước ngoài nêu trên đều thường chấp nhận là việc nới lỏng tiêu chuẩn lao động đối với lao động nhập cư đến mức cho phép những điều kiện làm việc trong các nhà máy không phải là chính sách tốt. Rõ ràng có sự thiếu nhất quán giữa hai tình huống này. Dường như có sự nhất quán hơn trong hành vi của người dân thường. Họ đều có cùng phản ứng quyết liệt như nhau đối với hai phương án này – thuê lao động nước ngoài và nhập cư – hơn là tôn chỉ của các nhà kinh tế học. Tôi xin nhấn mạnh đến hai điểm chính trong lý lẽ của mình. Trước hết, không có xung đột với chính bản thân ưu thế tương đối nếu nó được xây dựng trên các quy trình được xem là hợp pháp tại nước mình. Đó là lý do tại sao, khác với tư duy của các nhà kinh tế học, lại có sự khác biệt giữa ưu thế tương đối được tạo ra do những khác biệt về yếu tố tương đối được ban tặng hoặc những ưu tiên và ưu thế tương đối tạo ra do những sự lựa chọn thể chế mâu thuẩn với những chuẩn mực tại nước nhập khẩu. Thứ hai, lý lẽ không dựa vào việc người Mỹ không quá quan tâm đối với phúc lợi của trẻ em Honduras; lý lẽ chỉ giả định là người Mỹ quan tâm đến những người Mỹ khác và giả định có những chuẩn mực liên quan đến cách thức có thể chấp nhận được khi áp đặt gánh nặng lên vai người khác. 9 Krueger cũng áp dụng khung của mình đối với các cuộc bỏ phiếu của quốc hội về Hiệp ước Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Phát hiện của ông về vấn đề này nhất quán với động cơ vì tư lợi. Đại diện của các địa phương có tay nghề thấp ít có khả năng bỏ phiếu ủng hộ NAFTA hoặc WTO. Yasheng Huang 7 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  8. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc Nhưng điều gì sẽ xảy ra đối với hàng nhập khẩu không cạnh tranh trực tiếp với hàng nội địa và vì thế mà không làm công nhân Mỹ mất việc làm? Có phải cách các mặt hàng nhập khẩu này được sản xuất - dù có sử dụng lao động trẻ em hay không hoặc có làm ô nhiểm môi trường hay không – cũng không quan trọng đối với chính sánh thương mại ở các nước nhập khẩu? Dĩ nhiên, một số nếu không muốn nói là tất cả, những người Mỹ cũng có quan tâm đến những động cơ nhân đạo toàn cầu như vậy – đối lại với quan tâm về phân chia trong nước – là động lực, đây có thể là trường hợp cần nghiên cứu vì những động cơ này ít liên quan đến chính sách thương mại. Lý do thật đơn giản: Không rõ liệu các chính sách thương mại, và nhất là quy định hạn chế nhập khẩu, có phải là công cụ tốt để đặt ra nguyên nhân lao động hoặc môi trường giữa các đối tác của một nước không? Lý lẽ biện minh, như lý lẽ của Srinivasan ở trên, là thường có các công cụ tốt hơn nhiều để đạt được những mục tiêu nhân đạo toàn cầu này, từ việc cho phép nhập cư đến việc cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ nước ngoài – cần phải được trả lời trước khi đưa ra vấn đề can thiệp vào thương mại. Ngoài ra, như đã đề cập, các chính sách hạn chế thương mại ở các nước tiên tiến thường làm tình hình càng tồi tệ hơn tại các nước xuất khẩu mà các chính sách này được đề ra nhằm giúp đở. Ví dụ, chính sách khác với chính sách dành cho công nhân là trẻ em ở các nước xuất khẩu thường tồi tệ hơn (như nạn mại dâm). Thương mại và “Những trao đổi bị ngăn chặn” Xã hội nào cũng có các giới hạn, cả về luân lý lẫn pháp lý, đối với loại thị trường được phép hoạt động. Cá nhân cũng không bao giờ được hoàn toàn tự do khi ký một số hợp đồng nhất định. Nhà triết học chính trị Michael Ealzer gọi các giới hạn này là “những trao đổi bị ngăn chặn”. Ở Mỹ, những trao đổi bị ngăn chặn này bao gồm một số lĩnh vực kể cả việc mua bán người và văn phòng chính trị. Chúng còn bao gồm “thương mại như là phương kế cuối cùng” hoặc trao đổi “cùng đường”, như được minh họa bằng các đạo luật về một ngày làm việc 8 giờ, mức lương tối thiểu cùng các quy chế về y tế và an toàn (xem Walzer 1983, 100-03 để có danh mục đầy đủ). Một số giới hạn này, như việc cấm cưỡng bức làm nô lệ là hầu như không còn bàn cải gì nữa. Một số giới hạn khác như luật về mức lương tối thiểu cũng tương tự như thế. Ngoài ra, các quy chuẩn về những lĩnh vực cần giới hạn cũng thay đổi tuỳ từng nước và theo thời gian. Điều mấu chốt là những trao đổi bị ngăn chặn này là một phần của những sắp xếp về xã hội của bất kỳ một xã hội nào. Lịch sử về luật lao động của Mỹ minh họa khá rõ nét việc hình thành và tiến triển của những trao đổi bị ngăn chặn. Trong đầu thế kỷ 20, có nhiều sự chống đối đối với các đạo luật giảm giờ lao động và cải thiện điều kiện lao động. Năm1905, Toà án Tối cao huỷ bỏ một quy định của thành phố New York cấm thuê nhân công làm trong lò bánh quá 60 giờ một tuần (Lochner kiện New York). Ý kiến của tòa án dựa trên ý tưởng cần phải giới hạn những trao đổi tự nguyện. Theo lời của Toà án, quy định của New York là “sự can thiệp bất hợp pháp vào quyền cá nhân của cả chủ và người làm công để thực hiện các hợp đồng lao động với các điều kiện mà họ cho là tốt nhất” (dẫn trong tạp chí Sandel 1996, số 41). Với lý lẽ tương tự, Yasheng Huang 8 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  9. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc Toà cũng bải bỏ điều luật quy định mức lương tối thiểu cho phụ nữ và điều luật cấm ký các hợp đồng cho phép đuổi việc công nhân vì họ gia nhập công đoàn. Năm1937, đối diện với nguy cơ Tổng thống Franklin D. Roosevelt lôi kéo Toà án, Toà Tối cao đổi hướng ngược lại. Trong một quyết định đưa ra vào năm đó (Công ty West Coast Hotel kiện Parrish), Tòa ủng hộ mức lương tối thiểu dành cho phụ nữ. Lần này, cơ sở lập luận cho rằng ngành lập pháp có quyền nêu ra những điều kiện lao động trong nhà máy, đặc biệt xem xét quyền thương lượng bất bình đẳng giữa chủ và người làm công. Như Toà án đã đề cập, “quyền thương lượng của phụ nữ tương đối yếu và họ sẵn sàng trở thành nạn nhân của những kẻ thường lợi dụng các tình huống nghèo túng”. Vì vậy, cũng chính đáng khi đưa ra một lần nữa sự bất bình đẳng thông qua luật pháp và các giới hạn về quyền lợi cá nhân trong hợp đồng. Trường hợp quá đặc biệt này đã khai thông cho các bộ luật lao động tiếp theo, mở rộng quy mô của quy chế tại nhà máy. Theo đó luật pháp Mỹ từ thập niên 1930 đã nhận ra là những giới hạn đối với “hợp đồng tự do” là hợp pháp trong trường hợp quyền thương lượng không bình đẳng. Tuy nhiên, bây giờ hãy xem xét một loại quyền thương lượng mất cân đối khác, là quyền lực được tạo ra bởi thương mại và tính cơ động nguồn vốn đã được bàn trong chương trước: chủ có thể ra nước ngoài còn người làm công thì không. Người ta có thể lý luận là qua việc làm phát sinh sự bất bình đẳng về quyền thương lượng, việc toàn cầu hóa góp phần ngấm ngầm phá hoại 60 năm lịch sử luật lao động và từ đó huỷ hoại luôn sự hiểu biết về mặt xã hội mà các bộ luật này đại diện. Xét cho cùng, không có sự khác biệt mấy giữa việc công nhân trong nước, những người có thể cạnh tranh với đồng nghiệp của họ bằng cách chấp thuận làm việc 12 giờ một ngày, hưởng lương thấp hơn mức tối thiểu và chấp nhận bị sa thải nếu gia nhập nghiệp đoàn – tất cả những điều này đều phạm pháp theo luật pháp Mỹ- và các công nhân nước ngoài cùng làm điều tương tự. Nếu xã hội không sẳn lòng chấp nhận vế đầu thì tại sao lại chấp nhận vế sau 10. Không có câu trả lời dứt khoát, rõ ràng nào cho câu hỏi này cả. Có nhiều giá trị và ý thích để đổi chác, kể cả cái được và cái mất bấp bênh và quan niệm trái ngược nhau về cạnh tranh “bình đẳng”. Quan điểm của tôi đơn giản chỉ là thương mại tác động đến xã hội trong nước theo cách nó có thể mâu thuẩn với các hợp đồng xã hội lâu đời để bảo vệ công dân khỏi bị ảnh hưởng bởi sự khắc nghiệt của thị trường tự do. Những vấn đề mới về thương mại và nhu cầu “thương mại bình đẳng” “ Tái cấu trúc các quốc gia – hoặc ít nhất là một số lĩnh vực nhất định của quốc gia,” Ruggie (1995, 510) viết “là những gì mà tranh chấp thương mại ngày càng có khả năng xảy ra.” Đó 10 Lưu ý rằng việc cố đạt được chủ quyền quốc gia và tính không thể chấp nhận được theo luật quốc tế để áp đặt luật trong nước lên các nước khác không giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng bế tắc. Trong thực tế, điều này là làm chệch vấn đề sang hướng khác. Chủ quyền quốc gia hàm ý khả năng của mỗi nước trong việc cắt đứt quan hệ với các nước khác nếu thương mại làm phương hại đến sự lựa chon có chủ quyến tại nước mình. Yasheng Huang 9 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  10. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc thực sự là chủ đề chung, kinh qua cái gọi là những vấn đề mới trong chương trình nghị sự của WTO. Cho dù có là tiêu chuẩn lao động, chính sách môi trường, chính sách cạnh tranh, hoặc tham nhũng đi chăng nữa, thì những khác biệt về cách thực hiện trong nước cũng đã trở thành những vấn đề tranh cải quốc tế. Mâu thuẩn phát sinh cả khi những khác biệt này tạo ra thương mại – như trong trường hợp lao động trẻ em hoặc chính sách môi trường thiếu chặt chẻ – lẫn khi người ta tự cho rằng giảm thương mại – như với phương pháp keiretsu thực hiện ở Nhật bản. Đã xưa rồi cái thời khi các cuộc thương lượng về thương mại chủ yếu chỉ là can thiệp vào thương mại dưới hình thức biểu thuế ở biên giới và rào cản phi biểu thuế. Các vấn đề thương mại trọng tâm của tương lai là “sự hội nhập toàn diện” liên quan đến các chính sách bên trong ranh giới và cách quản lý chúng. Như một bài xã luận trên tờ New York Times (mang tính ủng hộ) đã so sánh sự hội nhập này với vụ tranh chấp giữa hai công ty Kodak và Fuji về cơ hội tiếp cận với thị trường phim ở Nhật bản. “vụ kiện của Kodak buộc WTO phải đưa ra phán quyết theo cách kinh doanh của Nhật bản (11/7/1996, A22). Các nhà kinh tế học đã giễu cợt quan điểm “thương mại bình đẳng” và “làm phẳng sân chơi” nằm sau nhiều chủ trương như thế. Nhưng một khi người ta đã nhìn nhận là thương mại ám chỉ các chuẩn mực trong nước và sự xếp đặt về mặt xã hội, và tính hợp pháp của thương mại phụ thuộc một phần vào tính tương thích của nó với các nguyên tắc và sự sắp đặt này, thì các quan niệm như thế không quá kỳ quặc; chúng đưa ra các mối quan tâm do thương mại làm phát sinh. Thương mại tự do giữa các nước có những phương pháp trong nước rất khác nhau đòi hỏi phải có hoặc chấp nhận sự xói mòn cấu trúc trong nước hoặc chấp nhận một mức hoà hợp (hội tụ) nhất định. Nói cách khác, mức hoà hợp (hội tụ) quốc tế nào đó có thể là cần thiết để thu lợi từ thương mại. Ý nghĩa đối với các nước đang phát triển Trích bài viết tựa đề: “Nền kinh tế toàn cầu mới và các nước đang phát triển: Tạo điều kiện cho sự cởi mở phát triển” của Dani Rodrik (Washington DC: Hội đồng Phát triển ở Nước ngoài, 1999). Trong đoạn mở đầu, GS Rodrik đã phê phán cái mà ông gọi là “sự sùng bái xuất khẩu và DFI” (DFI: direct foreign investment: đầu tư nước ngoài trực tiếp) Nền kinh tế quốc gia của một số nước đã tăng trưởng nhanh chóng trong vòng 2 thập niên qua mà không trải qua sự gia tăng phần chia đầu ra nội địa được xuất khẩu. Phần Cứ liệu 3 liệt kê 25 nước đang phát triển tăng trưởng nhanh trong giai đoạn 1975-1994, không kể các nước không có dữ liệu xuất khẩu với giá cả không đổi. Chỉ 2 trong số các nước này là có suy thoái trong xuất khẩu – tỉ suất GDP với giá không đổi (Indonesia và Ai-cập), còn nhiều nước khác cho thấy có tăng đáng kể khoảng 10 điểm % hoặc hơn. Theo nghĩa này, định hướng xuất khẩu tăng là một cột mốc của hầu hết các nước thành công. Từ bằng chứng này, thật thú vị khi kết luận là xuất khẩu thường dẫn đến hoặc kích thích tăng trường. Tuy nhiên, như bảng tiếp theo cho thấy, điều này là một suy diễn sai lầm. Trong Cứ liệu 4, tôi đã đặt ngược bài tập và liệt kê 25 nước đang phát triển với sự gia tăng tỉ lệ GDP xuất khẩu cao nhất trong cùng một thời kỳ. Danh sách này bao gồm nhiều nước của bảng trước (đáng chú ý nhất là các nước Đông Á), nhưng cũng bao gồm nhiều nước với thành tích Yasheng Huang 10 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  11. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc tăng trưởng không đáng kể. Ví dụ, giả định lấy 1% tăng tưởng trong GDP tính theo đầu người (mỗi năm) như là tiêu chuẩn của thành công khiêm tốn. Gần nửa (11) số nước trong Cứ liệu 4 nằm dưới ngưỡng này, trong đó có 5 nước có tỉ lệ tăng trưởng âm. Bằng chứng quá rõ ràng: dù các nước tăng trưởng nhanh thường có tỉ lệ GD-xuất khẩu tăng, nhìn chung, điều ngược lại là không đúng. Có thể nói DFI cũng thế. Thái độ của nhiều nhà hoạch định chính sách tại nước đang phát triển đối với DFI đã kinh qua trình trạng thay đổi toàn diện trong những thập niên qua, thậm chí còn thay đổi nhiều hơn cả trường hợp hàng xuất khẩu. Ngày xưa các doanh nghiệp đa quốc gia thường được xem như là biểu tượng của sự lệ thuộc; ngày nay các doanh nghiệp này đã trở thành cứu tinh của sự phát triển. Ngày nay trong các bài viết về chính sách đầy dẫy những lời tự khoa trương về các tác động tích cực bao gồm chuyển giao công nghệ, kênh thị trường, quản lý ưu việt, và đào tạo lao động. Một lần nữa, bằng chứng là rất rõ ràng. Các nghiên cứu có hệ thống ở cấp nhà máy từ các nước như Morocco và Venezuela ít xảy ra tác động tích cực (xem Harrison 1996). Ở quy mô quốc gia, tác động của DFI đối với tăng trưởng kinh tế thường yếu và biến mất khi nhiều đặc trưng của quốc gia bị kiểm soát (Bosworth và Collins 1998). Nhiều, nếu không muốn nói là hầu hết, các tương quan giữa sự hiện diện của DFI và thành tích vượt trội dường như bị thúc đẩy bởi quan hệ nhân quả ngược: Các doanh nghiệp đa quốc gia có khuynh hướng trụ lại trong các nền kinh tế có năng suất cao và có lãi (và đó cũng là nơi tốt nhất). Kinh nghiệm đối với DFI, cũng như với hàng xuất khẩu, phải là thế này: Thiếu bằng chứng cơ sở để chứng minh điều ngược lại, 1 đô la của DFI có giá trị không hơn (và không kém) 1 đô la của bất kỳ hình thức đầu tư nào khác. Một ý nghĩa là trợ cấp và tín dụng thuế có lợi cho đầu tư nước ngoài hơn là đầu tư trong nước cần được tính toán lại một cách nghiêm túc. Một hình thức trợ cấp đặc biệt tác hại đối với DFI là thiết lập những rào cản thương mại để đảm bảo cho nhà đầu tư nước ngoài có một thị trường trong nước được bảo hộ – là sự nhượng bộ mà các nhà đầu tư nước ngoài thường có thể yêu cầu đối với các chính phủ quá tha thiết với DFI. Những kế hoạch như thế cần được xem như là kế hoạch làm giảm giá trị nền kinh tế nói chung (tham khảo Brecher và Diaz-Alejandro 1977), trừ phi có đủ lý lẽ biện minh cho sự hiện diện của các yếu tố tích cực bên ngoài, bắt nguồn từ sự đầu tư đang được đặt ra. Yếu tố chính trị Những bài học từ một kỷ nguyên khác Trích bài viết tựa đề “mối đe doạ của chủ nghĩa tư bản” của George Soro, tạp chí The Atlantic Monthly, tháng 2/1977. George Soros là nhà đầu tư và làm từ thiện nổi tiếng. Tình hình hiện tại có thể so sánh với tình hình ở vào cuối thế kỷ trước. Đó là thời đại hoàng kim của chủ nghĩa tư bản, với đặc trưng là nguyên tắc tự do thương mại; hiện tại cũng thế, dù thời kỳ trước có phần ổn định hơn. Thời trước có vương quyền, như nước Anh, vương quyền Yasheng Huang 11 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  12. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc được sử dụng để phái những chiến hạm đến những vùng đất xa xôi. Do vương quốc Anh là nước hưởng lợi chính của hệ thống vương quyền nên Anh muốn duy trì hệ thống này. Ngày nay, Mỹ không muốn trở thành cảnh sát của thế giới. Thời kỳ trước có kim bản vị thì ngày nay các loại tiền tệ chính trôi nổi và va chạm nhau như các mảng lục địa. Tuy nhiên, chế độ thị trường tự do chiến ưu thế 100 năm về trước đã sụp đổ vì Thế chiến thứ I. Ý thước hệ chuyên chế thống trị, và vào cuối Thế chiến thứ II, hầu như không có sự chuyển dịch vốn giữa các nước. Khả năng sụp đổ của chế độ hiện nay có thể cao hơn thế, trừ phi chúng ta rút ra được kinh nghiệm! Trích bài viết tựa đề: “Lý thuyết ổn định bá quyền của hệ thống tiền tệ thế giới” của Barry Eichengreen trong tập sách của Richard N. Cooper “Các nước có thể nhất trí không? Các vấn đề về hợp tác kinh tế quốc tế” (Washington DC: Viện Brookings, 1989). Barry Eichengreen là giáo sư kinh tế của Đại học California tại Berkley. Hệ thống tiền tệ quốc tế là một bộ quy tắc hoặc công ước quản lý các chính sách kinh tế của một quốc gia. Trên quan điểm quốc gia hẹp, đó là tình thế bất bình thường. Việc tuân thủ một bộ quy tắc chung hoặc công ước đòi hỏi phải có sự hài hoà nhất định giữa các chính sách tiền tệ và tài chính. Dù ý thích và hạn chế ảnh hưởng đến việc hình thành chính sách có khác nhau đáng kể giữa các nước. Người ta trông đợi chính phủ các nước bải bỏ chính sách tái phân phối phúc lợi kinh tế từ người nước ngoài đến người dân trong nước cũng như tự nguyện đóng góp sự ổn định tiền tệ toàn cầu vào lợi ích của cộng đồng quốc tế. Trong thực tế, người ta trông đợi chính phủ các nước giải quyết vấn đề tách ra riêng đang tác hại đối với các tổ hợp doanh nghiệp và cũng trong bối cảnh này, giải quyết thêm vấn đề hoạt động tuỳ thích đang phương hại đến lợi ích công. Do các chính phủ có thể thành công nhưng không trọn vẹn, lợi ích của quần chúng nhờ sự ổn định tiền tệ quốc tế thường không đủ. Từ quan điểm này, nghịch lý của các vấn đề tiền tệ quốc tế không phải là sự khó khăn trong việc thiết lập một hệ thống tiền tệ quốc tế ổn định, mà là việc những hệ thống ấy đã thực sự tồn tại trong nhiều thập niên. Các chuyên gia quan hệ quốc tế đã đưa ra khái niệm là việc một quốc gia thống trị – bá quyền – là cần thiết để đảm bảo sự vận hành hiệu quả một chế độ quốc tế. Sự tập trung quyền lực kinh tế được xem như là cách quốc tế hoá các yếu tố bên ngoài gắn bó với sự ổn định của hệ thống và đảm bảo sự cung ứng đầy đủ của hệ thống này. Việc áp dụng “thuyết về sự ổn định bá quyền” này vào các vấn đề tiền tệ quốc tế là dể hiểu. Việc duy trì Hệ thống Bretton Woods trong một phần tư thế kỷ được gán cho quyền lực nổi bật của Mỹ trong thế giới thời hậu chiến, tương tự như việc tồn tại dai dẳng của tiêu chuẩn kim bản vị cổ điển cũng bị gán cho sự thống trị về phương diện tài chính quốc tế trong nửa sau của thế kỷ 19. Hệ thống tiền tệ trong quá khứ là tương đối ổn định khi một loại tiền tệ nào đó thống trị: như đồng bảng Anh trong suốt thế kỷ 19 và đồng đô la Mỹ trong thời kỳ đầu sau chiến tranh. Ngược lại, sự bất ổn định của tiêu chuẩn hối đoái bằng vàng giữa hai thế chiến được gán cho sự thiếu bá quyền, do sự bất ổn của nước Anh trong vai trò thống trị và sự chối bỏ bá quyền này của Mỹ. Sự hấp dẫn của khái niệm này là ở tác động của nó với sự so sánh giữa lợi ích công và tổ hợp doanh nghiệp về các vấn đề tiến tệ quốc tế có thể gọi là các biến tướng của chiến thuật cây Yasheng Huang 12 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  13. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc gậy và củ cà rốt trong thuyết ổn định bá quyền. Trong biến tướng của củ cà rốt, doanh nghiệp thống trị, như một doanh nghiệp nắm ưu thế trong thị trường do một tập đoàn thống trị, duy trì sự liên kết của tổ hợp doanh nghiệp bằng cách trả một khoản phụ trội tương đương cho thành viên không thuộc tập đoàn. Trong biến tướng của cây gậy, doanh nghiệp thống trị, như một doanh nghiệp nắm ưu thế, ngăn cản sự ly khai khỏi tổ hợp tiền tệ quốc tế bằng cách dùng chính sách kinh tế của mình để trả đũa chống lại kẻ ly khai. Theo khía cạnh tích cực (mà Snidal gọi là quan điểm tích cực) của lý thuyết, tất cả các thành viên tham gia đều được có lợi hơn nhừ sự can thiệp của bá quyền. Theo khía cạnh tiêu cực của lý thuyết (mà Snider gọi là quan điểm gượng ép) hoặc do sự ổn định có hệ thống không phải đơn thuần là lợi ích công hoặc do chi phí của nó được chuyển sang các nước nhỏ hơn, lợi ích nhờ sự ổn định tích luỹ thiếu cân xứng hoặc chỉ tập trung vào doanh nghiệp thống trị. Vai trò của Mỹ Trích bài viết của Fareed Zakaria tựa đề: “Sự đồng thuận mới của Mỹ: Quyền bá chủ rổng tuếch của chúng ta,” Tạp chí New York Times, ngày 1/11/1998 Nền kinh tế mở của thế giới –hay bất kỳ tu từ nào của các nhà doanh nghiệp và kinh tế học- là một cấu trúc chính tri, không tự phát mà cũng không tự tồn tại. Trong hoá thân hiện tại, nó là sản phẩm của những chính sách kết hợp của Mỹ từ năm 1945. Qua việc bảo vệ Tây Âu khỏi sự đe dọa của Sô-viết, Washington đã làm cho các quốc gia này cảm thấy không cần thiết phải đề ra chính sách quốc gia (có thể sẽ đối chọi) của riêng mình và vì lý do này mà Mỹ đã giúp phát triển một kỹ nguyên hợp tác trước đây chưa từng có ở châu Âu. Washington vung tiền ra khắp thế giới, thành lập một chế độ tỉ giá hối đoái cố định bảo chứng bằng đô-la, tạo ra cho một thế hệ một môi trường ổn định trong đó nền kinh tế thế giới có thể phát triển mà không bị khủng hoảng và xung đột. Có lẽ quan trọng nhất, như nước Anh trong thế kỷ 19, Washington đã thực hiện thương mại tự do đơn phương, mở cửa thị trường Mỹ đối với hàng hoá từ nước ngoài ngay cả khi không được các thị trường khác đáp lại, và nhờ đó mà thúc đẩy sự phát triển của châu Au, Đông Á và châu Mỹ La tinh. Toàn cầu hóa – không chỉ đơn thuần kéo theo việc mở cửa thị trường và còn việc mở cửa xã hội – là sản phẩm của chính sách đối ngoại của Mỹ trong vòng 50 năm. Tuy nhiên, khi hệ thống kinh tế toàn cầu đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng lần đầu tiên thì Mỹ không còn hứng thú với chính sách của mình. Đây không phải là vấn đề mà chỉ cần quy trách nhiệm cho TT Bill Clinton, Newt Gingrich hoặc các chính trị gia là xong. Ngày nay, thái độ lãnh đạm đối với thế giới lan khắp xã hội Mỹ. Việc đưa tin nước ngoài do các hãng thông tấn và tạp chí tin bị tụt giảm. Số lương bản tin do NBC truyền đi giảm từ 1,013 năm 1988 xuống 327 năm 1966. Trong nhiều thập niên, các cuộc họp báo của Nhà Trắng bị tràn ngập bởi các câu hỏi về chính sách ngoại giao. Hiện nay, ngay cả tại cuộc hội đàm với Clinton và Yeltsin, các phóng viên cũng chỉ hỏi vài câu chiếu lệ về chính sách ngoại giao và liền sau đó chuyển sang chủ đề cuộc khủng hoảng trong nước đang diễn ra. Các nhà xuất bản sách cũng không mấy mặn mòi với việc xuất bản các tác phẩm về thời sự thế giới. Yasheng Huang 13 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  14. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc Mặc dù Tổng thống George Bush đã đối xử tốt với Liên bang Xô viết, trong hồi ký mới đây, ông cũng tâm sự là đã cảm thấy khổ sở khi giúp đở nước Nga dân chủ mới. Một quan chức trong chính phủ Bush kể lại: “Chúng tôi chưa bao giờ nghi ngờ về những hạn chế trong nước cũng như hạn chế tiền tệ và nói với người dân Mỹ là: “Đây là thời điểm lịch sử của thế giới. Chúng ta có cơ hội tạo ra sự khác biệt lớn.” Năm 1992, TT Bush bị công kích là vị Tổng thống quá chú trọng đến chính sách ngoại giao và nước Nga bị lạc lõng trong nỗi lo sợ này. Chính phủ Clinton càng có ít tham vọng hơn. Ngày nay, tất cả những khoản hỗ trợ dành cho Nga trong một thập niên – bao gồm phần đóng góp của chúng ta vào Quỷ Tiền tệ Thế giới và mọi khoản tài trợ, khoản vay của các tổ chức quốc tế khác – đã lên đến 15 tỉ đô-la. Chỉ riêng quy mô Kế hoạch Marshall đã tăng gấp 6 lần. Người ta cho rằng có thể chúng ta đã phí tiền. Rốt cuộc thì Nga cũng là nước phong kiến, tham nhũng với di sản Chủ nghĩa cọng sản và không hề có Khải huyền, Phục hưng hay Cách tân. (Và dĩ nhiên vào thời điểm này, với chương trình cải cách của Nga bị phá sản, các nhà cải cách thất nghiệp và đất nước đứng trên bờ hỗn loạn, bất kỳ một nỗ lực hỗ trợ quy mô lớn nào cũng sẽ không hiệu quả). Nhưng vào cuối thập niên 1940 thì bạn không nghe nói đến một chủ nghĩa định mệnh mang về mặt văn hoá như thế. Nói cho cùng, Nhật bản cũng không có Khải huyền, Phục hưng hay Cách tân, mà lịch sử phong kiến lại dài hơn và bền vững hơn ở Nga. Trong quá khứ, nước Đức cũng có những vấn đề riêng. Và cả hai nước này đều lâm chiến với Mỹ, giết chóc, tra tấn và làm tàn phế người Mỹ với sự bạo tàn man rợ. Nhưng chỉ vài năm sau đó, chính người Mỹ đã cam kết tái thiết hai nước này và qua đó biến một châu Âu hiếu chiến thành một khối thương mại hoà hoãn. Có ai biết được 10 năm sau Thế chiến thứ II, hai nước bại trận Đức, Nhật sẽ tuyệt vọng như thế nào nếu không có sự tham gia chủ yếu của Mỹ? Ai biết Nga sẽ ngày nay ra sao nếu Mỹ có tham vọng thực sự ? Rồi đến châu Á. Khi cuộc hoảng ở Đông á nổ ra, Người Mỹ nhìn nó như là một sô diễn kỳ lạ. Nhiều nhà bình luận chớp lấy cơ hội, hả hê về những đặc trưng của lối sống Mỹ và sự nghèo nàn của những giá trị của người dân châu Á. Các nhà hoạch định chính sách có vẻ tin rằng có thể giao vấn đề cho INF giải quyết và không cần phải có một động thái chính trị nào cả. Toàn cầu hoá sẽ giải quyết giúp họ vấn đề này. Thị trường sẽ bắt các nước trở thành những thị trường thực sự tự do. Sự mất uy thế của chủ nghĩa cọng sản sẽ làm các nước dể dàng chấp nhận nền dân chủ tự do và quy tắc của luật pháp. Goldman, Sachs, Margan Stanley và các ngân hàng khác, cũng như các quỹ tương trợ sẽ làm công việc chuyển đổi. Washington sẽ chỉ đứng xem và cổ vũ. “Chúng ta không thể cải cách ở bất cứ nước nào tốt hơn chính chính phủ và nhân dân nước đó thực hiện”. Lawrens Summers, Thứ trưởng Tài chính, thường nghiêm túc tuyên bố, bày tỏ rõ ràng quan điểm của Mỹ và thường dân Mỹ, như một khán giả có liên quan. Tuy nhiên cho đến hôm qua, Mỹ lại muốn có các hình thức cải cách nhất định hơn chính chính phủ và nhân dân nước đó. Chúng ta đã gạ gẫm, thúc dục, hối lộ và đe doạ chế độ để tự do hoá nền kinh tế của họ theo đường lối Anglo-Mỹ. Lấy một ví dụ, trong thập niên trước, Washington đã gây áp lực đối với các nền kinh tế mới trỗi lên ở Đông Á để làm tiền tệ của họ hoàn toàn có thể chuyển đổi được. Các doanh nghiệp tài chính Mỹ hết sức nỗ lực để đạt được sự thay đổi này Yasheng Huang 14 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  15. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc vì họ muốn để thâm nhập vào các thị trường đang tăng trưởng này. Người ta loại bỏ tất cả các ý tưởng về sự chuyển tiếp theo giai đoạn, trong đó các nước từ từ tiếp cận với sự khốc liệt của thị trường tư bản toàn cầu, mặc dù đó chính là cách chuyển đổi mà đã từng được thực hiện ở Tây Âu (nơi đã có các thể chế tài chính ổn định và có nhiều thế kỹ kinh nghiệm với chủ nghĩa tư bản). Sự “cải cách” này là yếu tố then chốt đối với sự bùng nổ và tan rã của Đông Á – khi hàng tỉ đô-la luân chuyển ra vào một cách tự do và nhanh chóng. Khủng hoảng trước mặt? Trích bài viết của Jeffrey E. Garten tựa đề “Rắc rối trước mặt trong các thị trường mới trỗi dậy”, tạp chí Harvard Business Review, Tháng 5-6, 1997. Feffrey Garten từng là Vụ trưởng thương mại phụ trách thương mại quốc tế trong thời kỳ đầu của Chính phủ TT Clinton và hiện là Trưởng khoa tại trường Đại học Quản lý của Đại học Yale. Sự việc diễn ra nghiêm trọng hơn vào cuối thập niên 1990, sự đụng đầu giữa 2 thế lực không đội trời chung trong các thị trường mới trỗi dậy: chủ nghĩa tư bản tự do thương mại và dân chủ. Triết lý của Adam Smith là tạo cơ hội phát sinh các áp lực hùng mạnh mới là các áp lực từng làm giàu nhiều nước, đồng thời làm nghèo các nước kia, từng tạo ra những thay đổi xã hội to lớn và cởi trói những thế lực chính trị mới. Tuy nhiên một phần của phương trình của Thomas Jefferson’s không hoạt đông suông sẻ. Các cấu trúc dân chủ ở nhiều thị trường mới nổi hoặc không hề tồn tại hoặc quá yếu không thể đảm bảo một chút bình đẳng về kinh tế cần thiết để duy trì chủ nghĩa tư bản dân chủ. Kết quả là, các thị trường mới nổi có thể đánh mất tiến bộ đã đạt được trong việc điều tiết thị trường và đặt ra luật lệ rất cần thiết cho bất kỳ một chế độ thương mại nào. Ngoài ra, trong kỷ nguyên đầu của cuộc khủng hoảng, các công ty và chính phủ của thế giới công nghiệp đã loại bỏ những thị trường mới nổi và để các thị trường này tự lo liệu lấy. Tuy nhiên, ngày nay, những nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng và chính phủ nước ngoài sẽ không thể bàng quan trước những vấn đề rắc rối mà không bị hại lây. Các công ty trong thế giới công nghiệp lệ thuộc vào thị trường nước ngoài về cả kinh tế đại trà lẫn lợi nhuận tăng cao. Các nước trong thế giới công nghiệp muốn việc làm ở nước mình đáp ứng được lượng hàng xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều nhà đầu tư về kế hoạch hưu bổng đang kỳ vọng thu lãi cao từ việc đầu tư vào thế giới đang phát triển. Có nhiều cách lý giải về những áp lực đang tăng lên ở các thị trường mới nổi. Một cách lý giải cho rằng nhiều biện pháp cải cách kinh tế đơn giản hơn đã được xúc tiến. Lãnh đạo của một quốc gia có thể giảm biểu thuế từ 300% xuống còn 50% dể hơn là giảm từ 50% xuống 5%; tương tự, họ cũng có thể sẵn sàng hóa giá các công ty quốc doanh có thực lực nhất – như các hãng hàng không đang hái ra ngoại tệ mạnh – dể hơn là bán các nhà máy thép đang thua lỗ. Loạt cải cách đầu tiên này có thể được thực hiện ngay: các nhà đầu tư trong và ngoài nước đáp ứng tích cực còn các chính phủ thì ủng hộ. Tuy nhiên, hào quang này cũng không tồn tại lâu dài. Không bao lâu sau, phe đối lập tổ chức phản công và những người không được hưởng lợi từ các biện pháp tự do hóa đứng ra cản đường. Các công dân bình thường, do đã Yasheng Huang 15 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  16. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc từng nghe nói về sự kỳ diệu của thương trường, tự hỏi tại sao họ lại không thể có nước nóng để sử dụng hoặc tại sao điện thoại lại hỏng. Và những người ra quyết định cấp cao cảm thấy mệt mỏi vì phải đối đầu với những vấn đề như thế. Trên các thị trường mới nổi, có rất nhiều việc cần phải làm. Quy chế thị trường còn nhiều thiếu sót. Các bộ luật lao động cứng nhắc cần được xây dựng lại. Giới hạn áp đặt lên giá năng lượng và viễn thông không khích lệ đầu tư nước ngoài. Biên chế nhà nước cần phải tinh giảm, nhưng đồng thời cũng phải tuyển thêm cán bộ có chuyên môn và kinh nghiệm. Các chính sách phúc lợi xã hội tốn kém cần phải được bải bỏ và xây dựng lại. Thủ tục bàn giấy rườm rà, can thiệp vào những giao dịch kinh doanh bình thường cần phải được chấm dứt, đồng thời các hệ thống pháp lý cần được củng cố. Nhưng cho đến nay, lý do lớn nhất của mối lo ngại về cải cách kinh tế là động lực chính trị của chính các cải cách đó. Những người nhiệt tình ủng hộ các thị trường mới nổi đã quên cân nhắc một số yếu tố như: quy mô chính trị của sự thay đổi, khó khăn trong việc thực hiện sự chuyển đổi sâu rộng trong một thời gian ngắn, thiếu kỹ năng và thể chế cần thiết để quản lý chủ nghĩa tư bản dân chủ. Trong tiến trình cùng một lúc hướng đến những hệ thống chính trị và kinh tế mở, các thị trường mới nổi đang đứng trên một vùng đất chưa được thăm dò và đầy bất trắc. Khi việc tự do hoá kinh tế tại các thị trường mới nổi thay thế sự kiểm soát cứng nhắc thì quy chế kinh tế-thương mại mới, tự do hơn và tương đối cầu kỳ hơn cần phải được áp dụng. Các chính phủ cần thu hẹp quy mô nhưng lại phải đảm trách thêm nhiều công tác khó khăn hơn nữa, hiệu quả hơn nữa – một thủ thuật mà các lãnh đạo ở Washsington, Bonn và Tokyo vẫn chưa thể thực hiện nhuần nhuyễn được. Trong tình trạng thiếu các nỗ lực sắp xếp về mặt chính trị như thế thì những người nắm quyền lực trong chế độ cũ tiếp tục chiếm những vị trí lợi thế trong chế độ mới và chỉ cần phát triển ưu thế và ưu quyền của họ. Ngoài ra, quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường đồng thời tạo ra khoảng trống về trật tự, tạo điều kiện cho gian lận và tham nhũng tăng cao. Lãnh đạo ở các thị trường mới nổi hiếm khi có đủ năng lực và kinh nghiệm để làm quá trình chuyển đổi này diễn ra êm thắm. Về mặt chính trị, các nền dân chủ được định nghĩa không chỉ bằng cách qua phương thức bầu phiếu; chúng còn đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng phức hợp. Thiếu dịch vụ dân sự chuyên nghiệp làm nền tảng vững chắc, thiếu một hệ thống tư pháp mạnh và độc lập, thiếu các chính sách điều tiết bao quát, thì lãnh đạo các nền dân chủ mới có thể sẽ tốn tất cả thời gian của họ để đối phó với các nhóm gây sức ép. Họ không thể đáp ứng tất cả mọi yêu cầu của công tác quản lý thường nhật, chưa kể đến kế hoạch đầu tư dài hạn quan trọng, đồng thời họ cũng không thể giải quyết những nhu cầu của người dân, vốn rất hệ trọng đối với tính hợp pháp của họ. Dưới những sức ép này, đôi khi một nền dân chủ mới biến thành một chính quyền yếu kém và bế tắc. Có khi, chính phủ lại đi theo hướng ngược lại – theo đường lối độc tài vốn đã được thế chỗ bằng nền dân chủ. Thế là phản ứng của người dân sẽ bùng lên, làm giảm khả năng theo đuổi chủ trương cải cách của chính phủ mà một thời đã là một yếu tố cấu thành nhiệm vụ chủ yếu của chính phủ. Yasheng Huang 16 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận
  17. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Triển vọng Toàn cầu hóa Bài đọc IR 1.2 Tạo điều kiện đàm thoại về chính sách và cải cách để hoàn thiện tính cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) Bài tập 1. Xác định và nghiên cứu về các cuộc cải cách quy chế cần thiết, đồng thời thiết lập các thông số đối thoại để thông báo cho công chúng về đối thoại riêng tư. Có ít nhất 6 công trình nghiên cứu từ danh mục sau đây sẽ được hoàn tất (hoặc gần hoàn tất) vào cuối năm thứ 3. Các công trình nghiên cứu tập trung vào và bổ sung cho công tác cải cách quy chế của tỉnh có liên quan đến PCI được đánh dấu (*). Kết quả của mỗi công trình nghiên cứu sẽ được phổ biến thông qua đối thoại rộng rãi-nội bộ và thông qua báo đài. 1) Các doanh nghiệp quốc doanh (DNQD) của tỉnh và xu hướng của khối quốc doanh (phân tích về công tác cổ phần hoá các DNQD của tỉnh) *. Dù khối tư nhân là động lực của sự thành quả tăng trưởng mạnh mẽ của Việt Nam. Một phát hiện thú vị mới đây từ dữ liệu của PCI là sự biến thiên trong xu hướng của khối quốc doanh. Một thành phần quan trọng của xu hướng này là sự tồn tại tiếp tục và hoạt động của các doanh nghiệp do chính quyền tỉnh quản lý. Tư nhân hoá (cổ phần hóa) – hoặc trong một vài trường hợp là thanh lý – các doanh nghiệp quốc doanh không hiệu quả cấp tỉnh là bước quan trọng cần tiến hành để tạo cơ hội tiếp cận và tham gia của khối tư nhân, và nói chung là khắc phục tình trạng bế tắc và thiếu hiệu quả tại địa phương. Để thực hiện điều này, các tỉnh có thể tiến hành nâng hạng các PCI của mình. Tại hội nghị kiểm điểm PCI ở An Giang, UBND tỉnh đã cam kết giảm số lượng DNQD từ 34 xuống còn 3 hay 4. Công trình nghiên cứu này sẽ hỗ trợ quy trình giải thể các DNQD qua việc điều tra vai trò của các DNQD tỉnh tại 2-3 tỉnh được chọn, tập trung vào phương ý thích của quần chúng và các vấn đề hiệu quả kinh tế toàn diện liên quán đến việc tiếp tục duy trì hoạt động của các DN này. 2) Phương pháp thực hiện tốt nhất của tỉnh trong công tác đẩy mạnh sự tham gia vào hoạt động kinh doanh. Công trình nghiên cứu này dựa trên công trình nghiên cứu năm thứ 2 về VNCI điều tra sự thực hiện chỉ thị của Thủ tướng cơ chế mua hàng tại một điểm liên quan đến việc cấp giấy phép cho doanh nghiệp ở 2 tỉnh Hà Nội và Vĩnh Phúc. Trong năm thứ 3, hoạt động này sẽ được mở rộng sang một số tỉnh khác để kiểm điểm và kiến nghị về công tác thực hiện chỉ thị nêu trên. 3) Phương pháp thực hiện hiệu quả nhất về tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME): Những kiến nghị chính dành cho ASMED, Bộ Kế Hoạch Đầu Tư. Công trình nghiên cứu này xác định phương tiện tối ưu nhờ đó các nhà hoạch định chính sách ở các nước đang phát triển và chuyển hướng như Việt Nam có thể hoàn chỉnh cơ hội tiếp cận tài chính của khối SME. Phương pháp thực hiện hiệu quả nhất về tài chính của SME đang ngày càng đề cao công tác củng cố thị trường gián tiếp thay vì thay thế trực tiếp và bao cấp. Những chủ trương này có khuynh hướng: i) bền vững hơn; ii) ít gây ra tác động biến dạng; và iii) ít tốn kém cho nền kinh tế nói chung. Công trình nghiên cứu mô tả chi tiết xu hướng mới này trong tài chính của các SME, đồng thời nghiên cứu một số phương pháp và công cụ mới được chấp nhân để nâng cao cơ hội tiếp cận tài chính của khối SME. Công trình còn nêu lên những nhược điểm và tốn kém khi áp dụng các thể chế tài chính, sản phẩm và dịch vụ được bao cấp. Yasheng Huang 17 Biên dịch: Nguyễn Hữu Luận