Bài giảng Tâm lý học trẻ em - Đào Tiểu Vũ

pdf 76 trang phuongnguyen 5861
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Tâm lý học trẻ em - Đào Tiểu Vũ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_tam_ly_hoc_tre_em_dao_tieu_vu.pdf

Nội dung text: Bài giảng Tâm lý học trẻ em - Đào Tiểu Vũ

  1. TÂM LÝ HỌC TRẺ EM BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÂM LÝ HỌC TRẺ EM I. ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM: Có nhiều khoa học nhiên cứu về trẻ em, mỗi khoa học nghiên cứu trẻ em theo khía cạnh riêng, với cách riêng của mình. Tâm lý học trẻ em quan tâm đến quá trình phát triển trẻ em, hình thành nhân cách, trở thành người lớn như thế nào. Tâm lý học trẻ em là khoa học nghiên cứu những đặc điểm và quy luật phát triển tâm lý của trẻ, xem sự hoạt động của trẻ, sự phát triển các quá trình, phẩm chất tâm lý và sự hình thành nhân cách của trẻ theo con đường nào, bằng cơ chế nào. Có thể nói một cách khái quát rằng đối tượng của tâm lý học trẻ em là sự sự phát triển tâm lý của trẻ; những đặc điểm, những quy luật đặc trưng cho sự phát triển tâm lý ở mỗi độ tuổi.
  2. II. Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM VÀ QUAN HỆ CỦA NÓ VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC: Khi nghiên cứu sự phát triển tâm lý của trẻ, tâm lý học trẻ em đã sử dụng các tài liệu của nhiều khoa học khác và đến lượt mình nó cũng cung cấp những tài liệu có ý nghĩa quan trọng đối với các khoa học khác. Tâm lý học trẻ em dựa trên triết học duy vật biện chứng. Các luận điểm triết học vạch ra những quy luật chung nhất của sự phát triển các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Nó chứng minh rằng tâm lý, ý thức con người do xã hội quyết định. Sự hiểu biết các quy luật chung giúp cho tâm lý học trẻ em tìm ra cách nhìn đúng đắn đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em. Ngược lại, việc nghiên cứu tỉ mỉ sự phát triển của trẻ em, nhất là việc trẻ em nhìn nhận thế giới xung quanh như thế nào sẽ giúp ta hiểu sâu hơn bản chất chung của nhận thức con người. Tâm lý học trẻ em dựa trên những tri thức về tâm lý con người do tâm lý học đại cương cung cấp, đồng thời nó lại cung cấp cứ liệu cho tâm lý học đại cương, cho những hiểu biết sâu sắc hơn về những vấn đề tâm lý của người lớn, đặc biệt là những quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý như thế nào. Tâm lý học trẻ em thường xuyên sử dụng những thành tựu giải phẫu sinh lý và bệnh học lứa tuổi, nhất là những số liệu về sự phát triển của hệ thần kinh và hoạt động thần kinh cao cấp của trẻ. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là bảo đảm sự phát triển của trẻ, chuẩn bị cho nó bước vào cuộc sống. Để làm tốt việc này, nhà giáo
  3. dục phải nắm vững những đặc điểm và quy luật phát triển của đứa trẻ, nếu không sẽ phải mò mẫm và dễ bị sai lệch. Trong lĩnh vực giáo dục mầm non, tâm lý học trẻ em có một vị trí đặc biệt. Từ việc tổ chức đời sống đến việc hướng dẫn cho trẻ trong các hình thức hoạt động, muốn đạt được kết quả tốt, người nuôi dạy cần phải biết những đặc điểm và quy luật phát triển tâm lý của trẻ. Tâm lý học trẻ em không những giúp cho người nuôi dạy trẻ có khả năng hiểu trẻ mà còn biết vun trồng và phát triển tất cả những phẩm chất tốt đẹp của trẻ. Tránh được những thiếu sót trong công tác giáo dục trẻ. BÀI 2: CÁC QUY LUẬT PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ Tâm lý con người và tâm lý động vật luôn luôn phát triển. Tuy nhiên tính chất và nội dung của quá trình phát triển trong thế giới động vật và ở con người khác nhau. Cơ chế chủ yếu của sự phát triển tâm lý động vật là sự truyền kinh nghiệm từ thế hệ trước đến thế hệ sau bằng quy luật di truyền sinh học. Đặc điểm của các chức năng tâm lý người là chúng được phát triển trong quá trình trẻ lĩnh hội kinh nghiệm – lịch sử, theo quy luật di truyền xã hội hay kế thừa văn hoá. Nên người là quá trình đứa trẻ lĩnh hội kinh nghiệm xã hội – lịch sử được loài người sáng tạo ra và giữ lại trong nền văn hoá, bằng hoạt động của chính trẻ em và luôn luôn được người lớn hướng dẫn – tức là giáo dục. Đây chính là cơ chế của sự phát triển tâm lý
  4. trẻ em. Phân tích cơ chế này, ta nhận thấy những điều kiện đó là những mối quan hệ giữa nền văn hoá với sự phát triển của trẻ, giữa hoạt động của chính trẻ với sự phát triển của nó, giữa những điều kiện sinh học với sự phát triển của trẻ Những mối quan hệ này đều mang tính phổ biến và tính tất yếu khách quan, vì vậy nó mang tính quy luật. I. QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ: Cũng như mọi sinh vật, con người là một bộ phận của vũ trụ, chịu sự chi phối chặt chẽ của thế giới tự nhiên, nhưng cao hơn mọi sinh vật khác, con người còn có một thế giới nữa do mình sáng tạo ra, đó chính là văn hoá. Do đó nói tới văn hoá là nói tới thế giới tinh thần của con người và những thành tựu đạt được trong suốt tiến trình lịch sử của nó, để hoàn thiện mình và xã hội. Người ta chia văn hoá thành hai hình thái: Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Dù văn hoá vật chất hay văn hoá tinh thần đều chứa đựng những kinh nghiệm xã hội – lịch sử mà loài người đã tích luỹ được. Do đó sự phát triển diễn ra trong quá trình trẻ em lĩnh hội kinh nghiệm loài người trong nền văn hoá. Ngay từ khi ra đời trẻ đã tiếp xúc với nền văn hoá của loài người. Nền văn hoá xã hội với những sản phẩm vật chất tinh thần ngay từ đầu đã là nguồn gốc và nội dung của sự phát triển tâm lý. Sự phát triển tâm lý của trẻ chịu sự chi phối bởi những điều
  5. kiện sống, bởi trình độ văn hoá của những người xung quanh, bởi mức độ phong phú và tinh xảo của những phương tiện sống, bởi những biến động của xã hội. Sớm tiếp xúc với một nền văn hoá cao, đó là điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Nền văn hoá chứa đựng kinh nghiệm xã hội-lịch sử của toàn nhân loại, nhưng ở mỗi dân tộc, mỗi địa phương do những điều kiện sống khác nhau nên đã hình thành nên những phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá khác nhau, tạo nên nền văn hoá mang bản sắc dân tộc, bản sắc vùng miền. Trong quá trình phát triển, trẻ tiếp nhận văn hoá theo hai con đường: 1. Con đường tự phát: Là sự tiếp nhận một cách tự nhiên của các yếu tố trong hoàn cảnh sống chủ yếu bằng bắt chước. Với con đường này, sự phát triển tâm lý của trẻ mang tính chất tuỳ tiện, những thành đạt nếu có trong bước đường lớn lên đều mang tính ngẫu nhiên. 2. Con đường tự giác ( tức giáo dục ): Là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của người lớn đối với trẻ nhằm hình thành ở trẻ những phẩm chất nhân cách đáp ứng những yêu cầu của xã hội. Nói cách khác, giáo dục dưới dạng chung nhất là sự chuẩn bị cho trẻ bước vào đời sống xã hội. Đây là con đường chủ yếu để hình thành nhân cách cho trẻ em và để phát triển xã hội. Ngày nay, với sự tiến bộ của “ công nghệ giáo dục”, người ta có thể điều khiển sự phát triển một cách chủ động. Trước hết là định hướng cho sự phát triển, lựa chọn nội dung và phương pháp
  6. tổ chức hoạt động cho trẻ nhằm lĩnh hội những kinh nghiệm trong nền văn hoá phù hợp với mỗi trình độ phát triển của trẻ em. Như vậy, văn hoá ( trong đó có cả giáo dục ) đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển tâm lý và hình thành nhân cách của trẻ em Nếu không được sống trong xã hội loài người, không được tiếp xúc với nền văn hoá nhân loại thì đứa trẻ sẽ không thể nên Người được. Đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non, văn hoá gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Văn hoá gia đình là một môi trường đặc biệt, giúp cho sự phát triển của trẻ thơ được thuận lợi. Trước hết vì đó là một môi trường an toàn, trong đó đứa trẻ luôn ở bên cạnh những người ruột thịt, luôn được thương yêu, ấp ủ nên đã tạo cho đứa trẻ cảm giác an toàn về tâm lý, về thể chất. Gia đình còn là một môi trường phong phú. Trong gia đình có ông bà, cha mẹ, anh chị em, tạo ra những mối quan hệ đa dạng giữa nhiều người ở độ tuổi khác nhau.Thế giới đồ vật trong nhà nhiều hình, nhiều vẻ tạo điều kiện cho trẻ làm quen với xung quanh. Trong gia đình, trẻ được nuôi dạy theo một phương thức , khác với phương thức giáo dục nhà trường. Thể hiện ở những đặc điểm sau đây: + Gia đình chăm sóc dạy dỗ trẻ bằng tình thương yêu ruột thịt + Người lớn trong gia đình dạy trẻ bằng giao tiếp trực tiếp và thường xuyên với các em. + Gia đình không tiến hành giáo dục đồng loạt đối với các cháu trong cùng một nhóm. Gia đình chăm sóc, dạy dỗ từng cháu một,
  7. phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi cháu. + Giáo dục gia đình thường bằng nhiều hình thức mang tính chất tổng hợp và đượm màu sắc nghệ thuật. Tuy nhiên hiệu quả của giáo dục gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ văn hoá của mỗi thành viên, đặc biệt là trình độ văn hoá của người mẹ. Cùng với sự phát triển của xã hội gia đình cũng đã biến đổi về cơ bản. Tuy vậy văn hoá gia đình vẫn luôn luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với trẻ thơ. Sau này khi lớn khôn, mỗi người có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều phía của nền văn hoá xã hội. Nhưng những gì mà văn hoá gia đình đã hun đúc nên vẫn được mang theo trong mỗi người đến suốt đời. II. QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ: Để phát triển, để nên người, đứa trẻ phải tự hoạt động để lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử. Hoạt động không chỉ là nơi tâm lý con người được bộc lộ mà chính là cái hình thành nên tâm lý của con người. Muốn phát triển tâm lý và hình thành nhân cách trẻ em thì nhất thiết phải đưa chúng vào những hoạt động nhất định.Giáo dục trước hết phải là quá trình tổ chức hoạt động tích cực của trẻ em, qua đó mà chiếm lĩnh nền văn hoá của dân tộc và của nhân loại. Những phẩm chất tâm lý được hình thành không chỉ phụ thuộc vào tính tích cực hoạt động của cá nhân, mà còn phụ thuộc
  8. vào chất lượng hoạt động. Trong cuộc sống, con người có thể tham gia vào nhiều hoạt động, song có những dạng hoạt động trong giai đoạn này là chủ đạo, có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lý, nhân cách, còn những hoạt động khác ít có ý nghĩa hơn, chỉ đóng vai trò thứ yếu. Ở mỗi giai đoạn phát triển có một hoạt động nhất định đóng vai trò chủ đạo, hoạt động này có những đặc điểm sau đây: + Là hoạt động có đối tượng mới, chưa hề có trước đó. Chính đối tượng mới này tạo ra những cái mới trong tâm lý, tức là tạo ra những phát triển. + Là hoạt động có khả năng chi phối toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ em và tiếp theo đó những quá trình tâm lý sẽ được cải tổ, được tổ chức lại bằng hoạt động này. + Là hoạt động có khả năng chi phối các hoạt động khác cùng diễn ra đồng thời trong giai đoạn đó. Nhờ những đặc điểm này, hoạt động chủ đạo đã tạo ra những nét đặc trưng trong tâm lý của trẻ ở mỗi giai đoạn phát triển. Căn cứ vào sự thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động của trẻ, căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý của trẻ và sự trưởng thành cơ thể của trẻ em, các nhà tâm lý đã chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm lý trẻ em: + Tuổi sơ sinh: mới sinh đến 2 tháng Hoạt động chủ đạo : + Tuổi hài nhi: 2 tháng đến 12 tháng Hoạt động chủ đạo : Giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn + Tuổi nhà trẻ ( ấu nhi): 1 tuổi đến 3 tuổi
  9. Hoạt động chủ đạo : Hoạt động với đồ vật + Tuổi mẫu giáo: 3 tuổi đến 6 tuổi Hoạt động chủ đạo : vui chơi ( trung tâm là trò chơi đóng vai theo chủ đề ) + Tuổi nhi đồng: 6 tuổi đến 11 tuổi Hoạt động chủ đạo : Học tập + Tuổi thiếu niên: 11 tuổi đến 15 tuổi Hoạt động chủ đạo : Học tập và giao lưu nhóm bạn thân + Tuổi đầu thanh niên: 15 tuổi đến 18 tuổi Hoạt động chủ đạo: Học tập gắn với xu hướng nghề nghiệp, hoạt động xã hội. Tuy nhiên, cần nhớ rằng hoạt động chủ đạo không phải là hoạt động duy nhất. III. ĐIỀU KIỆN SINH HỌC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ: Điều kiện sinh học bao gồm tất cả những yếu tố tạo nên hình thái cơ thể con người, trong đó đặc biệt quan trọng là hệ thần kinh, là cơ sở vật chất để diễn ra hoạt động tâm lý, như một đại diện của loài người. Các điều kiện sinh học không quyết định hoàn toàn sự phát triển tâm lý của trẻ theo con đường di truyền sinh học, nhưng cũng cần phải xác định rõ vai trò của nó trong sự phát triển ấy.
  10. Ngay từ khi lọt lòng mẹ, trẻ đã kế thừa từ tổ tiên của mình cấu tạo và chức năng cơ thể, đã có một hệ thần kinh với một bộ não người có khả năng trở thành cơ quan hoạt động tâm lý cực kỳ phức tạp mà chỉ con người mới có. Không có bộ não người thì không thể nảy sinh các phẩm chất tâm lý của con người. Điều kiện sinh học còn ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ ở những điều sau đây: + Những chức năng tâm lý sơ đẳng của con người như các cảm giác gắn liền với các giác quan. Chất lượng hoạt động của các giác quan sẽ ảnh hưởng đến các chức năng tâm lý bậc cao. + Kiểu hoạt động thần kinh cấp cao ( mạnh hay yếu; cân bằng hay không cân bằng; linh hoạt hay không linh hoạt). Điều đó ảnh hưởng đến cách bộc lộ của hoạt động tâm lý, khiến cho hành vi của mỗi người mang sắc thái riêng. + Những độc tố trong cơ thể cha mẹ cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm lý của trẻ em, nhất là đến trí tuệ. Chẳng hạn con cái của những người bị nhiễm chất độc màu da cam, nghiện ma tuý, nghiện rượu sẽ làm cho những tế bào của vỏ bán cầu đại não của con cái hoạt động không bình thường dẫn đến nhiều khuyết tật trong đời sống tâm lý và thường là chậm phát triển trí tuệ. Tóm lại: Những điều kiện sinh học có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm lý của trẻ. Ảnh hưởng đó là ở chỗ nó tạo điều kiện thuận lợi hay gây trở ngại cho sự phát triển tâm lý với tốc độ nhanh hay chậm, dễ dàng hay khó khăn.
  11. Bài 3 : ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ TRONG NĂM ĐẦU I. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ SƠ SINH: (0 – 2 tháng) 1.Vai trò của các phản xạ không điều kiện: Từ đời sống trong bụng mẹ, một môi trường trường đối ổn định, đứa trẻ ra đời như đột ngột bị đẩy vào một hoàn cảnh mới mẻ của môi trường không khí, với vô số kích thích của thế giới bên ngoài. Đời sống của bé trong môi trường mới được bảo đảm nhờ có những cơ chế di truyền có sẵn: hệ thống thần kinh đã sẵn sàng thích nghi với điều kiện bên ngoài, những hệ cơ quan cơ bản của cơ thể bắt đầu khởi động, nhờ đó trong những ngày đầu tiên các phản xạ tự vệ được thực hiện. Bên cạnh những phản xạ tự vệ, còn có các phản xạ định hướng, tức là những phản ứng của trẻ hướng tới những kích thích mới lạ. Phản xạ định hướng là cơ sở ban đầu của hoạt động tìm tòi của trẻ. Tuy nhiên sự tìm tòi của trẻ còn bị hạn chế bởi các giác quan còn quá non nớt. Trong những ngày đầu tiên của cuộc sống của trẻ đã có một số phản xạ không điều kiện, giúp trẻ thích ứng với hoàn cảnh sống mới. Phản xạ thở, phản xạ mắt và những phản xạ về nhiệt độ đều là những phản xạ bẩm sinh được thực hiện sau khi sinh ra. Tuy mới sinh ra đứa trẻ hầu như bất lực không tự phát triển
  12. được, nhưng lại có khả năng tiếp nhận kinh nghiệm và hành vi đặc biệt của con người. 2.Tình trạng bất phân (cảm giác không phân định): Trẻ sơ sinh trong tình trạng bất phân khi cảm nhận mọi vật. Trong tháng đầu trẻ hầu như chưa tiếp nhận kích thích từ bên ngoài, chỉ có nội cảm và tự cảm, chỉ khi nào kích thích bên ngoài quá mạnh mới nhận ra. Ban đầu nội cảm chiếm ưu thế, về sau ngoại cảm chiếm ưu thế, nhưng những hoạt động nội cảm vẫn tiếp tục một cách vô thức. Hết tuần đầu, em bé bắt đầu có những phản ứng phân định. Đến hết tuần thứ 6 bé có thể cảm nhận được một số kích thích từ môi trường bên ngoài. Trẻ sớm nhận ra mặt người. Khi lại gần dù đói hay no trẻ cũng phản ứng với bộ mặt người, còn những đồ vật khác thì không gây phản ứng gì. Ở giai đoạn này cảm xúc và cảm giác còn hỗn hợp, nội cảm lấn át ngoại cảm. Nhưng ở vùng môi, miệng và họng, là nơi mà một kích thích bên ngoài tạo ngay một phản ứng đặc trưng: tìm bú. Quá trình tiến từ tiếp cảm gần đến tiếp cảm xa đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển. Bé vừa bú vừa nhìn mẹ, hai cảm giác ở miệng và mắt kết hợp lại. Những lúc miệng rời vú, không còn cảm giác gần, nhưng cảm giác xa vẫn còn. Dần dần thị giác đóng vai trò quan trọng, vì không bị dứt đoạn. Đây là chỗ dựa đầu tiên cho quan hệ với đối tượng.
  13. 3. Nhu cầu tiếp nhận các ấn tượng thế giới bên ngoài, nhu cầu gắn bó với người khác: a. Nhu cầu tiếp nhận các ấn tượng thế giới bên ngoài: Nhu cầu này gắn liền với phản xạ định hướng. Lúc đầu trẻ chỉ có phản ứng nhìn khi có một vật sáng để gần và chỉ có phản ứng nghe khi có tiếng động to. Nhờ đó nhu cầu tiếp nhận các ấn tượng xuất hiện, trẻ bắt đầu nhìn theo các vật di động hoặc phản ứng với âm thanh, đặc biết là giọng nói của người lớn và rất thích nhìn vào mặt người. Dần dần trẻ đã có thể phân biệt được các âm thanh và mùi vị khác nhau. Tiếng nói chuyện bình thường, hoặc tiếng hát khe khẽ cũng làm cho trẻ chú ý. Đặc điểm quan trọng của trẻ sơ sinh là thị giác và thính giác phát triển nhanh để tiếp nhận những ấn tượng bên ngoài, đó là nhờ sự trưởng thành nhanh chóng của hệ thần kinh, trước hết là não bộ. Điều kiện thiết yếu để não bộ có thể phát triển bình thường là sự luyện tập các giác quan để thu nhận các tín hiệu từ thế giới bên ngoài. Nếu đứa trẻ bị giữ trong tình trạng cô lập với thế giới bên ngoài thì sẽ chậm phát triển một cách nghiêm trọng. Do đó người lớn cần chú ý tạo ra và tổ chức các ấn tượng bên ngoài cho trẻ tiếp nhận để phát triển nhanh các phản xạ định hướng của trẻ vào thế
  14. giới xung quanh. b. Nhu cầu gắn bó với người khác: Lọt lòng mẹ trẻ đã có những ứng xử làm cho người lớn phải quan tâm như mút, bám níu, mỉm cười, muốn được ôm ấp, vỗ về, thể hiện một nhu cầu gắn bó với người lớn. Phản xạ rúc đầu vào ngực mẹ, một mặt là để tìm vú, nhưng mặt khác là muốn áp sát vào da thịt mẹ để được ôm ấp vỗ về. Quan hệ với người mẹ qua xúc giác là quan trọng vào bậc nhất và cũng được xuất hiện sớm nhất, hiện tượng đó là sự gắn bó mẹ con. Sự gắn bó mẹ con là mối quan hệ đầu tiên và quan trọng nhất, tạo điều kiện cho sự phát triển sau này của trẻ. Thiếu đi sự gắn bó này, em bé sẽ khó phát triển bình thường, ngay cả sự sống còn cũng gặp nhiều khó khăn. Mối quan hệ gắn bó mẹ – con là một nhu cầu gốc, có ngay từ đầu, lúc trẻ mới sinh ra. Như vậy, trong trường hợp bé bị tách khỏi mẹ quá sớm, thì điều cần thiết là phải giúp cho trẻ tạo ra mối quan hệ gắn bó mẹ – con. (Nhu cầu này cũng có thể thoả mãn được bởi người khác, miễn là người đó có lòng yêu thương, sẵn lòng ôm ấp, vỗ về). Trong mối quan hệ gắn bó mẹ – con, ở cả hai phía mẹ và con đều phát ra tín hiệu cho nhau. Thông qua những tín hiệu phát ra từ mẹ và con, nhiều công trình nghiên cứu đã tổng kết được bốn kiểu quan hệ gắn bó mẹ- con như sau: + Kiểu thứ nhất: Tín hiệu phát ra ở mẹ và con đều mạnh. Nghĩa là nhu cầu gắn bó của cả hai mẹ con đều tỏ ra bức thiết.
  15. Trong trường hợp này mối quan hệ gắn bó mẹ – con được thiết lập một cách dễ dàng, thuận lợi. Kiểu này thường thấy ở những cặp mẹ con sinh nở bình thường, mẹ tròn con vuông, xuất phát từ lòng ước ao mong đợi của người mẹ đối với sự ra đời của đứa con. + Kiểu thứ hai: Tín hiệu phát ra từ người mẹ thì mạnh mà từ người con thì lại yếu. Thường thì đây là trường hợp của những trẻ bị thiếu tháng hay khuyết tật bẩm sinh. Trong trường hợp này người mẹ nên giao tiếp với con một cách nhẹ nhàng, từ tốn. + Kiểu thứ ba: Tín hiệu của con thì mạnh, nhưng tín hiệu của mẹ lại yếu. Kiểu này thường xảy ra ở những người mẹ có con một cách bất đắc dĩ, có con không theo ý muốn Trong trường hợp này người mẹ thường lạnh lùng, thờ ơ với con, không muốn giao tiếp với con. Vì không nhận được tín hiệu đáp lại của người mẹ, tín hiệu phát ra của đứa bé yếu dần đi, có khi mất hẳn và bé lâm vào tình trạng ủ ê, mệt mỏi, dễ mắc phải chứng bệnh “trầm cảm”. + Kiểu thứ tư: Tín hiệu phát ra đều yếu ở cả mẹ và con. Đây thực sự là một tai hoạ. Cần phải có biện pháp khơi dậy tín hiệu ở cả hai phía. Trường hợp này rất cần sự hỗ trợ của những người xung quanh, cần cả thầy thuốc lẫn những nhà tâm lý học. Tạo ra được những quan hệ gắn bó mẹ – con ngay từ những ngày đầu trẻ mới ra đời là một cách phòng ngừa tốt nhất, tránh cho trẻ nguy cơ chậm phát triển hay phát triển lệch lạc về sinh lý cũng như tâm lý sau này. Nhu cầu gắn bó mẹ – con là cơ sở nảy sinh nhu cầu giao tiếp giữa em bé với những người xung quanh. Dần dần ở trẻ hình thành nên những phản ứng vận động xúc cảm đặc biệt hướng tới người
  16. lớn. Phản ứng này được gọi là phức cảm hớn hở. Sự xuất hiện phức cảm hớn hở cũng là lúc chuyển từ thời kỳ sơ sinh bước sang thời kỳ mới: tuổi hài nhi. II. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ HÀI NHI: (2 – 15 tháng) 1. Giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn là hoạt động chủ đạo. Giao tiếp với người lớn là một nhu cầu bức thiết của trẻ. Sở dĩ có nhu cầu này là do yêu cầu khách quan của cuộc sống, trẻ em cần phải được chăm sóc thường xuyên của người lớn mới thoả mãn được những yêu cầu của cơ thể, mặt khác cũng lại do cư xử của người lớn, đã khơi gợi ở trẻ những xúc cảm ban đầu. Giao tiếp trực tiếp với người lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý của trẻ. Đặc biệt là về mặt xúc cảm. Từ nhu cầu tiếp xúc da thịt với người lớn đến giao tiếp thực sự với người lớn, khi mà trẻ đã có những phương thức giao tiếp là một bước phát triển rõ rệt từ tuổi sơ sinh đến tuổi hài nhi. Trong giao tiếp với người lớn, trẻ tiếp nhận được những sắc thái xúc cảm khác nhau của người lớn, rồi dần dần trẻ cũng thể hiện được những xúc cảm khác nhau của mình. Vào khoảng tháng thứ 6 đến tháng thứ 8, ở trẻ xuất hiện một hiện tượng mới: lúc có người lạ đến gần trò chuyện với bé, bé không mỉm cười ngay như trước mà tỏ ra sợ hãi, từ chối không muốn giao
  17. tiếp. Đây là một mốc quan trọng trong quá trình phát triển cảm xúc. Sự sợ hãi trước một người lạ cho thấy rằng đã xuất hiện ranh giới giữa bản thân và vật thể xung quanh, cũng tức là xuất hiện một bản ngã thô sơ (cũng có thể gọi là cái “ tôi”, tuy còn mờ nhạt. Cùng với giao tiếp trực tiếp với người lớn, dần ở trẻ xuất hiện nhu cầu sờ mó, cầm nắm các đồ vật. Từ đó nhu cầu giao tiếp trực tiếp sẽ nhường chỗ cho giao tiếp với đồ vật, tức là giao tiếp với người lớn để tiếp xúc với đồ vật. Lúc này người lớn trở thành khâu trung gian giữa trẻ và đồ vật. Sự giao tiếp này dần dần trở thành hoạt động phối hợp giữa người lớn và trẻ em. Người lớn dẫn dắt đứa trẻ đến với thế giới đồ vật và hướng dẫn nó biết hành động với các đồ vật đơn giản. Nhờ hoạt động phối hợp với người lớn, ở trẻ nảy sinh khả năng bắt chước hành động của người lớn. Khả năng này là điều kiện quan trọng để tiếp thu những điều dạy dỗ của người lớn, mở rộng vốn kinh nghiệm của trẻ. Khả năng bắt chước những hành động của người lớn được phát triển mạnh trong suốt thời kỳ hài nhi. Đến cuối tuổi này thì sự bắt chước tăng lên rõ rệt (chải tóc giống mẹ, đọc sách giống bố ) Như vậy hành động của người lớn xung quanh đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển những phẩm chất tâm lý của trẻ. Trong quá trình giao tiếp, người lớn luôn hướng dẫn, uốn nắn hành vi của trẻ, bằng con đường đó, đứa trẻ dần dần dần hình thành được những thói quen tốt và học cách ứng xử đúng đắn.
  18. Tóm lại: Trong suốt thời kỳ hài nhi nếu không có sự tiếp xúc với người lớn thì sự phát triển tâm lý của trẻ không thực hiện được. Giao tiếp với người lớn được coi là điều kiện tiên quyết để trưởng thành. 2. Sự phát triển vận động, hành động với đồ vật và sự định hướng vào môi trường xung quanh: Sự tiến bộ của những vận động và hành động của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào sự hướng dẫn của người lớn. Nếu người lớn thường xuyên chú ý tới trẻ và tổ chức hành động cho trẻ thì những vận động và hành động của trẻ có những bước tiến rõ rệt và đóng vai trò tích cực trong sự phát triển tâm lý. Bò là cách vận động đầu tiên của trẻ. Thường thì khoảng 7 – 8 tháng trẻ bắt đầu biết bò. Thoạt tiên là trườn, sau đó là bò lồm cồm cả hai chân và hai tay. Trước khi biết đi, trẻ học cách đứng dậy trên hai chân có vịn, rồi không cần vịn tay, đi men rồi sau đó chập chững từng bước một. Quá trình này rất cần sự giúp đỡ của người lớn. Trong những tháng đầu tiên trẻ khám phá môi trường xung quanh bằng thị giác, thính giác và vị giác. Sau tháng thứ ba trẻ bắt đầu dùng hai tay để sờ mó đồ vật. Đến tháng thứ tư trẻ bắt đầu nắm lấy đồ vật, có khi nắm đồ vật trong tay một hồi lâu, tuy vậy trẻ vẫn chưa hoàn toàn làm chủ hành động nắm. Từ tháng thứ sáu trở đi thì động tác nắm được cải thiện hơn . Càng về cuối năm động tác nắm càng chính xác hơn.
  19. Khi trẻ có thể cầm nắm đồ vật trong tay thì nó bắt đầu thao tác với đồ vật bằng tay. Những thao tác đầu tiên rất đơn giản (cầm lấy rồi buông ra), sau đó thao tác trở nên phức tạp hơn (đẩy đồ vật ra xa hay xích lại gần ). Khi trẻ bắt đầu thực hiện các vận động và thao tác với các đồ vật thì các giác quan của trẻ phát triển mạnh hơn và có thêm nhiệm vụ mới là bắt đầu điều khiển, điều chỉnh đôi chút chính những vận động và thao tác của trẻ. Có thể nói rằng sự định hướng của trẻ vào thế giới xung quanh trước hết bằng sự vận động và thao tác với đồ vật, trên cơ sở đó mà làm phát triển các quá trình tâm lý, rồi sau đó mới có sự định hướng bằng các quá trình tâm lý. Cần chú ý rằng quá trình phát triển vận động, thao tác với đồ vật và định hướng vào môi trường xung quanh tự trẻ không thể thực hiện được mà phải có sự hướng dẫn kích thích về tình cảm và trí tuệ của người lớn. Nhờ người lớn hướng dẫn, tổ chức vận động và thao tác với đồ vật, đứa trẻ đã có những biểu tượng đầu tiên về thế giới xung quanh, làm xuất hiện những hình thái đầu tiên của hoạt động tâm lý, giúp trẻ định hướng được vào thế giới này và tạo nên những tiền đề để trẻ tiếp nhận những loại kinh nghiệm lịch sử – xã hội khác nhau ở những giai đoạn sau này. 3. Hình thành những tiền đề để lĩnh hội ngôn ngữ: Nhu cầu giao tiếp với người lớn và sự định hướng vào môi
  20. trường xung quanh ngày càng tăng đã làm nảy sinh khả năng nói ở trẻ. Khi giao tiếp, trẻ thường thích thú chăm chú lắng nghe và bắt chước những âm thanh trong lời nói của những người xung quanh . Những cuộc “trò chuyện” giữa người lớn với trẻ hài nhi đã khêu gợi ở đứa trẻ những trạng thái cảm xúc tích cực, sự thích thú được giao tiếp với người lớn và bắt đầu có những phản ứng lại với những sắc thái tình cảm khác nhau trong lời nói của người lớn. Càng về cuối năm, đứa trẻ càng thích giao tiếp với người lớn bằng những âm bập bẹ. Âm bập bẹ có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ sau này. Sự thông hiểu lời nói của trẻ xuất hiện trên cơ sở của việc phối hợp hoạt động của tri giác nhìn và nghe. Lúc đầu, trẻ hài nhi nghe ngôn ngữ như những âm thanh nào đó. Ngữ âm là yếu tố đầu tiên quyết định thái độ phản ứng của trẻ tức quyết định sự hiểu ngôn ngữ của trẻ. Cuối tuổi hài nhi, mối liên hệ giữa tên đối tượng và chính bản thân đối tượng trở nên rõ ràng và phong phú hơn. Đó là hình thức đầu tiên của sự thông hiểu ngôn ngữ. Như vậy trong quá trình giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn sự thông hiểu ngôn ngữ của trẻ dần dần mang tính tích cực hơn và trở thành một trong những phương tiện quan trọng để mở rộng khả năng giao tiếp của trẻ với những người xung quanh. Tóm lại: Sự phát triển tâm lý của trẻ trong năm đầu tuy còn đơn sơ nhưng rất quan trọng, song song với tiến tới độc lập về mặt sinh học của con người, ở giai đoạn này chủ yếu là tạo ra những tiền đề cần thiết để sau này hình thành nên những chức năng tâm lý của
  21. con người. Bài 4: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TUỔI NHÀ TRẺ. I. SỰ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CỦA TRẺ EM TUỔI NHÀ TRẺ: 1. Hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo: a. Tuổi nhà trẻ, mối quan hệ của trẻ với đồ vật có chức năng nhất định và phương thức sử dụng tương ứng, với sự hướng dẫn của người lớn trẻ hướng hoạt động của mình vào việc nắm cách sử dụng đồ vật và ngày càng giống với cách sử dụng đồ vật của người lớn-gọi là hoạt động với đồ vật(hoạt động có đối tượng). b. Hoạt động chủ đạo của tuổi này là hoạt động có đối tượng vì nhờ nó các chức năng của đồ vật lần đầu tiên được bộ lộ và đồ vật trở thành đối tượng thu hút sự chú ý của trẻ, giúp trẻ khám phá tìm tòi,nhờ đó tâm lý trẻ phát triển mạnh đặc biệt phát triển trí tuệ. c. Điều quan trọng khi lĩnh hội những hành động sử dụng đồ vật trẻ lĩnh hội những qui tắc hành vi trong xã hội.Đồ chơi đối với trẻ rất cần thiết giúp trẻ khám phá chức năng và phương thức sử dụng,tuy nhiên người lớn cần mạnh dạn cho trẻ tiếp xúc vật thật và đồ chơi có nhiều thao tác nhằm kích thích trẻ hành động.
  22. 2. Các loại hành động với đồ vật: Sự tiếp xúc thế giới xung quanh càng rộng thì phương thức hành động với đồ vật càng phong phú,trong đó những hành động thiết lập các mối tương quan và những hành động công cụ là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của trẻ. a. Hành động thiết lập các mối tương quan. + Đó là những hành động đưa hai hoặc nhiều đối tượng vào những mối tương quan nhất định trong không gian. + Ở tuổi hài nhi, trẻ đã bắt đầu thực hiện hành động với đồ vật như Tháo, lắp nhưng trẻ chưa biết đến các thuộc tính của đồ vật, chưa biết chọn đồ vật theo hình dáng, kích thước + Đến tuổi nhà trẻ, trẻ đã biết tính đến các thuộc tính của đối tượng trong mối tương quan của đồ vật. Đây là hành động khám phá phức tạp vì phải điều chỉnh bằng chính kết quả thu được do đó cần phải được sự giúp đỡ của người lớn như làm mẫu, giúp trẻ thực hiện hành động Sự lĩnh hội những hành động thiết lập mối tương quan của trẻ phụ thuộc vào phương pháp dạy dỗ của người lớn nhờ đó các chức năng tâm lý: tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy trực quan hành động phát triển. b. Hành động công cụ:
  23. + Hành động công cụ là hành động trong đó một đồ vật nào đó được sử dụng như một công cụ để tác động lên các đồ vật khác. + Trẻ mới chỉ học cách sử dụng một số công cụ sơ đẳng nhất định như thìa,cốc,bút nhưng vẫn có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lý vì những công cụ đó đã có những đặc điểm chung của mọi công cụ: cách thức dùng chúng do xã hội qui định và cấu tạo của công cụ do phương thức sử dụng qui định. +Công cụ là khâu trung gian giữa bàn tay với đồ vật mà trẻ cần tác động tới và sự tác động đó diễn ra tuỳ thuộc vào cấu tạo của công cụ. Ví dụ: dùng thìa xúc cơm khác xa dùng tay bốc cơm cho vào miệng. Vì vậy việc sử dụng công cụ đòi hỏi thay đổi hoàn toàn động tác của bàn tay,làm cho bàn tay phục tùng cấu tạo của công cụ, nếu trẻ biết chú ý đến mối quan hệ giữa công cụ và đối tượng mà hành động hướng tới.Vì vậy cần sự hướng dẫn có hệ thống của người lớn. +Hành động công cụ mà trẻ nắm được chưa hoàn toàn thành thạo,còn phải tiếp tục.Song quan trọng trẻ nắm được chính nguyên tắc của việc sử dụng công cụ(nguyên tắc hoạt động cơ bản của con người). 3. Đi theo tư thế thẳng đứng - Hình thái vận động đặc trưng của con người: + Cuối tuổi hài nhi, một số trẻ đã bắt đầu đi chập chững. Đi là hình thái vận động đặc trưng của con người,không có sẵn trong
  24. chương trình di truyền. Việc điều khiển các cử động đi vẫn chưa được hình thành, vì thế đứa trẻ luôn luôn bị mất thăng bằng. Người lớn cần dìu dắt trẻ đi từng bước một và kịp thời cổ vũ khi trẻ đi được vài bước từ đó trẻ cảm thấy thích đi, không chán nản mặc dù bị ngã lên ngã xuống. Dần dần động tác đi lấn át động tác bò và trở thành phương thức cơ bản để di chuyển. + Động tác đi ngày càng tiến bộ, trẻ đã làm chủ được thân thể của mình, bước đi của trẻ mạnh dạn hơn, vận động được thực hiện và không gây căng thẳng nữa.Trẻ không những đi mà còn chạy vì chạy dễ lấy thăng bằng hơn đi, do đó người lớn cần tập cho trẻ những động tác khéo léo, linh hoạt. Đây là bước tiến cơ bản nhằm làm cho trẻ độc lập về mặt sinh học và là một bước quan trọng trong việc xã hội hoá đứa trẻ. Trẻ được giao tiếp tự do và độc lập với thế giới bên ngoài, phát triển những khả năng định hướng trong không gian. Trẻ có thể khám phá thế giới đồ vật phong phú hơn và hành động với đồ vật nhiều hơn, tiếp thu nhiều kinh nghiệm, nắm những kỹ năng sử dụng đồ vật; trẻ giao tiếp với nhiều người xung quanh giúp phát triển nhu cầu giao tiếp ngôn ngữ. Trẻ biết đi là một bước trưởng thành về sinh học và mặt xã hội với tư cách là một con người thực sự, có tính độc lập trong việc chiếm lĩnh thế giới đồ vật và giao tiếp với những người xung quanh. II. SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ TUỔI NHÀ TRẺ DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG VỚI ĐỒ VẬT:
  25. 1.Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ nhà trẻ: + Ở giai đoạn này, trẻ nảy sinh nhu cầu giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ đồng thời với sự phát triển nhu cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ, việc tích luỹ các biểu tượng do hoạt động với đồ vật mang lại có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Các biểu tượng đó tạo cơ sở để lĩnh hội nghĩa của các từ và liên kết chúng với hình ảnh của các sự vật, hiện tượng xung quanh. Ngôn ngữ của trẻ phần lớn phụ thuộc vào sự dạy bảo của người lớn. Để kích thích trẻ nói người lớn cần đòi hỏi trẻ phải bày tỏ nguyện vọng của mình bằng lời nói. + Ngôn ngữ của trẻ phát triển theo hai hướng chính: Hoàn thiện sự thông hiểu lời nói của người lớn và hình thành ngôn ngữ tích cực riêng của đứa trẻ. a. Trong khi hoạt động với đồ vật, trẻ thường gặp những tình huống cụ thể trong đó các đồ vật và các hành động với đồ vật chưa thể tách rời nhau. Vì vậy trẻ không thể lĩnh hội các từ biểu đạt đồ vật riêng, hành động riêng mà chỉ có thể lĩnh hội ngôn ngữ biểu đạt cả tình huống trọn vẹn ấy. Ví dụ: Trẻ chỉ hiểu lời nói “đánh trống” khi thấy một người đang đánh trống. Để giúp trẻ nhanh chóng hiểu dược lời nói, người lớn phải kết hợp lời nói với những tình huống cụ thể, trong đó các hành động với đồ vật dược thực hiện. Sự kết hợp này lặp đi lặp lại nhiều lần giúp trẻ hiểu được lời nói mà không phụ thuộc vào tình huống cụ thể nữa, người lớn có thể dùng lời nói để chỉ dẫn hành động của trẻ và
  26. sự phục tùng của trẻ đối với lời chỉ của người lớn ngày càng vững chắc hơn. Ở trẻ hai tuổi, lời nói có tác dụng khởi động dược thực hiện dễ dàng hơn so với lời nói có tác dụng kiềm hãm hành động. Ở trẻ ba tuổi, trẻ có khả năng hiểu lời nói tách khỏi tình huống cụ thể,thì việc chỉ dẫn của người lớn mới bắt đầu điều chỉnh hành vi của trẻ trong những điều kiện khác nhau. Sự thông hiểu lời nói của người lớn được biến đổi về chất, trẻ hiểu những từ riêng biệt và có thể thực hiện hành động với đồ vật theo sự hướng dẫn của người lớn, giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ như phương tiện cơ bản để nhận thức thế giới. b. Hoạt động với đồ vật của trẻ càng phong phú thì giao tiếp với người lớn càng được mở rộng thúc đẩy trẻ lĩnh hội ngôn ngữ và kích thích trẻ nói, đây là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ.Trẻ luôn đòi hỏi biết tên đồ vật và cố gắng nói để hỏi tên đồ vật đó, khi gọi đứng tên đồ vật hiện tượng xung quanh trẻ rất thích thú ,vốn từ được mở rộng và phát âm ngày chính xác hơn . +Ở tuổi này, trẻ nói còn lệch âm, vốn từ ít, chưa nắm vững ngữ pháp ( hiện tượng nói ngược). Đến 3 tuổi, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh giúp trẻ phát triển các hình thức ngữ pháp, trẻ nói được những câu phức tạp.Ngôn ngữ đã trở thành một phương tiện giao tiếp, phát triển các chức năng tâm lý. 2. Phát triển trí tuệ của tuổi nhà trẻ: Cuối tuổi hài nhi, trẻ bắt đầu tri giác thuộc tính của đồ vật
  27. xung quanh nắm được các mối quan hệ đơn giản nhất giữa những đồ vật. Cuối tuổi nhà trẻ, do nắm vững hoạt động với đồ vật và mở rộng giao tiếp ngôn ngữ tạo điều kiện phát triển trí tuệ. Những dạng hành động tri giác, tư duy đang hình thành là biểu hiện rõ rệt nhất của sự phát triển trí tuệ. a. Sự phát triển tri giác và sự hình thành những biểu tượng về các thuộc tính của các đồ vật. + Tuổi ấu nhi, tri giác còn sơ sài, trẻ mới chỉ nhận được các dấu hiệu nào đó của đồ vật, có tính chất ngẫu nhiên bề ngoài.Tri giác trẻ được đầy đủ dần nhờ trẻ nắm được hoạt động với đồ vật, lĩnh hội phương thức sử dụng và tri giác kích thước hình dáng của nó, trẻ lựa chọn liên kết các đối tượng cho phù hợp với hình dáng, độ lớn, màu sắc, vị trí của chúng trong không gian. Đó là những hành động định hướng bên ngoài,tạo tiền đề thiết lập những hành động định hướng bên trong sau này. + Trẻ cần được sự hướng dẫn của người lớn,giúp trẻ sử dụng các đồ chơi có các thao tác tháo lắp các bộ phận để trẻ so sánh lựa chọn phù hợp, hình thành những hành động định hướng bên ngoài nhằm tìm hiểu các thuộc tính của đối tượng . + Dần dần kiểu tri giác mới hình thành, trẻ dùng mắt để lựa chọn đối tượng phù hợp hành động, đó là hành động bằng mắt được phát triển mạnh tuổi lên 3. Hành động định hướng bằng mắt giúp trẻ tích luỹ nhiều biểu tượng về các đối tượng và so sánh các vật khác. Cần cho trẻ làm quen với tính đa dạng của đồ vật như phân biệt màu,các hình
  28. + Tri giác bằng tai phát triển, trẻ tri giác mối quan hệ giữa các âm thanh theo độ cao, cần giúp trẻ bằng các bài hát đơn giản, hấp dẫn và chỉ cho trẻ phân biệt những âm thanh có độ cao khác nhau phát ra từ những đội tượng quen thuộc b. Phát triển tư duy của tuổi nhà trẻ: Cuối tuổi hài nhi trẻ đã biết sử dụng mối liên hệ giữa các đối tượng để đạt mục đích như kéo rổ để lấy quả cam đựng trong đó. Đến tuổi nhà trẻ, trẻ đã biết xác lập các mối quan hệ chưa có sẵn giữa các đồ vật để giải quyết nhiệm vụ như lấy gậy khều quả bóng rơi vào gầm bàn . Người lớn cần đưa ra những mẫu hành động cho trẻ bắt chước, trẻ còn biết xác lập những mối liên hệ mới giữa các đối tượng nhờ việc thử thực tế với những hành động bằng tay, gọi là tư duy trực quan - hành động nhờ đó tâm lý bên trong như trí nhớ, tư duy, tưởng tượng hình thành. Cuối tuổi nhà trẻ bắt đầu xuất hiện hành động tư duy được thực hiện trong óc ( tư duy trực quan - hình tượng) như lấy vật trên cao trẻ có thể dự đoán là dùng que để khều. Trong sự hợp nhất trong óc những đồ vật ,hành động có những dấu hiệu bề ngoài giống nhau, việc lĩnh hội các từ giữ vai trò quan trọng vì ý nghĩa của từ mà người lớn dạy cho trẻ được dùng với ý nghĩa khái quát như từ đồng hồ chỉ các loại đồng hồ.Người lớn cần giúp trẻ nhận ra tên gọi chung cho nhiều đồ vật cùng công dụng .
  29. Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ gắn liền với hoạt động với đồ vật, quan trọng là việc thực hiện những hành động công cụ. III. XUẤT HIỆN TIỀN ĐỀ CỦA SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH: 1.Sự hình thành thế giới nội tâm: Trẻ lên 2 tuổi đã có thể hành động dưới ảnh hưởng của những ấn tượng trực tiếp bên ngoài và của những mô hình được giữ lại trong trí nhớ làm cho thế giới nội tâm được hình thành, hành vi của trẻ được cải tiến.Trí nhớ lúc này giúp trẻ tìm thấy vị trí của mình trong thế giới đồ vật và những người xung quanh,trẻ bắt đầu nhận ra mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại ,tương lai. Trẻ bắt đầu hình thành một cấu tạo tâm lý bên trong có tác dụng chi phối hành vi của nó tức là xuất hiện động cơ,trẻ hành động chưa có động cơ rõ ràng. Thế giới nội tâm qui định thái độ riêng của trẻ khi tiếp nhận tác động bên ngoài và tác động giáo dục của người lớn.Trẻ tiếp nhận tác động đó tuỳ theo tác động đó đáp ứng các nhu cầu, hứng thú đã hình thành ở trẻ từ trước.Về sau trẻ mới hình thành những đặc điểm tâm lý giúp trẻ phối hợp các loại động cơ với nhau, làm cho động cơ này phục tùng động cơ khác. Một đặc điểm nổi bật trong hành vi của trẻ là hành động bộc phát do ảnh hưởng của tình cảm và ý muốn nảy sinh từ hoàn cảnh trực tiếp vì thế hành vi của trẻ phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.Người lớn cần dỗ trẻ bằng cách đưa cho trẻ đồ chơi kích thích
  30. sự chú ý của trẻ. Trẻ đã thực hiện những hành động hướng tới những mục đích được chỉ ra bằng lời nói nhưng trẻ thường không làm đến nơi theo ý ban đầu ,thế giới nội tâm của trẻ tuy đã hình thành nhưng chưa ổn định. Tuổi hài nhi trẻ bắt đầu có tình yêu đối với những người gần gũi ,đến tuổi nhà trẻ tình yêu đó có thêm hình thái mới ,trẻ mong được khen ngợi và sợ khi người lớn tỏ ra không bằng lòng, trẻ bộc lộ thiện cảm bằng cách dỗ dành chia sẻ đồ chơi cho bạn. Lời khen của người lớn giúp hình thành tình cảm tự hào của trẻ nhờ đó trẻ luôn cố gắng làm việc tốt, trẻ còn xuất hiện tình cảm xấu hổ, cần giáo dục tốt giúp tình cảm trẻ phát triển mạnh thúc đẩy thực hiện hành động tốt. 2. Sự xuất hiện tự ý thức của tuổi nhà trẻ: Điểm quan trọng nhất trong sự phát triển của trẻ là lúc trẻ bắt đầu ý thức được mình , trẻ nhận ra cái “tôi”như khi xưng hô .Trẻ nhận ra tên gọi của mình là gắn liền với bản thân như một nhân cách.Trẻ đã có khả năng tự mình thực hiện những hành động với đồ vật ,có thói quen tự phục vụ trong trường hợp đơn giản ý thức này bộc lộ khi trẻ biết bắt đầu nói đến mình theo ngôi thứ nhất như “con” ,”cháu”, “em” Hoạt động của trẻ hướng tới thế giới bên ngoài và hướng tới bản thân mình ,bắt đầu tự nhận thức như trẻ muốn thực hiện các hành động với đồ vật và chú ý sự thay đổi mà trẻ tạo ra như tắt bật
  31. đèn, nhờ giao tiếp bằng ngôn ngữ quan hệ của trẻ càng được mở rộng giúp trẻ nhận ra mình là một chủ thể.Trẻ tự tìm hiểu cơ thể mình mang lại cho trẻ những tri thức và kinh nghiệm để hình thành sự tự ý thức. Trẻ biết tự nhận xét mình nghe theo lời của người lớn và sau đó tự liên hệ mình với các nhân vật trong truyện, cần khuyến khích trẻ làm theo yêu cầu của mình . Mong muốn được khen trở thành nhu cầu và cố gắng để đạt được nhờ đó trẻ có thể bỏ tính xấu học tính tốt , khả năng này còn hạn chế , người lớn cần kiên trì, nhắc nhở nhiều lần để trẻ làm xong phần việc được giao .Trẻ được giáo dục tốt luôn muốn trở thành bé ngoan dẫn đến sự phát triển lòng tự trọng làm cho hành vi của trẻ trở nên tốt đẹp.Trẻ còn muốn hiểu về bản thân trong quá khứ và mong muốn trong tương lai , cần dạy trẻ biết liên hệ hành vi đã có ,hiện có và sẽ có là phương hướng quan trọng giúp trẻ phát triển về mặt xã hội . 3. Nguyện vọng độc lập và khủng hoảng của tuổi lên 3: Khi trẻ “tách” mình khỏi người lớn và có ý thức về khả năng chính mình đồng thời xuất hiện thái độ mới với người lớn.Trẻ muốn giống và làm như người lớn, muốn độc lập tự chủ như trẻ hay nói: ”Con tự rửa tay ” Đây là dấu hiệu của sự trưởng thành nhưng lại xuất hiện tính bướng bỉnh do muốn làm theo ý mình, muốn dành mọi vật về mình. Người lớn cần tôn trọng tính độc lập của trẻ và biết cách hướng dẫn trẻ tự làm một số việc đơn giản thì trẻ vẫn biết vâng lời mà tính độc lập vẫn phát triển. Nếu được giáo dục đúng
  32. đắn ,người lớn kịp thời nhận thấy những khả năng mới của trẻ và thoả mãn nhu cầu muốn độc lập tự chủ, tạo ra những hình thức hoạt động mới, quan hệ mới với người lớn thì sự khủng hoảng sẽ được rút ngắn và vượt qua một cách nhẹ nhàng . Sự tách được bản thân mình ra khỏi người khác, sự tự nhận thức về mình, mong muốn độc lập tự chủ là một bước ngoặt trong sự phát triển tâm lý, tạo tiền đề cho sự hình thành nhân cách giai đoạn tiếp theo. B ài 5 : CÁC DẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TRẺ MẪU GIÁO I. HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI LÀ HOẠT ĐỘNG CHỦ ĐẠO: Vui chơi là hoạt động chủ đạo không chỉ vì trẻ mẫu giáo dành nhiều thời gian cho nó, mà chính là trò chơi mà tung tâm là trò chơi đóng vai theo chủ đề đã gây ra những biến đổi về chất trong tâm lý của trẻ. Nó chi phối các dạng hoạt động khác làm cho chúng mang màu sắc độc đáo của tuổi mẫu giáo. 1. Đặc điểm của hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo:
  33. a.Vui chơi là dạng hoạt động không mang tính bắt buộc , trẻ tham gia nhiệt tình do chính sức hấp dẫn của trò chơi . Ví dụ: Trò chơi ” khám bệnh ” hấp dẫn trẻ là việc bác sĩ đeo ống nghe vào tai, đặt ống nghe lên ngực người bệnh. Vậy động cơ của vui chơi nằm ngay trong quá trình hoạt động , nên trò chơi mang tính tự nguyện rất cao, mang lại niềm vui sướng cho trẻ .Đây là tính chất đặc biệt của vui chơi. b. Đối với trẻ, trò chơi là một dạng hoạt động mang tính tự lập. Trong khi chơi, trẻ mẫu giáo thể hiện rõ ý thức làm chủ, trẻ hoạt động hết mình, tích cực và độc lập. Trong hoạt động vui chơi, người lớn chỉ có thể gợi ý, hướng dẫn mà thôi. Tác dụng giáo dục của người lớn trong hoạt động vui chơi là ở chỗ người lớn biến những yêu cầu giáo dục thành nội dung của hoạt động vui chơi và hướng dẫn tổ chức cho trẻ vui chơi sao cho vừa thoả mãn những nhu cầu hứng thú của trẻ, mà lại đạt được những yêu cầu giáo dục. c. Trong trò chơi đóng vai theo chủ đề, đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các thành viên trong trò chơi với nhau. Trò chơi đối với trẻ mẫu giáo thường phản ánh một mặt nào đó của xã hội người lớn xung quanh, mà hoạt động của người lớn thì bao giờ cũng mang tính chất xã hội. Bởi vậy, để tiến hành một trò chơi nhằm mô phỏng lại đời sống xã hội thì nhất thiết phải có nhiều trẻ em tham gia. Tính hợp tác là một nét phát triển mới, một nét tiêu biểu trong vui chơi của trẻ mẫu giáo. d. Trò chơi của tuổi mẫu giáo mang tính chất ký hiệu – tượng trưng. Trong khi chơi, mỗi đứa trẻ đều tự nhận cho mình một vai
  34. nào đó và thực hiện hành động phù hợp với vai chơi, nhưng đấy chỉ là hành động giả vờ. Trong khi chơi, trẻ còn lấy vật này thay thế vật kia và tự đặt tên cho vật thay thế, rồi sử dụng vật thay thế đó cho phù hợp với tên gọi của nó. Tất cả những điều giả vờ trên lại mang một ý nghĩa rất thực, vì nó phản ánh một sự việc có thực đã xảy ra như vậy trong cuộc sống thực. Đó chính là sự ra đời của chức năng mới của ý thức: Chức năng ký hiệu – tượng trưng. 2. Cấu trúc của trò chơi đóng vai theo chủ đề: a. Chủ đề và nội dung trò chơi đóng vai theo chủ đề (ĐVTCĐ): Trò chơi ĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo có thể phản ánh cuộc sống xung quanh khá đa dạng với các mảng hiện thực hết sức phong phú. Các mảng hiện thực được phản ánh vào trong trò chơi được coi là chủ đề của trò chơi. Do đó, chủ đề của trò chơi cũng mang tính muôn màu muôn vẻ, phạm vi hiện thực mà trẻ tiếp xúc càng rộng bao nhiêu thì các chủ đề trò chơi thường phong phú bấy nhiêu. Cùng một chủ đề nhưng ở mỗi lứa tuổi trẻ lại tái tạo các mặt rất khác nhau của hiện thực cuộc sống. Bên cạnh chủ đề chơi còn phải chú ý thêm về mặt nội dung. Nội dung của trò chơi là những hoạt động của người lớn mà đứa trẻ nhận thức được và phản ánh vào trò chơi của mình. Đó là những hành động của người lớn với các đồ vật, những mối quan hệ giữa họ
  35. với nhau, những yếu tố đạo đức, thẩm mỹ Đối với nội dung trò chơi ta cần phải quan tâm xem xét khía cạnh tích cực hay tiêu cực của mảng hiện thực mà trẻ em tái tạo. Nếu không quan tâm thì trẻ có thể chơi những trò chơi tiêu cực như say rượu, nhảy tàu điện, bố mẹ cãi nhau b. Vai chơi và hành động chơi: Vai chơi là yếu tố quan trọng để tạo nên trò chơi. Đóng vai có nghĩa là tái tạo lại hành động của một người lớn với các đồ vật trong những mối quan hệ nhất định với những người xung quanh. Trong vai chơi trẻ nhận làm một chức năng xã hội của một người nào đó, thường là chức năng mang tính chất nghề nghiệp. Đóng vai là con đường giúp trẻ thâm nhập vào cuộc sống của người lớn xung quanh. Muốn trở thành một vai nào đó trong trò chơi, điều quan trọng là trẻ phải biết thực hiện hành động của vai đó. Những hành động này xuất phát từ hành động thực tế mà trẻ đã trông thấy trong cuộc đời thực hay nghe kể lại. Những thao tác của hành động lại phụ thuộc vào đồ chơi, như vậy hành động chơi và cả thao tác chơi đều phải phù hợp với điều kiện thực tế, cũng có nghĩa là để thực hiện vai chơi trẻ không hành động tuỳ tiện mà hành động chơi phải xuất phát từ vai chơi. Vai chơi trong trò chơi quy định hành động của trẻ đối với đồ vật và đối với bạn cùng chơi. Tuy nhiên đây chỉ là hành động mô phỏng, do đó nó không đòi hỏi phải có thao tác đúng kỹ thuật , mà chỉ cần phỏng theo hình thức của nó và mang tính khái quát.
  36. Chính tính khái quát và ước lệ của hành động chơi cho phép trẻ tiến hành trò chơi trong những điều kiện các đồ chơi khác nhau. c. Những mối quan hệ qua lại của trẻ trong trò chơi: + Những quan hệ chơi: Đó là những quan hệ qua lại của các vai trong trò chơi theo một chủ đề nhất định, mô phỏng mối quan hệ của người lớn trong xã hội. + Những quan hệ thực: Đó là những quan hệ qua lại giữa những trẻ là những người tham gia trò chơi, những người bạn cùng thực hiện một công việc chung. Trong trò chơi ĐVTCĐ, các quan hệ xã hội được bộc lộ ra rõ rệt. Việc thực hiện hành động của vai chơi là phải tạo ra các mối quan hệ với các vai khác nhau. Sức sống của trò chơi ĐVTCĐ là ở chỗ nó tạo ra được những mối quan hệ giữa các vai. Đó chính là bản chất của trò chơi ĐVTCĐ. d. Đồ chơi và hoàn cảnh chơi: Có hai loại đồ chơi: Loại thứ nhất là những đồ chơi do người lớn làm cho trẻ, mô phỏng theo những đồ vật thực ( con búp bê, cái thìa, ô tô ) Loại thứ hai là những vật thay thế cho đồ vật thật ( cái gối thay cho em bé, cái ghế thay cho toa tàu ) Dù là đồ chơi loại thứ nhất hay loại thứ hai đều không phải là đồ vật thực tương ứng với hành động của vai mà chỉ là vật thay thế nên khi trẻ thao tác với đồ vật thay thế thì những thao tác này không tương ứng với hành động thực, từ đó buộc trẻ phải tưởng tượng ra một hoàn cảnh chơi tương ứng. Như vậy hoạt động chơi
  37. của trẻ đã tạo ra kết quả là hoàn cảnh chơi tưởng tượng. Nghĩa là hoạt động chơi làm nảy sinh trí tưởng tượng chứ không phải trí tưởng tượng có trước khi chơi, mà đó là kết quả của hoạt động chơi. 3. Vai trò của trò chơi trong sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo: a. Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ định của quá trình tâm lý. Trong trò chơi, trẻ bắt đầu hình thành chú ý có chủ định và ghi nhớ có chủ định. Khi chơi trẻ tập trung chú ý tốt hơn và ghi nhớ được nhiều hơn. b. Tình huống trò chơi và những hành động của vai chơi ảnh hưởng thường xuyên tới sự phát triển của hoạt động trí tuệ của trẻ mẫu giáo. Trò chơi góp phần rất lớn vào việc chuyển tư duy từ bình diện bên ngoài ( tư duy trực quan – hành động ) vào bình diện bên trong ( tư duy trực quan – hình tượng). Trò chơi còn giúp cho trẻ tích luỹ biểu tượng làm cơ sở cho hoạt động tư duy, đồng thời cũng giúp cho trẻ lập kế hoạch hành động và tổ chức hành vi của bản thân mình. c. Vui chơi ảnh hưởng rất lớn đến đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo. Tình huống trò chơi đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia vào trò chơi phải có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Do đó để đáp ứng được những yêu cầu của việc cùng chơi, trẻ phải phát triển ngôn ngữ một cách mạch lạc. d. Trò chơi ĐVTCĐ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ mẫu giáo. Trong hoạt động vui chơi,
  38. đứa trẻ học thay thế đồ vật nài bằng các đồ vật khác, nhận đóng các vai khác nhau. Đó là cơ sở để phát triển trí tưởng tượng. Chính hoạt động vui chơi của trẻ đã làm nảy sinh hoàn cảnh chơi, tức làm nảy sinh trí tưởng tượng. e. Trò chơi ĐVTCĐ có tác động rất mạnh đến sự phát triển đời sống tình cảm trẻ mẫu giáo. Trẻ lao vào chơi với tất cả tinh thần say mê của nó. Trong khi vui chơi trẻ tỏ ra vui sướng và nhiệt tình. Khi phản ánh vào trò chơi những mối quan hệ giữa người và người và nhập vào những mối quan hệ đó thì những rung động mang tính người của trẻ được gợi lên. Trong trò chơi trẻ đã thể hiện được tình người, như thái độ chu đáo, ân cần, sự đồng cảm, tinh thần tương trợ và một số phẩm chất đạo đức khác. g. Những phẩm chất ý chí của trẻ mẫu giáo được hình thành mạnh mẽ qua trò chơi ĐVTCĐ. Khi tham gia trò chơi, trẻ buộc phải điều tiết hành vi của mình theo mối quan hệ giữa vai mình đóng với các vai khác, sao cho phù hợp với những quy tắc của trò chơi. Từ đó trẻ biết điều khiển hành vi của mình bằng ý chí, đặt ý riêng phục tùng mục đích chung của nhóm người. Qua trò chơi, trẻ còn được hình thành những phẩm chất ý chí như: tính mục đích, tính kỷ luật, tính dũng cảm Tóm lại: Hoạt động vui chơi, mà trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ ở tuổi mẫu giáo thực sự đóng vai trò chủ đạo. Ý nghĩa chủ đạo thể hiện trước hết là ở chỗ nó giúp tẻ giải quyết mâu thuẫn trong bước phát triển từ tuổi ấu nhi lên tuổi mẫu giáo. Trò chơi là phương tiện góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Trò chơi tạo ra những nét tâm lý đặc trưng cho tuổi mẫu giáo, mà nổi bật là tính hình
  39. tượng và tính dễ xúc cảm, khiến cho nhân cách của trẻ mẫu giáo mang tính độc đáo khó tìm thấy ở các lứa tuổi khác. Do đó tổ chức trò chơi chính là tổ chức cuộc sống của trẻ. Trò chơi là phương tiện để trẻ học làm người. II. SỰ NẢY SINH CÁC YẾU TỐ CỦA HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP, LAO ĐỘNG: 1. Sự nảy sinh các yếu tố của hoạt động học tập: Hoạt động học tập là dạng hoạt động chủ đạo của học sinh phổ thông, và chỉ đến tuổi học sinh phổ thông, dạng hoạt động này mới phát triển tới mức hoàn chỉnh, còn ở tuổi mẫu giáo, hoạt động học tập đang ở thời kỳ phôi thai. Ở tuổi mẫu giáo, hoạt động học tập chưa được hình thành đầy đủ. Nhưng trong nhiều hoạt động, đặc biệt là hoạt động vui chơi, ở trẻ mẫu giáo đã xuất hiện những yếu tố của hoạt động học tập. Trong cuộc sống hàng ngày trẻ đã tiếp thu được một lượng tri thức đáng kể về thế giới xung quanh do trẻ trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy và sờ thấy hoặc do người lớn kể lại Từ đó thế giới biểu tượng của trẻ cũng phong phú dần lên và làm nảy sinh tính ham hiểu biết, hứng thú nhận thức, muốn khám phá những điều mới lạ. Nhưng lòng ham hiểu biết của trẻ mẫu giáo vẫn chưa đủ để đảm bảo thái độ sẵn sàng học tập, tiếp thu tri thức một cách có hệ thống trong các môn học. Để hình thành những hứng thú bền vững
  40. và nảy sinh những kỹ năng trí tuệ chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông, người ta đã dạy trẻ trong các hình thức tổ chức đặc biệt gọi là “ tiết học”. Trong “tiết học” người ta dạy cho trẻ những tri thức, kỹ năng tương đối có hệ thống về các lĩnh vực của đời sống tự nhiên và xã hội xung quanh trẻ theo một chương trình nhất định. Đồng thời trong “tiết học” người ta bắt đầu đề ra cho trẻ những yêu cầu nhất định về mức độ và chất lượng lĩnh hội các tri thức, luyện tập cho trẻ những kỹ năng nghe và làm theo lời chỉ dẫn của cô giáo để thực hiện nhiệm vụ cụ thể do cô đề ra. Việc dạy học trong các tiết học có một ý nghĩa quan trọng đối với việc làm nảy sinh các yếu tố của hoạt động học tập ở trẻ mẫu giáo. Khác với “giờ học” ở trường phổ thông, “ tiết học” ở trường mẫu giáo được tổ chức linh hoạt hơn, mang tính tổng hợp hơn, trong đó trò chơi học tập giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Trong “ tiết học “, chủ yếu là thông qua các trò chơi học tập, niềm hứng thú đối với các lĩnh vực tự nhiên và xã hội có khả năng xuất hiện ở hầu hết trẻ mẫu giáo. Ở đây người ta đã dạy trẻ những tri thức mang tính hệ thống nhất định, trong đó những quan hệ chủ yếu của các hiện tượng vốn có ở mỗi lĩnh vực trong hiện thực được bộc lộ trước trẻ em. Cùng với trò chơi, “tiết học” còn giúp trẻ hình thành những kỹ năng ban đầu của học tập. Kỹ năng đó đòi hỏi trước hết phải hiểu ý nghĩa của nhiệm vụ học tập như là một nhiệm vụ cần phải thực hiện, từ đó biết phân biệt nhiệm vụ học tập với các nhiệm vụ khác trong đời sống thực tế.
  41. Việc tổ chức trò chơi có định hướng cùng với việc tổ chức các “tiết học” vừa sức và phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo, sẽ làm thúc đẩy những yếu tố của hoạt động học tập nảy sinh một cách thuận lợi, chuẩn bị tốt cho trẻ học tập ở trường phổ thông sau này. 2. Những hình thức sơ đẳng của hoạt động lao động: Hoạt động lao động là một loại hoạt động nhằm tạo ra những sản phẩm có ích cho xã hội, những giá trị vật chất và tinh thần cần thiết cho loài người. Đó chính là hình thức hoạt động cơ bản của người lớn, nó đòi hỏi những điều kiện thể lực và tâm lý cao. Những phẩm chất tâm lý của người lao động chưa thể có được ở tuổi mẫu giáo nhưng những tiền đề của chúng đang được hình thành ở lứa tuổi này. Việc hình thành những tiền đề cần thiết cho hoạt động lao động ở lứa tuổi mẫu giáo lại được diễn ra theo con đường đặc biệt, chủ yếu ở bên ngoài việc thực hiện nhiệm vụ lao động. Trẻ em làm quen bước đầu với hoạt động khi chúng quan sát người lớn làm việc hay thông qua kể chuyện, tranh vẽ Trong những cuộc chơi, trẻ tái tạo lại những hành động lao động và những mối quan hệ giữa những người lớn với nhau, qua đó mà thu nhận những biểu tượng cần thiết về lao động., về ý nghĩa xã hội và tính chất tập thể của nó. Thông qua trò chơi, ở trẻ cũng được hình thành những hình thức đầu tiên của sự phân công hợp tác của những
  42. người lao động. Trong những hình thức hoạt động có sản phẩm, trẻ mẫu giáo đã biết thực hiện những hành động nhằm tạo ra một kết quả nhất định Trong hoạt động đó ở trẻ hình thành nên những kỹ năng cần thiết. Việc thực hiện những nhiệm vụ học tập đơn giản cũng góp phần hình thành ở trẻ sự tự kiểm tra, tự đánh giá công việc của mình. Tất cả những điều đó là tiền đề cần thiết để hình thành nên hoạt động lao động.Tuy nhiên những tiền đề đó còn bị tản mạn trong nhiều hình thức hoạt động khác nhau. Để thống nhất lại, cần phải hình thành ở trẻ em những hình thức sơ đẳng của lao động, trước hết là hướng dẫn trẻ thực hiện những nhiệm vụ lao động đơn giản nhằm đạt được một kết quả cụ thể. Hướng dẫn trẻ em hợp tác với nhau trong nhiệm vụ lao động chung có một ý nghĩa quan trọng vì nó tạo ra ở đứa trẻ một ý thức hợp tác, tinh thần trách nhiệm và sự quan tâm đến công việc chung, và đó là những điều kiện cần thiết cho việc hình thành con người lao động kiểu mới sau này. Tuy nhiên, do đặc điểm phát triển về thể chất và tâm lý của trẻ mẫu giáo mà thường những nhiệm vụ lao động được tổ chức gắn liền với trò chơi. Hơn nữa, điều quan trọng không phải là làm sao cho những hành động lao động cho trẻ mẫu giáo thực sự mang lại kết quả cao, mà điều chủ yếu là làm sao để trẻ hiểu được thế nào là lao động. Cần tổ chức cho trẻ tham gia những hình thức lao động đơn giản, nhằm tạo cho sự xuất hiện những tiền đề của hoạt động lao động.
  43. Tóm lại: + Vui chơi, học tập và lao động là ba dạng hoạt động cơ bản của con người, trong đó thể hiện các trình độ phát triển theo bậc thang khác nhau của một đời người. Lúc đầu trẻ mới biết vui chơi, sau đó là học tập và cuối cùng là lao động. Hoạt động vui chơi đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo. + Bên cạnh hoạt động vui chơi, cần tổ chức cho trẻ tham gia vào những hoạt động khác như học tập và lao động phù hợp với các em. + Ngoài ra, có thể tổ chức cho trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm loài người về các lĩnh vực văn hoá – xã hội như: tạo hình, âm nhạc, thể dục – thể thao, văn học ngôn ngữ Tuy nhiên cũng cần phải tổ chức sao cho phù hợp với những đặc điểm phát triển của trẻ. Bài 6: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ TUỔI MẪU GIÁO BÉ I. SỰ THAY ĐỔI HOẠT ĐỘNG CHỦ ĐẠO Ở TUỔI MẪU GIÁO BÉ: Cuối tuổi ấu nhi, ở trẻ xuất hiện một mâu thuẫn đó là mâu thuẫn giữa một bên là tính độc lập đang phát triển mạnh và một bên là khả năng còn quá non yếu của trẻ. Tình trạng trẻ em luôn đòi hỏi
  44. “ Để con tự làm lấy” còn người lớn thì luôn “ Cấm không được làm” đã dẫn đến những mâu thuẫn giữa trẻ và người lớn. Để giải quyết mâu thuẫn này, trẻ phải tìm đến một hoạt động mới: Hoạt động vui chơi mà thực chất là trò chơi đóng vai theo chủ đề ( ĐVTCĐ ). Hoạt động với đồ vật nguyên là hoạt động chủ đạo của tuổi ấu nhi, nay lùi xuống hàng thứ hai, nhường chỗ cho hoạt động vui chơi nổi lên chiếm vị trí ưu thế và giữ vai trò chủ đạo để tạo ra một diễn biến cơ bản trong tâm lý của trẻ, tức là bắt đầu hình một nhân cách. Tuy nhiên vì mới chuyển sang vị trí hoạt động chủ đạo nên hoạt động vui chơi chưa thể đạt tới dạng chính thức mà chỉ mới ở dạng sơ khai của nó. Chính vì vậy mà hoạt động vui chơi cỡ độ tuổi này có những đặc điểm sau đây: Do vốn sống của trẻ còn quá ít ỏi nên việc mô phỏng lại đời sống xã hội của người lớn còn hạn chế. Những mảng cuộc sống được đưa vào trò chơi chưa nhiều, chưa rộng, chỉ mới quanh quẩn với những sự việc gần gũi đối với trẻ. Nét đặc trưng của trò chơi ĐVTCĐ là ở chỗ trẻ phải hoạt động cùng nhau để mô phỏng lại những mối quan hệ của người lớn trong xã hội. Nhưng ở tuổi mẫu giáo bé trẻ chưa quen phối hợp hoạt động với nhau, cho nên tuy hoạt động vui chơi được chuyển sang hoạt động chủ đạo nhưng vẫn còn bị hoạt động cũ, hoạt động với đồ vật chi phối. Tuy trẻ đã biết bắt chước một số hành động phối hợp với nhau trong sinh hoạt của người lớn, nhưng việc vui chơi đó vẫn còn mang tính chất của việc chơi một mình. Chỉ khi nào có thêm vài đứa trẻ khác cùng chơi, cùng phối hợp hành động thì
  45. lúc đó chúng mới phân vai cho nhau và nhập vai thực sự. Vai chơi chỉ xuất hiện từ những mối quan hệ, muốn có trò chơi ĐVTCĐ thì trước hết cần phải tạo ra những mối quan hệ giữa các thành viên trong khi chơi với nhau. Người lớn cần hướng dẫn trẻ quan sát cuộc sống xung quanh, cho trẻ tiếp xúc rộng dần với sinh hoạt xã hội và bày cho trẻ những hành động với đồ vật như người lớn vẫn làm và giao tiếp với xung quanh tuỳ theo cương vị và chức năng xã hội của mỗi người, tức là bày cho trẻ thiết lập những mối quan hệ xã hội. Ở tuổi mẫu giáo bé, trò chơi ĐVTCĐ vừa mới xuất hiện còn rất no yếu, nhưng nó vẫn tạo ra ở trẻ một cấu tạo tâm lý mới, một nhân cách hết sức đơn giản, nhưng đó lại chính là xu hướng phát triển cơ bản của trẻ. Do đó giáo viên cần tập trung mọi cố gắng để làm cho hoạt động vui chơi phát triển thật mạnh mẽ. II. SỰ PHÁT TRIỂN CHÚ Ý, NGÔN NGỮ CỦA TRẺ MẪU GIÁO BÉ: 1. Chú ý: Nhiều phẩm chất chú ý của trẻ ở độ tuổi này được hình thành và phát triển mạnh do sự tiếp xúc với nhiều dạng đồ vật, những loại âm thanh, màu sắc, độ di động khác nhau, kích thích phản xạ định hướng của trẻ.
  46. Những thay đổi cơ bản trong các phẩm chất chú ý của trẻ: a. Khối lượng chú ý: Khối lượng chú ý tăng đáng kể. Khối lượng chú ý không chỉ là số lượng đồ vật trong cùng một thời điểm trẻ tri giác được nhiều, mà ngay một vật trẻ chú ý được nhiều thuộc tính, tính chất hơn. Khối lượng chú ý của trẻ cũng tăng lên dưới tác động của ngôn ngữ. b. Tính bền vững của chú ý: Tính bền vững của chú ý tăng đáng kể. Theo số liệu nghiên cứu thì trẻ 3 – 4 tuổi chú ý được 27 phút so với trẻ 1 tuổi là 14,5 phút. c. Tính chủ định của chú ý phát triển mạnh. 2. Ngôn ngữ: Số lượng từ ngữ trong giai đoạn 3 – 4 tuổi khoảng từ 800 – 1926 từ ( nghiên cứu của E.Arkin). Những đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ trong giai đoạn này là: + Ngôn ngữ của trẻ được xây dựng từ câu ngắn đến câu có nhiều âm tiết. + Ngôn ngữ của trẻ thể hiện giọng điệu rõ nét. + Ngôn ngữ của trẻ thường kèm theo các hình thức hoạt động tư duy khác nhau, kích thích hành động. + Thường nhắc đi nhắc lại một từ trong câu trọn vẹn. Ngôn ngữ mang màu sắc cảm xúc rõ nét. Ngôn ngữ của trẻ có ưu thế rõ nét thể hiện hứng thú cá nhân, hoạt động cá nhân của trẻ.
  47. III. SỰ PHÁT TRIỂN QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA TRẺ MẪU GIÁO BÉ: 1. Tri giác: + Ở độ tuổi này đã làm chủ được tri giác của mình, dưới sự hướng dẫn bằng lời của người lớn trẻ đã biết quan sát nhất là những đồ vật quen thuộc. Trẻ tự tổ chức được quá trình tri giác của mình. + Trong quan sát trẻ rất tò mò, ham hiểu biết, hay đặt câu hỏi + Tính đúng đắn trong việc phân biệt màu sắc, kích thước cao hơn. + Tri giác của trẻ còn mang tính tự kỷ. + Sự phát triển tri giác thể hiện ở tính đúng đắn về khối lượng vật thể mà trẻ gọi tên và tri giác được; ở tính ý nghĩa và sự tổ chức lại các phương thức tri giác do vốn kinh nghiệm của trẻ tăng lên. 2. Trí nhớ: + Trẻ không chỉ ghi nhớ những dấu hiệu bên ngoài mà trẻ đi dần vào thuộc tính khuất trong trường tri giác. + Giữ gìn thông tin: Ở độ tuổi này, trẻ giữ gìn được thông tin gây ấn tượng mạnh cho trẻ trong thời gian vài tháng, thậm chí cả đời người.
  48. Quá trình giữ gìn thông tin mang tính chất trực quan hình ảnh, nếu sự kiện, đồ vật cần nhớ gắn với cảm xúc thì trẻ nhớ được lâu, trẻ bắt đầu nhớ được ý nghĩa đơn giản của đồ vật, sự kiện. Việc giữ gìn những âm thanh, ký hiệu bắt đầu phát triển mạnh. + Nhận lại và nhớ lại: Trẻ dễ nhận lại, nhớ lại các thao tác, hành vi, ngôn ngữ. Trẻ nhớ nhanh, đúng những sự kiện, đồ vật gắn với cảm xúc, hành động. Để giúp trẻ nhớ tốt cần: + Thiết lập mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng mới với với những sự kiện, thông tin đã có trong kinh nghiệm trẻ. + Cần để trẻ nhớ cái gì, hãy nhắc đi nhắc lại những cảm xúc tích cực và gắn với sự tham gia tích cực bằng hành động của chính bản thân trẻ. +Cần hướng dẫn trẻ phát triển các loại trí nhớ hình ảnh, trí nhớ vận động, trí nhớ cảm xúc, tập cho trẻ nhớ có chủ định 3. Tư duy: X.Vưgôtxki cho rằng sự hình thành tư duy chủ yếu thuộc về sự lĩnh hội ngôn ngữ, tên gọi, chức năng các đồ vật, sự kiện, hiện tượng xung quanh trẻ. + Ngôn ngữ là ký hiệu tượng trưng về các sự vật, hiện tượng do vậy chúng mang tính khái quát. Theo A.V. Daporozet thì khi trẻ nắm được trung bình 1600 từ thì hàng loạt đặc trưng của tư duy xuất hiện: thao tác so sánh, thao tác phân tích, thao tác tổng hợp.
  49. + Tư duy của trẻ phát triển đi từ khái quát trên cơ sở những dấu hiệu bên ngoài của đồ vật đến khái quát những dấu hiệu bản chất của đồ vật, hiện tượng cụ thể. + Ở trẻ đã xuất hiện một số dạng phán đoán, suy lý đơn giản gắn liền với các sự kiện, hiện tượng mà trẻ tri giác được gắn với hoàn cảnh cụ thể. + Tư duy của trẻ mang tính chất cụ thể, hình ảnh, cảm xúc. + Ở giai đoạn này tư duy của trẻ chủ yếu là tư duy hành động - trực quan, đồng thời phát triển tư duy hình ảnh - trực quan, mầm móng tư duy từ ngữ – lôgic xuất hiện. 4. Tưởng tượng: + Đến lứa tuổi này tưởng tượng của trẻ phát triển mạnh cả về dạng loại và các mức độ phong phú của hình ảnh tưởng tượng. Hình ảnh tưởng tượng thường gắn với biểu tượng trong hoàn cảnh cụ thể giới hạn bởi kinh nghiệm tích luỹ được ở lứa tuổi này. + Trẻ bắt đầu xuất hiện tưởng tượng có chủ định và tưởng tượng sáng tạo. + Ngôn ngữ có ý nghĩa rất lớn kích thích tưởng tượng của trẻ phát triển. IV. SỰ PHÁT TRIỂN CẢM XÚC, TÌNH CẢM, Ý CHÍ CỦA TRẺ MẪU GIÁO BÉ:
  50. 1. Sự phát triển cảm xúc: + Theo kết quả của một số nhà nghiên cứu thì trẻ ở độ tuổi 3 – 4 xúc cảm phát triển rất mạnh. + Ở giai đoạn này trẻ đã phát triển tất cả các sắc thái xúc cảm, trẻ phản ứng với những người xung quanh, các sự kiện vui, buồn, hờn giận đặc biệt trẻ phản ứng xúc cảm qua lời nói, sự vận động và điệu bộ, hành vi của trẻ. 2. Sự phát triển tình cảm: + Tình cảm trí tuệ của trẻ bắt đầu xuất hiện. Qua câu chuyện kể, trẻ thích thú lắng nghe và kể lại nội dung một cách hứng thú, xúc động thật sự đối với các nhân vật yếu ớt, tự hào, thích thú noi gương các nhân vật anh hùng. Nhiều đối tượng mới lạ đều gây sự tò mò ham hiểu biết đối với trẻ. Trẻ biết kể chuyện khi đến thăm vườn bách thú, bắt chước những hành vi của các con vật một cách say sưa. + Tình cảm đạo đức ở trẻ thể hiện khá rõ, khi mẹ ốm, trẻ biết lo lắng, giúp mẹ lấy nước biết phân biệt hành vi tốt của mình và trẻ khác. + Tình cảm thẩm mỹ được phát triển mạnh qua các giờ dạy vẽ, nặn, xé, dán ở các lớp mẫu giáo. Trẻ biết khen đẹp, chê xấu + Tình cảm thực tiễn: trẻ hoạt động tích cực với đồ vật, với các quan hệ người, ở hành động thực tiễn này khi thành công, thất bại trẻ đều bộc lộ thái độ xúc cảm rất rõ ràng.
  51. 3. Sự phát triển ý chí: + Dấu hiệu ý chí xuất hiện đầu tiên từ khi trẻ 18 tháng tuổi nhưng sau thời kỳ khủng hoảng tuổi lên 3, trẻ tự khẳng định được mình trong nhóm bạn bè. Ý thức về “cái tôi” được hình thành thì ý chí hình thành và phát triển nhanh. + Một số phẩm chất ý chí được biểu hiện trong hành động với đồ vật, hành vi ứng xử với những người xung quanh: Tính mục đích, tính độc lập, tính kiên trì. + Tuy nhiên trẻ 3 – 4 tuổi mục đích vui chơi, giao tiếp và động cơ hành vi còn trùng nhau, trẻ chưa nhận thức rõ ràng. Cần tiếp tục xây dựng ý chí cho trẻ qua các hoạt động vui chơi, các tiết học V. SỰ XUẤT HIỆN ĐỘNG CƠ HÀNH VI: Trong suốt thời kỳ mẫu giáo, ở trẻ em diễn ra những biến đổi căn bản trong hành vi, chuyển từ hành vi bộc phát sang hành vi mang tính xã hội. Đó cũng chính là quá trình hình thành động cơ của hành vi. Tuy nhiên, ở lứa tuổi mẫu giáo bé thì bước chuyển này cũng ở vào thời điểm khởi đầu. Phần nhiều hành động của trẻ mẫu giáo bé còn giống với trẻ ấu nhi. Thông thường trẻ không hiểu được tại sao mình hành động như thế này hoặc như thế kia. Trẻ hành động thường do những nguyên nhân trực tiếp, như theo ý muốn chủ quan của mình hoặc do tình
  52. huống ở thời điểm đó thúc giục mà không ý thức được nguyên cớ nào khiến mình hành động như vậy. Dần dần trong hành vi của trẻ có một sự biến đổi quan trọng, đó là sự nảy sinh động cơ Lúc đầu động cơ còn đơn giản và mờ nhạt. Khi hành động, trẻ bị kích thích bởi những động cơ sau đây: + Những động cơ gắn liền với ý thích muốn được như người lớn. Nguyện vọng này biến thành động cơ, dẫn trẻ tới việc sắm vai trong những trò chơi ĐVTCĐ. + Những động cơ gắn liền với quá trình chơi có tác động khá mạnh mẽ thúc đẩy hành vi của trẻ. Trẻ ham chơi không phải là do kết quả của trò chơi mang lại, mà chính quá trình chơi làm cho trẻ thích thú. Có thể nói rằng hành động của trẻ được thúc đẩy bằng động cơ vui chơi. Động cơ này làm toàn bộ hành vi của đứa trẻ mang một sắc thái riêng biệt và đó cũng là một nét độc đáo của tuổi mẫu giáo. + Những động cơ nhằm làm cho người lớn vui lòng và yêu mến cũng bắt đầu xuất hiện và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy trẻ thực hiện những hành động tích cực. Vào cuối tuổi mẫu giáo bé, một loại động cơ của hành vi mang tính đạo đức xã hội được hình thành, thể hiện ở sự quan tâm của trẻ đối với những người xung quanh, đối với bạn bè.Trong điều kiện có sự giáo dục đúng đắn thì loại động cơ này sẽ được phát triển mạnh ở các giai đoạn sau. Đó là cốt lõi trong nền tảng đạo đức của nhân cách con người mới trong tương lai. VI. SỰ HÌNH THÀNH Ý THỨC VỀ BẢN THÂN:
  53. Ý thức về bản thân được chớm nảy sinh từ cuối tuổi ấu nhi khi trẻ biết tách mình ra khỏi mọi người xung quanh để nhận ra chính mình, biết mình có một sức mạnh và một thẩm quyền nào đó trong cuộc sống. Nhưng ý thức về bản thân của trẻ cuối tuổi ấu nhi còn mờ nhạt. Cùng với năm tháng qua đi, việc tiếp xúc của trẻ với thế giới bên ngoài được mở rộng dần ra. Trẻ biết được nhiều điều lý thú trong thiên nhiên, trẻ bắt đầu tìm hiểu thế giới của chính con người và dần dần khám phá ra được rằng xung quanh có nhiều mối quan hệ chằng chịt giữa người và người. Trẻ mẫu giáo rất muốn phát hiện ra những mối quan hệ ấy, nhập vào đó để học làm người lớn. Trò chơi ĐVTCĐ là một dạng hoạt động đặc biệt giúp trẻ một cách có hiệu quả nhất để thực hiện được điều đó. Khi nhập vào những mối quan hệ trong trò chơi, điều quan trọng là trẻ phát hiện ra mình trong nhóm bạn bè cùng chơi, có dịp đối chiếu, so sánh những bạn cùng chơi với bản thân mình. Trẻ thấy được vị trí của mình trong nhóm chơi, khả năng của mình so với bạn ra sao, cần phải điều chỉnh hành vi như thế nào để phục vụ mục đích chơi chung. Tất cả những điều đó dần dần sẽ giúp trẻ nhận ra được mình. Độ tuổi mẫu giáo bé là điểm khởi đầu của sự hình thành ý thức bản ngã, nên trong ý thức đó còn mang những đặc điểm sau đây: + Trẻ chưa phân biệt thật rõ đâu là ý muốn, ý đồ chủ quan của mình và đâu là tính chất khách quan của sự vật. Chính vì vậy thường xảy ra tình trạng là trẻ đòi làm những việc rất vô lí.
  54. + Trẻ còn chưa nhận rõ đâu là ý muốn, nhu cầu chủ quan của mình với những quy định, những luật lệ, những quy tắc trong xã hội, do đó nhiều em thường có những đòi hỏi vô lí mà người lớn không thể đáp ứng được. Trò chơi ĐVTCĐ giữ vai trò tích cực trong quá trình hình thành sự tự ý thức của trẻ mẫu giáo bé, nên cần phải quan tâm đặc biệt đến sự tổ chức trò chơi này. Bài 7: ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ TUỔI MẪU GIÁO NHỠ I. HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI VÀ SỰ HÌNH THÀNH XÃ HỘI TRẺ EM: Ở lứa tuổi mẫu giáo bé, hoạt động vui chơi của trẻ đã phát triển mạnh. Nhưng chỉ ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ, hoạt động vui chơi mới mang đầy đủ ý nghĩa của nó nhất. Có thể nói rằng hoạt động vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn phát triển tới mức hoàn thiện, được thể hiện ở những đặc điểm sau đây: 1. Trong hoạt động vui chơi, trẻ thể hiện rõ rệt tính tự
  55. lực, tự do và chủ động. Tính tự lực, tự do của trẻ biểu hiện ở các điểm sau đây: Trong việc lựa chọn chủ đề và nội dung chơi: Do có ít nhiều vốn sống nhờ tiếp xúc hằng ngày với thế giới đồ vật, giao tiếp rộng rãi với những người xung quanh tạo điều kiện cho trẻ tự do lựa chọn chủ đề chơi và phản ánh vào vai chơi những mảng hiện thực mà mình quan tâm. Trong việc lựa chọn bạn cùng chơi: Vào cuối tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn, cá tính của trẻ đã bắt đầu bộc lộ rõ rệt, mỗi em có mỗi tính, mỗi nết. Do đó trẻ cần phải lựa chọn bạn “ tâm đầu ý hợp” với mình. Trong việc tự do tham gia vào trò chơi nào mà mình thích và tự do rút ra khỏi những trò chơi mà mình đã chán: Khi tự nguyện tham gia vào các cuộc chơi thì trẻ chơi một cách say sưa, chơi hết mình, nhưng khi đã chán thì cũng sẽ bỏ cuộc một cách nhẹ nhàng. 2. Trong hoạt động vui chơi, trẻ đã biết thiết lập những quan hệ rộng rãi và phong phú với các bạn cùng chơi: Một xã hội trẻ em được hình thành. Hoạt động vui chơi, mà đặc biệt là trò chơi ĐVTCĐ là loại hoạt động cùng nhau đầu tiên của trẻ em. Không có sự phối hợp với nhau giữa các thành viên thì không thành trò chơi. Ở lứa tuổi này, việc chơi của các em tương đối thành thạo và chơi với nhau trong nhóm bạn đã trở thành một nhu cầu cấp bách. Đã chơi thì phải có
  56. vai nọ vai kia mới thú vị. Một trò chơi của trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn thường có nhiều vai hơn của trẻ mẫu giáo bé mặc dù có thể cùng một chủ đề. Như vậy các quan hệ trong trò chơi của trẻ đã được mở rộng hơn nhiều so với trẻ mẫu giáo bé. Vào cuối tuổi mẫu giáo, trẻ còn biết liên kết các trò chơi theo các chủ đề khác nhau, làm cho các mối quan hệ trở nên phong phú hơn. Quan hệ của trẻ ngày càng được đa dạng hơn chẳng khác nào một xã hội người lớn thu nhỏ lại. Ở tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn việc chơi trong nhóm bạn bè là một nhu cầu bức bách. Đặc biệt là nhu cầu giao tiếp với bạn bè đang phát triển rất mạnh. Từ đó những “ xã hội trẻ em “ thực sự được hình thành. “Xã hội trẻ em “ này còn khác xa so với xã hội người lớn. Hợp rồi tan, tan rồi hợp, thực và chơi, chơi và thực. Đó chính là nét độc đáo của cái xã hội ấy. Nhưng chính những mối quan hệ xã hội đầu tiên trong nhóm bạn bè này lại có một ý nghĩa lớn lao đối với cả đời người sau này. Cấu trúc của cái “ xã hội trẻ em “ cũng rất phức tạp. Trong cái xã hội ấy mỗi đứa trẻ có một vị trí nhất định. Vị trí đó được thể hiện ở chỗ bạn bè trong nhóm đối xử với các em như thế nào. Vị trí trong nhóm bạn cùng tuổi ảnh hưởng một cách sâu sắc đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Vào cuối tuổi mẫu giáo, đã bắt đầu xuất hiện vai trò “thủ lĩnh”. Đó là đứa trẻ được các bạn tôn sùng và vị nể nhất. Hiện tượng thủ lĩnh xuất hiện trong nhóm bạn là điều làm cho người lớn phải đặc biệt quan tâm, không nên để tình trạng chỉ có một em luôn luôn làm thủ lĩnh còn những đứa trẻ khác chỉ biết phục tùng.
  57. “Xã hội trẻ em” cũng dần dần hình thành những dư luận chung. Dư luận chung thường được bắt nguồn từ những nhận xét của người lớn đối với trẻ em, cũng có thể do trẻ em nhận xét lẫn nhau.Dư luận chung ảnh hưởng khá lớn đối với sự lĩnh hội những chuẩn mực hành vi đạo đức của trẻ trong nhóm và qua đó ảnh hưởng đến nhân cách của từng đứa trẻ. Nhóm trẻ cùng chơi là một trong những cơ sở xã hội đầu tiên của trẻ em, do đó người lớn cần tổ chức tốt hoạt động của nhóm trẻ ở lớp mẫu giáo cũng như ở gia đình, khu tập thể, xóm dân cư để tạo môi trường lành mạnh có tác dụng giáo dục tích cực đối với trẻ. II. SỰ PHÁT TRIỂN CHÚ Ý, NGÔN NGỮ: 1 . Sự phát triển chú ý: Cả hai dạng chú ý có chủ định và không có chủ định đều phát triển mạnh ở trẻ 4 – 5 tuổi. Nhiều phẩm chất chú ý có chủ định phát triển nhanh do sự phát triển của ngôn ngữ và tư duy. Sức tập trung chú ý của trẻ cao, trẻ có thể vẽ, nặn một thời gian dài. Với các hoạt động tạo hình làm tăng khối lượng chú ý của trẻ. Sức bền vững của chú ý cao ( chú ý tới 37 phút với những đồ vật thích thú – theo A.V Daporozet ). Những công việc mà cha mẹ, cô giáo giao cho trẻ chính là điều kiện tốt để trẻ phát triển chú ý có chủ định. Việc giáo dục chú ý có chủ định phụ thuộc vào việc tổ chức
  58. nhiệm vụ hoạt động cho trẻ. Ví dụ giao việc mà trẻ thích sẽ làm tăng năng lực chú ý có chủ định, cho trẻ tập tìm, quan sát các chi tiết các đồ vật, tranh vẽ để rèn luyện chú ý cho trẻ về tính mục đích, tính hệ thống Mặc dù chú ý có chủ định phát triển mạnh, nhưng nhìn toàn bộ lứa tuổi thì tính ổn định chưa cao, do vậy khi giao việc cần giải thích rõ ràng, nhắc lại khi cần thiết. 2. Sự phát triển ngôn ngữ: Ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hoàn cảnh, tình huống nghĩa là ngôn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện tượng đang xảy ra trước mắt trẻ. Cuối 4 tuổi, ngôn ngữ của trẻ đã bắt đầu biết nối kết giữa tình huống hiện tại với quá khứ thành một “văn cảnh”. Vốn từ của trẻ tăng lên không chỉ số lượng từ mà điều quan trọng là lĩnh hội được các cấu trúc ngữ pháp đơn giản. Đã hình thành những cảm xúc ngôn ngữ qua giọng nói, ngữ điệu, âm tiết Tuy nhiên dưới tác động của cảm xúc trẻ có thể nghe nhầm, phát âm nhầm. Dưới sự hướng dẫn của cô giáo, đặc biệt trong hoạt động vui chơi, tạo hình, các tiết kể chuyện, tham quan, âm nhạc, thể dục và các nhiệm vụ do người lớn giao cho trẻ, xác định trách nhiệm của trẻ một cách đơn giản, trẻ lĩnh hội được nhiều từ mới và ý nghĩa sử dụng của chúng, là tiền đề quan trọng giúp trẻ hoạt động sau này.
  59. III. SỰ PHÁT TRIỂN QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC: 1. Tri giác: Do tiếp xúc với nhiều đồ vật, hiện tượng, con người độ nhạy cảm phân biệt các dấu hiệu thuộc tính bên ngoài của chúng ngày càng chính xác và đầy đủ. Một số quan hệ không gian và thời gian được trẻ trẻ tri giác hơn trong tầm nhìn, nghe của trẻ. Khả năng quan sát của trẻ được phát triển không chỉ số lượng đồ vật mà cả các chi tiết, dấu hiệu thuộc tính, màu sắc Bắt đầu xuất hiện khả năng kiểm tra độ chính xác của tri giác bằng cách hành động thao tác lắp ráp, vặn mở phù hợp với nhiệm vụ yêu cầu. Các loại tri giác nhìn, nghe, sờ mó phát triển ở độ tinh nhạy. Việc tổ chức tri giác, hướng dẫn quan sát, nhận xét của cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển tính mục đích, kế hoạch 2. Trí nhớ: Trẻ đã biết sử dụng cơ chế liên tưởng trong trí nhớ để nhận lại và nhớ lại các sự vật và hiện tượng.
  60. Trí nhớ có ý nghĩa đã thể hiện rõ nét khi gọi tên đồ vật, hoa quả, thức ăn Đồng thời với trí nhớ hình ảnh về đồ vật thì âm thanh ngôn ngữ được trẻ tri giác, hiểu và sử dụng chúng như một phương tiện giao tiếp ới những người xung quanh tuy ở mức độ đơn giản. Trí nhớ không chủ định của trẻ ở các dạng hoạt động phát triển khác nhau và tốc độ phát triển rất nhanh. Ở độ tuổi này, các loại trí nhớ: hình ảnh, vận động, từ ngữ đều được phát triển tuy ở mức độ khác nhau nhưng đều được hình thành và tham gia tích cực trong các hoạt động vui chơi, lao động, tạo hình ở trẻ. 3. Tư duy: Ở trẻ 4 – 5 tuổi các loại tư duy đều được phát triển nhưng mức độ khác nhau. Tư duy trực quan hành động vẫn tiếp tục phát triển, nhưng chất lượng khác với trẻ 3 – 4 tuổi ở chỗ trẻ bắt đầu biết suy nghĩ xem xét nhiệm vụ hoạt động, phương pháp và phương tiện giải quyết nhiệm vụ tư duy. Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh mẽ và chiếm ưu thế. Nhờ có sự phát triển ngôn ngữ, trẻ ở lứa tuổi này đã xuất hiện loại tư duy trừu tượng. Một số đặc điểm trong tư duy ở trẻ 4 – 5 tuổi: Mức độ khái quát ngẫu nhiên giảm dần từ 4 đến 5 tuổi trong
  61. hoạt động tư duy của trẻ. Mức độ tích cực huy động vốn kinh nghiệm ( liên tưởng ) của trẻ tăng lên từ 4 – 5 tuổi . Sự khái quát các dấu hiệu chung giảm dần từ 4 – 5 tuổi, nhường chỗ cho các chi tiết đặc thù của các sự vật hiện tượng. Cô giáo cần tổ chức các tiết học vui chơi kích thích sự phát triển tư duy ở trẻ, kích thích trẻ tìm tòi các dấu hiệu giống nhau, khác nhau, so sánh các đồ vật, tranh ảnh, hoa quả, đồ chơi. 3. Tưởng tượng: Nhờ có sự phát triển các hoạt động tạo hình mà khả năng tưởng tượng của trẻ được nâng lên. Tranh vẽ của trẻ vừa gần với hiện thực vừa mang tính chủ quan cảm xúc rõ nét. Độ phong phú của các hình ảnh tưởng tượng cao nhờ có sự nhận thức được màu sắc trong thiên nhiên và qua các tiết nghệ thuật tạo hình. Trẻ có thể xé dán các mẫu hình, truyện cổ tích, biết bố cục những chủ đề gần gũi thân quen đối với trẻ nếu được thầy cô giáo, cha mẹ hướng dẫn chu đáo. Việc hướng dẫn tổ chức các tiết học tạo hình, vẽ, nặn, cho trẻ tham quan các di tích, danh lam thắng cảnh rất cần thiết cho sự tưởng tượng.
  62. IV. SỰ PHÁT TRIỂN XÚC CẢM, TÌNH CẢM, Ý CHÍ: 1. Đời sống xúc cảm và tình cảm: Các loại tình cảm bậc cao của trẻ phát triển ngày càng rõ nét hơn so với mẫu giáo bé. Tình cảm đạo đức ngày càng được phát triển do lĩnh hội được các chuẩn mực hành vi, quy tắc ứng xử. Trẻ bối rối, cảm thấy có lỗi khi hành vi phạm sai lầm. Trẻ biết đòi người lớn đánh giá đúng mức hành vi đúng, sai, tốt, xấu của mình. Tình cảm trí tuệ cũng phát triển theo hướng tìm hiểu các nguyên nhân, cội nguồn các hiện tượng tự nhiên và xã hội, cuộc sống xung quanh trẻ. Tình cảm thẩm mỹ: Tổng hợp nhiều xúc cảm cùng loại khi rung cảm trước vẽ đẹp của thiên nhiên, con người, cỏ cây, hoa lá tình cảm thẩm mỹ xuất hiện ở trẻ. Nhìn chung xúc cảm và tình cảm của trẻ phong phú nhưng có những đặc điểm sau đây: Dễ dao động, dễ thay đổi, dễ khóc, dễ cười. Xúc cảm chi phối mạnh vào các hoạt động tâm lý, vì vậy hiện thực đối với trẻ bao giờ cũng mang màu sắc cảm xúc mạnh mẽ, thích cái gì thì đòi bằng được cái đó, không thích thì vứt đi
  63. 2. Ý chí: Tính mục đích phát triển từ tuổi lên 2 khi trẻ đã làm chủ được một số hành vi của mình. Từng bước một, trẻ 4 tuổi có thể điều khiển được quá trình ghi nhớ và nhớ lại một “tài liệu” nào đó do người lớn giao cho, ghi nhớ một bài thơ ngắn trẻ thích. Do hiểu được nhiều hành vi ngôn ngữ và biết sử dụng những hành vi ngôn ngữ, trẻ có thể bước đầu vận dụng để lập kế hoạch hành động và chỉ đạo hành động, trẻ thường nói to khi hành động. Việc phát triển, bộc lộ ý chí của trẻ mẫu giáo nhỡ phụ thuộc vào các nhiệm vụ mà người lớn giao cho trẻ ( nhiệm vụ phải vừa sức với trẻ). Để giáo dục ý chí cho trẻ, cần phải giáo dục động cơ cho trẻ. Thường ở lứa tuổi này mục đích và động cơ trùng nhau, chưa tách ra được. V. SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘNG CƠ VÀ SỰ HÌNH THÀNH HỆ THỐNG ĐỘNG CƠ: Cuối tuổi mẫu giáo bé, trong hành vi của trẻ đã xuất hiện những loại động cơ khác nhau, nhưng những động cơ ấy còn mờ nhạt, yế ớt, tản mạn. Đến cuối tuổi mẫu giáo nhỡ, các động cơ đã xuất hiện ở tuổi mẫu giáo bé được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt đến cuối tuổi mẫu
  64. giáo nhỡ và lớn thì những động cơ đạo đức thể hiện thái độ của trẻ đối với những người khác có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển các động cơ hành vi. Từ tuổi mẫu giáo nhỡ, những động cơ “ vì xã hội” bắt đầu chiếm vị trí ngày càng lớn trong số các động cơ đạo đức. Trong thời kỳ này, trẻ đã hiểu rằng những hành vi của chúng có thể mang lại lợi ích cho những người khác và chúng bắt đầu thực hiện những công việc vì người khác theo sáng kiến của riêng mình. Động cơ hành vi của trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn trở nên nhiều màu nhiều vẻ: động cơ muốn tự khẳng định mình, động cơ muốn nhận thức, muốn khám phá thế giới xung quanh, động cơ thi đua, động cơ xã hội Cần phải quan tâm đến nội dung động cơ của trẻ, cần phải phát huy động cơ tích cực và ngăn chặn động cơ tiêu cực. Ở lứa tuổi này đã bắt đầu hình thành quan hệ phụ thuộc theo thứ bậc của các động cơ, được gọi là hệ thống thứ bậc các động cơ. Đó là một cấu tạo tâm lý mới trong sự phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo. Trong hệ thống thứ bậc này, các động cơ được sắp xếp theo ý nghĩa quan trọng của mỗi động cơ đối với bản thân đứa trẻ. Trước một công việc, mỗi trẻ em đều có thể có một hệ thống thứ bậc các động cơ thúc đẩy. Sự khác nhau giữa trẻ em ở đây rõ nhất là trong hệ thống thứ bậc của động cơ, xem động cơ nào chiếm ưu thế nhất. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự giáo dục của người lớn và ảnh hưởng của cuộc sống bên ngoài mà trẻ tiếp xúc. Hệ thống thứ bậc các động cơ được hình thành ở tuổi này khiến cho toàn bộ hành vi của trẻ nhằm theo một xu hướng nhất
  65. định. Đây là điểm khác với hành vi của trẻ mẫu giáo bé. Ở trẻ mẫu giáo nhỡ trở đi, hành vi của chúng tương đối dễ xác định. Nếu động cơ vì xã hội chiếm ưu thế thì trẻ sẽ thực hiện những hành vi mang tính đạo đức tốt đẹp. Ngược lại nếu động cơ nhằm thoả mãn quyền lợi riêng chiếm ưu thế thì trong nhiều trường hợp trẻ sẽ hành động nhằm tìm kiếm những quyền lợi cá nhân ích kỷ, dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng về quy tắc đạo đức xã hội. Đối với những đứa trẻ này cần áp dụng những biện pháp giáo dục thích hợp, có hiệu quả nhằm thay đổi những cơ sở của nhân cách đã được hình thành một cách bất lợi này, trước hết phải cảm hoá trẻ bằng tình yêu thương, đồng thời lại đòi hỏi ở chúng sự yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh, tạo ra những tình huống để gợi lên ở trẻ những hành vi đạo đức tốt đẹp. Bài 8 : ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ TUỔI MẪU GIÁO LỚN I. HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN: Học tập ở mẫu giáo lớn vẫn là “ Học mà chơi, chơi mà học”. Học theo nghĩa là chơi theo một trình tự hành động gần giống như học, bởi lẽ việc thiết kế “ Học mà chơi” thể hiện: Nội dung học vừa nhẹ nhàng, vừa hấp dẫn trẻ, đối tượng của
  66. “tiết học “ là những kiến thức rất cụ thể, trực quan sinh động. Các trình tự học tập diễn ra giống với tiết học, nhưng không nghiêm ngặt, căng thẳng như tiết học. Nhưng tiết học vẫn đủ các bước lên lớp như: tổ chức lớp, tiến hành tiết dạy ( vào bài, nêu câu hỏi đặt vấn đề, giảng giải khái niệm), kết thúc tiết dạy bằng cách cho trẻ nhắc lại những khái niệm đã học ( củng cố bài) Những chức năng tâm lý diễn ra trong “ tiết học “ giống như tiết học ở lớp một, học sinh phải chú ý nghe cô hướng dẫn, giảng giải, phải sử dụng các hình thức nhớ, các thao tác tư duy diễn ra theo yêu cầu của tiết học. Ý thức được huy động đến mức tối đa để hiểu bài. Quan hệ bạn bè trong khi “ Học mà chơi “ cũng được thiết lập gần như quan hệ bạn bè ở lớp một, quan hệ cô và trẻ cũng tương tự như cô giáo và học sinh ở lớp một nghĩa là cô có thể đứng “giảng bài” nhưng cũng có thể ngồi cùng trẻ để giải thích, phân tích chứng minh. Ngôn ngữ của cô vừa mạch lạc, rõ ràng vừa diễn cảm, đặc biệt ở môn truyện, thơ lại kèm cả tranh, ảnh Các “tiết” học âm nhạc, nghệ thuật tạo hình đã khơi dậy hứng thú học tập thật sự đối với trẻ. Tóm lại: Trẻ tập làm quen với các tiết học để lĩnh hội những tri thức đơn giản gần gũi đối với trẻ, nhưng là tiền đề để trẻ vào lớp một. Trẻ dần dần nhận thức được nhiệm vụ học tập, bổn phận, trách nhiệm của học sinh phải làm gì cho cô giáo vui lòng, bạn bè yêu mến.
  67. II. SỰ PHÁT TRIỂN CHÚ Ý CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN: Nhiều phẩm chất chú ý của trẻ đã được phát triển, trẻ biết hướng ý thức của mình vào các đối tượng cần cho vui chơi, học tập hoặc lao động tự phục vụ. Trẻ có khả năng chú ý có chủ định từ 37 – 51 phút, đối tượng chú ý hấp dẫn, nhiều thay đổi, kích thích được sự tò mò, ham hiểu biết của trẻ. Trẻ có thể phân phối được chú ý vào 2,3 đối tượng cùng một lúc, tuy nhiên thời gian phân phối chú ý chưa bền vững, dễ dao động. Di chuyển chú ý của trẻ nhanh, nếu sự hướng dẫn di chuyển tốt. Sự phân tán chú ý ở trẻ còn mạnh, nhiều khi trẻ không tự chủ được do xung lực bản năng chi phối. Do vậy cần thay đổi đồ chơi, trò chơi hấp dẫn hơn. Ở giai đoạn này ý nghĩa của âm thanh làm cho trẻ đã chú ý nhiều. Từ âm thanh bên ngoài, trẻ biết chú ý tập trung vào sự suy nghĩ, cảm xúc bên trong óc trẻ. Cần luyện tập các phẩm chất chú ý cho trẻ qua các trò chơi và các tiết học. III. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ TUỔI MẪU GIÁO LỚN:
  68. Trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ theo các hướng: Nắm vững ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ: Trẻ biết đọc diễn cảm, biết dùng điệu bộ bổ sung cho ngôn ngữ nói. Vốn từ và cơ cấu ngữ pháp phát triển. Các tính chất ngôn ngữ thường gặp ở trẻ 5 – 6 tuổi là: Ngôn ngữ giải thích, trẻ có nhu cầu nhận sự giải thích và cũng thích giải thích cho các bạn. Ngôn ngữ tình huống (hoàn cảnh) do giao tiếp với người xung quanh bằng những thông tin mà trẻ trực tiếp tri giác được trong khung cảnh. Tính mạch lạc rõ ràng: do vốn từ của trẻ chiếm 50% là danh từ, nên câu nói của trẻ thường ngắn gọn, rõ ràng. Tính địa phương trong ngôn ngữ nền văn hoá của địa phương, cộng đồng thể hiện rõ trong ngôn ngữ của trẻ ( nói ngọng, nói mất dấu ) Tính cá nhân đã bộc lộ rõ qua các sắc thái khác nhau của trẻ, đặc biệt ở chức năng ngôn ngữ biểu cảm Việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp và các tính chất của ngôn ngữ ở trẻ phụ thuộc phần lớn vào việc hướng dẫn và sự gương mẫu về lời nói của người lớn. III. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN: Các hiện tượng tâm lý như tri giác, trí nhớ, tưởng tượng về cơ
  69. bản là sự nối tiếp sự phát triển ở lứa tuổi từ 4 – 5 tuổi nhưng chất lượng mới hơn. Thể hiện ở: Mức độ phong phú của các kiểu loại Mức độ chủ định các quá trình tâm lý rõ ràng hơn, có ý thức hơn. Tính mục đích hình thành và phát triển ở mức độ cao hơn. Độ nhạy cảm của các giác quan được tinh nhạy hơn. Khả năng kiềm chế các phản ứng tâm lý được phát triển. Ở đây chúng ta chỉ đề cập tới quá trình tâm lý phát triển mạnh mẽ và đặc trưng nhất, đó là tư duy. Sự phát triển tư duy ở độ tuổi này mạnh mẽ về kiểu loại, các thao tác và thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, thông tin giữa mới và cũ, gần và xa Đặc tính chung của sự phát triển tư duy: Trẻ đã biết phân tích tổng hợp không chỉ dừng lại ở đồ vật, hình ảnh mà ngay cả từ ngữ. Tư duy của trẻ dần dần mất đi tính duy kỷ, tiến dần đến khách quan, hiện thực hơn. Dần dần trẻ phân biệt được thực và hư. Đã có tư duy trừu tượng với các con số, không gian, thời gian, quan hệ xã hội Ý thức rõ về những ý nghĩ, tình cảm của mình, trách nhiệm đối với hành vi. Các phẩm chất của tư duy đã bộc lộ đủ về cấu tạo và chức
  70. năng hoạt động của nó như tính mục đích, độc lập sáng tạo, tính linh hoạt, độ mềm dẻo Ở trẻ 5 – 6 tuổi phát triển cả 3 loại tư duy, tư duy hành động trực quan vẫn chiếm ưu thế. Tuy nhiên do nhiệm vụ hoạt động mà cả loại tư duy hình ảnh trực quan, tư duy trừu tượng dược phát triển ở trẻ. Loại tư duy này giúp trẻ đến gần với hiện thực khách quan. V. SỰ PHÁT TRIỂN XÚC CẢM, TÌNH CẢM VÀ Ý CHÍ CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN: 1. Sự phát triển xúc cảm và tình cảm: Ở lứa tuổi này trẻ xuất hiện tình cảm bạn bè. Đời sống xúc cảm, tình cảm ổn định hơn so với trẻ 4 – 5 tuổi, mức độ phong phú, phức tạp tăng dần theo các mối quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Các sắc thái xúc cảm con người trong quan hệ với các loại lứa tuổi khác nhau, vị trí xã hội khác nhau, được hình thành như: Tình cảm mẹ con, ông bà, anh chị em, tình cảm với cô giáo, với người thân, người lạ Tuy nhiên đời sống xúc cảm của trẻ còn dễ dao động, mang tính chất tình huống. Tình cảm trí tuệ: Tình cảm trí tuệ của trẻ phát triển, mỗi nhận thức mới đều kích thích niềm vui, hứng thú, sự say mê thích thú của trẻ; tính tò mò ham hiểu biết, làm nảy sinh nhiều xúc cảm tích
  71. cực; trong vui chơi, học tập, lao động tự phục vụ nhiều thành công thất bại củng cố sự phát triển tình cảm trí tuệ ở trẻ. Tình cảm đạo đức: Do lĩnh hội được ý nghĩa các chuẩn mực hành vi tốt, xấu. Qua vui chơi giao tiếp với mọi người; do các thói quen nếp sống tốt được gia đình, các lớp mẫu giáo xây dựng cho trẻ Trẻ ý thức được nhiều hành vi tốt đẹp cần thực hiện để vui lòng mọi người. Tình cảm thẩm mỹ: Qua các tiết học nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, tìm hiểu môi trường xung quanh Cùng với những nhận thức về cái đẹp tự nhiên, hài hoà về bố cục, sắp xếp trong gia đình và lớp học. Trẻ ý thức rõ nét về cái đẹp cái xấu theo chuẩn ( lúc đầu theo chuẩn của bé dần dần phù hợp với đánh giá của những người xung quanh ) xúc cảm thẩm mỹ, óc thẩm mỹ phát triển. 3. Sự phát triển ý chí: Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi, được người lớn giao cho nhiều việc nhỏ Trẻ dần dần đã xác định rõ mục đích của hành động. Trẻ dần dần tách động cơ ra khỏi mục đích với sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Trẻ muốn chơi trò chơi, trẻ muốn được nghe kể chuyện nhiều hơn nhưng không được cô giáo đáp ứng, phải chuyển trò chơi mà trẻ không thích. Tính mục đích càng ngày càng được trẻ ý thức và cố gắng hoàn thành công việc.
  72. Tình kế hoạch xuất hiện, trẻ biết sắp xếp “công việc” vui chơi và phải quét nhà, nhặt rau để khi mẹ về là mọi việc phải xong cho mẹ hài lòng. Tinh thần trách nhiệm bản thân dần dần được hình thành ở trẻ. Sự phát triển ý chí mạnh hay yếu tuỳ thuộc phần lớn vào sự giáo dục, các biện pháp giáo dục của cha mẹ, cô giáo và những người lớn xung quanh. VI. SỰ XÁC ĐỊNH Ý THỨC BẢN NGÃ: Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tự tách mình ra khỏi người khác đã được hình thành từ cuối tuổi ấu nhi. Tuy nhiên phải trải qua một quá trình phát triển thì ý thức bản ngã của trẻ mới được xác định rõ ràng.Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ mới hiểu được mình như thế nào, có những phẩm chất gì, những người xung quanh đối xử với mình ra sao, và tại sao mình có hành động này hay hành động khác ý thức bản ngã được thể hiện rõ nhất trong sự tự đánh giá về thành công và thất bại của mình, về những ưu điểm và khuyết điểm của bản thân, về những khả năng và cả sự bất lực nữa. Để đánh giá bản thân một cách đúng đắn, đầu tiên đứa trẻ phải học cách đánh giá người khác và nghe những người xung quanh đánh giá mình như thế nào. Thoạt đầu sự đánh giá của trẻ về người khác còn phụ thuộc
  73. nhiều vào thái độ của nó đối với người này. Chẳng hạn mọi đứa trẻ đều đánh giá mẹ mình bao giờ cũng tốt. Cuối tuổi mẫu giáo lớn, trẻ nắm được kỹ năng so sánh mình với người khác, điều này là cơ sở để tự đánh giá một cách đúng đắn hơn và cũng là cơ sở để noi gương những người tốt, việc tốt. Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự tự ý thức còn được biểu hiện rõ trong sự phát triển giới tính của trẻ. Trẻ không những nhận ra mình là trai hay gái mà còn biết nếu mình là trai hay gái thì hành vi này phải thể hiện như thế nào cho phù hợp với giới tính của mình. Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh hành vi của mình dần dần phù hợp với những chuẩn mực, những quy tắc xã hội, từ đó hành vi của trẻ mang tính xã hội. Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng còn cho phép trẻ thực hiện các hành động có chủ tâm hơn. Nhờ đó các quá trình tâm lý mang tính chủ định rõ rệt. VII. BƯỚC NGOẶT 6 TUỔI VÀ SỰ CHUẨN BỊ VỀ MẶT TÂM LÝ CHO TRẺ VÀO HỌC LỚP 1: Thời điểm lúc trẻ tròn 6 tuổi là một bước ngoặt quan trọng của trẻ em. Ở độ tuổi mẫu giáo lớn là thời kỳ trẻ đang tiến vào bước ngoặt đó với sự biến đổi của hoạt động chủ đạo. Hoạt động vui chơi vốn giữ vị trí chủ đạo trong trong suốt thời kỳ mẫu giáo, nhưng vào cuối tuổi này không còn giữ nguyên dạng hoàn chỉnh của nó, những yếu tố của hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh. Cuối giai đoạn mẫu giáo lớn, trẻ đã có những tiền đề cần thiết
  74. của sự chín muồi đến trường về các mặt tâm sinh lý, nhận thức, trí tuệ ngôn ngữ và tâm thế để trẻ có thể thích nghi bước đầu với điều kiện học tập ở lớp 1. Việc chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1 là chuẩn bị những tiền đề, những yếu tố của hoạt động học tập để có thể thích ứng tốt nhất, nhanh nhất đối với việc học ở lớp 1. Có thể có hai lĩnh vực cần chuẩn bị: Chuẩn bị chung, tổng quát cho trẻ bao gồm: Chuẩn bị về thể lực: bảo đảm cho trẻ khoẻ về thể xác và tinh thần, dẻo dai và linh hoạt, năng lực phối hợp các vận động cơ bản. Chuẩn bị về trí tuệ: óc tò mò ham hiểu biết, óc tưởng tượng, chú ý, trí nhớ, tư duy Chuẩn bị về một số nét nhân cách: một số nét ý chí của nhân cách (Tính chủ định, tự lập, kiên trì ), một số nét nhân cách biểu hiện thái độ đối với xã hội và bản thân (lòng tự trọng, tự đánh giá, tinh thần hợp tác ) Chuẩn bị chuyên biệt: là sự chuẩn bị những năng lực và phẩm chất chuyên biệt, trực tiếp giúp trẻ dễ dàng và nhanh chóng thích ứng với việc tham gia vào các tiết học, môn học ở lớp 1. Cụ thể là: Chuẩn bị cho trẻ dễ làm quen, thích ứng với hình thức “ tiết học “ ở lớp 1 và cấp tiểu học sau này. Chuẩn bị về động cơ học tập. Chuẩn bị về nhận thức nhiệm vụ học tập. Chuẩn bị về cách học. Việc chuẩn bị tốt các nội dung trên sẽ giúp trẻ nhanh chóng thích nghi, thích ứng trường học.
  75. ( Hết ) Nguồn: tamlyhoc.net Edited, Formated & Converted by Lửa Hanoi, 25/08/2007