Bài giảng Tâm lý học lao động - Đào Thị Oanh

pdf 350 trang phuongnguyen 4600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Tâm lý học lao động - Đào Thị Oanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_tam_ly_hoc_lao_dong_dao_thi_oanh.pdf

Nội dung text: Bài giảng Tâm lý học lao động - Đào Thị Oanh

  1. TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG (In lần thứ 3) Tác giả: ĐÀO THỊ OANH Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG Chương 2. HỆ THỐNG NGƯỜI - MÁY - MÔI TRƯỜNG Chương 3. SỰ THÍCH ỨNG CỦA CON NGƯỜI VỚI NHỮNG YÊU CẦU CỦA HỆ THỐNG Chương 4. SỰ THÍCH ỨNG HỆ THỐNG VỚI CON NGƯƠI Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT HẠNH TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG TÀI LIỆU THAM KHẢO Created by AM Word2CHM
  2. Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG 1. Khái niệm lao động 2. Cấu trúc của hoạt động lao động 3. Định nghĩa, đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lí học lao động 4. Tâm lí học lao động với các chuyên ngành tâm lí học khác và với các khoa học khác về lao động 5. Sơ lược lịch sử phát triển của tâm lí học lao động 6. Các phương pháp của tâm lý học lao động Created by AM Word2CHM
  3. 1. Khái niệm lao động TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG Để hiểu rõ hơn đối tượng của tâm lí học lao động (TLHLĐ) và quá trình phát triển của nó, trước hết chúng ta phải định nghĩa khái niệm lao động và phân tích nó một cách toàn diện. Hiểu theo nghĩa rộng, lao động là một hoạt động thực tiễn nào đó do con người tiến hành theo một nhiệm vụ xác định, nhằm đạt được một mục đích nhất định. Trong tác phẩm kinh điển "Vai trò của lao động trong quá trình chuyển hoá từ vượn thành người", Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng: "lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người lao động đã sáng tạo ra bản thân con người. [C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr 20, 641] C.Mác đã nêu ra một định nghĩa kinh điển về lao động và vai trò của nó trong sự hình thành con người như sau: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên một quá trình trong
  4. đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên ". [C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr 23, 266] Có thể xem xét khái niệm "lao động" ở nhiều góc độ khác nhau để hiểu rõ hơn nội dung của nó. Trước hết, lao động của con người có tính chất xã hội. Ngay từ đầu, lao động của con người đã là công việc của những nhóm xã hội chứ không do một cá nhân riêng lẻ thực hiện và mục đích của bất kỳ hình thức lao động nào cũng có tính chất xã hội. Trong tác phẩm "Tư bản", C.Mác đã xác định bản chất xã hội và mục đích chung của lao động như sau: "Lao động là một hoạt động có mục đích để tạo ra những giá trị sử dụng". Xét về phương diện sinh lí học, theo ý kiến của C.Mác: "Dù các dạng lao động có ích có khác nhau như thế nào, dù những hoạt động sản xuất có khác nhau đến đâu thì về phương diện sinh lí học, đó vẫn là những chức năng của cơ thể con người và mỗi một chức năng ấy, dù nội dung và hình thức của nó như thế nào về thực chất vẫn chỉ là sự tiêu hao não, thần kinh,
  5. cơ bắp và các cơ quan cảm giác ". [Phạm Tất Dong, Tâm lý học lao động - Tài liệu dùng cho học viên cao học, viện KHGD, 1979] Việc hiểu bản chất xã hội và bản chất sinh lí học của lao động giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất tâm lí của lao động bởi vì cái tâm lí trong lao động không thể tách rời và cô lập với những hiểu biết về những bản chất đó. Trong lao động cái tâm lí chung nhất được bộc lộ ra là tính tích cực, tính mục đích, là những hình ảnh nảy sinh trong đầu con người mà nhờ nó con người xác định được kết quả hoạt động của mình. Dù hoạt động lao động có khác nhau về mục đích, đối tượng, công cụ và điều kiện như thế nào chăng nữa, bao giờ nó cũng gồm hai cơ chế đặc thù: trước hết đó là quá trình đối tượng hoá sức mạnh bản chất của con người. Nói cho cùng, mọi sản phẩm lao động đều là những biểu hiện cụ thể của tài năng, đức độ, tình cảm con người. Cái tâm lí đã hoá thân vào toàn bộ thế giới đồ vật do con người tạo ra. Kết quả của quá trình đối tượng hoá sức mạnh bản chất con người trong lao động là loài người có được một nền
  6. văn hoá xã hội - lịch sử ngày càng phát triển. Đến lượt mình, nền văn hoá đó lại là hiện thân trực tiếp của sự tiến hoá của loài người - một hình thức tiến hoá đặc thù ở loài người - sự tiến hoá theo quy luật xã hội – lịch sử. Lao động của con người cứ từng bước thay đổi thế giới đồ vật xung quanh họ. Cứ mỗi thay đổi được ghi dấu trong thế giới đồ vật này đều có thể được coi như là một điều kiện góp phần vào việc tạo ra những bước phát triển của loài người. Song, để thực hiện được quá trình đối tượng hoá sức mạnh bản chất của mình, con người lại phải sử dụng công cụ lao động (mà công cụ lại là kết quả của quá trình đối tượng hóa nói trên). Phải nắm được cách thức sử dụng công cụ lao động thì lúc đó công cụ mới tồn tại với đúng tư cách là một công cụ. Người ta phải học cách sử dụng công cụ. Thực chất của quá trình học cách sử dụng công cụ là sự lĩnh hội cái tâm lí chứa bên trong công cụ đó. Ta gọi quá trình này là sự người hoá sức mạnh bản chất của con người trong lao động. Created by AM Word2CHM
  7. 2. Cấu trúc của hoạt động lao động TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG Hoạt động lao động là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học trong đó có tâm lí học. Đối với các nhà tâm lí học, điểm cơ bản trong lao động mà họ quan tâm là tính mục đích, tính tự giác, tính tích cực của con người. Hoạt động lao động là sự thống nhất của cái tâm lí và cái sinh lí. Trong khái niệm hoạt động lao động, những hiện tượng tinh thần (động cơ, mục đích, hứng thú, ) bạo giờ cũng ở trong một thể thống nhất hữu cơ với những biểu hiện bề ngoài của chúng là những vận động thực hiện. Vì vậy, phải nghiên cứu hoạt động lao động với đầy đủ những thành phần nêu trong cấu trúc của nó. Hoạt động lao động là một dạng hoạt động đặc biệt của con người. Khi tiến hành lao động, con người sử dụng công cụ, phương pháp, cách thức và nghệ thuật sử dụng công cụ được gọi là thuật lao động Hoạt động lao động của con người bao giờ cũng nhằm đạt được một mục đích nhất định do họ tự
  8. giác đặt ra. Mục đích của hoạt động lao động là hình ảnh về kết quả công việc sắp được tiến hành. Hình ảnh đó tồn tại trong đầu óc con người trước khi họ thực sự bắt tay vào công việc. Mục đích lao động nảy sinh trong ý thức trên cơ sở những nhu cầu tinh thần và nhu cầu vật chất của con người. Sự nảy sinh mục đích lao động còn phụ thuộc vào kinh nghiệm lao động đã tích luỹ được. Mục đích có thể là gần nhưng cũng có thể là xa. Song, nhìn chung hoạt động lao động bao giờ cũng có mục đích xa, bao trùm lên những mục đích gần có tính chất bộ phận. Quá trình tiến hành một hoạt động lao động là quá trình đạt từ mục đích bộ phận này sang mục đích bộ phận khác cho đến khi đạt được mục đích cuối cùng. Như vậy, ta có được một sơ đồ giản lược, mô tả một quá trình hoạt động như sau: Mục đích có tính chất bao trùm các mục đích bộ phận chính là động cơ của hoạt động. Mục đích bao trùm (động cơ) có tác dụng thúc đẩy việc thực hiện các mục đích bộ phận được kết lại thành một hệ thống. Chính vì vậy, khi nói đến một hoạt động, bao giờ người ta cũng xét đến động cơ tương ứng với nó.
  9. Một hoạt động diễn ra trong từng giai đoạn đạt được những mục đích nhất định. Quá trình hoạt động để đạt được mục đích bộ phận được gọi là hành động. Hành động là yếu tố của hoạt động, cụ thể hơn, đó là một đơn vị của hoạt động. Kết quả của hành động là đạt đến một “Mục đích 1 -> Mục đích 2 -> -> Mục đích cuối cùng” mục đích cụ thể nào đó mà con người đã nhận thức được. Có thể nói, mỗi hành động bao giờ cũng nhằm giải quyết một nhiệm vụ sơ cấp cơ bản, nghĩa là nhiệm vụ không thể phân nhỏ hơn được nữa. Như vậy là, muốn xem một hoạt động lao động có bao nhiêu hành động, ta cần phải xác định có bao nhiêu nhiệm vụ sơ cấp cơ bản trong đó, hoặc có bao nhiêu mục đích cụ thể. Vì vậy, khi tổ chức một hoạt động sản xuất, điều quan trọng bậc nhất là phải chỉ ra cho được những mục đích bộ phận và trình tự đạt tới những mục đích đó. Trong lao động sản xuất, muốn đạt tới mục đích, người ta cần tính xem phải hành động theo
  10. phương thức nào (bằng công cụ gì? với những phương tiện nào? Cách thức sử dụng công cụ ra sao? ). Nói đến phương thức thực hiện hành động là nói đến thao tác Trong công nghiệp, thuật ngữ "thao tác" có khi được dùng để chỉ một yếu tố của một quá trình công nghệ được thực hiện trên một vị trí làm việc, do một hoặc nhiều nhóm công nhân tiến hành để làm ra một chi tiết hoặc một số các chi tiết được gia công đồng thời, hoặc tạo ra một số bán thành phẩm cho đến khi chuyển sang những chi tiết sau. Trong hoạt động lao động, thao tác là "đơn vi cơ động" của hành động. Một hành động có thể có một hoặc nhiều thao tác. Nhưng, để xác định được số lượng những thao tác trong một hành động, ta phải căn cứ vào công cụ và phương thức thực hiện hành động đó. Cùng một hành động, người ta có thể dùng một hệ thống thao tác này hoặc một hệ thống thao tác khác. Điều đó phụ thuộc vào điều kiện trang bị kỹ thuật. Như vậy là, một hành động được tiến hành thông qua một hoặc nhiều thao tác. Nhiều thao tác khác nhau có thể dẫn đến một mục đích như nhau. Chính vì vậy ta nói thao tác là đơn vị cơ động của hành động.
  11. Nội dung của mỗi thao tác là do đặc điểm cấu trúc của công cụ quy định. Tuỳ thuộc vào hình dáng, kích thước và những đặc trưng cơ cấu của công cụ mà xác định tư thế và những vận động (động tác) phù hợp. Như vậy, trong mỗi thao tác cụ thể có một hệ thống những tư thế và vận động riêng. Tư thế cũng có thể coi là một dạng của động tác. Hơn nữa, động tác cũng chưa phải là yếu tố hợp thành nhỏ nhất trong thao tác. Người ta còn phân động tác thành những "vi động tác". Một hành động lao động được lặp lại nhiều lần trong quá trình luyện tập và trở nên tự động hoá được gọi là kỹ xảo. Tuy nhiên, khi người công nhân thực hiện thành thạo, điêu luyện các thao tác trong hành động không có nghĩa là ý thức của họ không kiểm tra lại cách thức tiến hành thao tác. Ta gọi là sự tự động hoá của kỹ xảo chỉ với nghĩa là thao tác đã thành thạo, không cần sự tập trung chú ý mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, độ chính xác. Created by AM Word2CHM
  12. 3. Định nghĩa, đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lí học lao động TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ H ỌC LAO ĐỘNG Như trên ta đã thấy, lao độnglà một hình thức cơ bản của sự tác động qua lại có ý thức giữa con người với hiện thực xung quanh. Hiệu quả của lao động phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố bên trong và bên ngoài. Thậm chí, các yếu tố bên ngoài (thiết bị kỹ thuật, sự tổ chức, môi trường vật lí và xã hội v.v ) quy định phần lớn hiệu quả lao động thông qua các yếu tố bên trong (năng lực, tri thức, kinh nghiệm, động cơ, hứng thú, thái độ, ). Như vậy, nghiên cứu lao động được đặt trên yếu tố trung tâm - con người, cần xuất phát từ việc nhận thức các quy luật điều khiển hành vi con người trong lao động. Theo nghĩa này, tâm lí học lao động là một khoa học nhằm xây dựng một hệ thống tri thức thống nhất và hệ thống hành động của con người trong lao động. A.Roger nhấn mạnh rằng bằng vai trò khoa học của mình, nhà tâm lí học lao động quan sát, mô tả và tìm cách giải thích hành động của con người
  13. trong tư cách họ những người lao động. Đồng thời, việc hiểu một hiện tượng không thể là một mục đích tự thân. Hiểu biết về một hiện tượng là nhằm làm thay đổi nó cho phù hợp với những mục đích nhất định. Chính vì vậy, tâm lí học lao động sử dụng những hiểu biết về hành động của còn người trong lao động cùng với những tri thức của các chuyên ngành khoa học khác nhằm làm thay đổi lao động theo nghĩa hoàn thiện nó. Nói cách khác, tâm lí học lao động vừa là một khoa học vừa là một công nghệ kỹ thuật. Việc phân biệt hai thành phần đó trong hoạt động của nhà tâm lí học lao động là cần thiết nhưng không nên đối lập chúng với nhau, trong khi những hiểu biết về lao động giúp chúng ta làm thay đổi lao động thì việc thay đổi đó sẽ làm tăng nhận thức của chúng ta về lao động. Từ góc độ thuần tuý tâm lí học, có thể quan tâm tới việc thiết lập một số quan hệ giữa các chức năng tâm lí, tới việc phát hiện một số cơ chế tâm lí của những hành động lao động. Từ góc độ ứng dụng, có thể đưa các tri thức thu được của tâm lí lao động vào nghiên cứu hoàn thiện một số tiêu chuẩn đánh giá lao động. Các tiêu chuẩn có thể rất khác nhau: sự an toàn, sự thuận tiện,
  14. tốc độ thực hiện, thời gian học tập v.v Để hoàn thiện được các tiêu chuẩn này cần có sự góp phần của một số ngành khoa học và kỹ thuật khác. Tâm lí học lao động đề cập tới hành động lao động nói chung. Do hoạt động của con người được diễn ra trong các lĩnh vực rất khác nhau nên tâm lí học lao động cũng bao hàm một phạm vi rộng lớn, gồm: tâm lí học công nghiệp, tâm lí học giao thông, tâm lí học nông nghiệp, tâm lí học kinh doanh, tâm lí học hành chính. Trong tài liệu này chúng ta chỉ quan tâm tới tâm lí học lao động công nghiệp. Ở lĩnh vực này, hành động lao động nằm trong phạm vi tác động tương hỗ giữa con người - các đối tượng và môi trường vật lí, xã hội của lao động, tức là trong hệ thống người - máy - môi trường. Do đó, tâm lí học lao động công nghiệp nhằm nghiên cứu và hoàn thiện sự tác động qua lại này với mục đích nhân bản hoá lao động, tăng năng suất và chất lượng lao động, sự an toàn của các hệ thống kỹ thuật xã hội, tăng hiệu quả và tăng sự thuận tiện trong lao động. Trong việc nghiên cứu sự tác động qua lại
  15. giữa người - máy và môi trường, các chức năng tâm lí của con người (tri thức, thói quen, ý muốn, chú ý, tình cảm, động cơ, hứng thú v.v ) đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng, hiệu quả lao động không chỉ phụ thuộc vào những khả năng hay những hạn chế của con người, vào chất lượng các chức năng tâm lí của người đó, mà phụ thuộc vào tất cả các yếu tố vật chất và xã hội của môi trường lao động. Vì vậy, tâm lí học lao động công nghiệp, trong khi nghiên cứu trước hết là con người với tư cách là thành tố chủ yếu trong hệ thống, đã xuất phát từ luận đề cho rằng: hiệu quả vận hành của hệ thống người - máy - môi trường phụ thuộc vào phương thức thích ứng lẫn nhau giữa các thành phần của nó: người máy, môi trường vật lí và xã hội. Từ đó có thể rút ra được đối tượng của tâm lí học lao động công nghiệp: nghiên cứu và áp dụng các tri thức nhằm thích ứng, về mặt tâm lí học, con người với máy móc, với môi trường tìm việc của mình, đồng thời thích ứng máy móc và môi trường làm việc với những đặc điểm tâm lí của con người. Các phương tiện chủ yếu của sự thích ứng lẫn nhau này là: a) Định hướng, tuyển chọn, đào tạo và thích ứng nghề nghiệp
  16. cho con người; b) Thích ứng các đặc điểm cấu trúc và vận hành của máy móc, các yếu tố của môi trường vật lí và xã hội, yếu tố tổ chức lao động với những đặc điểm tâm lí của con người. Như vậy, rõ ràng là, sự thích ứng lẫn nhau trong hệ thống sẽ chỉ được bao quát đầy đủ khi có sự tham gia của tất cả các bộ môn khoa học nghiên cứu về lao động. Như vậy, hoạt động của nhà chuyên môn trong lĩnh vực tâm lí học lao động công nghiệp bao gồm những vấn đề rất phong phú và đa dạng. Nhà tâm lí học cần phân tích bản chất thao tác và hành động của các nhiệm vụ lao động, phân tích yêu cầu của các chức năng tâm lí trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ đó. Từ đây, phải nghiên cứu và xác định khả năng cũng như những giới hạn tâm lí của con người (được hiểu như là một kênh truyền thông tin). Trong khi lưu ý đến cấu trúc và bản chất của các nguồn thông tin, của tất cả cá yếu tố vật chất và xã hội, nhà tâm lí học sẽ xác định các cơ chế tâm lí của những hành động đúng và những hành động sai, xác định mức độ huy động tối ưu, sự yêu cầu một cách hợp lí và cân bằng của các chức năng tâm lí và những khả năng sáng tạo của người lao động.
  17. Trên cơ sở những nghiên cứu này, chuyên gia tâm lí học lao động phải xác lập họa đồ tâm lí nghề nghiệp với những yêu cầu của công việc, xây dựng các phương pháp đo nghiệm nhằm kiểm tra năng lực và nhân cách của những người dự tuyển để tuyển dụng và đào tạo nghề nghiệp (hướng nghiệp, lựa chọn, hướng nghiệp lại, phân phối, huy động). Tương tự, phải đề ra các yêu cầu, phương pháp và những tiêu chuẩn đào tạo nghề nghiệp cũng như đánh giá việc đào tạo và hoà nhập nghề nghiệp. Đồng thời, cùng với những chuyên gia khác trong lĩnh vực nghiên cứu lao động, nhà tâm lí học lao động công nghiệp góp phần làm cho các thiết bị kỹ thuật, các yếu tố môi trường và tổ chức phù hợp và những khả năng cũng như hạn chế của con người (trong giai đoạn thiết kế hoặc chỉnh sửa những hệ thống hiện có, trong việc phân bố các chức năng thao tác giữa người và máy). Và, vì người công nhân là thành viên của một tập thể lao động cho nên cần thiết phải nghiên cứu phân công nhiệm vụ một cách hợp lí, nghiên cứu tổ chức các mối quan hệ người - người, nghiên cứu sự tác động và giáo dục các động cơ, thái độ cho người lao động.
  18. Trên đây đã trình bày về cơ bản các hướng chính của toàn bộ vấn đề mà nhà tâm lí học lao động công nghiệp quan tâm nghiên cứu. Qua việc tìm hiểu đối tượng và những nhiệm vụ cơ bản của tâm lí học lao động, ta có thể khẳng định rằng, tri thức của khoa học này rất cần thiết cho nhiều nhà chuyên môn của nhiều lĩnh vực khác nhau như tâm lí học, giáo dục học, y học, kỹ thuật Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nghiên cứu tâm lí học lao động là cần thiết đối với nhiều người. Công việc đó có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lao động nhằm xây dựng công nghiệp hiện đại, đẩy mạnh nhịp độ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Created by AM Word2CHM
  19. 4. Tâm lí học lao động với các chuyên ngành tâm lí học khác và với các khoa học khác về lao động TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG 4.1. Với các chuyên ngành tâm lí học khác Trong hệ thống các khoa học tâm lí hiện đại, tâm lí học lao động thuộc vào một trong những chuyên ngành phát triển mạnh nhất. Những vấn đề lí luận và thực tiễn mà tâm lí học lao động đề cập tới ngày càng được mở rộng. Tính chất ứng dụng của nó ngày càng đa dạng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, tâm lí học lao động luôn luôn nằm trong một quan hệ và tác động qua lại mật thiết với các chuyên ngành tâm lí học khác cũng như với các khoa học lân cận. Tâm lý học lao động có quan hệ qua lại với Tâm lí học đại cương. Giữa chúng có sự chuyển đổi lẫn nhau ở hai nghĩa: từ tâm lí học lao động đến tâm lí học đại cương và ngược lại. Đối với tâm lí học đại cương, tâm lí học lao động là một chuyên ngành đề cập thường xuyên và cụ thể tới một hoạt động chủ yếu của con người - hoạt động lao động đến lượt mình,
  20. tâm lí học lao động lại sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau của tâm lí học đại cương như: phương pháp lâm sàng (quan sát, phân tích trực tiếp hành vi lao động), phương pháp thực nghiệm, chẩn đoán (bằng trắc nghiệm). Và, trong khi nghiên cứu các chức năng tâm lí khác nhau (tri giác, trí nhớ, tư duy ), tâm lí học lao động góp phần làm phong phú thêm cho những tri thức của tâm lí học đại cương, làm cho phần lí luận của tâm lí học đại cương được chứng minh chặt chẽ hơn. Đối với vấn đề định hướng, tuyển chọn và hoà nhập nghề nghiệp, tâm lí học lao động dựa trên những tri thức của Tâm lí học sai biệt (là một chuyên ngành nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của cá nhân) và dựa trên Tâm lí học người già (là chuyên ngành nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của quá trình lão hoá). Trong việc đào tạo nghề nghiệp, tâm lí học lao động sử dụng các quy luật phát triển tâm lí ở các lứa tuổi của Tâm lí học phát triển. Chính nhờ tâm lí học dạy lao động, những quy quật truyền thụ tri thức sản xuất, tri thức kỹ thuật ngày càng được sáng tỏ và đó là tài liệu cần thiết cho tâm lí học phát triển. Bởi vì, hoạt động lao động của con người được diễn ra trong một
  21. tập thể, trong phạm vi của một tổ chức (hệ thống kỹ thuật xã hội) và tổ chức này lại có liên quan với những yếu tố bên ngoài cho nên tâm lí học lao động có quan hệ chặt chẽ với Tâm lí học xã hội, Tâm lí học tổ chức và Tâm lí học kinh tế. Tâm lí học lao động và Tâm lí học xã hội có vấn đề chung rất quan trọng: học thuyết về nhóm và tập thể. Ta biết rằng, về phương diện lịch sử, cả tập thể lẫn con người đều hình thành trong lao động. Trong bất kỳ nhóm lao động nào, những mối quan hệ liên nhân cách cũng nảy sinh. Đó là đối tượng nghiên cứu của cả tâm lí học lao động lẫn tâm lí học xã hội. Cùng với việc nghiên cứu các loại nhóm và các mối quan hệ liên nhân cách trong nhóm, tâm lí học lao động còn đề cập tới sự tương hợp nhóm (còn gọi là sự phù hợp nhóm), những hiện tượng tâm lí của đám đông trong lao động tập thể Những vấn đề ấy cũng được tâm lí học xã hội quan tâm nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học tổ chức là những vấn đề tầm lí học trong việc lãnh đạo và tổ chức các tập thể lao động cũng là những khía cạnh mà tâm lí học lao động quan tâm nhằm mục đích hoàn thiện các quan hệ lao động, trên cơ sở đó tăng
  22. năng xuất lao động. Còn đối tượng của tâm lí học kinh tế là những yếu tố tâm lí của các mối quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng (người tiêu thụ). Đây cũng là vấn đề TLHLĐ có đề cập đến. Tâm lí học lao động có quan hệ với Tâm lí học quân sự trong mọi vấn đề lao động trong quân đội, nhất là lao động với những khí tài hiện đại. Ngày nay, những vũ khí trong quân đội đã được hiện hoá. Các chiến sĩ đều phải tiếp xúc và điều khiển các loại máy móc hết sức đa dạng. Ở đây, cần nghiên cứu chiến sĩ sử dụng vũ khí hiện đại giống như đối với việc nghiên cứu thao tác viên bên những máy móc, thiết bị tối tân. Quan hệ người - máy cần được đi sâu nghiên cứu. Những quy luật tâm lí rút ra từ những công trình nghiên cứu tâm lí học lao động có nhiều tác động cho việc tiến hành nghiên cứu tâm lí học quân sự và giúp trực tiếp vào việc đào tạo, huấn luyện chiến sĩ mới trong mối quan hệ với kỹ thuật. Các lĩnh vực tâm lí học hàng không, tâm lí học vũ trụ đã gắn với tâm lí học lao động bằng những mối liên hệ hợp tác chặt chẽ. Tâm lí học lao động cũng có những mối liên hệ nhất định với Tâm lí học tội phạm. Chẳng hạn, tâm lí học tội phạm đề cập tới những hành động sai lầm và
  23. những đặc điểm nhân cách trong mối liên hệ với những hành động phạm pháp. Đây cũng là vấn đề rất gần với việc nghiên cứu các hành động sai và những nguyên nhân gây ra hành động sai trong lao động. Nhưng, mối liên quan chặt chẽ hơn cả được thể hiện ở chỗ, trong khi tâm lí học lao động nghiên cứu sự hoàn thiện nhân cách trong lao động nghề nghiệp, thì tâm lí học cải tạo phạm nhân lại nghiên cứu quá trình cải tạo nhân cách đang suy thoái bằng hình thức lao động sản xuất. Tâm lí học lao động có rất nhiều vấn đề cần giải quyết cùng với Tâm lí học y học. Trước khi đi vào hàng loạt vấn đề của giám định lao động, tâm lí học lao động không thể tách rời khỏi tâm lí học y học: vấn đề tuyển chọn người vào các nghề với các đặc điểm bệnh lí cụ thể. Ở đây, cần có sự kết luận về những bệnh mà nghề kiêng tránh, về sự phù hợp nghề của những người tàn tật, về những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động hoặc hỏng hóc kỹ thuật mà nguồn gốc là từ những đặc điểm chịu sự chế ước sinh lý cụ thể ở mỗi người, về những liệu pháp y tế cần thiết cho những trường hợp đi vào nghề. 4.2. Với các khoa học khác về lao động
  24. Bởi vì lao động không thể được nghiên cứu chỉ dưới khía cạnh tâm lí của nó, cho nên, cũng giống như các chuyên ngành tâm lí học khác, tâm lí học lao động có quan hệ cả với những khoa học khác về lao động như: Sinh lí học và vệ sinh lao động, Nhân trắc học, Kinh tế lao động và tổ chức, Kinh tế chính trị học, Xã hội học (đặc biệt xã hội học công nghiệp). Mối liên hệ giữa các ngành khoa học này được thể hiện rõ trong phạm vị của Công thái học (Ergonomie). Chính ở trong công thái học - được định nghĩa như một khoa học và kỹ thuật liên ngành về lao động sự thích ứng lẫn nhau một cách hoàn chỉnh giữa người, máy và môi trường có thể được thực hiện. Công thái học sử dụng những tư liệu của tâm lí học lao động và các dữ liệu của hàng loạt các khoa học khác để giải quyết việc thiết kế các trạm, các bộ phận điều khiển, bố trí nơi làm việc theo những thông số ánh sáng, độ ẩm, độ thông gió, kích thước Có thể nói rằng, tâm lí học lao động đã và đang góp phần không nhỏ vào việc định mức kỹ thuật, xác định nhịp độ tối ưu trong lao động, xác lập chế độ làm việc và nghỉ ngơi, chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của sự đơn điệu trong lao động đến tâm lí và sinh lí con người cùng với nhiều vấn đề
  25. khác nữa mà khoa học tổ chức lao động đề cập đến. Created by AM Word2CHM
  26. 5. Sơ lược lịch sử phát triển của tâm lí học lao động TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ H ỌC LAO ĐỘNG Tâm lí học lao động xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, khi đó được gọi là "kỹ thuật tâm lí học" gắn liền trực tiếp với thực tiễn, với nhu cầu giải quyết một số vấn đề của con người và xã hội. Những tác phẩm công bố đầu tiên về TLHLĐ đã xuất hiện không lâu trước chiến tranh thế giới I. Phần lớn các sách này đều đề cập đến những phương pháp và kết quả thu được trong quá trình hoạt động thực tiễn. Các tác giả của những cuốn sách ấy đều nghiên cứu các vấn đề do xí nghiệp mà họ làm việc ở đó đề ra như: những vấn đề về việc tuyển chọn công nhân, vấn đề dạy nghề cho công nhân, sự sắp đặt nơi làm việc, vấn đề về các nhân tố gây ra các trường hợp bất hạnh hay những nhân tố có ảnh hưởng đến năng suất lao động kể từ sự chiếu sáng đến các mối quan hệ của con người. Theo nghĩa này. năm 1959, H.Wallon đã nhấn mạnh rằng, những ứng dụng thực sự đầu tiên của tâm lí học vào lĩnh vực lao động đã không xuất phát từ một chương trình lí thuyết mà
  27. xuất phát từ những yêu cầu của nền công nghiệp và lòng mong muốn nâng cao hiệu quả sản xuất Để đạt được nguyện vọng này, tâm lí học lao động công nghiệp đã phát triển theo ba hướng chủ yếu: a) Định hướng và tuyển chọn nghề nghiệp; b) Hợp lí hoá lao động; c) Tâm lí học của các mối quan hệ liên nhân cách. Đối với hướng thứ nhất, một trong những nhà sáng tạo ra tâm lí học lao động công nghiệp là H.Miinsterberg cho rằng, bằng việc thích ứng con người với những điều kiện lao động (tức là bằng việc tuyển chọn nghề nghiệp) những mục đích của chuyên ngành khoa học mới này có thể đạt được. Đó là tìm ra được người công nhân tốt nhất, tiến hành lao động trong những điều kiện tốt nhất và thu được những kết quả tốt nhất có thể được. Ông đã tiến hành kiểm tra tuyển chọn trong hàng ngũ các sĩ quan hải quân, vô tuyến điện. Các kỹ thuật kiểm tra đã phát triển và được phổ biến rộng rãi trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ nhất khi người ta tuyển lựa hơn một triệu rưỡi tân binh cho quân đội. Để phục vụ cho hướng nghiên cứu này, ở phương Tây và Liên Xô cũ đã xuất hiện nhiều phòng hướng nghiệp. Phòng hướng nghiệp đầu
  28. tiên đã được thành lập ở Bostơn năm 1915. Từ 1916, những cơ quan chuyên môn về hướng nghiệp đã được thành lập ở Đức, Pháp, Anh và Italy. Chẳng hạn, ở Đức năm 1925-1926 đã có 567 phòng tư vấn nghề nghiệp đặc biệt, đã nghiên cứu gần 400.000 thanh thiếu niên trong 1 năm. Vào thời ký này, công tác tư vấn đã rất được chú ý ở Anh - nước đã thành lập một Hội đồng Quốc gia đặc biệt nghiên cứu về vấn đề này. Về vấn đề hợp lí hoá lao động, khoảng cuối thế kỷ trước. kỹ sư F.W.Taylor đã bắt đầu quan tâm đến việc tổ chức hoạt động lao động trên cơ sở chia các thao tác lao động thành những đơn vị đơn giản để loại bỏ những động tác thừa và như vậy sẽ làm giảm thời gian thực hiện các thao tác ("Phương pháp Taylor" hay "Dây chuyền Taylor"). Việc cải tiến thao tác, cải tiến tổ chức, cải tiến công cụ, mặc dù phải chi thêm những khoản tiền để tạo ra các điều kiện lao động mới nhưng thời gian bốc dỡ một tấn hàng đã giảm từ 7 - 8 giờ xuống 3 - 4 giờ, số công nhân trong một nhà kho từ 500 giảm xuống còn 140 người và tất nhiên tiền lãi mà nhà tư bản thu được là rất lớn. Cũng vào khoảng thời gian đó, F.B.Gilbreth (một kỹ sư) và vợ ông là M.Gilbreth (một nhà tâm lí học) trong khi nghiên cứu
  29. việc hợp lí hoá các động tác lao động đã đưa ra một số kỹ thuật phân tích mới: chụp ảnh và quay phim các thao tác lao động. Họ đã xác định được 17 yếu tố động tác được bao hàm trong các thao tác lao động. Năm 1911, F.B.Gilbreth đã xuất bản cuốn sách tại New York có tiêu đề: "Nghiên cứu các động tác. Kinh nghiệm tăng cường hiệu suất lao động của công nhân". Những nghiên cứu này đã được R.M.Barnes tiếp tục và năm 1937, ông đã xác lập được các nguyên tắc tiết kiệm động tác và 22 quy tắc hợp lí hoá động tác lao động. Thuộc hướng này đã xuất hiện nhiều nghiên cứu đề cập tới sức làm việc của con người. Chẳng hạn, trong khoảng thời gian từ 1901 - 1903, bằng những thực nghiệm của mình. I.M. Xêsênốp đã cố gắng nêu lên cơ sở sinh lý của các quá trình tâm lí quyết định chất lượng của quá trình lao động. Và sau khi xác định các tiêu chuẩn về thời gian tối ưu của một ngày lao động, Xêsênốp đã đặt nền móng cho học thuyết về sự nghỉ ngơi tích cực mà bây giờ sinh lí học lao động và TLHLĐ dựa vào đó để chống lại sự mệt mỏi. Năm 1905, F.Kraepelin đã sử dụng các
  30. phương pháp thực nghiệm vào nghiên cứu lao động và đề xuất việc đo đạc sự mệt mỏi. Năm 1910, J.M.Lahy quan tâm đến các điều kiện lao động của các công nhân sắp chữ trong nhà in, tìm tòi các dấu hiệu khách quan của sự mệt mỏi trong lao động trí óc theo tinh thần chống lại quan điểm Taylor. Để phục vụ cho các nghiên cứu về tâm lí học lao động, trong hầu hết các nhà máy lớn hoặc trong các cơ sở công nghiệp thuộc các ngành lao động công nghiệp đều hình thành các phòng thí nghiệm tâm - sinh lí của mình. Ở đó đã tiến hành có kết quả nhiều công trình về TLHLĐ. Tuy nhiên, có một số phòng thí nghiệm lại do những người không được đào tạo về chuyên môn đảm nhận nên không đem lại những lợi ích thiết thực (đặc biệt là ở Liên Xô cũ). Vì vậy tiếp theo là thời kỳ người ta tỏ ra dè dặt đối với những nghiên cứu đó bởi vì chúng đã bỏ qua những khía cạnh rất quan trọng của các quá trình tri giác, tư duy và xem con người thuần tuý như một "động cơ sống" với những hậu quả tiêu cực về mặt tâm lí xã hội. Sự phát triển nhanh chóng của các thiết bị
  31. quân sự trong thời gian "Chiến tranh thế giới thứ II" đó ngay lập tức lôi kéo sự chú ý của các nhà chuyên môn (các kỹ sư, các nhà tâm lí học, các nhà quân sự) bởi vì hiệu quả sử dụng và độ tin cậy của các thiết bị mới không đạt tới mức hoàn thiện về kỹ thuật. Việc tuyển chọn và đào tạo các thao tác viên trong quân đội chưa đầy đủ, bởi vì các thiết bị quân sự đã không lưu ý tới khả năng cũng như những giới hạn của con người đã được quan tâm. Lần này đặc biệt là vấn đề về những giới hạn của con người đã được quan tâm. Con người không còn bị xem như một "động cơ sống" đơn giản chỉ thực hiện những động tác mà như một kênh truyền thông tin. Từ đó, bắt đầu thời kỳ phối hợp chặt chẽ giữa các nhà tâm lí học và các nhà kỹ thuật trong các lực lượng quân sự của Mỹ. Tâm lí học kỹ sư đã ra đời như vậy. Đó là chuyên ngành tâm lí học quan tâm nghiên cứu những khả năng, những giới hạn tâm lí của con người và làm sao cho những đặc điểm cấu tạo của máy móc phù hợp với những khả năng tâm lí đó. Tâm lí học kỹ sư là một nhánh crua tâm lí học lao động và nó ra đời từ trong lòng tâm lí học thực nghiệm hơn là từ tâm lí học công nghiệp. Ở giai đoạn đầu, tâm lí học kỹ sư hầu như chỉ quan tâm đến việc thích ứng những thiết bị đo đạc, các bộ phận điều khiển, sự
  32. phân bố các bộ phận này v.v Vào cuối giai đoạn 1950 - 1960, xuất hiện một sự thay đổi trong quan điểm của tâm lí học lao động công nghiệp, cũng như trong Công thái học. Theo nghĩa việc nghiên cứu phải được "tập trung vào hệ thống", sự vận hành của hệ thống phụ thuộc vào sự vận hành của con người và của máy móc. Như vậy, đối tượng của tâm lí học lao động công nghiệp được mở rộng và đặc biệt đa dạng cả trên bình diện lí luận lẫn thực tiễn. Đối với tâm lí học của các mối quan hệ người - người, khởi đầu của những nghiên cứu này được biết đến dưới tên gọi "các nghiên cứu của nhóm Harvard", là các nghiên cứu được E.Mayo khởi xướng và lãnh đạo vào năm 1927 ở "Công ty điện lực miền Tây" (Mỹ). Nhân dịp này, người ta đã làm sáng tỏ một điều, rằng: ngoài những yếu tố vật lí, còn có những yếu tố tâm lí xã hội cũng ảnh hưởng tới hiệu suất lao động. Các nghiên cứu tiếp theo đã hoàn chỉnh danh sách những yếu tố này và đã làm rõ vai trò của từng yếu tố như: động cơ; hứng thú; nhu cầu được khẳng định và đánh giá thái độ; dư luận; sự thoả mãn trong lao động, các mối quan hệ liên nhân cách (hấp dẫn - xa lánh, sự lịch
  33. thiệp; sự thân thiện; sự bàng quan, thờ ơ); cấu trúc của nhóm lao động (độ lớn, thành phần, tổ chức, giao tiếp, lãnh đạo, quyết định); việc tổ chức nhà máy như một hệ thống kỹ thuật xã hội thống nhất và có liên quan với các hệ thống khác v.v Trên cơ sở những nghiên cứu đó, năm 1933, Mayo đã viết cuốn "Những vấn đề con người của nền văn minh công nghiệp". Trong đó ông đã khẳng định rằng, lí thuyết hiện đại về công tác quản lý phải dựa trên nền tảng cua những thành tựu tâm lý học. Và cái gọi là học thuyết về "các mối quan hệ của con người" do Mayo xây dựng từ những thực nghiệm ở Hotoócnơ vẫn còn giá trị đến ngày nay. Như vậy, tất cả các hướng nêu trên bao hàm những vấn đề rộng lớn của tâm lí học cá nhân và tâm lí học xã hội trong lao động công nghiệp. Nghiên cứu lí luận và ứng dụng tất cả những vấn đề đó cùng với những nghiên cứu thuộc các chuyên ngành khoa học khác có tác dụng tối ưu hoá và nhân bản hoá lao động. Ở việt Nam, ngành sinh lí học lao động mới bắt đầu hoạt động thực sự từ năm 1963. Tuy còn non trẻ nhưng sinh lí học lao động Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể cho sản xuất và chiến đấu. Trong mấy chục năm qua, chúng ta đã có hàng trăm công
  34. trình nghiên cứu có giá trị về nhiều lĩnh vực như: "Cường độ lao động từng lúc trong lao động" (Tô Như Khuê, Bùi Thụ). "Đánh giá sự mệt mỏi trong và sau lao động, chiến đấu (Bùi Thụ, Bùi Thu Nguyên, Phạm Quy Soạn ); "Khả năng thích nghi của những người làm việc lâu năm ở chỗ nóng" (Ngô Đức Hưởng, Bùi Thụ, Nguyễn Hùng ). Năm 1971, "Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động" được thành lập. Trong chương trình nghiên cứu của viện có để cập tới tâm lí học lao động (vấn đề hướng nghiệp, lao động sư phạm ). Năm 1975, cuốn sách đầu tiên, khá đầy đủ về Ergonomie ở nước ta ra đời - cuốn "Khoa học lao động" của Nguyễn Văn Lê. Trong đó có đề cập tới một số khía cạnh tâm lí lao động. Từ năm 1976, chuyên đề tâm lí học lao động bắt đầu được đọc tại khoa tâm lí – giáo dục, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường cán bộ Công đoàn Trung ương và một số cơ sở sản xuất tại Hà Nội (Đoạn đầu máy xe lửa Hà Nội). Có thể nói, những nghiên cứu thực sự về TLHLĐ chỉ được bắt đầu khoảng cuối những năm 70 đến nay và chủ yếu là do tổ TLHLĐ - Hướng nghiệp của Ban tâm lý học (TLH). Viện Khoa học Giáo dục tiến hành (do GS.
  35. Phạm Tất Dong chỉ đạo khoa học). Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào vấn đề dạy lao động kỹ thuật và hướng nghiệp cho học sinh phổ thông (PT). Các cán bộ nghiên cứu của tổ TLHLĐ - Hướng nghiệp đã tiến hành những thực nghiệm dạy - học lao động kỹ thuật nhằm thử hình thành ở học sinh một số phẩm chất nhân cách của người lao động có kỹ thuật như: khả năng tư duy kỹ thuật, khả năng đọc bản vẽ kỹ thuật và tạo hình từ bản vẽ, khả năng kế hoạch hoá lao động, hứng thú lao động kỹ thuật v.v Những nghiên cứu có thể đó là: "Khả năng sáng tạo của học sinh PTCS trong hoạt động học tập lao động kỹ thuật" (Nguyễn Khánh Hà); "Phát triển hứng thú và năng lực kỹ thuật thông qua hoạt động học lao động và hướng nghiệp nhằm hình thành lý tưởng nghề nghiệp cho học sinh" (Nguyễn Thế Trường). "Hình thành năng lực kỹ thuật cơ khí ở học sinh PT" (Trần Ánh Tuyết);. "Khả năng kế hoạch hoá lao động của học sinh PT" (Phạm Ngọc Luận), "Hình thành tư duy kỹ thuật với tư cách là một thành tố của sự sẵn sàng tâm lí đi vào lao động cho học sinh PTCS thông qua hoạt động học tập lao động kỹ thuật (Phạm Ngọc Uyển) Các sản phẩm khoa học đã được công bố trên các báo, tạp chí ở trong và ngoài ngành giáo dục, đặc biệt trong một số kỷ yếu Hội nghị
  36. toàn quốc những người làm công tác TLH (1974, 1978, 1982) và một số sách về tâm lí học lao động (Một số vấn đề về TLHLĐ - Phạm Tất Dong; Công tác hướng nghiệp cho học sinh PT - Phạm Tất Dong ). Một điều quan trọng là kết quả nghiên cứu dạy lao động kỹ thuật và hướng nghiệp đã góp phần tích cực vào việc xây dựng cơ sở cho việc giáo dục lao động và công tác hướng nghiệp của nhà trường PTCS và PTTH, triển khai cải cách giáo dục trong việc chuẩn bị tâm thế học nghề cho học sinh PT. Ngoài ra, đã kiến nghị với lãnh đạo Bộ Giáo dục đưa môn lao động kỹ thuật theo hướng kỹ thuật tổng hợp (Bao gồm các môn: Vẽ kỹ thuật - cho Cấp I; Kỹ thuật cơ khí - cho Cấp II; Kỹ thuật điện - cho Cấp III) để thay thế chương trình lao động hiện lúc đó ở PTCS đang theo hướng dạy nghề đơn giản. Trong thời gian gần đây đã xuất hiện một số nghiên cứu trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt sản xuất công nghiệp, thể hiện ở một số luận văn tốt nghiệp của sinh viên như: Thái độ đối với lao động của công nhân nhà máy sản xuất thiết bị điện, Nghiên cứu bầu không khí tâm lí của nhà máy chế tạo thiết bị điện Đông Anh - Hà Nội. Nghiên cứu các mối quan hệ liên
  37. nhân cách trong tập thể công nhân nhà máy điện Uông Bí Các nghiên cứu này đã góp phần bổ sung, làm phong phú thêm vốn tri thức lý luận của TLHLĐ và giúp các nhà lãnh đạo tại các cơ sở sản xuất hiểu rõ hơn các cơ sở tâm lí xã hội của việc xây dựng những tập thể sản xuất tốt. Trên cơ sở đó, tăng năng suất lao động. Trong nhiều năm qua, khi phát triển công nghiệp, ta còn ít quan tâm tới tâm lí học lao động. Việc đó có ảnh hưởng nhất định đến những cố gắng đẩy mạnh nhịp độ sản xuất và tăng năng suất lao động. Trong sự phát triển các khoa học lao động, có thể nói rằng, tâm lí học lao động ở nước ta đứng ở hàng sau cùng. Sự không đồng bộ như vậy đã đến lúc cần phải khắc phục. Chúng ta phải làm cho tâm lí học lao động có một vị trí xứng đáng bên cạnh sinh lí học lao động, thẩm mĩ học lao động Đó là trách nhiệm chung của những cá nhân và những cơ quan, đoàn thể có nhiệm vụ nghiên cứu và chỉ đạo sản xuất trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Created by AM Word2CHM
  38. Created by AM Word2CHM
  39. 6. Các phương pháp của tâm lý học lao động TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ H ỌC LAO ĐỘNG Chúng ta hiểu khái niệm phương pháp nghiên cứu khoa học là toàn bộ những cách thức và con đường để nghiên cứu một lĩnh vực nhất định. Có rất nhiều phương pháp và kỹ thuật phân tích hệ thống người - máy - môi trường. Chúng có thể được phân chia và hợp thành nhóm theo các cách khác nhau. Nhìn chung, có thể có hai nhóm lớn: các phương pháp định tính và các phương pháp định lượng. Ở đây, chúng ta sẽ quan tâm một số phương pháp và kỹ thuật phân tích định tính. 6.1. Nghiên cứu tư liệu Việc phân tích thường được bắt đầu bằng việc nghiên cứu các tư liệu của hệ thống. Ở đây là những tư liệu của một hệ thống tương tự, bản thiết kế, tài liệu chuyên môn, các tiêu chuẩn, các hướng dẫn kỹ thuật, các số liệu thống kê có liên quan đến sản xuất, năng suất lao động, các tai nạn, các hỏng hóc
  40. Cẩn phải nghiên cứu các số liệu này bởi việc phân tích không thể xuất phát từ số 0. Nhưng cũng không nên quy việc phân tích chỉ về nghiên cứu những tư liệu đó. Thật vậy, trong các hệ thống hiện có, các tư liệu thường mang tính quy chuẩn, tức là "cần phải như thế nào". Nhưng, trong thực tế sự việc lại khác: sự vận hành của các thiết bị không giống như trong bản thiết kế, thao tác viên không thể điều khiển máy móc phù hợp, hoặc do những đặc điểm cấu tạo của máy hoặc do chính bản thân con người (năng lực, trình độ đào tạo, kinh nghiệm ). Tương tự, các số liệu thống kê về năng suất, chất lượng, tai nạn lao động không thể cho ta biết trực tiếp các nguyên nhân của một số trường hợp bất thường. Vì vậy, nghiên cứu tư liệu là giai đoạn đầu tiên và bắt buộc nhưng sẽ được tiếp tục bằng việc sử dụng những phương pháp khác. 6.2. Phương pháp điều tra Tác dụng của phương pháp này là có thể thu thập thông tin có ích trực tiếp từ những người hiểu biết tốt nhất về hệ thống. Các liên hệ thông tin đang tồn tại, đặc điểm, nét đặc biệt của các liên hệ đó. Muốn vậy, phải làm cho những người được hỏi hiểu thật rõ mục đích của cuộc điều tra và phải tạo được một bầu không
  41. khí hiểu biết, tin tưởng lẫn nhau. Các câu hỏi có thể đặt vào yếu tố con người: lao động có quá mệt mỏi đối với họ hay không? Do quá ồn hay bởi các điều kiện khác? Có sự thiếu thoải mái trong (hay sau) lúc làm việc không? Các thao tác nào là quá khó khăn? Đâu là những thời điểm hay những tình huống phức tạp trong quá trình giám sát công việc? v.v Các câu hỏi cũng có thể đề cập tới những sai sót của máy như: có phải vì các tín hiệu được bố trí tồi nên khó nhìn thấy? Các bộ phận điều khiển cũng vậy. Do được bố trí không đúng nên thao tác viên khó sử dụng? Các tín hiệu nào thường sử dụng nhất? Các sự cố và nguyên nhân xảy ra? v.v Các cứ liệu của phương pháp này cần được sử dụng một cách thận trọng (do một số câu trả lời không đúng sự thật hoặc một số câu trả lời không đúng nội dung). 6.3. Phương pháp quan sát Có hai cách: quan sát liên tục và quan sát gián đoạn.
  42. 6.3.1. Quan sát liên tục Người nghiên cứu sẽ quan sát ghi lại toàn bộ những sự kiện và tình huống xảy ra ở nơi tiến hành quan sát: các tín hiệu truyền đến có nhận được ngay số tác động hay bị chậm trễ; chủng loại, số lượng và thời gian của các phản ứng tri giác hoặc phản ứng vận động của công nhân: các hiện tượng kỹ thuật bị ảnh hưởng hoặc bị làm thay đổi; các hành động phụ trợ v.v Trong khi tiến hành quan sát liên tục, có thể sử dụng một số kỹ thuật thu thập thông tin như dụng cụ đo thời gian, máy quay phim, máy ghi âm. Cũng có thể sử dụng thiết bị truyền hình nội bộ. Điều này có lợi vì người bị quan sát sẽ không cảm thấy bị bối rối trước sự có mặt của nhà nghiên cứu. Trong bất cứ trường hợp nào thì cũng nên thận trọng như đối với phương pháp điều tra, người bị quan sát phải biết được mục đích của công việc này và phải tạo bầu không khí tin tưởng lẫn nhau. 6.3.2. Quan sát không liên tục (gián đoạn) (còn được gọi là điều tra thống kê hay mẫu lao động) Mục đích và nội dung của các quan sát kiểu
  43. này cũng tương tự như của quan sát liên tục, áp dụng cách này, có thể quan sát được (một cách lần lượt) nhiều vị trí làm việc. Người ta lấy một khoảng thời gian (mẫu) đã được xác định (chẳng hạn, từ 2-10 phút) và chỉ tiến hành quan sát tại cùng một vị trí, cần xác định một khoảng thời gian đủ lớn để người nghiên cứu có thể di chuyển sang vị trí làm việc thứ hai, là vị trí mà anh ta sẽ tiến hành quan sát trong một thời gian xác định. Số lần quan sát đối với từng vị trí làm việc sao cho có thể đại diện được về phương diện thống kê. 6.4. Kiểm tra bằng đánh dấu bảng hỏi (check list) Kỹ thuật này bao gồm một bảng câu hỏi có nội dung và thứ tự đã được ấn định, nhằm kiểm tra những khía cạnh khác nhau trong hệ thống (hay kiểu hệ thống, các thành tố của hệ thống). Bảng hỏi có thể rất rộng nếu như nó đề cập đến một loạt vấn đề như: các thông số kỹ thuật của máy, quá trình công nghệ, sự an toàn của lao động, vấn đề tổ chức, các nguyên tắc của Công thái học v.v Chúng ta sẽ làm rõ những điều vừa nói trên đây bằng một vài điểm đề cập về các nguyên tắc của Công thái học:
  44. - Hình dáng và kích thước của vị trí làm việc đã được nghiên cứu kỹ chưa? - Công nhân có thể ngồi ghế để làm việc hay nhất thiết phải đứng? Anh ta có thể thay đổi tư thế làm việc được không? - Ghế ngồi làm việc đã được thiết kế đúng chưa (chiều cao, hình dạng, chỗ tựa)? - Ghế ngồi có cản trở các vận động không? - Các đèn hiệu đã được thiết kế phù hợp chưa (đặc điểm cấu tạo khoảng cách quan sát, chữ, ký hiệu)? - Các bộ phận điều khiển đã được lắp đặt hợp lí chưa? Có thuận tiện cho công nhân khi sử dụng không? - Các bộ phận điều khiển có tạo một sức tương phản mạnh với nền của máy hoặc của giá điều khiển không? v.v 6.5. Phân tích các ma trận Đó là kỹ thuật để đánh giá các tình thế (chẳng hạn, trong trường hợp phân bố chức năng cho các
  45. thành tố trong hệ thống) và để chỉ ra những một tác động tương hỗ trong hệ thống (thành tố B phụ thuộc vào thành tố A, và ảnh hưởng đến thành tố C v.v ) Công thức ma trận có thể được phân tích trên cơ sở những kết luận định tính hoặc các phương trình toán học riêng. Trong công thức này, các yếu tố của hệ thống được phân chia thành 3 loại lớn: - Những yếu tố xác định "nằm ngoài" hệ thống nhưng lại qui định tính chất, hình thức và các giới hạn của hệ thống (mục đích, yêu cầu kết quả đầu vào và những hạn định như giá cả, thời gian v.v ). - Các yếu tố thành phần (máy móc, con người, môi trường thiết bị hạ tầng như nhà xưởng, kho, đường sá v.v ) - Các yếu tố tích hợp (các thao tác, giao tiếp thông tin, các cấu trúc tổ chức và quyết định). 6.6. Phân tích các mối liên hệ (links analysis) Đó là một kỹ thuật làm sáng tỏ các mối liên hệ giữa các thành phần hay giữa các yếu tố của một thành phần. Các mối liên hệ này được trình bày bằng
  46. đồ thị và được thể hiện bằng những thuật ngữ thống kê: Tần số tương đối và giá trị của các liên hệ. Sơ đồ với các số liệu thống kê này sẽ giúp đề xuất những biện pháp hoàn thiện (nếu cần thiết) để tránh số chồng chéo các liên hệ khác nhau, giúp cho sự điều khiển tối ưu của người và máy; giúp bố trí phù hợp các yếu tố thông tin và các thiết bị điều khiển - điều chỉnh v.v 6.7. Phân tích các sai sót Theo D.Meister và A.D.Swain, có thể định nghĩa sai sót theo nhiều cách khác nhau: thực hiện một hành động không đúng theo yêu cầu; không thực hiện hành động được yêu cầu; thực hiện hành động không tuân theo đúng tuần tự đã được qui định; thực hiện một hành động không được yêu cầu; không thực hiện hành động được yêu cầu trong giới hạn thời gian đã cho. Tất cả những hành động không phù hợp này chỉ có thể bị xem là các sai sót nếu chúng còn có những điều kiện khác nữa, như: - Hành động không phù hợp cần phải được xem xét trong một khung cảnh thao tác hay trong phạm vi mục đích, chức năng và nhiệm vụ của hệ thống. Bởi
  47. vì ý nghĩa của nó có thể bị thay đổi khi các yếu tố của nhiệm vụ hay bản thân các nhiệm vụ lại được kết hợp vào trong những nhiệm vụ hoặc chức năng mới. Tương tự, ý nghĩa của một hành động không phù hợp có thể thay đổi trong quan hệ với các biến số như: stres, động cơ (khi vượt quá những điều kiện hoạt động bình thường). - Để trở thành một sai sót, hành động không phù hợp phải gây ra một hiệu quả tiêu cực (âm tính) thực hoặc tiềm tàng đối với hiệu quả của các tiểu hệ thống hay của hệ thống. Có nhiều cách phân loại các sai sót, căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau. Về mặt thái độ (theo E.C.Cornell), có thể có: a) Sai sót do không tôn trọng qui trình đã được xác lập, b) Dự đoán không đúng. c) Phán đoán sai; d) Phân tích thông tin không đúng (không phù hợp); e) Thiếu chú ý hoặc thiếu thận trọng. Về phương diện những ảnh hưởng đối với các thao tác của hệ thống, ta có (theo bảng E.Brady): a) Những sai sót luôn luôn xuất phát từ những sai sót của hệ thống. b) Những sai sót đi liền với sai sót của
  48. trang thiết bi kỹ thuật và xuất phát từ sai sót của hệ thống (sai sót nguy cơ); c) Những sai sót xuất phát từ những sai sót của hệ thống chỉ khi trùng hợp với một số điều kiện nhất định. * Phát hiện và nhận biết các sai sót Hiện nay, trong nhiều hệ thống đã có những kỹ thuật tự động và nửa tự động để phát hiện các sai sót (chẳng hạn như: các mã sai sót - chỉnh sửa trong các trương trình máy tính; dự đoán; cô lập một yếu tố bị hỏng v.v ). Các phương tiện phát hiện sai sót có thể được phân loại thành: a) Các phương tiện phân tích và bị các phương tiện tổng hợp phân tích. Người ta có thể xuất phát từ sai sót cuối cùng và dần dần trình bày tất cả các điều kiện và nguyên nhân có thể gây ra sai sót đó. Rõ ràng, đó là một sự phân tích đồng thời các thao tác của con người và của các trạng thái chức năng của trang thiết bị kỹ thuật. 6.8. Phân tích chu trình Đó là việc xác lập và biểu diễn bằng đồ thị chu trình các thao tác hoặc các giai đoạn khác nhau của
  49. quá trình truyền thông tin. Bằng cách nghiên cứu này, có thể hoàn thiện trật tự diễn ra các thao tác, loại bỏ một số thao tác không cần thiết hoặc đưa vào một số thao tác khác. Phân tích chu trình có hai cách: a) Biểu đồ (giản đồ) Kurke: trình bày đồ thị dựa trên sự ký hiệu hoá các thao tác khác nhau b) Họa đồ tổ chức: (orgamgramme): họa đồ bao hàm một loạt các thao tác - được trình bày dưới dạng những ô vuông nhỏ và ghi tên các thao tác ở bên trong - và trật tự cần diễn ra của những thao tác đó. Khi nói về yếu tố con người thì trật tự này có thể được hoặc không được tôn trọng. Trong trường hợp không được tôn trọng thì bản họa đồ tổ chức sẽ là thang chuẩn giúp để so sánh và đồng thời đưa vào đó nâng cao tay nghề cho công nhân (vì đó là một algoritm - thuật toán). 6.9. Phương pháp thực nghiệm Nhờ phương pháp này có thể xác định một cách chắc chắn sự ảnh hưởng hoặc không của các biến số khác nhau đến hiện tượng cần nghiên cứu và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến số đó. Việc này có thể làm được vì trong thực nghiệm các biến số
  50. sẽ được kiểm soát chặt chẽ. Trong bất cứ thực nghiệm nào cũng tồn tại hai loại biến số: các biến số độc lập, là những biến số nhằm nghiên cứu (các khả năng và hạn chế trong tri giác, trí nhớ, hành động của con người ) và các biến số phụ thuộc, là những biến số chịu ảnh hưởng của những biến số độc lập và nhờ có chúng có thể đánh giá được các yếu tố độc lập. Có thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Sự khác nhau giữa hai loại thực nghiệm không chỉ ở chỗ loại thứ nhất diễn ra trong điều kiện thực còn loại thứ hai diễn ra trong phòng thí nghiệm, mà còn ở tính chất của các biến số. Như vậy, thực nghiệm tự nhiên ít được sử dụng hơn bởi vì: a) Không phải lúc nào cũng cho phép kiểm soát chặt chẽ các biến số được nghiên cứu. b) Đôi khi bắt buộc thực nghiệm viên phải chờ đợi sự xuất hiện của các hiện tượng mà anh ta đang quan tâm; c) Nhiều khi không thể thực hiện được. Để khắc phục nhược điểm của phương pháp thực nghiệm tự nhiên và thực hiện trong phòng thí nghiệm, người ta sử dụng một loại thực nghiệm khác
  51. được gọi là sự đồng nhất. Đặc trưng của loại này thể hiện, trước hết, ở sự gần gũi giữa mô hình thực nghiệm với các điều kiện thực (ít nhất là trong tính chất của chúng) và sau nữa, ở tính có thể kiểm soát được các biến số. Mô hình được thực nghiệm (sự trình bày các điều kiện, các hiện tượng, các tín hiệu) có thể được làm bằng tay (do thực nghiệm viên làm) hoặc bằng các phương tiện bán tự động hay tự động. Các mô hình thực nghiệm có thể rất phong phú tuỳ thuộc vào mục đích các hiện tượng cần nghiên cứu. Số liệu thực nghiệm cần được xử lý thống kê. Đồng thời, những kết quả thu được sau khi phân tích phải được kiểm định và khẳng định trong điều kiện vận hành của hệ thống. Câu hỏi ôn tập 1. Hãy nêu định nghĩa và phân tích cấu trúc chung của hoạt động lao động? 2. Nêu các đối tượng nghiên cứu cụ thể của tâm lí học lao động. 3. Nêu các nhiệm vụ cụ thể của tâm lí học lao động.
  52. 4. Hãy phân tích mối quan hệ giữa tâm lí học lao động với các chuyên ngành tâm lí học khác và với các khoa học về lao động. 5. Nên những nét lớn về lịch sử hình thành và phát triển của tâm lí học lao động. 6. Hãy nêu và phân tích một số phương pháp đặc thù của TLHLĐ? Created by AM Word2CHM
  53. Chương 2. HỆ THỐNG NGƯỜI - MÁY - MÔI TRƯỜNG TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG 1. Khái niệm hệ thống người - máy - môi trường 2. Các tính chất của hệ thống người - máy - môi trường 3. Các thuộc tính của hệ thống 4. Các kiểu hệ thống 5. Thiết kế hệ thống và việc đánh giá yếu tố con người 6. Các chức năng do con người thực hiện trong hệ thống Created by AM Word2CHM
  54. 1. Khái niệm hệ thống người - máy - môi trường TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 2. HỆ THỐNG NGƯỜI - MÁY - MÔI TRƯ ỜNG 1.1. Định nghĩa Khái niệm hệ thống "Người - máy - môi trường" là một khái niệm cơ bản và đặc thù của tâm lí học lao động. Kiểu hệ thống này là một trường hợp riêng của các hệ thống điều khiển. Như J.L.Kennedy đã nói, từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những vật dụng cần thiết nhờ vào một loại công cụ đơn giản nhất - hòn đá - khi đó hệ thống người - máy đơn giản nhất cũng được hình thành. Đó là vì mục đích (sản phẩm tương ứng) đã được thực hiện thông qua mối quan hệ tương tác giữa người và công cụ. Khi ta thêm vào con người một công cụ, ta đã cấu tạo nên một "cơ thể" khác: con người trong mối quan hệ với công cụ, có nghĩa là ta cấu tạo nên một hệ thống "nhân tạo". Nếu vấn đề là mô tả, xem xét và kiểm soát hành động của con người thì chỉ cần nghiên cứu con người trên hệ thống sinh học - tâm lí - xã hội là đủ. Nhưng ở đây chúng ta quan tâm tới hành động của
  55. con người trong hoạt động lao động. Cho nên, không thể mô tả, kiểm soát và dự đoán được hành động của con người nếu không đề cập tới những máy móc con người đang làm việc, tới môi trường vật lí và xã hội mà trong đó hoạt động lao động đang diễn ra. Tương tự, hiệu quả làm việc của máy móc cũng sẽ không thể được đánh giá chính xác nếu không tính đến hiệu quả làm việc của con người. Như vậy, khi xem xét khái niệm hệ thống trong tâm lí học lao động cần lưu ý đến mối quan hệ tồn tại giữa ba thành tố: người, máy, môi trường. Như đã nói lúc đầu, khái niệm "máy móc" ở đây mang một nghĩa riêng: nó phản ánh bất kỳ một đối tượng vật lí nào - công cụ, máy móc, thiết bị v.v được con người sử dụng trong một hoạt động nhất định. Còn khái niệm môi trường sẽ bao hàm cả điều kiện vật lí (ánh sáng, nhiệt độ, tiếng ồn v.v ) lẫn điều kiện xã hội mà trong đó hoạt động lao động đang diễn ra. Có nhiều định nghĩa về hệ thống người - máy - môi trường. Các định nghĩa đó về cơ bản, là không mâu thuẫn nhau nhưng khác nhau về số lượng các yếu tố bao hàm trong định nghĩa. Ở đây, chúng ta thử
  56. cố gắng tổng hợp tất cả các yếu tố vào trong một định nghĩa duy nhất: - Hệ thống người - máy - môi trường là một tổng thể được hình thành nên từ một hay nhiều người và từ một hay nhiều yếu tố vật lí, máy móc), có quan hệ tương hỗ với nhau dựa trên một chu trình thông tin, thuộc một hoàn cảnh vật lí và xã hội nhằm thực hiện một mục đích chung. Như vậy, các thành tố của kiểu hệ thống này là: con người, máy móc, môi trường. Đối với từng ngành khoa học khác nhau thì mỗi thành tố trên đây có thể được xem là một hệ thống. Và đến lượt nó, mỗi hệ thống như vậy có thể lại được chia ra thành nhiều tiểu hệ thống và thậm chí thành các hệ thống, chẳng hạn: con người được hình thành từ hệ thống tuần hoàn và hệ thống thần kinh (Hệ thống thần kinh lại được chia thành hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh thực vật v.v ). Tuy nhiên, đối với khái niệm hệ thống trong tâm lí học lao động, người máy, môi trường là các thành tố (chứ không phải là hệ thống hay tiểu hệ thống). Ba thành tố này tạo nên một hệ thống nếu giữa chúng có mối quan hệ tương tác. Thông qua sự
  57. tương tác này, các thành tố của hệ thống thực hiện một mục đích chung, là cái làm cho chúng trở thành một hệ thống. Nếu như các hệ thống nói chung có một cấu trúc thứ bậc thì rõ ràng là hệ thống người - máy - môi trường cũng có một cấu trúc tương tự như vậy. Trong định nghĩa đã chỉ rõ rằng hệ thống này là một quần thể được hình thành hoặc từ một người và một máy hoặc từ nhiều người và nhiều máy. Điều này có nghĩa là: đối với một số điều kiện hoặc hoàn cảnh nhất định, một người và một máy có thể tạo nên một hệ thống (người lái xe và phương tiện, người phi công và máy bay, người thợ hàn và máy hàn) bởi vì nó có tất cả các tính chất của hệ thống. Điều này cũng đúng trong trường hợp một số tổ hợp, một người và nhiều máy (một người thợ dệt trông nhiều máy dệt một lúc) hoặc một máy và nhiều người (máy bay và phi hành đoàn). Mỗi tổ hợp này sẽ là một tiểu hệ thống hoặc một đơn vị trong một tiểu hệ thống thuộc bậc cao hơn. Tiếp tục cách hiểu như vậy, chúng ta có thể gọi hệ thống là một đơn vị công nghiệp (nhà máy) trong đó các khu vực khác nhau của nó có thể là các tiểu hệ thống. còn mỗi khu vực (tiểu hệ thống), đến lượt nó lại được tạo thành
  58. bởi nhiều đơn vị ở những vị trí làm việc khác nhau (chẳng hạn một người, một máy). Tương tự, nếu nhà máy đó chỉ là một giai đoạn của quá trình thực hiện một sản phẩm tức là nó đang cùng với các đơn vị công nghiệp khác để sản xuất ra sản phẩm đó, thì tất cả các nhà máy này (trong trường hợp này chúng là các tiểu hệ thống) sẽ tạo thành một hệ thống người - máy - môi trường duy nhất. Trong những trường hợp đó, người ta nói đến các hệ thống vĩ mô (chẳng hạn, Hệ thống Năng lượng Quốc gia). 1.2. Tầm quan trọng của quan điểm hệ thống người - máy - môi trường Về mặt lí luận và thực tiễn, quan điểm hệ thống dẫn đến một phương pháp phân tích phù hợp (trong việc nghiên cứu, thiết kế, khai thác và duy trì) những tính chất của các thành tố trong quá trình thực hiện một mối tương tác tối ưu giữa chúng với nhau. Nhờ sự hoàn thiện đáng kể của các thiết bị kỹ thuật, mối quan hệ giữa các thành tố trở nên phức tạp hơn và đặc biệt là: một mặt các yêu cầu đối với hoạt động của con người đã thay đổi cả về mặt cảm giác lẫn trí tuệ và vận động. Mặt khác, xuất phát từ lí do về
  59. hiện quả sản xuất, bản thân con người cũng đề cao yêu cầu đối với các tính năng thao tác và tính năng duy trì cua máy móc. Cho dù các thành tố của hệ thống có được hiểu như thế nào chăng nữa thì cuối cùng chúng cũng có liên hệ với nhau. Nhờ có liên hệ mà hiện quả của hệ thống sẽ phụ thuộc vào cách thức chuẩn bị cho các thành tố tham gia vào một liên hệ. Điều quan trọng cuối cùng không phải là những đặc điểm lí tưởng của máy móc và môi trường xung quanh hay những đặc điểm của môi trường nói chung, mà là hiệu suất làm việc của một chiếc máy nhất định khi được một người nhất định sử dụng. Trên thực tế, muốn hiểu một hệ thống, phải hiểu được từng thành tố và mối tương tác giữa các thành tố đó. Các thuộc tính cấu tạo và chức năng cua chúng. Trạng thái của hệ thống chịu ảnh hưởng của trạng thái từng thành tố cũng như trạng thái của một thành tố phụ thuộc vào trạng thái của tất cả các thành tố khác. Khái niệm hệ thống đòi hỏi sự phân bố các chức năng của hệ thống giữa các thành tố của nó - đặc biệt phụ thuộc vào cái mà con người sẽ làm tốt hơn và máy móc sẽ làm tốt hơn. Xuất phát từ quan điểm hệ thống, độ tin cậy
  60. của hệ thống cần được xem xét trong độ tin cậy của từng thành tố, kể cả thành tố con người. Không thể đánh giá độ tin cậy của hệ thống chỉ căn cứ vào các thành tố vật lí bởi vì điều này sẽ có nghĩa là chúng ta coi thành tố con người như là nó có độ tin cậy cố định, không thay đổi. Người ta biết rằng, con người cũng có thể là một nguồn sai sót trong hệ thống bởi vì đó là một thành tố phức tạp nhất, còn hiệu suất làm việc của con người lại thay đổi vì chịu ảnh hưởng của tất cả các yếu tố khác (các đặc điểm vật lí của các tín hiệu, điều kiện, thể chất, sự mệt mỏi, môi trường vật lí và xã hội, khối lượng tri thức v.v ). Khái niệm hệ thống người - máy - môi trường cho phép ứng dụng phương pháp điều chỉnh và đo đạc vào việc phân tích, mô tả và đánh giá hiệu suất làm việc của yếu tố con người trong hệ thống. Quan điểm hệ thống tích hợp hàng loạt vấn đề của tâm lí học lao động. Đó là những vấn đề về hoạt động tri giác, hoạt động tư duy, vận động và hàng loạt các vấn đề quan trọng khác như nghiên cứu các thang chia độ ở các máy đo, hình dáng của các thiết bị điều khiển v.v Created by AM Word2CHM
  61. Created by AM Word2CHM
  62. 2. Các tính chất của hệ thống người - máy - môi trường TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 2. HỆ THỐNG NGƯỜI - MÁY - MÔI TRƯ ỜNG Trong các tài liệu đề cập tới hệ thống người - máy - môi trường, đều có phân biệt giữa các tính chất và các thuộc tính của hệ thống này và không trình bày toàn bộ các thuộc tính của hệ thống như lí thuyết chung về hệ thống thường làm. Sau đây sẽ trình bày các tính chất của hệ thống người - máy - môi trường theo quan niệm của E.J.Mc Cormick. 2.1. Mục đích của hệ thống Bất cứ một hệ thống người - máy - môi- trường nào cũng có một hay một loạt mục đích mà nhờ đó nó tồn tại. Chẳng hạn, việc sản xuất các đồ dùng thiết yếu hay năng lượng là thuộc về các hệ thống công nghiệp; còn vận chuyển hàng hoá hay vận chuyển con người là những hệ thống vận tải v.v Chỉ khi xác định đúng mục đích mới có thể xác định được các đặc tính khác của hệ thống (số lượng và tính chất của các thành tố, chức năng của hệ thống và của các
  63. thành tố, các nhiệm vụ ). 2.2. Các chức năng của hệ thống và các chức năng của các thành tố Để đạt được mục đích đặt ra, hệ thống thực hiện những chức năng nhất định, tức là những nhóm lớn các hành động đã được chuyên biệt hoá. Các chức năng này do một cá nhân hay một tập thể tiến hành, hoặc trong cả hai cách đều là do các thành tố con người và thành tố vật lí của hệ thống thực hiện. Các chức năng của hệ thống có thể được chia thành: a) Các chức năng cơ bản; b) Các chức năng thao tác. Các chức năng cơ bản: Có 4 chức năng cơ bản, là:
  64. tiếp nhận thông tin, lưu giữ thông tin, xử lí thông tin và quyết định thực hiện (Hình 1): Hình 1. Các chức năng cơ bản do hệ thống người - máy môi trường thực hiện (theo K. F. H. Murrell, 1965) Các chức năng thao tác. Mặc dù trong bất cứ một hệ thống người - máy - môi trường nào cũng có các chức năng cơ bản như đã trình bày ở trên, nhưng trên thực tế cần xác lập các chức năng tổng hợp mang tính chất thao tác. Trong khi thực hiện một chức năng thao tác đòi hỏi kết hợp nhiều chức năng cơ bản. Chẳng hạn, trong một hệ thống bưu điện, có các chức năng thao tác như: đóng dấu, phân loại, chia các thư từ v.v Hoặc, trong một hệ thống công nghiệp, có các chức năng thao tác như: chương trình hoá, giám sát, chẩn đoán sự rối loạn chức năng, điều chỉnh, tối ưu hoá, bảo dưỡng. 2.3. Mạng thông tin Mạng thông tin là một yếu tố cơ bản giúp cho hệ thống vận hành tốt vì nó đảm bảo sự trao đổi thông tin giữa các thành tố của hệ thống. Trong một số hệ
  65. thống có thông tin bằng tiếng nói, thông tin bằng chữ viết, còn trong một số hệ thống khác, ngoài hai phương tiện vừa kể trên còn có cả sự truyền một tín hiệu từ máy đến người (thông qua các máy đo) và từ người đến máy (thông qua các bộ phận điều khiển) (Hình 2) 2.4. Lối vào của hệ thống (khởi động) Đó là toàn bộ những phương tiện vật chất hoặc thông tin cần thiết của hệ thống nhằm đạt được một mục đích đề ra. Xét về bản chất, các lối vào có thể rất khác nhau: nhiệt độ, năng lượng điện, nguyên liệu. v.v đồng thời có thể là những thông điệp được truyền qua hệ thống vô tuyến điện, các thiết bị điều khiển sản xuất Trong nội bộ một hệ thống thì lối ra của một thành tố có thể là lối vào của một thành tố tiếp theo. 2.5. Lối ra của hệ thống Đó là kết quả vận hành của hệ thống, có nghĩa là mục đích của nó (sản phẩm vật chất, thông điệp được truyền đi. v.v ). Như chúng ta đã thấy ở trên, mỗi thành tố của hệ thống là một lối ra. Dưới góc độ thông tin, lối ra của một thành tố hay của hệ thống còn có thể được xem như một mối liên hệ hay một phản
  66. ứng ngược (Feed - back) dương tính hoặc âm tính. Nó có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh sai vận hành của thành tố hay hệ thống, tức là có vai trò quan trọng trong sự ổn định và cân bằng của chúng. Created by AM Word2CHM
  67. 3. Các thuộc tính của hệ thống TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 2. HỆ THỐNG NGƯỜI - MÁY - MÔI TRƯỜNG Các tác giả khác nhau đã đưa ra con số khác nhau về số lượng các thuộc tính của hệ thống. Dưới đây, chúng ta chỉ quan tâm đến 3 thuộc tính. 3.1. Tính ổn định Một hệ thống ổn định khi ở bất cứ thời điểm nào nó cũng đều thực hiện được mục đích đề ra. Trong trường hợp bị trục trặc, hệ thống có thể loại bỏ được các hậu quả bằng hiện tượng điều chỉnh. Trong hệ thống người - máy, con người thường đóng vai trò chủ yếu trong việc điều chỉnh. Bởi vì con người tri giác một cách tổng thể những trục trặc giữa mục đích và kết quả thực tế, trong trường hợp trục trặc, con người dễ tự điều chỉnh hơn vì linh hoạt hơn. 3.2. Sự thích ứng Đó là khả năng thay đổi "từng bước" của hệ thống mà không xảy ra những tục trặc lớn nhờ vào những thay đổi nội tại trong thiết bị, quy trình công
  68. nghệ, năng lượng, mục đích, con người. G.Simondon phân biệt hai kiểu tiến hoá: a) Tiến hoá không liên tục, khi chuyển từ một trình độ này sang một trình độ khác (phù hợp với một sự cải tổ lại của hệ thống); b) Tiến hoá liên tục, ngay trong lòng của một trình độ và có được từ một sự hoàn thiện của các thành tố. 3.3. Độ tin cậy Có rất nhiều khả năng đo đạc và như vậy là cũng có nhiều khả năng định nghĩa độ tin cậy của một hệ thống. Mỗi khả năng cụ thể phù hợp với một hệ thống hay một hoàn cảnh nhất định, bất cứ một khả năng nào cũng có thể áp dụng được cho cả hệ thống lẫn hai thành tố của nó (người, máy). Chúng ta sẽ chỉ nêu ra hai khả năng. Định nghĩa thứ nhất: Độ tin cậy là xác suất thực hiện thành công một sản phẩm nhất định. Điều này có nghĩa là nó đối lập với xác suất xuất hiện một sai sót hay trục trặc trong vận hành (hỏng hóc, sự cố, lỗi). Định nghĩa này đặc biệt được áp dụng khi sản
  69. phẩm có những hiện tượng khó hiểu (khó nhận thấy) như việc phát hiện ra một lỗi (sai sót). Định nghĩa thứ hai: Độ tin cậy biểu hiện ở thời gian trung bình cho một sai sót, và có nhiều dạng: a) Thời gian trong đó hệ thống hay các thành tố của hệ thống thực hiện thành công một sản phẩm; b) Thời gian tính đến một sai sót; c) Thời gian giữa các sai sót. Khả năng này có thể áp dụng riêng cho những loại hoạt động liên trực. Chúng ta chấp nhận đinh nghĩa thứ nhất về độ tin cậy vì nó phù hợp với mục đích chung. Như vậy, độ tin cậy của hệ thống phụ thuộc vào: a) Độ tin cậy của từng thành tố (người, máy) và b) Các thành tố trong hệ thống được kết hợp với nhau theo đường thẳng hoặc song song. Khi các thành tố được bố trí theo đường thẳng, cần phải xác định 2 điều kiện: a) Sai sót của một thành tố dẫn đến sai sót của hệ thống; b) Những sai sót của các thành tố độc lập với nhau. Nếu các điều kiện này được thực hiện, thì độ
  70. tin cậy của hệ thống sẽ là kết quả độ tin cậy của các thành tố khác nhau. F Hệ thống = F1 x F2 x F3 x Fn Trong đó F1, F2, F3, Fn là độ tin cậy của các thành tố riêng biệt. Từ đó thấy rằng, khi số lượng các thành tố trong hệ thống tăng lên thì độ tin cậy chung của hệ thống sẽ giảm đi. Ví dụ: Nếu hệ thống có 100 thành tố và mỗi thành tố có độ tin cậy là 0,99 (tức là 99% thời gian hệ thống làm việc tốt) thì độ tin cậy của hệ thống sẽ là 0.365, nhưng nếu hệ thống gồm 400 thành tố thì độ tin cậy chung của hệ thống sẽ là 0,03. Khi độ tin cậy của hệ thống phụ thuộc vào độ tin cậy của hai thành tố (chẳng hạn, một máy và một người), có thể xác định độ tin cậy của hệ thống xuất phát từ độ tin cậy của cả hai thành tố (Hình 3) Hình 3: Độ tin cậy của hệ thống phụ thuộc vào độ tin cậy của người và máy (theo D.Meister và G.F.Robideau, 1965). Khi bố trí các thành tố song song với nhau, lúc đó hai hay nhiều thành tố sẽ thực hiện cùng một chức năng, điều đó sẽ làm tăng xác suất thực hiện thành công chức năng đó. Như vậy, độ tin cậy của hệ
  71. thống là sự tổng hợp xác suất thành công của tất cả các thành tố khi áp dụng công thức của R.Gordon (1957): F hệ thống = [1 - (1 - f)m]n Trong đó m = số lượng thành tố đặt song song dành cho mỗi chức năng, n = số lượng chức năng f = độ tin cậy của mỗi thành tố. Nhưng, công thức này yêu cầu số lượng các thành tố đặt song song dành cho mỗi chức năng phải như nhau, độ tin cậy của mỗi thành tố cũng tương tự như vậy. Trong trường hợp ngược lạ, việc xác định độ tin cậy của hệ thống sẽ trở nên phức tạp. Chẳng hạn, nếu hệ thống gồm 2 thành tố, thì độ tin cậy của hệ thống (được ký hiệu bằng Fs (1,2) sẽ là: Fs (1.2) = F1+ (1 - F2) F2 Nếu hệ thống gồm 3 thành tố, ta sẽ có: Fs (1,2,3) = Fs (1,2) + (1 - Fs (1.2)) F3 và tiếp tục
  72. Chúng ta đã phân tích thuộc tính này của hệ thống tương đối kỹ hơn xuất phát từ 2 lí do: a) Độ tin cậy là một thuộc tính quan trọng của hệ thống. b) Trong khi xác định độ tin cậy của hệ thống cần lưu ý cả đến độ tin cậy của thành tố con người. Dựa trên một số nghiên cứu, I.A.Irwin, J.J.Levitz, A.M.Freed đã đưa ra một số mức độ của độ tin cậy trong khi người công nhân thực hiện một số nhiệm vụ: Nhiệm vụ Thời gian đọc băng Gá lắp một tấm đệm vào chỗ khớp Độ tin cậy nối 0.9904 Kiểm soát một măng-sông giảm Mở van Thay thế một ống nén
  73. 0.9945 0,9958 0,9968
  74. 0.9976 Trong một tài liệu của D.Meister, chúng ta có thể tìm thấy các chỉ số về độ tin cậy khác nhau khi công nhân sử dụng các máy đo độ và các thiết bị điều khiển - điều chỉnh có kiểu loại, hình dáng, kích thước khác nhau. Created by AM Word2CHM
  75. 4. Các kiểu hệ thống TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 2. HỆ THỐNG NGƯỜI - MÁY - MÔI TRƯỜNG Như trên ta đã thấy, các hệ thống người - máy - môi trường là những hệ thống mở với những chỗ ngoặt đóng kín (nằm trong các hệ thống điều khiển học). Các hệ thống người - máy - môi trường còn được phân loại dựa vào mục đích và sự phân bố chức năng giữa người và máy. Xét về phương diện mục đích, có thể có các hệ thống sản xuất, hệ thống vận chuyển, hệ thống truyền thông tin, hệ thống bảo trì, hệ thống an ninh, hệ thống tiêu thụ v.v Dưới góc độ phân bố chức năng giữa người và máy, hoặc nói một cách cụ thể hơn, xét về khía cạnh mức độ tham gia của người và máy, có thể có hệ thống cơ giới hoá, hệ thống bán tự động, hệ thống tự động. Rõ ràng là, trong phạm vi của chính một hệ
  76. thống ở các mức độ thứ bậc khác nhau, đặc biệt ở những đơn vị nhỏ (các vị trí làm việc) có thể có những cách thức bố trí chức năng khác nhau và như vậy là có các mức độ tham gia khác nhau của yếu tố con người. Created by AM Word2CHM
  77. 5. Thiết kế hệ thống và việc đánh giá yếu tố con người TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 2. HỆ THỐNG NGƯỜI - MÁY - MÔI TRƯ ỜNG 5.1. Như ta đã thấy, sự có mặt của yếu tố con người trong hệ thống xuất phát từ chỗ con người phải thực hiện nột số chức năng cơ bản và chức năng mang tính thao tác. Việc thực hiện thành công các chức năng này không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố bên trong con người (năng lực, trình độ đào tạo, kinh nghiệm, động cơ, hứng thú v.v ) mà còn phải thuộc vào một loạt yếu tố bên ngoài - thuộc về trang bị cơ sở hạ tầng (nhà xưởng, đường sá) đặc điểm, cấu tạo của máy móc, trang bị nơi làm việc môi trường vật lí và xã hội v.v Do đó, đưa con người vào hệ thống đòi hỏi phải hết sức lưu ý đến những khả năng và những giới hạn của con người. Mặc dù những khả năng và giới hạn của con người đã được khẳng định, ngày nay chúng ta vẫn có thể tìm thấy những thiết bị kỹ thuật được thiết kế tồi về mặt thao tác cũng như về mặt bảo trì chúng. Khi các khả năng và giới hạn của con người không được lưu ý quan tâm đến thì dường như luôn luôn xuất hiện các
  78. hậu quả tiêu cực. Xuất phát từ bảng ma trận thời gian - nguyên nhân - hậu quả K.B.De Greene đã đưa ra hàng loạt ví dụ về nguyên nhân của sự không phù hợp và những hậu quả của chúng trong những giai đoạn khác nhau của sự tồn tại một số hệ thống. Mặc dù ma trận này chưa đầy đủ, nhưng nó đã làm sáng tỏ bản chất của những sự không phù hợp khác nhau có thể dẫn đến sự vận hành trục trặc của hệ thống. Ma trận này đặt con người lên vị trí đầu tiên. Đó là một nguồn chru yếu của hệ thống nhờ vào hàng loạt thuộc tính tâm lí như: năng lực, trình độ đào tạo và kinh nghiệm, động cơ, hứng thú, sự thoả mãn v.v Các nguồn không phù hợp khác, mặc dù nằm ngoài con người, nhưng cũng có ảnh hưởng và cuối cũng sẽ tác động đến chính chất lượng hoạt động của con người. Trong đó, một số có ảnh hưởng trực tiếp còn một số khác có ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động của con người. Nói cách khác, những điều kiện bên ngoài (thiết bị, sự tổ chức, môi trường) quy định chất lượng hoạt động của con người thông qua "những điều kiện bên trong của nó" (nhận thức, tình cảm, động cơ, v.v ). Như vậy, trong một hệ thống, tất cả các thành tố của nó
  79. có tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy cần phải có sự phối hợp trực tiếp của các nhà chuyên môn về tâm lí học lao động trong tất cả các giai đoạn thiết kế và khai thác các hệ thống. 5.2. Những giai đoạn chính trong thiết kế hệ thống người - máy - môi trường Về vấn đề này, ý kiến của các tác giả không khác nhau về cơ bản. Ở đây, chúng ta chấp nhận ý kiến của A.Chapanis, ông đưa ra các giai đoạn sau: a) Khởi động chương trình. b) Lập kế hoạch sơ bộ: c) Thiết kế. d) Xây dựng mẫu hệ thống, e) Kiểm tra và đánh giá hệ thống. Rõ ràng sự phân chia giai đoạn này có thể là hình thức bởi vì trên thực tế khó có thể phân biệt như vậy, ngay cả đối với thứ tự của chúng. Điều quan trọng là trong ba giai đoạn đầu (mặc dù có thể chỉnh sửa về sau) cần phải xác định rõ
  80. những vấn đề cơ bản để đưa vào bản thiết kế của hệ thống. 5.2.1. Xác định mục đích. Đó là việc xác định các đối tượng của hệ thống. Trong hầu hết các trường hợp, người đặt hàng thường nêu ra mục đích của hệ thống. Bởi vì, đối với việc thiết kế, cần xác định chi tiết các đối tượng. Đôi khi công việc này có thể được người đặt hàng và nhà thiết kế cùng phối hợp tiến hành. 5.2.2. Xác lập các chức năng của hệ thống cần thiết để thực hiện mục đích đề ra. Giải quyết đúng đắn và chi tiết vấn đề này, là rất quan trọng bởi vì nó sẽ giúp hình dung một cách cụ thể về hệ thống. Sẽ phải xác định các chức năng cơ bản và chức năng thao tác ở tất cả các giai đoạn của qui trình công nghệ, kể cả trong trường hợp xuất hiện những hiện tượng đột biến với xác suất nhỏ. 5.2.3. Phân bố chức năng giữa các thành tố của hệ thống. Sau khi các chức năng của hệ thống đã được xác lập, cần phải phân bố chúng cho các thành tố (giữa thành tố con người và thành tố vật lí, phân bố giữa các máy khác nhau). Khó nhất là việc phân bố
  81. chức năng giữa người và máy. Lúc này cần xác định rõ mức độ tham gia của yếu tố người và hình thể của máy (cơ giới hoá, bán tự động, tự động). Khi giải quyết vấn đề này cần lưu ý ba loại yếu tố: a) Kinh tế, kỹ thuật. Mức độ phát triển của kỹ thuật trong lĩnh vực tương ứng, giá cả thiết bị và lực lượng lao động, khả năng và trình độ chuyên môn của lực lượng lao động, độ tin cậy của hệ thống v.v b) Khả năng cũng như giới hạn của người và máy. Nếu như các yếu tố kinh tế kỹ thuật là có ích như nhau cho cả người và máy thì sự phân bố chức năng sẽ chủ yếu được tiến hành dựa vào những khả năng mà người và máy có. Nhìn chung tốt nhất là nên giao cho con người những chức năng mà ở đó tồn tại các tình huống có mức độ không chắc chắn cao, do mức độ an toàn trong vận hành của các thiết bị tự động là thấp nên có nguy cơ xuất hiện những hỏng hóc thường xuyên. Ngược lại, nên dành cho máy những công việc có thể xuất hiện sự nguy hiểm, công việc đòi hỏi khả năng của con người tới gần ngưỡng và những công việc đòi hỏi các thao tác chính xác, khéo léo. c) Các yếu tô động cơ. Khi trao tất cả các chức
  82. năng quan trọng cho máy và sử dụng con người chỉ như một thành phần phụ (điều này có nghĩa là làm nghèo nàn nội dung lao động đi), con người sẽ mặc cảm và không thoả mãn với nghề nghiệp. Vì vậy các chức năng và nhiệm vụ được trao cho con người phải làm sao để có thể huy động được toàn bộ nhân cách của anh ta, huy động được những đặc điểm làm cho con người có ưu thế hơn so với máy. Cần nhớ rằng, con người thực hiện các chức năng ưu thế không chỉ trong những tình huống nguy kịch mà là thường xuyên. Nếu không, anh ta sẽ khó lòng chuyển từ trạng thái thụ động sang trạng thái tích cực một cách nhanh chóng. 5.2.4. Thiết kế các thành tố vật lí nháy móc) Rõ ràng hoạt động này chủ yếu mang tính kỹ sư. Tuy vậy, ngoài các chỉ số kỹ thuật, người kỹ sư cần lưu ý đến yếu tố con người, vừa để nhằm khai thác một cách tối ưu trong chế độ làm việc bình thường vừa để duy trì chúng (kiểm tra, sửa chữa). Trong phạm vi vận hành của hệ thống, việc xác định các chức năng của người và máy, xác định chu trình thông tin và xác định những khả năng cũng như những giới hạn của con người cần đi đến sự
  83. chuyên biệt hoá phương thức thông tin và phương thức tác động của con người trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cuối cùng thì điều này cũng có nghĩa là làm cho các đặc điểm vật lí và thông tin, cấu tạo của máy và sự bố trí nơi làm việc phù hợp với các đặc điểm tâm lí của con người. 5.2.5. Xác định giá trị tối ưu của các yếu tố môi trường vật lí Chức năng và tính chất của các thao tác do con người thực hiện phụ thuộc vào mức độ chiếu sáng, tiếng ồn, nhiệt độ Các khía cạnh liên quan đến con người (nhận sự) bao gồm: 5.2.6. Việc định hướng, tuyển chọn và đào tạo nghề nghiệp cho tất cả các loại nhân sự trong hệ thống phụ thuộc vào chức năng và nhiệm vụ của từng vị trí làm việc. 5.2.7. Đánh giá mức độ cố gắng của con người và các khả năng điều chỉnh những cố gắng của người lao động. Ở đây, cần lưu ý xác lập độ dài của ngày làm việc; xác định cách quay vòng các ca làm
  84. việc, chế độ nghỉ ngơi (số lượng lần nghỉ, thời gian mỗi lần nghỉ, nội dung nghỉ, sự phân chia các lần nghỉ); tối ưu hoá cấu trúc của các thao tác, điều chỉnh nhịp độ làm việc tối ưu hoá mức độ khó của các nhiệm vụ; phân phối hợp lí giữa các thành viên của tập thể lao động v.v 5.2.8. Xác định các toạ độ của môi trường xã hội trong hệ thông và tìm sự ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau của môi trường xã hội đến tâm lí con người, tức là đến năng suất và chất lượng lao động, đến độ tin cậy của hệ thống. Trên thực tế, trong quá trình phát triển của hệ thống, sự tương tác giữa các yếu tố đã đề cập trên đây và việc đưa chúng vào trong các giải pháp kỹ thuật tối ưu của hệ thống là một quá trình sáng tạo của nhà kỹ sư và của người công nhân nhằm hoàn thiện các giai đoạn kiểm tra và đánh giá, khai thác và bảo trì hệ thống. Created by AM Word2CHM
  85. 6. Các chức năng do con người thực hiện trong hệ thống TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 2. HỆ THỐNG NGƯỜI - MÁY - MÔI TRƯ ỜNG 6.1. Chức năng cơ bản Những chức năng cơ bản mà con người thực hiện trong hệ thống là: tiếp nhận thông tin, lưu giữ thông tin, xử lý thông tin, ra quyết định, trả lời. 6.1.1. Tiếp nhận thông tin Tri giác - trong đó được hiểu là sự tiếp nhận thông tin - là một hoạt động được tổ chức một cách có ý thức. Bởi vì nó đặt ra một mục đích và những thao tác phức tạp: phân tích và tổng hợp những thuộc tính của sự vật và của phản ứng đối với cái mà nó đang tác động. Tri giác bao gồm 4 thao tác: phát hiện, phân biệt, đồng nhất và phân tích hay giải mã (trong trường hợp có các tín hiệu gián tiếp). Do khả năng hạn chế của con người trong việc truyền thông tin mà trong quá trình tri giác có một sự gạn lọc các tín hiệu đi vào trong một đơn vị thời gian. Sự gạn lọc này chịu ảnh hưởng bởi các đặc điểm
  86. vật lý và thống kê (tần số xuất hiện) của các tín hiệu, bởi mục đích của hoạt động; bởi trạng thái tích cực và chuẩn bị ("sự chờ đợi") của con người. Việc phát hiện ra tín hiệu đòi hỏi một trạng thái chức năng nhất định của các cơ quan phân tích (các cơ quan cảm giác); đòi hỏi sự định hướng vào nguồn tín hiệu; đòi hỏi sự khai thác tín hiệu. Việc phân biệt và đồng nhất tín hiệu đòi hỏi một sự luyện tập, sự hình thành những thang chuẩn trí tuệ, sự so sánh tín hiệu tiếp nhận được với chuẩn v.v Giống như các thao tác khác trong việc truyền thông tin, tiếp nhận thông tin chịu ảnh hưởng của mối quan hệ giữa khả năng của cá nhân với toàn bộ những nhiệm vụ lao động vào khối lượng thông tin. Đến lượt mình, mối quan hệ đó cũng có thể chịu ảnh hưởng của năng lực, trình độ đào tạo, kinh nghiệm nghề nghiệp, động cơ Các yếu tố này quy định mức độ tích cực, và qua đó, quy định trạng thái chung của cơ thể (chẳng hạn sự mệt mỏi), có hay không có trạng thái stress, mà cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của thao tác tiếp nhận và truyền thông tin. Phát hiện thông tin:
  87. Trong quá trình phát hiện thông tin có hai yếu tố can thiệp vào: a) Những yếu tố bên ngoài như: các đặc điểm tâm lý và thống kê của tín hiệu (cường độ, thời gian, tần số xuất hiện trong thời gian và không gian) và các đặc điểm của môi trường vật lý, kể cả tình huống; b) Những yếu tố bên trong: những thuộc tính tâm - sinh lý của cá nhân (tính mẫn cảm, trình độ đào tạo kinh nghiệm). Nhận biết ngưỡng tri giác tuyệt đối đóng vai trò quan trọng trong việc làm tối ưu hoá các điều kiện thúc đẩy quá trình phát hiện thông tin. Ngưỡng tri giác tuyệt đối không xác định chỉ bằng cường độ mà cả bằng thời gian biểu hiện của một tín hiệu thậm chí tín hiệu có cường độ trên ngưỡng một chút nhưng xuất hiện trong khoảng thời gian quá ngắn thì cũng không thể tri giác), cần lưu ý đến khả năng thích ứng của tri giác, đến quan hệ tương tác giữa các cơ quan phân tích với những thay đổi của ngưỡng tri giác trong phân tích nghề nghiệp. Các yếu tố chủ yếu có ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát hiện một kích thích thị giác là: mức độ chiếu sáng, sự tương phản giữa kích thích và nền, thời gian xuất hiện kích thích, sự thích ứng của mắt, độ lớn
  88. của bề mặt kích thích. Để tối ưu hoá việc phát triển tín hiệu, cần bố trí các tín hiệu trong phạm vi của trường tri giác, tạo sự tương phản sáng tối giữa tín hiệu và nền v.v Thao tác phát hiện tín hiệu sẽ trở nên dễ dàng hơn khi con người có khả năng làm quen (luyện tập) với cấu trúc thống kê của các tín hiệu, với trật tự xuất hiện của chúng và ý nghĩa của các mối liên hệ giữa chúng với nhau. Khả năng của con người trong việc đón trước, chờ đợi một tín hiệu cũng sẽ làm dễ dàng quá trình phát hiện tín hiệu. Phân biệt tín hiệu: Đây là thao tác phân biệt một tín hiệu khỏi các tín hiệu khác, khỏi những tiếng ồn và khỏi những yếu tố nhiễu của nền. Thao tác này dựa trên ngưỡng sai biệt. Ta biết rằng một kích thích thường được biểu hiện bằng một hay nhiều đặc điểm như: cường độ, tần số, màu sắc, thời gian v.v và một kích thích có thể thay đổi liên tục trong phạm vi một đặc điểm duy nhất. Nhìn chung, có thể tạo những kích thích khác nhau từ cùng một đặc điểm vật lý (ví dụ: âm thanh) nhưng có giá trị khác nhau về độ dài của đặc điểm đó (ví dụ: cường độ). Trong trường hợp này, con người cần phải phân biệt, xác định và phán đoán các
  89. giá trị khác nhau của kích thích theo độ dài của một đặc điểm. Những phán đoán này có hai loại: tương đôi (khi so sánh giữa hai hay nhiều kích thích) và tuyệt đối (dựa trên một thang chuẩn trí tuệ). Khả năng phân biệt được đánh giá dựa trên sự chính xác của các phán đoán (tương đối và tuyệt đối) và số lượng phân biệt có thể có. Nhưng khả năng phân biệt tín hiệu của con người còn hạn chế. Theo G.A.Miller, nhìn chung, khả năng này là 7±2 tín hiệu: Việc sử dụng nhiều đặc điểm khác nhau cho một tín hiệu mã hoá tối đa các tín hiệu sẽ làm dễ dàng cho việc ghi nhớ và phân biệt chúng. Đồng nhất các tín hiệu: Đó là thao tác nhận biết, so sánh tín hiệu với nhóm tín hiệu mà nó thuộc về và gọi tên nó. Thao tác này được thực hiện thông qua việc so sánh các kích thích tri giác được với một thang chuẩn nhất định được lưu giữ trong trí nhớ. Khả năng đồng nhất chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố như: số lượng các chủng loại mà kích thích được đem so sánh cùng. sự phân nhóm (loại) và tổ chức các kích thích trong cấu trúc (mô hình) có ý nghĩa chính xác và được đối tượng thông thuộc, có các điểm để định hướng. Mức độ đồng nhất còn được xác định bởi sự tác động qua lại giữa mức độ phức tạp,
  90. hình dạng của các yếu tố phụ trợ và nội dung của các hình vẽ được sử dụng. Phân tích tín hiệu. Thao tác này bao gồm việc nhận biết ý nghĩa của các tín hiệu (hay là sự giải mã chúng), qua đó thấy được tình trạng của một sự việc hay một hiện tượng, mức độ phù hợp của tình trạng đó với mục đích đề ra, mức độ phù hợp của tín hiệu và phản ứng trả lời. Trong số các yếu tố thúc đẩy thao tác phân tích, có thể có nội dung thông tin; đưa các yếu tố trực giác vào việc thể hiện các tình huống tổ chức hoạt động tri giác một cách có ý thức; kinh nghiệm sẵn có; khả năng lựa chọn thông tin và đón trước các hiện tượng. 6.1.2. Lưu giữ thông tin Ghi nhận, lưu giữ, nhận biết và tái tạo lại kinh nghiệm nhận thức, tình cảm và ý chí nằm trong cái mà chúng ta gọi bằng thuật ngữ trí nhớ. Lưu giữ thông tin là tiền để cho việc tiếp nhận một thông tin mới và xử lý nó. Việc lưu giữ thông tin có thể kéo dài trong một khoảng thời gian ngắn hoặc dài. Trí nhớ dài hạn là kết quả của kinh nghiệm, của sự học tập và trong trường
  91. hợp này, người ta thấy rằng không phải toàn bộ thông tin chứa trong kích thích đều quy định phản ứng mà chỉ có thông tin nào phù hợp với nhiệm vụ, mục đích đặt ra và là cái được tổ chức trên bình diện nội tại, chủ quan, dưới dạng các mô hình. Trí nhớ ngắn hạn đòi hỏi trước hết sự lưu giữ thông tin và tiếp theo là sử dụng thông tin này cho một tình huống thao tác riêng, chẳng hạn như việc truyền một thông tin mới. Nhưng, trí nhớ ngắn hạn (thao tác) không phải là một hình ảnh bị đơn giản hoá, một bản sao các cứ liệu của hiện thực bị rút gọn, mà là toàn bộ các cứ liệu được xử lý sơ bộ và phù hợp với cấu trúc, mục đích, nhiệm vụ của hoạt động. 6.1.3. Xử lí thông tin Sự mở rộng từ động hoá sản xuất đòi hỏi phải nghiên cứu các đặc điểm tiếp nhận thông tin đến khi có phản ứng trả lời. Trong thực tế, rất khó tách bạch các giai đoạn khác nhau của quá trình truyền thông tin, bởi vì các quá trình tư duy can thiệp vào cả giai đoạn tiếp nhận thông tin lẫn giai đoạn phản ứng trả lời. Tư duy diễn ra theo một quá trình liên tục, trong đó thường xuyên có sự đan xen giữa thông tin hiện tại
  92. và kinh nghiệm đã có. Mức độ tham gia, thời gian, sự phức tạp của các quá trình trí tuệ thay đổi tuỳ theo đặc điểm của quá trình lao động. Sự khác biệt này, trước hết, được quy định bởi trình độ kỹ thuật của hệ thống lao động: lao động chân tay, cơ giới hoá, tự động hoá. Sự khác biệt này còn do tính chất lặp lại hay không lặp lại của các thao tác lao động quy định (hay tính chất liên tục hoặc riêng rẽ trong việc thực hiện các thao tác này). Khi các nhiệm vụ là riêng rẽ, hoạt động có thể được chuẩn hoá, algôrit hoá (các biện pháp được ấn định). Đối với những hoạt động đã được chuẩn hoá, con người sử dụng hàng loạt biện pháp cần thiết: những algôrit thu thập thông tin, so sánh, tính toán, lựa chọn, sắp xếp và quyết định trả lời. Đối với những nhiệm vụ trong đó tính chất, trật tự và tần số xuất hiện của các hiện tượng thường xuyên thay đổi hoặc xuất hiện những tình huống mới - con người buộc phải sử dụng những biện pháp hiện có theo các cách khác nhau hoặc tìm ra những giải pháp mới. Những khó khăn mang tính chất tình huống mà thao tác viên gặp phải là những "tình huống có vấn
  93. đề", (phát hiện một hỏng hóc, chẩn đoán một sự trục trặc trong vận hành v.v ). Trong trường hợp này, con người phải sử dụng những biện pháp và chiến lược chung đem áp dụng vào những tình huống cụ thể, đưa ra những trả lời phù hợp nhờ những thao tác lôgíc và thao tác tính toán các dữ liệu hiện có, việc này đòi hỏi một khối lượng thông tin rất lớn, các tín hiệu trực tiếp hoặc gián tiếp; các tiêu chí; các phản ứng trả lời hiện có hoặc có thể có; kết quả của những trả lời khác nhau.v.v Trong phạm vi rất nhiều các thao tác xử lí thông tin, ra quyết định đóng một vai trò quan trọng. Nó nằm trong tất cả các giai đoạn của quá trình xử lí thông tin, hình thành vấn đề, thu thập thông tin xem xét các tiêu chí, lựa chọn câu trả lời. 6.1.4. Ra quyết định Vấn đề ra quyết định có rất nhiều ứng dụng trên bình diện cá nhân, xã hội và phương pháp luận. Hành động ra quyết định có mặt từ trong hoạt động đơn giản nhất của con người như phản ứng đối với một tín hiệu đến nhiệm vụ phức tạp nhất như: lựa chọn nghề nghiệp, lựa chọn một giải pháp phù hợp khi giải
  94. quyết một vấn đề phức tạp. Việc quyết định có thể do một người hoặc một tập thể thức hiện. Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu việc ra quyết định trên bình diện cá nhân theo nghĩa là một hành động lựa chọn trong nhiều phương án khác nhau. Người ta nhận thấy rằng, con người có thể có những quyết đinh tối ưu nếu hiểu rõ những chi tiết bên ngoài hoặc bên trong của một loại nhiệm vụ. Rõ ràng là, điều này được rút ra từ số lượng và chất lượng của thông tin được sử dụng và của các quy tắc được áp dụng vào việc ra quyết định. Về phương diện mức độ phức tạp, hành động quyết định có thể thay đổi từ rất đơn giản đến rất phức tạp. Tất cả đều phụ thuộc vào: a) Tính chất và sự phức tạp của các tình huống buộc phải ra quyết định; b) lịch sử của các mối quan hệ giữa con người và những tình huống này. Tính chất của các tình huống được hiểu là những hoàn cảnh yêu cầu thực hiện hoặc một hành động quyết định duy nhất, hoặc một quyết định nhiều giai đoạn, tức là một dãy hành động quyết định có liên
  95. quan chặt chẽ với nhau. Mức độ phức tạp của các tình huống được quy định bởi: số lượng các phương án có thể có; khối lượng thông tin hiện có về các khả năng thực hiện của một hiện tượng (các tín hiệu, kết quả hành động của chúng ta v.v ), những hạn định đưa ra như: thời gian, lãi suất và giá cả của các sản phản, hệ số nguy hiểm và những hạn định khác. Về lịch sử quan hệ giữa con người và các tình huống đó, có thể có hai loại: các hoàn cảnh tình huống) điển hình, tức là những tình huống quen thuộc với con người, đã từng được biết đến nhờ vào tần số xuất hiện của chúng; và các tình huống không điển hình, tức là những tình huống mới và xuất hiện dưới dạng "tình huống có vấn đề". Những nhận định này làm sáng tỏ một số yếu tố cơ bản. Trước hết, đó là ý nghĩa của khía cạnh nhận thức trong hành động ra quyết định. Cụ thể là: liệu có nắm được các thông tin về tính chất và khả năng giải quyết tình huống khác nhau hoặc những thông tin về kết quả của các hành động đó hay không? Các khả năng giải quyết các tình huống thường được biểu thị
  96. trong tính tương đối (khách quan hoặc chủ quan), có nghĩa là mức độ tin tưởng của con người vào khả năng xuất hiện các tình huống khác nhau. Rõ ràng là, thao tác viên có thể nắm được những điều đó dựa trên vốn kinh nghiệm đã có với những tình huống tương tự. Nhìn chung, con người có thể nắm bắt được một cách tương đối tần số xuất hiện của các tình huống và dựa vào đó mà đón trước chúng. Đồng thời, xuất phát từ "lịch sử" quan hệ với các tình huống đó, con người có thể sử dụng hàng loạt biện pháp khác nhau về tính chất của chúng, các biện pháp đã quen thuộc - algôrit; các biện pháp được đề xuất trong quá trình ra quyết định-euristic (sáng tạo). Thứ hai là, hành động quyết đjinh bao hàm trong nó khía cạnh giá trị, tính ứng dụng. Các tình huống khác nhau hoặc các kết quả không phải là không có ý nghĩa gì với con người mà chúng có một giá trị nhất định đối với nhu cầu, động cơ, hứng thú và chúng quy định một thái độ nhất định của con người trước những tình huống đó. Thứ ba là, những tình huống gặp phải có thể quy định phương thức ra quyết định khác nhau. Nói cách khác, có thể có nhiều loại quyết định. Thật vậy, xét
  97. theo khía cạnh nhận thức tính chất tương đối của tình huống có thể có: những quyết định trong điều kiện không mạo hiểm (hay sự lựa chọn theo ý thích); những quyết định trong điều kiện mạo hiểm: những quyết định trong điều kiện không chắc chắn. Theo tính chất của các tình huống, có thể có các quyết định tĩnh (thống nhất) và các quyết định động (nhiều giai đoạn). 6.1.5. Hành động thực hiện (trả lời) Đây là khâu cuối cùng của một kênh truyền thông tin. Hiệu quả của hành động trả lời phụ thuộc vào cách thức tổ chức, tiếp nhận, xử lý thông tin và những đặc điểm của con người có liên quan tới các thao tác điều chỉnh và điều khiển. Bất cứ một hoạt động nào cũng được phân chia thành các hành động, đến lượt chúng, các hành động lại được chia thành các thao tác được thực hiện thông qua thành tố vận động. Tính chất của các vận động do nhiệm vụ lao động và đặc điểm của công cụ lao động quy định. Đối với một số hoạt động công nghiệp (điều khiển phương tiện giao thông, hàng không, công nghiệp dệt v.v ), nhiệm vụ theo dõi các tín hiệu và đồng thời điều chỉnh, hướng sự chú ý vào
  98. những vận động đòi hỏi một sự chính xác đặc biệt. 6.2. Các chức năng thao tác Ở đây chúng ta đề cập tới những chức năng do người thao tác thực hiện chứ không đề cập tới người lãnh đạo, người quản lý hành chính - kỹ thuật. Cùng với mức độ phát triển của kỹ thuật, luôn có sự phân bố lại các chức năng giữa người và máy. Đã có lúc, con người phải thực hiện tất cả những chức năng cần thiết để tạo ra một sản phẩm, lập chương trình, thực hiện, kiểm tra các thao tác, kiểm tra chất lượng. Bằng việc cơ giới hoá quá trình sản xuất, chức năng thực hiện đã được chuyển sang cho máy. Trong sản xuất nửa tự động hoặc tự động hoá, việc kiểm tra các thao tác được chuyển cho các hệ thống tự động còn con người chỉ làm chức năng giám sát hoạt động của máy, chẩn đoán các rối loạn trong vận hành và duy trì tình trạng hoạt động bình thường của máy. Các chức năng: kiểm tra thao tác, kiểm tra chất lượng và giám sát có những đặc điểm chung sau đây: a) Thiên về các thao tác tri giác; b) Phát hiện các
  99. tín hiệu: c) Hiện tượng chú ý được bao hàm trong các thao tác tri giác được coi là sự cảnh giác. Đối với việc phát hiện các tín hiệu, người ta nhận thấy rằng, nhìn chung, những tín hiệu này thường xuất hiện một cách ngẫu nhiên, không thể đoán trước. Các chức năng chẩn đoán, và duy trì có những đặc điểm chung sau đây: a) ưu thế thuộc về các thao tác tư duy, b) Có sự đề ra những giả thuyết, tìm kiếm thông tin, và ra quyết định đối với các nguyên nhân làm rối loạn sự vận hành của máy hoặc nguyên nhân của những hiện tượng hỏng hóc (tách chúng ra). 6.2.1. Lao động đơn giản và lao động được cơ giới hoá Kiểm tra thao tác. Chức năng này bao gồm việc so sánh những đặc điểm của quá trình tạo ra một đối tượng lao động với mục đích đặt ra (sản phẩm cuối cùng) dựa trên những thông tin đã nhận được. Nói cách khác, người công nhân cần theo dõi xem đối tượng lao động có được chuyển vào quá trình lao động phù hợp với những tính chất mà cuối cùng nó cần phải có hay không.
  100. Hành động trực tiếp của con người tác động vào đối tượng lao động thông qua máy móc được điều chỉnh dựa trên các tín hiệu: tác động đến trường làm việc. Theo nghĩa này, chúng ta có a) Các tín hiệu được người công nhân tri giác trực tiếp; b) Các tín hiệu được người công nhân tri giác gián tiếp thông qua các máy đo, các ký hiệu riêng v. v Trong trường hợp thứ nhất, việc nhìn thấy và lựa chọn các tín hiệu phụ thuộc vào sự hiểu biết và tay nghề mà người công nhân tích luỹ được bằng kinh nghiệm và có ý nghĩa làm tăng độ nhạy cảm của anh ta. Trong trường hợp thứ hai, việc tri giác và lựa chọn các tín hiệu phụ thuộc vào thiết kế của máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ. Các nghiên cứu được tiến hành trong các ngành công nghiệp dệt, công nghiệp giày và công nghiệp điện tử đã làm sáng tỏ hàng loạt yếu tố tạo thuận lợi cho việc kiểm tra các thao tác; giúp công nhân nhận biết được những tín hiệu phù hợp nhất; phân biệt rõ ràng những tín hiệu được nhấn mạnh từ nền của những tín hiệu không được nhấn mạnh. Chẳng hạn: bằng sự tương phản màu sắc, bằng cường độ của các tín hiệu: bố trí các tín hiệu được
  101. nhấn mạnh trên một mặt phẳng hợp lý: sắp xếp và phân loại hợp lý về mặt không gian các tín hiệu, các máy móc đo đạc và kiểm tra; tăng cường kiểm tra ở những thời điểm khó khăn trong quá trình thực hiện thao tác, nhịp độ thực hiện các thao tác và sự thống nhất mức độ khó của các nhiệm vụ tri giác; hiểu biết của công nhân về những kết quả hành động được thực hiện. Kiểm tra chất lượng. Chức năng này bao gồm việc so sánh sản phẩm làm ra với những đặc điểm vật lí, chức năng và thẩm mĩ đã được đưa ra trong bản thiết kế của sản phẩm đó. Thực chất, đó là việc phát hiện và phân biệt các phế phẩm với các sản phẩm tốt. Việc kiểm tra chất lượng có ít nhất hai vai trò quan trọng như nhau, đó là: a) Thừa nhận các sản phẩm tốt hoặc loại bỏ các phế phẩm; b) Thông báo cho các đơn vị sản xuất biết về các đặc điểm của sản phẩm làm ra và số lượng các phế phẩm, nhằm mục đích hoàn thiện quá trình sản xuất. Việc phát hiện các tín hiệu không chỉ bao hàm các quá trình tri giác mà bao hàm cả các quá trình ra quyết định: a) Quyết định có quan sát hay không và khi nào thì quan sát một nguồn tín hiệu (phản ứng quan
  102. sát); b) Quyết định về sự có hay không có một tín hiệu. Trong trường hợp này, sự phát hiện với tư cách là một quá trình ra quyết định, bao gồm: tính chất tương đối của sự xuất hiện các tín hiệu và giá trị hay tác dụng của các hành động phát hiện. Các mô hình chuẩn còn đưa vào một yếu tố thứ 3, là: tiêu chí của quyết định. Khi ra quyết định, con người không chỉ xuất phát từ tính chất tương đối và tính ứng dụng (tác dụng) của các hiện tượng mà còn xuất phát từ thái độ của con người trước các hiện tượng đó. Về mặt hình thức: thái độ này là tiêu chí của quyết định, còn về mặt tâm lí, đó là mức độ thận trọng. Cả ba yếu tố được đặt trong một mối quan hệ và nhằm tối ưu hoá tiêu chí của quyết định. Như vậy, kết quả của việc kiểm tra chất lượng có thể do những yếu tố sau đây quy định: a) Số lượng tương đối của các hỏng hóc (biến số này phụ thuộc vào việc sản xuất), b) Tầm quan trọng (hệ thống giá trị hoặc tác dụng) của việc phát hiện đúng các phế phẩm, c) Mức độ thận trọng (thái độ) của các kiểm tra viên đối với chất lượng hoạt động của họ;
  103. d) Sự xác định chính xác các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng sản phẩm (hoặc để phát hiện ra các phế phẩm). Các tiêu chuẩn này sẽ rõ ràng nếu như tất cả đã được dự kiến từ trước trong bản thiết kế sản phẩm; e) Việc áp dụng phương pháp so sánh từng cặp có hiệu quả hơn so với các nhận định tuyệt đối. 6.2.2. Các quá trình bán tự động và tự động. Chức năng giám sát: Chức năng này bao gồm hoạt động theo dõi cách thức, diễn biến của quá trình sản xuất đã được tự động hoá và phát hiện các lệch lạc khỏi sự bình thường. Nhìn chung, việc giám sát sự vận hành của các thiết bị, giám sát các quá trình công nghệ được thực hiện một cách trực tiếp (trong thiết bị) hoặc gián tiếp (trong các trung tâm điều khiển). Chức năng giám sát có liên quan chặt chẽ với chức năng chẩn đoán (trong trường hợp phát hiện một số lệch lạc khỏi trạng thái bình thường để xác định các nguyên nhân hoặc hậu quả có thể có trong đó). Nó cũng liên quan chặt chẽ với chức năng điều khiển và điều chỉnh.
  104. Trong những điều kiện nhất định, do sự phân tán chú ý, con người được đánh giá là thột giám sát viên tồi. Tuy nhiên, có những cơ chế bù trừ giúp cho anh ta thành công trong việc thực hiện chức năng này. Đôi khi, giám sát viên giám sát các thông số một cách không liên tục do sự kiểm tra thị giác là không liên tục trong thời gian và không gian. Thao tác viên thực hiện một cách phối hợp hai loại giám sát: giám sát chung tất cả các thông số) và giám sát có chọn lọc (chỉ một thông số). Thông thường, số lượng giám sát có chọn lọc lớn hơn số lượng các giám sát chung. Giám sát có chọn lọc xuất phát từ nhiều yếu tố. a) Tính chất không ổn định khác nhau của các thông số khác nhau (tức là số lượng tương đối của các rối nhiễu hoặc khoảng thời gian trung bình giữa hai rối nhiễu đối với mỗi thông số). Các thông số không ổn định thường được giám sát nhiều hơn. b) Tầm quan trọng về mặt chức năng của các thông số. Các thông số quan trọng nhất sẽ được giám sát thường xuyên nhất; c) Chế độ vận hành của thiết bị Khi thiết bị vận hành dưới ngưỡng, ở giới hạn tối đa hay trong điều