Bài giảng Nhữngkiến thức cơ bản của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm - TS Huỳnh Văn Sơn

pdf 275 trang phuongnguyen 1870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Nhữngkiến thức cơ bản của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm - TS Huỳnh Văn Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_nhungkien_thuc_co_ban_cua_tam_ly_hoc_lua_tuoi_va_t.pdf

Nội dung text: Bài giảng Nhữngkiến thức cơ bản của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm - TS Huỳnh Văn Sơn

  1. NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM TS Huỳnh Văn Sơn (Chủ biên) Đinh Quỳnh Châu - Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu LỜI NÓI ĐẦU Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là một chuyên ngành của Tâm lý học. Chuyên ngành này cung cấp cho người học những kiến thức chuyên sâu về sự phát triển tâm lý theo độ tuổi và các đặc điểm tâm lý cụ thể ở từng độ tuổi cũng như những cơ sở tâm lý của việc dạy học và giáo dục con người nói chung và học sinh nói riêng. Đối với sinh viên sư phạm hoặc những chuyên ngành có liên quan đến việc giáo dục và đào tạo thì bộ môn Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm trở thành một môn học hay những tín chỉ bắt buộc phải tích lũy. Những kiến thức của bộ môn này
  2. đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành những định hướng ban đầu về sự hiểu biết nghề nghiệp, những kỹ năng cơ bản cũng như những nền tảng nhất định cho việc tiếp thu những tri thức về Lý luận dạy học bộ môn. Có thể nói cùng với Tâm lý học đại cương thì Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm đóng vai trò hết sức quan trọng nhằm hình thành kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho người học chuyên ngành sư phạm Ngày nay, việc giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải liên tục cập nhật những kiến thức khoa học. Tuy nhiên, những kiến thức cơ bản của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm vẫn thể hiện được tính thiết yếu của nó. Từ việc tìm hiểu những đặc điểm cơ bản về nhận thức và học tập của từng lứa tuổi để người giáo viên biết lựa chọn nội dung dạy học, phương pháp dạy học đến việc nắm vững cấu trúc tâm lý của việc hình thành khái niệm hay rèn luyện kỹ năng đều đòi hỏi phải nắm vững những kiến thức cơ bản trong Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Ngay cả thực trạng công tác học đường đang có nhiều vấn đề như: bạo lực học đường, văn hóa học đường xuống cấp thì việc giáo dục hành vi đạo đức, hình
  3. thành những phẩm chất của một người học sinh trong thời đại mới cũng đòi hỏi sinh viên sư phạm và cả những thầy cô giáo - nhà quản lý giáo dục phải thực sự quan tâm đến những cơ sở tâm lý trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, hình thành những phẩm chất đạo đức dựa trên cơ sở tâm lý hay cấu trúc tâm lý của hành vi đạo đức Tập tài liệu này ra đời nhằm hỗ trợ sinh viên sư phạm và những người có liên quan đến chuyên ngành sẽ xác lập được những kiến thức trọng tâm của môn học, trên cơ sở nghiên cứu có định hướng hoặc sẽ nắm vững những kiến thức cơ bản nhất qua quá trình học tập - nghiên cứu. Nội dung của tài liệu tập trung vào những kiến thức chung của Tâm lý học lứa tuổi và sự phát triển tâm lý của học sinh Trung học (bao gồm học sinh Trung học cơ sở và Trung học phổ thông). Ngoài ra, những kiến thức cơ bản về Tâm lý học dạy học, Tâm lý học giáo dục và Tâm lý học nhân cách người giáo viên cũng được tiếp cận tr6en bình diện khái quát. Tài liệu được trình bày dưới dạng hỏi đáp những nội dung khoa học cơ bản trong môn học cũng như định hướng phân tích - giải quyết những tình huống thực tiễn được sử dụng làm chất liệu giảng dạy
  4. hay sử dụng làm câu hỏi mở rộng hay câu hỏi tình huống trong đánh giá. Các câu hỏi được sắp xếp theo từng phần - từng chương dưới dạng câu hỏi luận đề và câu hỏi tình huống để người đọc sẽ dễ dàng tham khảo và nghiên cứu. Hy vọng rằng quyển tài liệu đã đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu của những đối tượng có quan tâm đến bộ môn Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Chắc chắn rằng quyển tài liệu không thể tránh khỏi những thiếu sót. Hy vọng sẽ nhận được quan tâm và ủng hộ của quý bạn đọc. Mong rằng quyển tài liệu này sẽ trở thành tư liệu học tập và nghiên cứu hữu ích cho quý bạn đọc để việc tìm hiểu - nghiên cứu Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm sẽ có định hướng và đạt hiệu quả cao. Mong nhận được những chia sẻ và đóng góp của quý bạn đọc. Phần 1: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI Phần 2: TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM TÀI LIỆU THAM KHẢO Created by AM Word2CHM
  5. Phần 1: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI Chương 2 - TÂM LÝ HỌC HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Chương 3 - TÂM LÝ HỌC HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Created by AM Word2CHM
  6. Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ P HẠM à Phần 1: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI TỔNG QUAN * Với mục tiêu giúp sinh viên nêu được quan điểm đúng đắn và tích cực về trẻ em và sự phát triển tâm lý trẻ em, biết nhận diện cac quy luật phát triển tâm lý và biết phân tích vai trò của các yếu tố bẩm sinh di truyền, môi trường sống, giáo dục và hoạt động và giao tiếp đối với sự phát triển tâm lý cá nhân cũng như nắm vững các giai đoạn phát triển tâm lý của một đời người; chương 1 sẽ là các câu hỏi để ôn tập những nội dung cơ bản sau: 1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ em 2. Các quy luật phát triển tâm lý trẻ em 3. Các yếu tố tác động đến sự phát triển tâm lý trẻ em 4. Phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý
  7. trẻ em * Song song với tài liệu này, sinh viên có thể tham khảo thêm các tài liệu sau: 1. TLH Lứa tuổi và TLH Sư phạm (1995), Vụ Đại học, NXB Hà Nội. 2. TLH Lứa tuổi và TLH Sư phạm (1998), PGS Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan – Nguyễn Văn Thàng, NXB Giáo Dục. 3. Tâm lý học trẻ em (1998), Nguyễn Ánh Tuyết, NXB Giáo Dục. Câu hỏi: Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm được ra đời để nghiên cứu đối tượng gì và thực hiện những nhiệm vụ nào? Từ đó nêu lên ý nghĩa lý luận và thực tiễn của môn học này? Trả lời: Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu và ý nghĩa nghiên cứu Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm: a. Đối tượng nghiên cứu:
  8. - Đối tượng của Tâm lý học lứa tuổi là động lực phát triển tâm lý theo lứa tuổi của con người; sự phát triển cá thể của các quá trình tâm lý và các phẩm chất tâm lý trong nhân cách của con người đang được phát triển (quá trình con người trở thành nhân cách như thế nào); - Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của các quá trình và các phẩm chất tâm lý riêng lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng ở mỗi cá nhân trong phạm vi một lứa tuổi, nghiên cứu những khả năng lứa tuổi của việc lĩnh hội tri thức, phương thức hành động ; - Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của các cá nhân đang được phát triển (vui chơi, lao động ) - Do yêu cầu của thực tiễn và thành tựu của khoa học, ngày nay Tâm lý học lứa tuổi có nhiều phân ngành: Tâm lý học trẻ em trước tuổi học, Tâm lý học tuổi nhi đồng, Tâm lý học tuổi thiếu niên, Tâm lý học tuổi thanh niên - Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học sư
  9. phạm là những quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục. - Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn đề Tâm lý học của việc điều khiển quá trình dạy học, nghiên cứu sự hình thành quá trình nhận thức, tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định những điều kiện để đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu quả trong quá trình dạy học, xem xét những vấn đề và mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh cũng như giữa học sinh với học sinh. Những phân ngành của Tâm lý học sư phạm: Tâm lý học dạy học, Tâm lý học giáo dục và Tâm lý học về người giáo viên. b. Nhiệm vụ nghiên cứu: Từ những gợi mở về đối tượng nghiên cứu thì Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi; - Rút ra những quy luật lĩnh hội tri thức, kỹ
  10. năng kỹ xảo trong quá trình giáo dục và dạy học, những biến đổi tâm lý của học sinh do ảnh hưởng của giáo dục và dạy học từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lý quá trình sư phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và dạy học. c. Ý nghĩa nghiên cứu: Những thành tựu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao. - Về mặt lý luận, các nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm sử dụng các tài liệu của một số khoa học khác, nhưng đến lượt mình nó lại cung cấp tài liệu có ý nghĩa quan trọng cho các khoa học khác. - Về mặt thực tiễn có thể khẳng định sự hiểu biết về Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là điều kiện cần thiết để tổ chức có hiệu quả và đúng đắn quá trình học tập và giáo dục. Câu hỏi: Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
  11. có mối liên hệ gì với nhau? Trả lời: - Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chúng quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác, đặc biệt là Tâm lý học đại cương, giáo dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn - Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là những chuyên ngành của Tâm lý học, đều dựa trên cơ sở Tâm lý học đại cương. Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, vì chúng có chung khách thể nghiên cứu. - Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình dạy học và giáo dục. - Sự phân chia ranh giới giữa hai ngành Tâm lý học này chỉ có tính chất tương đối. Những thành tựu của Tâm lý học lứa tuổi sẽ là những cơ sở quan trọng để Tâm lý học sư phạm vận dụng nhằm định hướng những cơ sở tâm trong việc điều khiển họat động sư
  12. phạm. Ngược lại, Tâm lý học sư phạm sẽ làm cho những kiến thức của Tâm lý học lứa tuổi sẽ cụ thể hơn khi xem xét nó trong hoạt động dạy học và giáo dục theo từng độ tuổi. Câu hỏi: Dưới góc độ Tâm lý học lứa tuổi, hãy cho biết trẻ em là gì. Trình bày sự hiểu biết về khái niệm trẻ em trong Tâm lý học lứa tuổi? Trả lời: Dựa trên những quan điểm triết học rất khác nhau, người ta đã hiểu về trẻ em rất khác nhau: - Có quan niệm cho rằng trẻ em là “người lớn thu nhỏ lại”, sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn khác nhau về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình cảm ) chỉ ở tầm cở, kích thước chứ không khác nhau về chất. - Theo J.J. Rútxô (1712 - 1778) : Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và người lớn cũng không phải lúc nào cũng có thể hiểu được trí tuệ,nguyện vọng và tình cảm độc đáo của trẻ thơ vì “Trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng của nó”.
  13. - Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng định: Trẻ em không phải người lớn thu nhỏ lại. Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về chất. Trẻ em là trẻ em, nó vận động, phát triển theo quy luật của trẻ em. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, đứa trẻ đã là một con người, một thành viên của xã hội, có nhu cầu giao tiếp với người lớn. Việc nuôi nấng, dạy dỗ trẻ phải theo kiểu người. Mỗi thời đại khác nhau có trẻ em riêng của mình. Tóm lại: Trẻ em là trẻ em mà không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là những thực thể đang phát triển. Giới hạn của khái niệm trẻ em là từ lúc mới sinh ra cho đến trước tuổi trưởng thành (trước 18 tuổi). Không nên lấy chuẩn người lớn để so sánh với trẻ em mà lấy trẻ em làm chuẩn so với chính nó trên bình diện rộng. Trẻ em là con đẻ của thời đại và thể hiện “sự thu gọn” sự phát triển lịch sử từ trước đến nay. Câu hỏi: Phân tích ngắn các quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em? Trả lời:
  14. - Quan điểm duy tâm coi sự phát triển tâm lý trẻ em chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về số lượng của các hiện tượng đang được phát triển, mà không có sự chuyển biến về chất lượng. - Quan điểm này xem sự phát triển của mỗi hiện tượng như là một quá trình diễn ra một cách tự phát mà người ta không thể điều khiển được, không thể nghiên cứu được, không nhận thức được. - Quan điểm sai lầm này được biểu hiện ở các thuyết sau: 1. Thuyết tiền định: + Thuyết này coi sự phát triển tâm lý là do các tiềm năng sinh vật gây ra, con người có tiềm năng này từ khi mới sinh ra và sự phát triển chỉ là sự trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay từ đầu và được quyết định trước bằng con đường di truyền này. + Các nhà Tâm lý học tư sản cho rằng: những thuộc tính của nhân cách, năng lực cũng đã được mã hóa, chương trình hóa trong các trang bị gen. + Tuy nhiên, có những người theo thuyết này
  15. có đề cập đến yếu tố môi trường. Nhưng theo họ, mmôi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh“, “yếu tố thể hiện“ một nhân tố bất niến nào đó ở trẻ. Nhà Tâm lý học Mỹ E. Tóocđai cho rằng: “Tự nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất“ và “vốn tự nhiên“ đó đặt ra giới hạn cho sự phát triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả nào đó “dù giảng dạy tốt”, số khác lại tỏ ra lại có thành tích “dù giảng dạy tồi” ) + Từ quan điểm này làm cho con người mất lòng tin vào giáo dục, vào sự tu dưỡng và cải tạo bản thân, họ cho rằng vai trò của giáo dục là thứ yếu, trẻ tốt hay xấu, học giỏi hay kém không phải do giáo dục mà do gien tốt hay xấu. Từ đó, họ đi đến kết luận: Trẻ em khó bảo, năng lực trí tuệ kém phát triển là do bẩm sinh chứ không phải do giáo dục,do môi trường. Như vậy, vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là yếu tố bên ngoài có khả năng làm tăng nhanh hay kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự nhiên, bị chế ước bởi tính di truyền. Và họ đã rút ra
  16. kết luận sai sư phạm lầm: mọi sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ đều là sự tùy tiện, không thể tha thứ. 2. Thuyết duy cảm: Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích sự phát triển của trẻ chỉ bằng những tác động của môi trường xung quanh. Theo các tác giả thuộc trường phái này thì: + Môi trường là nhân tố quyết định sự phát triển của trẻ em. Vì thế, họ cho rằng, muốn nghiên cứu con người chỉ cần nghiên cứu, phân tích môi trường mà con người sống. + Quan điểm này cho rằng: môi trường xã hội là cái bất biến, quyết định trước sự phát triển tâm lý cá nhân, còn con người được xem như là đối tượng thụ động trước ảnh hưởng của môi trường. + Mọi người sinh ra đều có sẵn những đặc điểm bẩm sinh như nhau để phát triển trí tuệ và đạo đức. Sự khác nhau giữa các cá nhân về điểm này hay khác là do ảnh hưởng của môi trường, ảnh hưởng của những tác động khác nhau.
  17. Với quan niệm như vậy, chúng ta không thể giải thích được vì sao trong một môi trường sống như nhau lại có những nhân cách khác nhau. 3. Thuyết hội tụ hai yếu tố: Những người theo quan điểm này cho rằng: Sự tác động qua lại giữa hai yếu tố di truyền và môi trường quyết định trực tiếp quá trình phát triển, trong đó di truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều kiện để biến những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực. Theo họ, sự phát triển là sự chín muồi của những năng lực, những nét tính cách, những hứng thú mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc điểm tính cách do cha mẹ truyền lại cho trẻ dưới dạng có sẵn, bất biến Một số người theo thuyết này có đề cập đến vai trò của môi trường đối với tốc độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ em. Nhưng theo họ, môi trường không phải là toàn bộ những điều kiện và hoàn cảnh mà trẻ em sống mà chỉ là gia đình của trẻ
  18. * Nhận định các thuyết trên: Mặc dù quan niệm của những người đại diện cho các thuyết trên bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm giống nhau: + Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hoặc tiền định hoặc do tiềm năng sinh vật di truyền hoặc ảnh hưởng của môi trường bất biến. Những quan điểm này nhầm phục vụ cho giai cấp bốc lột. (Có nghĩa là sự bất bình đẳng trong xã hội là tất nhiên, là hợp lý). + Họ đánh giá không đúng vai trò của giáo dục, từ đó thiếu biện pháp giáo dục, bi quan trước sản phẩm xấu của giáo dục. Họ xem xét sự phát triển của trẻ một cách tách rời và không phụ thuộc và những điều kiện cụ thể mà trong đó quá trình phát triển của trẻ diễn ra. + Họ đều cho rằng trẻ em là đối tượng thụ động, cam chịu ảnh hưởng có tính chất quyết định của yếu tố sinh vật hoặc môi trường Họ phủ nhận tính tích cực riêng của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn biện chứng được hình thành trong quá trình phát triển tâm lý của cá nhân, mà không thấy được con
  19. người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể có ý thức sáng tạo nên hoàn cảnh. Câu hỏi: Trình bày nội dung cơ bản của thuyết tiền định. Đưa ra những nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển tâm lý. Trả lời: Nội dung cơ bản của thuyết tiền định: - Quan điểm của thuyết này cho rằng di truyền, những đặc điểm bẩm sinh hay chính gen là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển tâm lý trẻ em. Sự phát triển tâm lý do các tiềm năng sinh vật gây ra và con người có tiềm năng đó ngay từ khi ra đời. - Sự phát triển chỉ là một quá trình trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính có sẵn ngay từ đầu và được quyết định trước bằng con đường di truyền này cụ thể đó là sự mã hóa, chương trình hóa được trang bị trong gen. - Cũng theo luận điểm rằng di truyền là yếu tố quyết định sự phát triển tâm lý. Sự phát triển tâm lý các
  20. khả năng của con người là cái có sẵn. Quan điểm này cho thấy di truyền là yếu tố quyết định sự phát triển tâm lý còn môi trường là yếu tố điều chỉnh, biểu hiện của tính di truyền mà thôi. Chính di truyền mà không phải yếu tố khác sẽ quy định mức tối đa của sự phát triển - đường hướng và mức độ của nó. - Bẩm sinh di truyền là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển tâm lý cá thể mang vai trò quyết định nhưng môi trường là yếu tố điều chỉnh, biểu hiện của tính di truyền. Một số nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển tâm lý - Trên bình diện văn hóa cũng khó có thể chối cãi hay loại bỏ vai trò của di truyền tuy nhiên không thể nói rằng di truyền quyết định văn hóa. Bản thân văn hóa luôn luôn phát triển biến động thì di truyền đến một lúc nào đó sẽ rất có thể theo kịp sự phát triển này. Hơn nữa, vì tính chất di truyền nên các cá thể đã khác nhau từ lúc đầu (khi con người được sinh ra) và liên tục vì văn hóa khác nhau con người lại liên tục khác nhau và vì thế không thể cho rằng di truyền quy định văn hóa.
  21. - Ở góc độ khác, sẽ dễ dàng nhận thấy di truyền không thể quyết định sự phát triển của mỗi cá nhân. Sự lĩnh hội và sự tiếp thu hay sự phát triển đích thực của con người ở nhiều bình diện khác nhau như: tình cảm - ước mơ - ý chí không thể do yếu tố gen hay di truyền quyết định. Tất cả những yếu tố ấy phụ thuộc khá nhiều vào sự lĩnh hội văn hóa xã hội mà nó trực tiếp phụ thuộc vào “phông” văn hóa - những hành trang văn hóa đích thực mà cá nhân “sở hữu” như bản lĩnh của chính mình trong cuộc sống. Câu hỏi: Trình bày nội dung cơ bản của thuyết duy cảm. Đưa ra những nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển tâm lý Trả lời: Nội dung cơ bản của thuyết duy cảm: - Môi trường văn hóa xã hội là nhân tố quyết định sự phát triển trẻ em. Những tác giả theo thuyết này cho rằng giữa môi trường và sự phát triển của con người có một mối liên hệ đặc biệt mà cụ thể rằng nó chính là yếu tố quy định tâm lý và sự phát triển của con
  22. người diễn ra một cách tương ứng. - Nhân tố xã hội là nguồn gốc của sự phát triển tâm lý do đó để nghiên cứu tâm lý con người thì chỉ cần phân tích cấu trúc của môi trường. Môi trường như thế nào thì tâm lý của con người như thế ấy. Cơ chế hành vi của con người và những con đường phát triển của nó được ban cho một lần trong môi trường và vẫn mãi mãi như thế. Nếu trẻ em sinh ra là tờ giấy trắng thì ảnh hưởng của hoàn cảnh, điều kiện, môi trường, xã hội mà những phẩm chất - thuộc tính được vẽ lên đó. - Mọi sự thành công hay thất bại của trẻ đều là do môi trường hay đều được giải thích bởi môi trường bên ngoài. Muốn nghiên cứu con người chỉ cần phân tích cấu trúc môi trường của họ như thế nào thì con đường phát triển hành vi, nhân cách và tâm lý sẽ như thế. Nhờ vào tác động của môi trường sự phát triển mới hiện hữu. Ngay cả những thuộc tính của đặc điểm tự nhiên cũng không phải tự nhiên có mà là sự tác động qua lại giữa các cá nhân trong xã hội và thế giới tự nhiên là sản phẩm thực sự của xã hội.
  23. Một số nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển tâm lý - Môi trường là nơi để văn hóa thực thi những chức năng khá đặc biệt của mình nhưng không thể quá đề cao vai trò của môi trường vì thực tiễn cho thấy trong cùng những điều kiện, hoàn cảnh xã hội như nhau lại hình thành những nhân cách hoàn toàn khác nhau, trái ngược nhau và trái lại trong những điều kiện - môi trường xã hội khác nhau lại hình thành những nhân cách có nhiều nét tương đồng nhau. Sự phát triển được hình thành nhờ vào sự tương tác tích cực với môi trường. Thế nhưng sự phát triển thì không hẳn là sự tích lũy hay sự lĩnh hội một cách thụ động những tác động của môi trường với tư cách con người là “sản phẩm” hay “bản sao” của môi trường. - Những ảnh hưởng tiêu cực sẽ bị “gạn lọc” hoặc thậm chí là bị gạt bỏ để hướng đến sự phát triển có định hướng và thích ứng. Câu hỏi: Trình bày nội dung cơ bản của thuyết hội tụ
  24. hai yếu tố. Đưa ra những nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển tâm lý. Trả lời: Nội dung cơ bản của thuyết hội tụ hai yếu tố: - Sự tác động qua lại giữa môi trường và di truyền quyết định sự phát triển tâm lý trẻ em. Trong hai yếu tố trên, di truyền giữ vai trò quyết định còn môi trường là điều kiện để biến những yếu tố có sẵn của di truyền trở thành hiện thực. - Trong sự phát triển tâm lý của trẻ, nhịp độ và giới hạn của sự phát triển là tiền định còn môi trường sẽ ảnh hưởng đến tốc độ chín muồi của năng lực và tính cách được truyền lại sẵn. - Sự phát triển là sự chín muồi những năng lực, tính cách mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc điểm tính cách được thế hệ trước truyền lại một cách bất biến trong đó nhịp độ và giới hạn của sự phát triển là tiền định. - Ảnh hưởng của môi trường đối với tốc độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ. Môi trường ở đây không phải là tất cả các
  25. điều kiện và hoàn cảnh xung quanh - xã hội mà chỉ là môi trường gia đình là chủ yếu. Môi trường này mang tính riêng biệt và gần như tách rời với đời sống xã hội hay yếu tố này không hề được quan tâm. Một số nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển tâm lý - Sự tác động của hai yếu tố này được hiểu quá máy móc, dường như sự tác động qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp tới quá trình phát triển là một điều hết sức gượng ép. - Yếu tố con người hay yếu tố hoạt động chưa thể hiện gì cả trong khi phân tích các mối quan hệ tương tác đã nói đối với sự phát triển tâm lý - Nếu cho rằng gen và di truyền trở thành yếu tố quyết định giới hạn của sự phát triển thì dù có tác động như thế nào đi nữa thì sự phát triển vẫn diễn ra theo tiến độ riêng và đạt đến mức độ vốn có của nó. Bên cạnh đó, nếu như cho rằng môi trường chỉ ảnh hưởng một cách “có chừng mực” đến sự phát triển vậy thì vô tình đã làm giới hạn sức ảnh hưởng của văn hóa, sức ảnh hưởng của kinh nghiệm.
  26. Câu hỏi: Nêu khái niệm về sự phát triển tâm lý trẻ em. Phân tích những đặc điểm cơ bản trong khái niệm ấy. Trả lời: Có thể đề cập đến một số khái niệm sau về sự phát triển tâm lý trẻ em dưới góc nhìn của Tâm lý học: - Khái niệm 1: Sự phát triển trẻ em là sự thay đổi có tính quy luật của các quá trình tâm lý, là sự chuyển động đi lên ở nội dung cuộc sống tâm lý của đứa trẻ từ hình thức thấp đến cao, là quá trình hình thành nên ý thức của đứa trẻ. - Khái niệm 2: Sự phát triển tâm lý đó là sự thể hiện tính tích cực của đứa trẻ trong việc phân chia các quá trình tâm lý, trong việc hình thành những hành động định hướng và liên kết tính tích cực này nghĩa là trong việc hợp nhất các quá trình hành động vào một hoạt động tâm lý thống nhất toàn vẹn. - Khái niệm 3: Sự phát triển tâm lý đó là một quá trình chuyển đổi liên tục từ cấp độ này sang cấp độ khác theo quy luật phủ định của phủ định. Quá trình
  27. này gắn liền với sự hình thành và phát triển nhân cách. - Rõ ràng mỗi khái niệm đều nêu bật lên sự phát triển tâm lý từ một góc nhìn. Có thể nhận định rằng sự phát triển tâm lý vẫn bao hàm những nội dung chính như sau: + Sự phát triển tâm lý là quá trình chuyển đổi liên tục theo hướng đi lên + Sự phát triển tâm lý là sự thay đổi chủ yếu của các quá trình tâm lý ở cá thể, con người + Sự phát triển tâm lý gắn liền với sự hình thành và phát triển nhân cách - ý thức ở con người + Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào bản thân cá nhân đó hay tính chủ thể của cá nhân + Sự phát triển tâm lý không thể tách rời khỏi môi trường bên ngoài nói khác hơn là môi trường bên ngoài có sự tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển tâm lý của một cá nhân Như vậy, có thể nhận thấy sự phát triển tâm lý trẻ em ở đây thực chất chính là quá trình cá thể hóa, chủ thể hóa và là quá trình tạo ra những bản sắc riêng
  28. của mỗi cá nhân. Những yêu cầu cơ bản mà tất cả các khái niệm đều mong muốn hướng đến hay giải quyết: + Tìm ra quy luật đặc thù của mỗi cấp độ phát triển + Quy luật chuyển đổi từ cấp độ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác + Sự thay đổi về nhân cách của trẻ trong từng giai đoạn lịch sử xã hội cụ thể. Câu hỏi: Dạy học và giáo dục có vai trò gì đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em? Trả lời: - Trẻ chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, phát triển tâm lý bản thân nhờ sự tiếp xúc thường xuyên với người lớn, nhưng sự tiếp xúc này phải được tổ chức đặc biệt và chặt chẽ (trong quá trình sư phạm). - Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển tâm lý của trẻ. Giáo dục và dạy học là con đường đặc biệt để truyền đạt những kinh nghiệm xã hội cho thế hệ sau. Nói tới vai trò chủ đạo của giáo dục và dạy
  29. học, chúng ta nhấn mạnh đó là quá trình tác động có mục đích, có ý thức, có kế hoạch của thế hệ trưởng thành đối với thế hệ trẻ đang lớn lên, nhằm hình thành những phẩm chất nhất định của cá nhân, đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, xã hội. - Giáo dục được tổ chức chặt chẽ có khả năng: + Vạch ra chiều hướng cho sự phát triển nhân cách và dẫn dắt sự hình thành, phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó. + Giáo dục có thể tạo điều kiện thuận lợi để những tiềm năng sinh vật của trẻ được bộc lộ, phát triển, biến khả năng của trẻ thành hiện thực. + Giáo dục có thể đem lại những cái mà bẩm sinh, di truyền, môi trường tự nhiên không thể đem lại được (học được tiếng nói của loài người ) + Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do khuyết tật hoặc bệnh tật mang lại. + Giáo dục có thể uốn nắn những nét tâm lý xấu được hình thành do ảnh hưởng tự phát của môi trường.
  30. + Giáo dục có thể đi trước hiện thực, giúp trẻ phát triển nhanh hơn thực tế. Khi khẳng định vai trò chủ đạo của giáo dục và dạy học đối với sự phát triển tâm lý của trẻ, chúng ta cần lưu ý rằng tâm lý con người mang tính chủ thể, con người là chủ thể hoạt động hơn nữacon người là một chủ thể tích cực có thể tự giáo dục, thay đổi được chính bản thân mình, nhưng nó không tách khỏi những tác động của môi trường, của giáo dục. Do vậy, những tác động như nhau, có thể ảnh hưởng khác nhau đến trẻ. - Mối quan hệ giữa giáo dục, dạy học và phát triển là mối quan hệ biện chứng. Hai quá trình này không phải là hai quá trình diễn ra song song mà chúng thống nhất nhau. - Để phát huy vai trò chủ đạo, giáo dục và dạy học phải kích thích, dẫn dắt sự phát triển, phải đi trước một bước, phải đón trước sự phát triển, tạo nên ở trẻ quá trình giải quyết mâu thuẫn liên tục để thúc đẩy sự phát triển. Tuy nhiên dạy học và giáo dục cũng cần tính đến những đặc điểm lứa tuổi, những đặc điểm của
  31. mức độ đã đạt được ở trẻ và quy luật bên trong của sự phát triển. Vì vậy khả năng của giáo dục và dạy học là không vô hạn mà yếu tố quyết định sự quyết định tâm lý của trẻ một cách đúng đắn là sự tự giáo dục của trẻ trong tất cả các thời kỳ của cuộc đời. Câu hỏi: Động lực của sự phát triển tâm lý là gì? Nêu những nội dung cơ bản về vấn đề này. Trả lời: Động lực của sự phát triển tâm lý nằm ngay trong bản thân quá trình sống, trong những điều kiện cụ thể của mối liên hệ qua lại của con người với thực tại và đặc biệt là động lực của sự phát triển nằm ngay trong chính hoạt động của bản thân của đứa trẻ. Sự phát triển tâm lý phải dựa trên sự đấu tranh giữa các mặt đối lập giữa các mâu thuẫn hay đó chính là sự giải quyết mâu thuẫn biện chứng giữa cái mới và cái cũ. Sự giải quyết mâu thuẫn này được thực hiện bởi chính bản thân chủ thể - đó chính là đứa trẻ mà đặc biệt là dưới sự hướng dẫn giúp đỡ của người lớn thông qua các tác động dạy học và giáo dục.
  32. Ở góc độ chung nhất, khi xét về động lực của sự phát triển tâm lý trẻ em cần nhìn nhận nhiều nhất về mâu thuẫn nội tại trong lòng của khách thể. Đó chính là những mâu thuẫn giữa mong muốn của chính bản thân và khả năng thực thi của bản thân mình. Mặt khác, đó còn là những mâu thuẫn giữa mong muốn này và mong muốn khác, giữa khả năng này và khả năng khác hay mâu thuẫn giữa mong muốn, đòi hỏi và sự không cho phép hay sự kiềm chế của chủ thể. Bên cạnh đó, ngay trong lòng của những diễn tiến tâm lý, còn thấy sự mâu thuẫn giữa tác động bên ngoài (đó chính là xã hội, người lớn với những chuẩn mực - yêu cầu - đòi hỏi với chính bản thân khách thể (mà đó là thái độ, khả năng, hành vi thực và những yếu tố khác tồn tại trong lòng khách thể). Có thể phân chia các mâu thuẫn thành bốn nhóm cơ bản sau: - Nhóm 1: Mâu thuẫn giữa khả năng cũ của đứa trẻ với những nhu cầu mới được nảy sinh do hoạt động của cá nhân. - Nhóm 2: Mâu thuẫn giữa khả năng (tinh thần thể lực) của trẻ đang phát triển với những hình thức cũ
  33. của các mối quan hệ đã được hình thành. - Nhóm 3: Mâu thuẫn giữa hình thức cũ và hình thức mới của những mâu thuẫn hay sự đối kháng giữa hình thức cũ và hình thức mới của mâu thuẫn. - Nhóm 4: Mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung (chính là mâu thuẫn giữa những đòi hỏi đang phát triển của xã hội, tập thể và những người trưởng thành với trình độ ban đầu của sự phát triển tâm lý) Các mâu thuẫn nảy sinh trong sự phát triển tâm lý lứa tuổi phụ thuộc vào sự nỗ lực và tự chủ của mỗi cá nhân mà đặc biệt là đặc điểm về tuổi tác, đặc điểm tâm lý, sinh lý nên ở mỗi một lứa tuổi, những mâu thuẫn này chứa đựng rất “sâu sắc” đặc trưng của lứa tuổi. Việc giải quyết tất cả các mâu thuẫn trên sẽ làm cho trình độ hoạt động tâm lý ngày càng cao và kết quả là trẻ em phát triển chuyển sang trình độ phát triển tâm lý cao hơn. Tuy nhiên, mâu thuẫn được giải quyết không có nghĩa là bị triệt tiêu hoàn toàn vì nhu cầu luôn luôn được nâng cao và mâu thuẫn tiếp tục được nảy sinh. Các mâu thuẫn mới lại tiếp tục thay thế các mâu thuẫn cũ và tiếp tục được giải quyết và sự phát
  34. triển sẽ diễn ra tiếp tục hay động lực phát triển tâm lý là tồn tại thực. Câu hỏi: Trình bày quy luật về tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi: Trả lời: Quy luật này thể hiện ở đặc điểm là các chức năng tâm lý, biểu hiện tâm lý không thể phát triển ở mức độ như nhau dù trong những điều kiện giống nhau. Trong sự phát triển tâm lý lứa tuổi có những thời kỳ tối ưu đối với sự phát triển một hình thức hay một hoạt động tâm lý nào đó. Bên cạnh đó, trong những điều kiện bất kỳ hoặc thuận lợi nhất của việc giảng dạy và giáo dục thì các thuộc tính biểu hiện tâm lý của một cá nhân cũng không phát triển như nhau. Có thể phân tích quy luật này ở các khía cạnh sau: * Sự phát triển tâm lý của cá nhân xét trong tiến trình phát triển của mỗi cá thể: - Thứ nhất, sự phát triển tâm lý của trẻ ở các
  35. mặt riêng biệt như: trí tuệ, ý thức, đạo đức, quan hệ xã hội, ngôn ngữ giao tiếp không thể diễn ra đồng đều do sự tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau như: giáo dục, di truyền - Thứ hai, trong sự phát triển tâm lý của trẻ có những giai đoạn sự phát triển được thực hiện với một tốc độ rất nhanh chóng và có giai đoạn phát triển rất chậm chạp. Trong tiến trình phát triển, có thể thấy có những giai đoạn phát cảm (mà ở đó con người có những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển theo một xu hướng nào đó mà một trong số những điều kiện đó có tính chất tạm thời. * Sự phát triển tâm lý cá nhân xét trong quan hệ giữa trẻ này với trẻ khác: - Dù rằng sự phát triển tâm lý của mỗi trẻ em đều trải qua những giai đoạn phát triển giống nhau theo từng bậc trong một trình tự định sẵn nhưng cách thức phát triển với tốc độ nhịp độ, khuynh hướng riêng là khác nhau. Có những giai đoạn, ở một số trẻ sự phát triển xuất hiện sớm hoặc chậm hơn so với trẻ khác. - Tốc độ, nhịp độ của sự phát triển ở mỗi trẻ
  36. là không thể giống nhau thể hiện ở sự phát triển về thể chất, tinh thần mà cụ thể là nhịp độ phát triển các quá trình, phẩm chất tâm lý, sự hiểu biết và nắm rõ từng dạng hoạt động riêng biệt. - Sự không đồng đều này còn thể hiện ở những khác biệt về tính cách, hứng thú, đam mê làm cho mỗi đứa trẻ không có sự phát triển tương đồng cũng như có những khuynh hướng phát triển khác nhau, tạo ra cái riêng rất đặc trưng và không lặp lại. Câu hỏi: Trình bày quy luật về về tính toàn vẹn trong sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi: Trả lời: Quy luật về về tính toàn vẹn trong sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi: - Tâm lý người có tính trọn vẹn, thống nhất và bền vững. Sự phát triển tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng thái tâm lý dẫn đến sự thay đổi các đặc điểm tâm lý cá nhân nên sự phát triển tâm lý luôn mang tính trọn vẹn. .
  37. - Các đặc điểm tâm lý của cá nhân mà đặc biệt là mối quan hệ giữa tính cách - xu hướng luôn có liên quan chặt chẽ với nhau. Và ngay cả các đặc điểm về thể chất - tinh thần lại liên quan với nhau cho nên sự thay đổi nếu có luôn là sự thay đổi mang tính chất hai mặt (tác động, chi phối - kéo theo) làm cho tâm lý cá nhân được biến đổi toàn vẹn. - Tính trọn vẹn của tâm lý phụ thuộc khá nhiều vào động cơ chỉ đạo của hành vi và khi động cơ thực sự được ý thức thì sự phát triển tâm lý luôn bị chi phối nên lại thể hiện tính toàn vẹn một lần nữa. Cùng với giáo dục, cùng với sự mở rộng của kinh nghiệm sống, những động cơ hành vi của trẻ sẽ trở nên có sức mạnh đặc biệt chỉ đạo những hành vi và sự ứng xử của trẻ trong cuộc sống. Thông qua đó, những diễn tiến tâm lý của trẻ sẽ thống nhất và mang tính toàn vẹn hơn dưới sự chỉ đạo hay chi phối của một hệ thống động cơ hành vi nhất định. Câu hỏi: Trình bày quy luật về tính mềm dẻo và khả năng bù trừ trong sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi:
  38. Trả lời: Quy luật về tính mềm dẻo và khả năng bù trừ trong sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi: - Xu hướng bù trừ trong tâm lý là quy luật tâm lý cơ bản trong quá trình phát triển. Nó dựa trên cả những quy luật về mặt sinh lý cũng như tâm lý trong sự phát triển của cá thể. - Tâm lý của trẻ em có thể thay đổi khi có các tác động thích hợp do hệ thần kinh của trẻ vốn mềm dẻo. Chính tính mềm dẻo của hệ thần kinh cho phép sự phát triển tâm lý diễn ra dưới những tác động phù hợp và đúng “điểm rơi”. Dựa trên tính mềm dẻo của hệ thần kinh mà tác động của giáo dục có thể làm thay đổi tâm lý trẻ em. . - Một chức năng tâm lý hoặc sinh lý nào đó yếu hoặc thiếu thì các chức năng tâm lý khác được bù trừ bằng cách tăng cường hoặc phát triển mạnh hơn. Điều này thể hiện rất rõ đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em bình thường và càng thể hiện rõ hơn nữa với trẻ em đặc biệt. - Chính sự mềm dẻo cũng đã tạo ra khả năng
  39. bù trừ. Xét trên phương diện chức năng, chức năng trội ở một bộ phận nào đó sẽ góp phần khắc phục những chức năng bị hạn chế. Xét trên bình diện cá nhân, khi cá nhân ý thức được sự thiếu hụt, yếu kém của mình thì chính sự tự ý thức sẽ thôi thúc con người hoạt động một cách tích cực để khắc phục, bù trừ những khiếm khuyết khuyết đó. Câu hỏi: Trình bày vai trò của tiền đề sinh vật hay yếu tố bẩm sinh di truyền đối với sự phát triển tâm lý trẻ em – tâm lý lứa tuổi: Trả lời: Có thể phân tích về vai trò của tiền đề sinh vật hay yếu tố bẩm sinh di truyền đối với sự phát triển tâm lý trẻ em – tâm lý lứa tuổi như sau: - Trước hết, bẩm sinh là những đặc điểm về giải phẩu sinh lý khi khi sinh ra đứa trẻ đã có. Còn di truyền là những đặc điểm mà thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Có những đặc điểm khi sinh ra đứa trẻ có được nhưng cha mẹ không hề có đó là những đặc điểm thuộc về bẩm sinh, còn những đặc điểm sinh lý
  40. ở trẻ giống như cha mẹ thì được gọi là đặc điểm di truyền. - Đứa trẻ khi ra đời đã được trang bị những đặc điểm, tiền đề của con người để phát triển tâm lý. Đó là hệ thần kinh não - giác quan - thể chất của con người; nhu cầu sinh vật của con người; đó là tư chất của con người. Các đặc điểm di truyền này sẽ ảnh hưởng đến trình độ và đỉnh cao của thành tựu ở con người. - Quá trình chín muồi về mặt cơ thể, về mặt sinh lý là tiền đề quan trọng, là điều kiện cần cho sự phát triển tâm lý và đây là điều kiện khá quan trọng trong sự phát triển tâm lý trẻ em. - Những đặc điểm bẩm sinh của đứa trẻ có được từ trong giai đoạn bào thai đến lúc sinh ra sẽ để lại trên cấu tạo của cơ thể sẽ ảnh hưởng rất rõ đối với sự phát triển tâm lý trẻ em. Đơn cử như việc người mẹ mang thai mà lại nghiện thuốc, rượu sẽ ảnh hưởng trực tiếp trên bào thai và từ đó sẽ để lại những dấu ấn trực tiếp trên tâm lý trẻ.
  41. Như vậy, các đặc điểm bẩm sinh di truyền là tiền đề là cơ sở quan trọng để phát triển tâm lý trẻ em. Những đặc điểm tự nhiên quy định những con đường và phương thức khác nhau của các thuộc tính tâm lý. Bẩm sinh di truyền ảnh hưởng đến trình độ và đỉnh cao phát triển ở con người, trẻ em Câu hỏi: Trình bày vai trò của giáo dục và sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi: Trả lời: Có thể phân tích về vai trò của giáo dục và sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi như sau: - Giáo dục được hiểu là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền lại cho thế hệ mới những kinh nghiệm mà thế hệ trước đó đã tích lũy được, hình thành nhân cách của con người theio những yêu cầu của xã hội, chuẩn bị cho họ có kiến thức, tâm thế tham gia vào cuộc sống xã hội sau này. - A.N. Leonchiev khẳng định: Sự phát triển lịch sử xã hội loài người không thể thiếu sự truyền thụ tích cực cho thế hệ trẻ những thành tựu văn hóa của loài
  42. người, không thể thiếu sự giáo dục. - Được thụ hưởng sự giáo dục của người lớn từ rất sớm đứa trẻ được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển về thể lực và một số quá trình tâm lý. - Nhờ vào sự tác động giáo dục của người lớn, đứa trẻ sẽ được phát triển các giác quan, các quá trình nhận thức - ngôn ngữ, cảm xúc trong khi tham gia các hoạt động, các mối quan hệ dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức của người lớn. - Sự giáo dục của người lớn giúp trẻ sẽ lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội. Sự tác động này nâng đứa trẻ lên theo từng trình độ phát triển và dần dần người lớn chỉ đóng vai trò kích thích, tổ chức mà trẻ tự hoàn thành, thực hiện hoạt động để phát triển tâm lý chính mình. - Giáo dục còn có thể giúp trẻ rèn luyện làm thay đổi một số điều kiện sinh học, hoạt động thần kinh cấp cao bù đắp một số thiếu hụt về chức năng làm cho quá trình phát triển của trẻ mang tính phù hợp, thích ứng. Giáo dục cũng có thể tác động qua lại mật thiết với những ảnh hưởng của môi trường theo hướng thúc đẩy hoặc kiềm chế chung để tạo ra những
  43. điều kiện tương đối nhất để trẻ phát triển tâm lý. - Giáo dục có thể định hướng phát triển tâm lý trẻ em góp phần hình thành những phẩm chất tâm lý cần thiết và điều chỉnh những nét tâm lý đã hình thành trước đây. Giáo dục có thể thôi thúc, tạo điều kiện để con người, trẻ em vươn đến đỉnh cao của sự phát triển dựa trên các điều kiện của tư chất, năng khiếu Đối với trẻ em trước tuổi học (vườn trẻ, mẫu giáo), giáo dục gia đình có ảnh hưởng đặc biệt đến sự hình thành xu hướng và tính cách của trẻ. Những phẩm chất đạo đức của nhân cách trẻ được hình thành thông qua giao tiếp giữa những người thân cùng huyết thống hoặc người nuôi dưỡng với nội dung hướng vào việc giáo dục trẻ nói lời hay (lễ phép), làm việc tốt (chăm chỉ), ứng xử đẹp (hiếu thảo) và hình thành ở trẻ những thói quen tốt trong sinh hoạt gia đình (gọn gàng, ngăn nắp, giờ nào việc nấy, ). Sự ảnh hưởng giáo dục này vừa mang tính chất trực tiếp, vừa để lại những ấn tượng sâu sắc và khó phai đến suy nghĩ, hành vi của trẻ. Đối với học sinh, nhất là học sinh bậc Trung học, con đường giáo dục nhà trường sẽ kém hiệu quả
  44. nếu chỉ giới hạn trong giờ dạy các môn học ngay cả môn Đạo đức (Giáo dục công dân) trên lớp. Ở lứa tuổi thiếu niên trẻ có nhu cầu giao tiếp mạnh mẽ, có khát vọng chiếm được uy tín và sự thừa nhận của bạn bè, muốn tìm cho mình “chỗ đứng” trong tập thể bạn cùng học. Đối với tuổi đầu thanh niên, sự khẳng định trỗi dậy như một nét tâm lý đặc trưng đòi hỏi tác động giáo dục phải thực sự tinh tế và khéo léo. Câu hỏi: Trình bày vai trò hoạt động của trẻ và tính tích cực của trẻ em đối với sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi Trả lời: Vai trò hoạt động của trẻ và tính tích cực của trẻ em đối với sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi: Trước hết, cần xác lập rõ ràng khái niệm về hoạt động và tính tích cực của trẻ em. Hoạt động của trẻ em là sự tác động qua lại tích cực của đứa trẻ với thế giơí bên ngoài. Trong quá trình tác động này diễn ra sự hình thành tâm lý về
  45. phương diện phát sinh cá thể của đứa trẻ. Hiểu theo nghĩa cụ thể thì hoạt động ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý là hoạt động đích thực do chính đứa trẻ hay chính chủ thể thực hiện và tích lũy được những giá trị tạo nên sự “lớn lên” đúng nghĩa về mặt tâm lý hay tinh thần. Hoạt động này được thực hiện dựa trên sự sẵn sàng, hứng thú, nhu cầu của chính đối tượng thực hiện trong sự nỗ lực đích thực về mặt tinh thần. Có thể hiểu khái niệm tính tích cực như sau: + Tính tích cực là thái độ cải tạo, biến đổi của chủ thể đối với thế giới xung quanh, là phẩm chất quan trọng của nhân cách. + Tính tích cực gắn liền với hoạt động, mang tính chủ động của chủ thể, đối lập với bị động. + Động cơ, nhu cầu, hứng thú hoạt động chính là nguồn gốc bên trong của tính tích cực, là động lực thúc đẩy con người hoạt động. + Tính tích cực là sự cố gắng, nỗ lực, vượt khó của chủ thể để đạt được mục đích đã đề ra.
  46. - Trước hết, có thể khẳng định rằng hoạt động cá nhân là nhân tố quyết định trực tiếp đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em. - Có những điều kiện tốt những cá nhân không hoạt động hoặc không hoạt động tích cực thì tâm lý cũng không phát triển. - Hoạt động cá nhân đóng vai trò là chủ thể, là bộ lọc cho sự phát triển tâm lý cá nhân. - Ở bất kỳ giai đoạn lứa tuổi nào thì hoạt động cá nhân đều đóng vai trò trực tiếp đối với sự phát triển tâm lý dù rằng mức độ ảnh hưởng - quyết định có thể khác nhau. - Hoạt động của đứa trẻ rất phong phú, đa dạng trong đó có những hoạt động đóng vai trò là hoạt động chủ đạo sẽ ảnh hưởng rất rõ đối với sự phát triển tâm lý của trẻ bên cạnh các hoạt động khác của lứa tuổi trong từng thời kỳ, giai đoạn lứa tuổi. - Hoạt động của cá nhân đòi hỏi cá nhân phải luôn tích cực. Ngay từ nhỏ, đứa trẻ phải tích cực trước sự thay đổi của hoàn cảnh, của kích thích để thích ứng và phát triển tâm lý.
  47. - Tính tích cực của trẻ còn thể hiện thông qua sự phát triển của hành động. Trong quá trình hành động cá nhân - các động tác bản năng, không chủ định dần dần chuyển sang những hành động có chủ định. Chính những hành động có chủ định này tạo thành một hệ thống định hướng vào mục đích nhất định để dần đến hoạt động ra đời. Lúc này hoạt động được thực hiện một cách có tổ chức, điều khiển có được thúc đẩy bởi các động cơ - Tính tích cực của cá nhân còn thôi thúc các hoạt động cá nhân mang màu sắc “mới” hơn. Khi tích cực, đứa trẻ bắt đầu có sự tìm tòi, suy nghĩ thực hiện hoạt động để thỏa mãn nhu cầu của mình. Từ đây hoạt động của trẻ mang màu sắc “trí tuệ”, “ý chí”, “tình cảm” và nói chung tính “người”, tính “chủ thể” thể hiện rõ. - Tính tích cực của cá nhân thôi thúc cá nhân phải trở thành chủ thể tích cực của môi trường, của các tác động xung quanh mà đặc biệt là của hoạt động ở chính mình để tạo ra sự phát triển cá nhân mang tính chủ động, tích cực. - Tính tích cực của cá nhân cùng với hoạt động của chính mình sẽ giúp đứa trẻ hình thành được
  48. các hoạt động tâm lý bên trong. Đây là nội dung cơ bản của sự phát triển tâm lý ở trẻ nhỏ giúp trình độ phát triển tâm lý đạt ở mức cao hơn mang tính người hơn. Câu hỏi: Trình bày những quan niệm về mối quan hệ giữa dạy học và phát triển tâm lý trẻ em hay tâm lý lứa tuổi. Trả lời: Có khá nhiều quan niệm khác nhau về mối quan hệ giữa dạy học và phát triển tâm lý trẻ em hay tâm lý lứa tuổi. Có thể đề cập đến ba nhóm quan niệm cơ bản sau: 1. Nhóm quan niệm 1: Dạy học đi sau sự phát triển: Nhóm quan niệm này với đại diện tiêu biểu là Jean Piaget - J. Piaget cho rằng sự phát triển trí tuệ của trẻ diễn ra bên trong, theo quy luật của mình tạo ra những biến đổi phát sinh về chất. Dạy học có khả năng làm
  49. nhanh một chút hoặc chậm một chút quá trình chín muồi trí tuệ nhưng căn bản là không có ảnh hưởng đến sự chín muồi trí tuệ. Chính vì vậy dạy học phải phục tùng các quy luật của sự phát triển, phải ăn khớp với tiến trình phát triển của đứa trẻ. - J. Piaget đã dựa trên cơ sở này để đưa ra quy định có tính chất nghiêm ngặt về mức độ khác nhau của dạy học tùy thuộc vào từng lứa tuổi nhất định, tùy thuộc vào khả năng tâm lý tương ứng đang có. 2. Nhóm quan niệm 2: Dạy học chính là phát triển: - Nhóm quan niệm này với một số đại biểu nổi bật như: Thorrn dike, D.J. Gilxơn Công thức ngắn gọn trên cũng không phải bắt nguồn từ những cơ sở giống nhau khi lý thuyết này nảy sinh trên những cơ sở khác nhau. - Dạy học và phát triển tồn tại song song và bằng nhau hay dạy học chính là phát triển. Quan điểm này đã khẳng định rằng mỗi một bước trong dạy học tương ứng với một bước phát triển do đó các quy luật dạy học là quy luật của sự phát triển như việc hình thành các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
  50. - Dạy học và phát triển trùng khớp lên nhau, là đồng nhất với nhau, có quan hệ phụ thuộc hoàn toàn. Dạy học và phát triển song song nghĩa là mỗi bước dạy học tương ứng với một bước phát triển. Nói cách khác, hai quá trình này phụ thuộc vào nhau. 3. Nhóm quan niệm 3: Quan hệ dạy học và phát triển dưới cái nhìn nhị nguyên: - Quan niệm này phụ thuộc vào tư tưởng của các nhà Tâm lý học Ghestalt mà cụ thể là Koffka. + Phát triển được xem như là một quá trình không phụ thuộc vào dạy học mà là sự chín muồi. + Dạy học là quá trình tiếp thu một loạt các hình thái hành vi mới, dạy học chính là phát triển (sự phát triển các cấu trúc) - Thuyết này cho rằng quá trình phát triển là quá trình không phụ thuộc vào giảng dạy, dạy học là quá trình tiếp thu một loạt hành vi mới đồng nhất với phát triển. Như vậy, các quan niệm trên vẫn chưa giải quyết một cách thỏa đáng về mối quan hệ giữa dạy học và phát triển. Một câu hỏi đặt ra và nó trở thành
  51. nhiệm vụ để những nghiên cứu về Tâm lý học phát triển cần giải quyết về mối quan hệ giữa dạy học và phát triển vẫn tiếp tục trở thành thách thức. Câu hỏi: Trình bày luận điểm về vùng phát triển gần nhất của L.X. VƯGÔTXKI Trả lời: - L.X. Vưgôtxki nhấn mạnh về mối quan hệ “lẫn nhau” giữa dạy học và phát triển, ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục - dạy học trong sự phát triển tâm lý. Ông cho rằng giữa dạy học và phát triển tồn tại mối quan hệ biện chứng tương hỗ nhưng không phải tất cả mọi cái đã học (hoặc được dạy) đều giúp ích cho sự phát triển. - Nhờ vào dạy học mà trong đó chính là sự giúp đỡ của người lớn đứa trẻ nắm được những tri thức về đồ vật thế giới xung quanh và cả các phương pháp đúng đắn để sử dụng - đó chính là sự dạy học đúng nghĩa để phát triển về mặt tâm lý cho đứa trẻ. - L.X. Vưgôtxki cho rằng “Dạy học phải đi trước sự phát triển và thúc đẩy sự phát triển theo mình và
  52. không được đi theo đuôi của sự phát triển. - Trong mối quan hệ giữa dạy học và sự phát triển có thể thấy phải xác định hai trình độ phát triển của trẻ hay hai mức độ của sự phát triển tâm lý. + Mức 1: Trình độ phát triển hiện tại (hiện thời) Trình độ phát triển hiện tại đó là trình độ phát triển các chức năng tâm lý của trẻ được hình thành như là kết quả của các thời kỳ phát triển nhất định đã hoàn tất. Trình độ phát triển hiện tại là những gì trẻ tự làm được bởi khả năng và sức lực về mặt tinh thần của mình mà chưa cần bất kỳ sự hỗ trợ nào của người khác. + Mức 2: Vùng phát triển gần nhất của trẻ: Vùng phát triển gần nhất giúp ta xác định ngày mai của trẻ, trạng thái động của sự phát triển nghĩa là không những chỉ tính đến những gì đạt được trong sự phát triển mà còn tính đến những cái đang diễn ra trong quá trình chín muồi. Trình độ phát triển tương lai là những gì trẻ sẽ có thể làm được dưới sự hướng dẫn của người lớn dựa trên sự nỗ lực và tự thực hiện của bản thân mình.
  53. - Khi đề cập đến trình độ phát triển tương lai, sẽ dễ dàng nhận ra rằng những gì trẻ làm được dưới sự hướng dẫn của người lớn ở ngày mai sẽ trở thành trình độ phát triển hiện tại nếu ngày mai trở thành ngày hôm nay. - Dạy học và phát triển không diễn ra song song và dạy học sẽ tạo ra sự phát triển và dạy học đi trước sự phát triển và kéo sự phát triển theo mình dù rằng phải dựa trên nó. Câu hỏi: Khái niệm về lứa tuổi. Nhấn mạnh những nội dung cơ bản trong khái niệm này. Trả lời: Có thể đề cập đến một số khái niệm sau về lứa tuổi - giai đoạn lứa tuổi: 1. Khái niệm 1: Lứa tuổi là một thời kỳ nhất định, một chu kỳ hay là một bậc thang của sự phát triển như là một giai đoạn phát triển đóng kín một cách tương đối. Ở mỗi cấp độ lứa tuổi, sự phát triển tâm lý đạt tới một chất
  54. lượng mới và diễn ra theo một quy luật đặc thù [theo L.X. Vưgôtxki] 2. Khái niệm 2: Lứa tuổi là một giai đoạn phát triển tâm lý đặc biệt về chất và được đặc trưng bởi nhiều biến đổi và những biến đổi này gộp lại tạo nên tính độc đáo của cấu trúc nhân cách của đứa trẻ trong giai đoạn phát triển của nó. Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác có sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong các thời kỳ trước, những cấu tạo mới này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến trình phát triển [theo PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết] 3. Khái niệm 3: Lứa tuổi là một giai đoạn phát triển của con người. Giai đoạn đó diễn ra theo một quy luật đặc thù gắn liền với sự hình thành cơ thể và phát triển nhân cách con người, có những cấu tạo bền vững về tâm lý và hình thể học. [Theo các nhà Tâm lý học Mac xit sau này] Có thể thấy mỗi khái niệm đều đề cập đến những đặc trưng khác nhau của khái niệm lứa tuổi
  55. dựa trên những góc nhìn khác nhau. Nổi bật nhất là các khái niệm đều đề cập đến “chất lượng mới - quy luật phát triển đặc trưng” khi nói về khái niệm lứa tuổi cũng như sự chi phối của đặc điểm này đối với sự phát triển của cá thể. Như vậy khái niệm lứa tuổi được đặc trưng bởi những đặc điểm của các điều kiện sống và của các yêu cầu đề ra cho đứa trẻ ở giai đoạn phát triển hiện nay của nó. Bởi những đặc điểm của các quan hệ của đứa trẻ với thế giới xung quanh, bởi mức độ phát triển của cấu trúc tâm lý của nhân cách đứa trẻ, bởi trình độ phát triển của các tri thức và tư duy của nó, bởi toàn bộ những đặc điểm sinh lý nhất định. Câu hỏi: Trình bày các tiêu chuẩn phân kỳ lứa tuổi trong sự phát triển tâm lý lứa tuổi. Trả lời: Có thể đề cập đến các tiêu chuẩn phân kỳ lứa tuổi trong sự phát triển tâm lý lứa tuổi như sau: 1. Tình huống xã hội phát triển [Theo tư tưởng ban đầu của L.X. Vưgôtxki]:
  56. - Mỗi giai đoạn lứa tuổi có tình huống xã hội phát triển đặc trưng của mình. Tình huống xã hội phát triển là sự phối hợp đặc biệt giữa những quá trình phát triển bên trong và những điều kiện phát triển bên ngoài mà sự phối hợp này quy định tiến trình phát triển tâm lý của các giai đoạn lứa tuổi đó. - Tình huống xã hội phát triển đặc trưng cho từng giai đoạn lứa tuổi, là hệ thống các mối liên hệ của chủ thể trong hiện thực xã hội phản ánh sự bận tâm - lo lắng được thực hiện trong hoạt động cùng nhau với người lớn. - Tình huống xã hội phát triển chỉ rõ động thái sự phát triển của trẻ vì ở đây các quy luật làm xuất hiện và thay đổi cấu trúc nhân cách của trẻ ở một giai đoạn lứa tuổi được xác định. Sự thay đổi nhân cách của trẻ là sự thay đổi hàng loạt những đặc điểm nhân cách xét trên bình diện tinh thần mà cụ thể như: tính cách, xu hướng - Tình huống xã hội phát triển phản ánh bộ mặt cuộc sống trẻ mà nhờ đó trẻ lĩnh hội các thuộc tính mới của nhân cách và cấu tạo tâm lý mới. Các cấu tạo tâm lý lứa tuổi mới thường xuất hiện vào cuối giai
  57. đoạn lứa tuổi và làm tan rã tình huống xã hội phát triển và làm xuất hiện tình huống xã hội mới và dẫn đến khủng hoảng lứa tuổi. 2. Cấu tạo mới của tâm lý lứa tuổi - Cấu tạo mới của tâm lý lứa tuổi là thể loại mới trong cấu tạo hoạt động của nhân cách, đó là những thay đổi về mặt tâm lý xã hội mà lần đầu tiên được xuất hiện ở giai đoạn lứa tuổi đó. Chúng xác định ý thức, mối quan hệ, hoạt động và cuộc sống bên trong của đứa trẻ. - Cấu tạo mới của tâm lý lứa tuổi được xuất hiện vào thời điểm cuối của giai đoạn lứa tuổi. Cấu tạo mới của tâm lý lứa tuổi dẫn đến sự thay đổi hệ thống những mối quan hệ với thế giới, với con người và với bản thân. - Mỗi một giai đoạn được đặc trưng bởi cấu tạo tâm lý mới mà ở giai đoạn trước chưa có. Đây là đặc trưng điển hình nhất để xác định các giai đoạn phát triển. 3. Hoạt động chủ đạo: [Tư tưởng chính là của A.N. Leonchiev và sau đó ElKonin tiếp tục dựa
  58. trên đó nghiên cứu sâu - rộng hơn] - Hoạt động chủ đạo là hoạt động mà sự phát triển của nó quy định những biến đổi chủ yếu nhất trong các quá trình tâm lý và trong các đặc điểm tâm lý của nhân cách đứa trẻ ở giai đoạn phát triển nhất định của nó. Hoạt động chủ đạo có một số đặc điểm sau: + Là hoạt động có đối tượng mới mẻ, chưa hề có trước đó. Chính đối tượng này tạo ra những cái mới (hay cấu tạo tâm lý mới) trong tâm lý hay nói khác hơn là tạo ra sự phát triển tâm lý + Là hoạt động có khả năng chi phối toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ; những quá trình tâm lý của trẻ được cải tổ, được tổ chức lại bằng hoạt động này. + Là hoạt động có khả năng chi phối các hoạt động khác cũng diễn ra đồng thời và tạo ra những nét đặc trưng trong tâm lý của trẻ ở mỗi giai đoạn phát triển. Ngoài ra, trong suốt giai đoạn lứa tuổi nhất đụnh nào đó, hoạt động chủ đạo ứng với lứa tuổi ấy sẽ được diễn ra một cách hết sức độc đáo. Ngay trong
  59. lòng hoạt động chủ đạo của lứa tuổi này sẽ là tiền đề để nảy sinh - hình thành hoạt động chủ đạo ở giai đoạn lứa tuổi kế tiếp một cách tự nhiên và linh hoạt. Câu hỏi: Trình bày khái niệm khủng hoảng và khủng hoảng tâm lý trong sự phát triển tâm lý lứa tuổi. Trả lời: - Sự khủng hoảng cũng là một khái niệm cần chú ý trong phân kỳ lứa tuổi. Khủng hoảng trong Tâm lý học được quan niệm là trạng thái rối loạn tâm lý dẫn đến việc không thỏa mãn kéo dài đối với bản thân và môi trường bên ngoài. - Khủng hoảng còn được xem như thời điểm cá nhân thường rơi vào trạng thái tâm lý không ổn định, rối loạn, hẫng hụt, hay xuất hiện những biến đổi bất ngờ, không thể lường trước từ đó làm ảnh hưởng rất lớn đến nhịp độ, tốc độ và chiều hướng của cá nhân trong các giai đoạn tiếp theo. Thời kỳ khủng hoảng này diễn ra một cách rất tự nhiên và trong trường hợp đó, những sự cố gắng tiếp xúc hay những tác động của thế giới xung quanh thường rất khó thực
  60. thi. Khi khủng hoảng, cá nhân có thể ý thức nhưng cũng có thể không ý thức được chính mình đang khủng hoảng. Tại thời điểm khủng hoảng, sự phát triển có thể có biểu hiện tạm dừng hoặc thậm chí là thụt lùi tương đối. Khủng hoảng lứa tuổi là thuật ngữ dùng để chỉ các giai đoạn phát triển lứa tuổi chuyển tiếp chiếm vị trí giữa các thời kỳ ổn định. Nói cách khác, hủng hoảng được xem xét trong các quan niệm về giai đoạn phát triển. Khủng hoảng lứa tuổi như là sự giải quyết nhiệm vụ cơ bản của lứa tuổi mà trong đó những “rắc rối” tâm lý lứa tuổi được giải quyết để chuyển sang hướng nhẹ nhàng, êm ả và bình lặng. Sự khủng hoảng ở lứa tuổi được đánh dấu bằng sự chuyển tiếp sang thể loại mới trong mối quan hệ của trẻ với người lớn làm xuất hiện những khả năng mới của trẻ thay đổi tình huống xã hội mới, thay đổi hoạt động và sự cải tổ toàn bộ cấu trúc ý thức của trẻ. Khủng hoảng lứa tuổi được xác định như là sự thay đổi hoàn chỉnh nhân cách của trẻ xuất hiện
  61. trong sự chuyển đổi các thời kỳ ổn định. Khủng hoảng lứa tuổi quy định sự hình thành những phát sinh tâm lý cơ bản mới xuất hiện trước các giai đoạn ổn định. Các tiêu chuẩn về hành vi khủng hoảng tâm lý lứa tuổi thường là sự thay đổi về tâm lý hành vi như: bướng bỉnh, khó chịu, làm ngược lại Sự khủng hoảng này thường bị tác động từ những nguyên nhân tâm lý và nguyên nhân sinh lý. Câu hỏi: Trình bày khái quát về sự phân chia các giai đoạn lứa tuổi trong sự phát triển tâm lý theo quan niệm của Sigmund Freud. Đưa ra một số nhận định cơ bản. Trả lời: Sigmund Freud cho rằng sự phát triển tâm lý có thể phân chia thành các giai đoạn sau: Giai đoạn 1: từ 0 đến 1 tuổi: giai đoạn dục vọng môi miệng Ở giai đoạn này, theo ông thì dục vọng được tập trung vào vùng môi miệng là chủ yếu. Ở trẻ, những đặc thù tâm lý cũng nảy sinh liên quan trực tiếp với
  62. những khoái cảm xoay quanh biểu hiện trên. Trẻ chưa phân biệt bản thân với đối tượng, trẻ còn thể hiện rõ những cảm xúc khoái cảm trong quá trình tiếp xúc, trẻ rất hòa mình với mẹ và chưa có những biểu tượng cụ thể khác Giai đoạn 2: từ 1 đến 3 tuổi: giai đoạn hậu môn Đây còn được xem là giai đoạn tiền sinh dục của quá trình phát triển tính dục. Ở giai đoạn này trẻ bớt đần những xúc cảm bị động thông qua hành động tiếp xúc với mẹ và chuyển dần những khoái cảm sang hành động tiêu tiện. Ở giai đoạn này, tình cảm của trẻ với mẹ mang tính hai chiều vì nếu mẹ thỏa mãn khoái cảm của trẻ thì trẻ sẽ yêu thương và thích thú nhưng nếu mẹ cấm đoán trẻ thì trẻ rất căng thẳng - khó chịu Giai đoạn 3: từ 3 đến 5 tuổi: giai đoạn dương vật - mặc cảm Ở giai đoạn này trẻ bắt đầu quan tâm đến dương vật của mình và những khoái cảm tương ứng nảy sinh. Trẻ bắt đầu nhận thức về giới tính của mình và tình cảm của trẻ bắt đầu hướng về đối tượng thân tình có giới tính đối lập. Cũng chính điều này thôi thúc
  63. trẻ ghét người còn lại và hiện tượng này Sigmund Freud gọi là mặc cảm Ơ- đip. Giai đoạn 4: từ 6 đến 12 tuổi: giai đoạn “ẩn - tàng” Ở giai đoạn này thì những khoái cảm bắt đầu được chuyển về vùng kín một cách sâu sắc. Trẻ bắt đầu thể hiện những dục vọng của mình một cách ngầm hơn thông qua những biến đổi bên trong. Tuy nhiên, những biểu hiện này cũng thực sự mãnh liệt và sâu sắc. Giai đoạn 5: từ 12 tuổi trở đi: giai đoạn sinh dục Ở giai đoạn này, bản năng tình dục đã chi phối những hoạt động và kể cả suy nghĩ của con người. Sigmund Freud khẳng định đây chính là giai đoạn mà con người sẽ thực sự để bản năng của mình hướng về một đối tượng tình dục mà mình lưạ chọn. Bản năng tình dục sẽ đóng vai trò quan trọng để định hướng hành vi cũng như thể hiện tâm lý thông qua những quan hệ bình thường của cuộc sống. Một số nhận định cơ bản:
  64. Cách phân chia này rõ ràng dựa vào bản năng tình dục. Đây cũng là “luận điểm chính - cơ sở chính” mà Phân tâm học của S. Freud quan tâm-tìm hiểu và nghiên cứu. Lẽ đương nhiên, cách phân chia này chưa vạch rõ những biểu hiện tâm lý đặc trưng khác ngoài yếu tố bản năng hay những khoái cảm cho nên chưa thể nêu rõ những đặc trưng tâm lý trên bình diện hệ thống nét tâm lý cơ bản của lứa tuổi trong tiến trình phát triển. Câu hỏi: Trình bày khái quát về sự phân chia các giai đoạn lứa tuổi trong sự phát triển tâm lý theo quan niệm của Jean Piaget. Trả lời: Với Jean Piaget thì ông phân chia sự phát triển tâm lý dựa trên sự phát triển về mặt thao tác nhận thức - tư duy. J. Piaget phân chia như sau: Giai đoạn 1: 0 - 2 tuổi: Giai đoạn giác động (phối hợp cảm giác và vận động)
  65. Ở giai đoạn này, trẻ sơ sinh sử dụng những khả năng cảm giác và vận động để thăm dò và đạt được một sự am hiểu cơ bản về môi trường. Khi mới sinh ra, trẻ chỉ có những phản xạ bẩm sinh để gắn mình với thế giới xung quanh. Khi ở trẻ có sự phát triển, đến cuối thời kỳ cảm giác vận động, trẻ có thể phối hợp được những cảm giác vận động phức tạp. Giai đoạn 2: 2 - 7 tuổi: Giai đoạn tiền thao tác Ở giai đoạn này, trẻ sử dụng những biểu trưng (các hình ảnh và ngôn ngữ) để diễn tả và hiểu nhiều thứ từ thế giới xung quanh. Khi có bất kỳ sự tác động nào từ phía môi trường xung quanh, trẻ thường phản ứng lại với các đối tượng và sự kiện ấy bằng cách cảm nhận và cách nghĩ của riêng mình. Ở trẻ xuất hiện những suy nghĩ cảm tính rằng mọi người cũng sẽ nhìn nhận và suy nghĩ giống như mình và trẻ chưa có những thao tác trí tuệ đích thực. Giai đoạn 3: 7-11 tuổi: Giai đoạn thao tác cụ thể Ở giai đoạn này, trẻ có được và sử dụng những thao tác nhận thức đó là những hành động tinh thần hay những thành phần của suy nghĩ logic trên đối
  66. tượng vật thật. Nói khác đi, vật thật ảnh hưởng khá lớn đến kiểu suy nghĩ và những hành động tư duy của trẻ. Giai đoạn 4: sau 11 tuổi: Giai đoạn thao tác hình thức (Giai đoạn tư duy logic) Ở giai đoạn này, những thao tác hình thức của trẻ được tổ chức lại theo một cách thức nhất định cho phép trẻ có thể kiểm tra những hành động nhận thức của mình mà cụ thể đó là những suy nghĩ. Những suy nghĩ của trẻ cũng bắt đầu mang tính trừu tượng và hệ thống. Ở trẻ xuất hiện khả năng nhận thức lại hay nhận thức về những gì mình đang suy nghĩ. Câu hỏi: Tóm tắt sự phân kỳ lứa tuổi của trẻ em từ 0 tuổi đến 18 tuổi (từ tuổi sơ sinh đến tuổi đầu thanh niên). Trả lời: Sự phân kỳ lứa tuổi của trẻ em từ 0 tuổi đến 18 tuổi được tóm tắt thông qua bảng sau: Lứa tuổi Hướng tâm lý Hoạt động chủ đạo Sơ sinh Ngoại Hoạt động ăn, ngủ
  67. Hoạt động giao lưu Hài nhi Nội cảm xúc trực tiếp Hoạt động với đồ vật Ấu nhi Ngoại hay hoạt động có đối tượng Hoạt động vui chơi - trọng tâm là trò chơi Mẫu giáo Nội phân vai có chủ đề hay trò chơi sắm vai Nhi đồng Ngoại Hoạt động học tập
  68. Hoạt động giao lưu bè Thiếu niên Nội bạn Đầu thanh Hoạt động học tập Ngoại niên hướng nghiệp Created by AM Word2CHM
  69. Created by AM Word2CHM
  70. Chương 2 - TÂM LÝ HỌC HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ P HẠM à Phần 1: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI TỔNG QUAN Với mục tiêu giúp các giáo sinh nêu được các đặc điểm cơ bản của tâm lý lứa tuổi thiếu niên trong quan hệ giao tíếp, nhân cách và sự phát triển trí tuệ, từ đó có thể vận dụng những điều đã học vào việc nhận dạng hành vi, tâm lý, của học sinh khi quan sát hoặc tiếp xúc với học sinh THCS; chương 2 sẽ khái quát các nội dung cơ bản sau: 1. Điều kiện của sự phát triển tâm lý lứa tuổi học sinh THCS 2. Sự phát triển tâm lý của học sinh THCS a. Sự phát triển trí tuệ của học sinh THCS. b. Sự phát triển nhân cách của học sinh THCS. Song song với tài liệu này, sinh viên có thể tham khảo thêm các tài liệu sau:
  71. - TLH Lứa tuổi và TLH Sư phạm (1998) PGS Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan - Nguyễn Văn Thàng, NXB Giáo Dục. - Giáo trình TLH Lứa tuổi - Sư phạm (đào tạo Giáo viên THCS) (2005) Nguyễn Kế Hào (chủ biên) - Nguyễn Quang Uẩn, NXB Đại Học Sư Phạm. - 101 điều sai lầm trong tâm lý thanh thiếu niên (2006) Thanh Sơn, NXB Hà Nội. - Các vấn đề cần quan tâm ở tuổi vị thành niên (2006) Hà Thương, NXB Lao Động. - Tâm lý bất thường của thiếu niên, những điều bạn cần biết (2006) Việt Dũng, NXB Lao Động. Câu hỏi: Hãy cho biết những điều kiện thúc đẩy sự phát triển tâm lý lứa tuổi của học sinh Trung học cơ sở? Trả lời: Những điều kiện thúc đẩy sự phát triển tâm lý lứa tuổi của học sinh Trung học cơ sở: 1. Sự biến đổi về mặt giải phẩu sinh lý
  72. a. Sự phát triển cơ thể của thiếu niên diễn ra mạnh mẽ nhưng không cân đối. Sự hoạt động tổng hợp của các tuyến nội tiết quan trọng nhất (tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận) tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể trẻ, trong đó sự nhảy vọt về chiều cao và sự phát dục - Chiều cao của các em tăng lên một cách đột ngột, hằng năm có thể tăng từ 5 - 6 cm; Trọng lượng cơ thể hằng năm tăng từ 2,4 - 6 kg; vòng ngực - vòng mông tăng trưởng là những yếu tố đặc biệt trong sự phát triển thể chất của trẻ. - Ở giai đoạn dưới 14 tuổi vẫn còn có các đốt sụn hoàn toàn giữa các đốt xương sống, nên cột sống dễ bị cong vẹo khi đứng ngồi không đúng tư thế. - Sự tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất vào cuối thời kì dậy thì khiến các em khỏe ra rõ rệt. Tuy nhiên, sự phát triển cơ của các em trai khác biệt nhất định báo hiệu sự hình thành ở các em những nét khác biệt về cơ thể: con trai cao lên, vai rộng ra, con gái tròn dần, xương chậu rộng ra
  73. Sự phát triển cơ thể diễn ra không cân đối làm cho các em lúng túng, vụng về, “lóng ngóng”. - Xương chân và tay chóng dài nhưng cơ phát triển chậm hơn và lồng ngực phát triển chậm, nên đầu tuổi thiếu niên thường có thân hình dài, hơi gầy và ít nhiều không cân đối. - Sự phát triển của hệ tim - mạch cũng không cân đối: thể tích tim tăng nhanh, hoạt động mạnh hơn nhưng đường kính phát triển chậm hơn. Điều này gây nên rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn máu. b. Hoạt động thần kinh cấp cao của tuổi thiếu niên cũng có những nét riêng biệt. - Ở tuổi thiếu niên, quá trình hưng phấn chiếm ưu thế rõ rệt, dẫn đến thiếu niên không làm chủ được cảm xúc của mình, không kiềm chế được xúc động mạnh. Các em dễ bị kích động, dễ bực tức, cáu gắt, mất bình tĩnh - Ở tuổi thiếu niên, phản xạ có điều kiện đối với những tính hiệu trực tiếp được hình thành nhanh hơn những phản xạ có điều kiện đối với những tính hiệu từ ngữ. Do vậy, ngôn ngữ của trẻ cũng thay đổi.
  74. Các em nói chậm hơn, hay “nhát gừng”, “cộc lốc” Nhưng hiện tượng này chỉ tạm thời, khoảng 15 tuổi trở lên hiện tượng này cân đối hơn. c. Hiện tượng dậy thì - Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cơ thể của thể thiếu niên. Tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động và cơ thể các em xuất hiện những dấu hiệu phụ khiến chúng ta nhận ra các em đang ở độ tuổi dậy thì. - Biểu hiện bên ngoài chủ yếu của sự chín muồi của các cơ quan sinh dục ở các em trai là sự xuất tinh, ở các em gái là hiện tượng kinh nguyệt. Tuổi dậy thì của các em nữ thường vào khoảng 11 - 13 tuổi, các em nam bắt đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng 1 - 1,5 năm. - Sự phát dục cùng với những chuyển biến trong sự phát triển cơ thể của thiếu niên có một ý nghĩa không nhỏ trong sự nảy sinh những cấu tạo tâm lý mới: Cảm giác về tính người lớn thực sự của mình; cảm giác về tình cảm giới tính mới lạ, quan tâm tới người khác giới.
  75. 2. Sự thay đổi của điều kiện sống a. Đời sống gia đình của học sinh Trung học cơ sở: - Đến tuổi này, các em đã có những vai trò nhất định, được gia đình thừa nhận như là một thành viên tích cực của gia đình, được cha mẹ, anh chị giao cho những trọng trách khá năng nề như: chăm sóc các em nhỏ, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc, Thậm chí khá nhiều em trở thành lao động chính, góp phần tăng thu nhập của gia đình, các em đã ý thức được các nhiệm vụ đó và thực hiện tích cực. - Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với các em là cha mẹ không còn coi các em là bé nhỏ nữa, mà đã quan tâm đến ý kiến của các em hơn, dành cho các em những quyền sống độc lập hơn, đề ra những yêu cầu cao hơn, các em được tham gia bàn bạc một số công việc của gia đình và đã biết quan tâm đến việc xây dựng, bảo vệ uy tín của gia đình. Những sự thay đổi đó đã làm cho trẻ ý thức được vị thế của mình trong gia đình và động viên, kích thích các em hoạt động tích cực, độc lập, tự chủ.
  76. b. Đời sống trong nhà trường của học sinh Trung học cơ sở cũng có nhiều thay đổi - Hoạt động học tập và các hoạt động khác của các học sinh Trung học cơ sở đòi hỏi và thúc đẩy các em có thái độ tích cực và độc lập hơn, tạo điều kiện cho các em thõa mãn nhu cầu giao tiếp của mình. - Sự thay đổi về nội dung dạy học: Vào học trường Trung học cơ sở, các em được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, có nội dung trừu tượng, sâu sắc và phong phú hơn, do đó đòi hỏi các em phải có sự thay đổi về cách học. Sự phong phú về trí thức của từng môn học làm cho khối lượng tri thức các em lĩnh hội được tăng lên nhiều, tầm hiểu biết của các em được mở rộng. - Sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập: Các em được học nhiều môn học do nhiều thầy, cô giảng dạy, cho nên phương pháp học tập thay đổi ở các bộ môn và mỗi thầy, cô có cách trình bày, có phương pháp độc đáo của mình.
  77. Thái độ say sưa, hứng thú học tập, lĩnh hội, phát triển trí tuệ, việc hình thành và phát triển cách lập luận độc đáo cùng những nét tính cách quý báu của các em điều do ảnh hưởng của cách dạy và nhân cách của người thầy. - Các em được học với nhiều thầy, nhiều bạn, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân cách, phong cách xử thế khác nhau. - Các em được tham gia vào nhiều dạng hoạt động ở nhà trường như: lao động, học tập ngoại khóa, văn nghệ, thể thao c. Đời sống của học sinh Trung học cơ sở trong xã hội: - Ở lứa tuổi này các em được thừa nhận như một thành viên tích cực và được giao một số công việc nhất định trên liều lĩnh vực khác nhau như tuyên truyền cổ động, giữ trật tự đường phố, giúp đỡ gia đình thương binh, liệt sĩ, bổ túc văn hóa - Thiếu niên thích làm công tác xã hội: Có sức lực, đã hiểu biết nhiều, muốn làm được những công việc được mọi người biết đến, nhất
  78. là những công việc cùng làm với người lớn. Các em cho rằng công tác xã hội là việc làm của người lớn và có ý nghĩa lớn lao. Do đó được làm các công việc xã hội là thể hiện mình đã là người lớn và muốn được thừa nhận mình là người lớn. Hoạt động xã hội là hoạt động có tính chất tập thể, phù hợp với sở thích của thiếu niên. Do tham gia công tác xã hội, mà quan hệ của học sinh Trung học cơ sở được mở rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú lên, nhân cách của thiếu niên được hình thành và phát triển. Tóm lại: Sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của thiếu niên ở trong gia đình, nhà trường, xã hội mà vị trí của các em được nâng lên. Các em ý thức được sự thay đổi và tích cực hoạt động cho phù hợp với sự thay đổi đó. Do đó, đặc điểm tâm lý, nhân cách của học sinh Trung học cơ sở được hình thành và phát triển phong phú hơn so các lứa tuổi trước. Câu hỏi:
  79. Chỉ ra những điểm đặc trưng trong vị trí của lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở. Trả lời: Những điểm đặc trưng trong vị trí của lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở - Tuổi thiếu niên là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11 - 15 tuổi, các em được vào học ở trường Trung học cơ sở (từ lớp 6 - 9). Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị” - Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn (người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt phát triển : thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức của thời kỳ này. - Ở lứa tuổi thiếu niên có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn”, điều này phụ
  80. thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể, sự phát dục, điều kiện sống, hoạt động của các em. - Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn - điều này do hoàn cảnh sống, hoạt động khác nhau của các em tạo nên. Hoàn cảnh đó có cả hai mặt: Những yếu điểm của hoàn cảnh kiềm hãm sự phát triển tính người lớn: trẻ chỉ bận vào việc học tập, không có những nghĩa vụ khác, nhiều bậc cha mẹ có xu hướng không để cho trẻ hoạt động, làm những công việc khác nhau của gia đình, của xã hội. Những yếu tố của hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn: sự gia tăng về thể chất, về giáo dục, nhiều bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp khó khăn trong đời sống, đòi hỏi trẻ phải lao động nhiều để sinh sống. Điều đó đưa đến trẻ sớm có tính độc lập, tự chủ hơn. - Phương hướng phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra theo các hướng sau: Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho
  81. các em hiểu biết nhiều, nhưng còn nhiều mặt khác nhau trong đời sống thì các em hiểu biết rất ít ỏi. Có những em ít quan tâm đến việc học tập ở nhà trường, mà chỉ quan tâm đến những vấn đề làm thế nào cho phù hợp với mốt, coi trọng việc giao tiếp với người lớn, với bạn lớn tuổi để bàn bạc, trao đổi với họ về các vấn đề trong cuộc sống, để tỏ ra mình cũng như người lớn. Ở một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài, nhưng thực tế đang cố gắng rèn luyện mình có những đức tính của người lớn như: dũng cảm, tự chủ, độc lập, quyết đoán nhưng đôi khi lại quan hệ với bạn gái như trẻ con. - Trong những giai đoạn phát triển của con người, lứa tuổi thiếu niên có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp nhất, và cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bước trưởng thành sau này. Thời kỳ thiếu niên quan trọng ở chỗ: trong thời kỳ này những cơ sở, phương hướng chung của sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức của nhân cách được hình thành, chúng sẽ được tiếp tục phát triển trong tuổi thanh niên.
  82. - Hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý thiếu niên, giúp chúng ta có cách đối xử đúng đắn và giáo dục để các em có một nhân cách toàn diện. Câu hỏi: Ở tuổi Trung học cơ sở, hoạt động học tập có những đặc điểm gì mới so với tuổi tiểu học? Trả lời: Hoạt động học tập của học sinh Trung học cơ sở có những đặc điểm mới so với tuổi tiểu học như sau: a. Trẻ càng lớn lên, hoạt động học tập càng có vị trí quan trọng trong cuộc sống của trẻ và vai trò của nó trong sự phát triển của trẻ ngày càng to lớn. Việc học tập ở trường Trung học cơ sở là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ. Ở các lớp dưới, trẻ học tập các hệ thống các sự kiện và hiện tượng, hiểu những mối quan hệ cụ thể và đơn giản giữa các sự kiện và hiện tượng đó. Ở trường Trung học cơ sở, việc học tập của các em phức tạp hơn một cách đáng kể. Các em chuyển sang nghiên cứu có hệ
  83. thống những có sở của các khoa học, các em học tập có phân môn Mỗi môn học gồm những khái niệm, những quy luật được sắp xếp thành một hệ thống tương đối sâu sắc. Điều đó đòi hỏi các em phải tự giác và độc lập cao. b. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng khác trước. Các em được học với nhiều giáo viên. Các giáo viên có cách dạy và yêu cầu khác nhau đối với học sinh, có trình độ nghề nghiệp và phẩm chất, uy tín khác nhau. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh “xa cách” hơn so với bậc tiểu học. Sự thay đổi này tạo ra những khó khăn nhất định cho các em nhưng nó cũng tạo điều kiện cho các em phát triển dần phương thức nhận thức người khác. c. Thái độ tự giác đối với học tập ở tuổi thiếu niên cũng tăng lên rõ rệt. Ở học sinh tiểu học, thái độ đối với môn học phụ thuộc vào thái độ của các em đối với giáo viên và điểm số nhận được. Nhưng ở tuổi thiếu niên, thái độ đối với môn học do nội dung môn học và sự đòi hỏi phải mở rộng tầm hiểu biết chi phối. Thái độ đối với môn học đã được phân hóa (môn “hay”, môn “không hay” )
  84. Ở đa số thiếu niên, nội dung khái niệm “học tập” đã được mở rộng; ở nhiều em đã có yếu tố tự học, có hứng thú bền vững đối với môn học, say mê học tập. Tuy nhiên, tính tò mò, ham hiểu biết nhiều có thể khiến hứng thú của thiếu niên bị phân tán và không bền vững và có thể hình thành thái độ dễ dãi, không nghiêm túc đối với các lĩnh vực khác trong cuộc sống. Trong giáo dục, giáo viên cần thấy được mức độ phát triển cụ thể ở mỗi em để kịp thời động viên, hướng dẫn thiếu niên khắc phục những khó khăn trong học tập và hình thành nhân cách một cách tốt nhất. Mặt khác, cần chú ý tới tài liệu học tập: Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học, phải gắn với cuộc sống của các em, làm cho các em hiểu rõ ý nghĩa của tài liệu học, phải gợi cảm xúc, gây cho học sinh hứng thú học tập và phải trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó, phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập phù hợp. Câu hỏi: Sự phát triển trí tuệ của lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở có những đặc điểm nổi bật nào?
  85. Trả lời: Sự phát triển trí tuệ của lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở có những đặc điểm nổi bật sau: a. Tri giác: Học sinh Trung học cơ sở đã có khả năng phân tích, tổng hợp các sự vật, hiên tượng phức tạp hơn khi tri giác sự vật, hiện tượng. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở nên có kế hoạch, cơ trình tự và hoàn thiện hơn. b. Trí nhớ: Trí nhớ của học sinh Trung học cơ sở cũng được thay đổi về chất. Đặc điểm cơ bản của trí nhớ ở lứa tuổi này là sự tăng cường tính chấtchủ định, năng lực ghi nhớ có chủ định được tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ được cải tiến, hiệu suất ghi nhớ cũng được nâng cao Học sinh Trung học cơ sở có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ ngữ. Các em có những kỹ năng tổ chức hoạt động tư duy, biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệt thống hóa, phân loại nhằm ghi nhớ tài liệu. Kỹ năng nắm vững phương
  86. tiện ghi nhớ của thiếu niên được phát triển ở mức độ cao, các em bắt đầu biết sử dụng những phương pháp đặc biệt để ghi nhớ và nhớ lại. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu được ghi nhớ tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn. Các em thường phản đối các yêu cầu của giáo viên bắt học thuộc lòng từng câu, từng chữ có khuynh hướng muốn tái hiện bằng lời nói của mình. Vì thế giáo viên cần phải: Dạy cho học sinh phương pháp ghi nhớ lôgic. + Cần giải thích cho các em rõ sự cần thiết phải ghi nhớ chính xác những định nghĩa, những qui luật. Ở đây phải chỉ rõ cho các em thấy, nếu ghi nhớ thiếu một từ nào đó thì ý nghĩa của nó không còn chính xác nữa. + Rèn luyện cho các em có kỹ năng trình bày chính xác nội dung bài học theo cách diễn đạt của mình. + Chỉ cho các em, khi kiểm tra sự ghi nhớ, phải bằng sự tái hiện mới biết được sự hiệu quả của sự ghi nhớ. (Thường thiếu niên hay sử dụng sự nhận
  87. lại) + Giáo viên cần hướng dẫn các em vận dụng cả hai cách ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa một cách hợp lý. + Cần chỉ cho các em thiết lập các mối liên tưởng ngày càng phức tạp hơn, gắn tài liệu mới với tài liệu cũ, giúp cho việc lĩnh hội tri thức có hệ thống hơn, đưa tài liệu cũ vào hệ thống tri thức. c. Tư duy: Hoạt động tư duy của học sinh Trung học cơ sở có những biến đổi cơ bản: - Tư duy nói chung và tư duy trừu tượng nói riêng phát triển mạnh là một đặc điểm cơ bản của hoạt động tư duy ở thiếu niên. Nhưng thành phần của tư duy hình tượng - cụ thể vẫn được tiếp tục phát triển, nó vẫn giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc của tư duy. - Các em hiểu các dấu hiệu bản chất của đối tượng nhưng không phải bao giờ cũng phân biệt được những dấu hiệu đó trong mọi trường hợp. Khi nắm khái niệm các em có khi thu hẹp hoặc mở rộng khái niệm không đúng mức.
  88. - Ở tuổi thiếu niên, tính phê phán của tư duy cũng được phát triển, các em biết lập luận giải quyết vấn đề một cách có căn cứ. Các em không dễ tin như lúc nhỏ, nhất là ở cuối tuổi này, các em đã biết vận dụng lý luận vào thực tiễn, biết lấy những điều quan sát được, những kinh nghiệm riêng của mình để minh họa kiến thức. Từ những đặc điểm trên, giáo viên cần lưu ý: + Phát triển tư duy trừu tượng cho học sinh Trung học cơ sở để làm cơ sở cho việc lĩnh hội khái niệm khoa học trong chương trình học tập. + Chỉ dẫn cho các em những biện pháp để rèn luyện kỹ năng suy nghĩ có phê phán và độc lập Câu hỏi: Tình huống: “Kha học lớp bảy, do nghịch ngợm và bị các bạn khác thách đố, Kha đã lỡ làm thơ đả kích hai đứa bạn. Bài thơ ấy không hiểu sao lại đến tai hai bạn của Kha khiến Kha bị bạn giận. Các bạn không thèm chơi với Kha nữa. Kha cảm thấy rất đau khổ nhưng không biết phải làm sao.” Anh chị hãy dựa trên kiến thức Tâm lý học lứa
  89. tuổi để giải thích tại sao hai bạn lại giận Kha và đưa ra lời khuyên cho Kha. Trả lời: - Tình huống cho các bạn học sinh này học lớp bảy nên đặc điểm tâm lý thể hiện trong tình huống này là những đặc điểm tâm lý của học sinh Trung học cơ sở. - Học sinh Trung học cơ sở coi quan hệ bạn bè cùng tuổi là quan hệ riêng của những cá nhân cho nên các em có quyền hành động độc lập. Vì vậy việc Kha làm thơ đả kích và việc hai bạn giận Kha đều do chính các em quyết định. Các em rất khao khát được giao tiếp, hoạt động chung với nhau, được sống tập thể, có những bạn bè thân thiết, tin cậy, được thừa nhận và tôn trọng. Do đó, khi biết được bạn mình là Kha đã làm thơ đả kích mình, những người bạn của Kha rất thất vọng nên giận, không chơi với Kha nữa. - Những biến cố trong tình bạn hoặc thiếu thốn tình bạn đều được xem là những bi kịch của cá nhân. Tình huống khó chịu nhất của các em là bị phê bình thẳng thắn của tập thể, bạn bè. Việc Kha làm thơ đả kích rồi lan truyền nó trong bạn bè đã khiến những
  90. người bạn của Kha cảm thấy vô cùng khó chịu. - Lời khuyên dành cho Kha: nên thẳng thắn nhận lỗi cùng với bạn, bù đắp lại niềm tin và sự yêu qúy đã đánh mất bằng những hành động khác như quan tâm đến bạn nhều hơn, giúp đỡ bạn nhiều hơn và lựa chọn một cách giao tiếp với bạn khác, tốt hơn là làm thơ đả kích. Câu hỏi: Tóm tắt những điểm chính trong tình bạn của thiếu niên. Trên cơ sở đó, nêu những định hướng cư xử khi thiếu niên có những ứng xử tiêu cực trong quan hệ với bạn bè. Trả lời: Tóm tắt những điểm chính trong tình bạn của thiếu niên - Nhu cầu kết bạn: cùng sở thích, hứng thú, hoạt động cùng nhau, qyan trọng nhất: mong muốn được bạn bè thừa nhận, tôn trọng. Phạm vi kết bạn: rộng, vượt quá trường học, khu phố. - Coi trọng những phẩm chất tình bạn: tôn
  91. trọng, thẳng thắn, hiểu biết, tin cậy, trung thành, giữ bí mật cho nhau. Quy tắc tình bạn: chia sẻ ngọt bùi, sống chết có nhau. - Nội dung tình bạn rất đa dạng.Thường xuất phát từ nhiệm vụ học tập và những cảm xúc nảy sinh trong quan hệ bạn bè. - Nảy sinh tìn bạn khác giới (ở các học sinh lớp 7, lớp 8 trở lên). Thường là những cảm xúc, những rung động đơn phương về người khác giới. cũng có thể cả hai cùng biết, nhưng có thể chóng qua. Những định hướng cư xử với thiếu niên khi có sai lầm trong quan hệ với bạn bè - Tạo quan hệ gần gũi với em thiếu niên, qua đó giải thích cho em biết, nếu che dấu việc làm xấu của bạn (như bạn tham gia nhóm sử dụng ma túy, tham gia trộm cắp) có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho bạn. Như vậy là không thương bạn. - Chỉ ra cho em hiểu rằng, khi có những quan hệ vượt quá mức bình thường, nếu tố giác với cha mẹ bạn hoặc với thầy cô những hành vi sai trái của bạn thì không phải là hành vi lý tưởng tình bạn, hoặc cho đó là
  92. phản bội bạn bè. Tình bạn chân chính là phải giúp đỡ nhau tiến bộ. Do đó phải làm cho bạn hiểu việc mình làm là giúp bạn khỏi sai lầm. Câu hỏi: Những ông bố bà mẹ có con học cấp hai thường cảm thấy rất buồn do họ cảm thấy đứa con rất gần gũi, ngoan ngoãn của họ tự nhiên trở nên “bất trị”. Chúng không chịu làm theo những điều họ chỉ dạy mà cứ khăng khăng làm theo ý mình ngay cả trong những trường hợp mà họ chắc rằng chúng biết cách làm mà họ khuyên chúng là tốt và hiệu quả hơn cách chúng nghĩ ra. Anh, chị hãy giải thích tại sao lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở thường được gọi bằng những cái tên như “thời kì nổi loạn”, “tuổi khó bảo”? Từ đó, anh chị rút ra được bài học gì trong cuộc sống và dạy học, giáo dục? Trả lời: - Nguyên nhân của những tên gọi này là do cách cư xử của trẻ nhưng thực chất thì đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể. Trẻ đã có những điều kiện chín muồi cơ bản mà đặc điểm nổi bật nhất là sự phát triển của quá trình
  93. phát dục. Tiếp đó là những cải tổ của cơ thể về mặt hình thái của các mô và các tuyến nội tiết như tuyến sinh dục, tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận. Hoạt động của các tuyến này dẫn đến thay đổi về hình thái, đặc biệt là sự phát triển nhảy vọt về chiều cao. Hiện tượng dậy thì đánh dấu sự chín muồi của quá trình phát dục. những thay đổi rất cơ bản ở trên làm cho trẻ có ấn tượng sâu sắc rằng: “mình đã lớn, không còn là trẻ con nữa”. Từ đó, ở trẻ xảy ra nhu cầu được thay đổi vị trí xã hội, được thay đổi cách đối xử. - Học sinh Trung học cơ sở đang trong giai đoạn xuất hiện nhu cầu hình thành kiểu quan hệ mới. Đó là kiểu quan hệ mà trong đó, trẻ được đối xử bình đẳng, tin tưởng, được tôn trọng nhân cách. Trẻ ở giai đoạn này không muốn người lớn coi chúng như trẻ con nữa. Nếu người lớn không nhận thức được nhu cầu này ở trẻ và thay đổi cách cư xử cho phù hợp thì đứa trẻ sẽ tìm cách thay đổi bằng con đường phản kháng, làm ngược lại những yêu cầu và mong muốn của người lớn. - Trẻ muốn được người lớn đặt nó vào vị trí người bạn giúp việc và muốn người lớn là người mẫu mực, đáng tin cậy.
  94. - Về sự hình thành và phát triển tình cảm của trẻ, tình cảm của các em còn bồng bột, sôi nổi, dễ bị kích động đôi khi còn mâu thuẫn. Do đó, trẻ dễ nổi nóng, cư xử theo cảm xúc của bản thân, khó kiềm chế. - Những lưu ý để áp dụng trong cuộc sống: cần đối xử kiên nhẫn, bình đẳng, tin tưởng và tôn trọng hơn đối với trẻ. Gương mẫu và tạo niềm tin đối với trẻ. Kích thích trẻ tự lập nhưng có trách nhiệm với chính mình trong cuộc sống. Câu hỏi: Anh, chị hãy giải thích tại sao vào lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở, những bậc cha mẹ hay cảm thấy dường như đang “đánh mất” đứa con của mình? Từ đó, anh chị rút ra được bài học gì trong cuộc sống và dạy học, giáo dục? Trả lời: Những bậc cha mẹ có con đang là học sinh Trung học cơ sở hay cảm thấy dường như đang “đánh mất” đứa con của mình vì những nguyên nhân sau: - Môi trường sống của các em có sự thay đổi:
  95. + Trong trường học, các em được tiếp xúc với nhiều thầy cô hơn, nội dung học tập phong phú và sâu hơn học sinh tiểu học. + Trong gia đình, vai trò của các em cũng được coi trọng hơn. Các em được giao thêm nhiều công việc, trách nhiệm hơn. Trong những gia đình khó khăn, học sinh Trung học cơ sở có thể trở thành một trong những thành viên nuôi sống gia đình. - Cùng với sự thay đổi trong môi trường sống, sự thay đổi về mặt cơ thể của trẻ như sự tăng lên về chiều cao, cân nặng, sự thay đổi hoạt động của các tuyến nội tiết dẫn đến hiện tượng dậy thì ở trẻ cũng làm trẻ có cảm giác mình như người lớn. - Học sinh Trung học cơ sở đang trong giai đoạn xuất hiện nhu cầu hình thành kiểu quan hệ mới. Đó là kiểu quan hệ mà trong đó, trẻ được đối xử bình đẳng, tin tưởng, được tôn trọng nhân cách. Trẻ ở giai đoạn này không muốn người lớn coi chúng như trẻ con nữa. Trẻ muốn được người lớn đặt nó vào vị trí người bạn giúp việc và muốn người lớn là người mẫu mực, đáng tin cậy. - Nếu người lớn không nhận thức được nhu
  96. cầu này ở trẻ và thay đổi cách cư xử cho phù hợp thì đứa trẻ sẽ tìm cách thay đổi bằng con đường phản kháng, làm ngược lại những yêu cầu và mong muốn của người lớn. Bài học cần áp dụng trong cuộc sống và dạy học, giáo dục - Cần đối xử kiên nhẫn, bình đẳng trong mối quan hệ với trẻ. - Cần gương mẫu và tạo niềm tin đối với trẻ. - Thể hiện sự tin tưởng và tôn trọng hơn đối với trẻ Câu hỏi: Tình huống: “An học lớp 7. Gia đình An khá giả nhưng bố mẹ không có thời gian dành cho em nhiều nên đã mua cho em một chiếc điện thoại di động để tiện liên lạc. Trong giờ ra chơi, khi đang nghe điện thoại mẹ gọi thì An bị thầy chủ nhiệm bắt gặp. Thầy không giải thích, chỉ tiến tới giật điện thoại khỏi tay An và nói “ai cho em đem điện thoại vào trường. Tôi tịch thu” rồi bỏ đi. An rất
  97. bực mình, giơ chân đạp đổ chiếc bàn bên cạnh ” Giải thích tại sao An nói riêng và học sinh Trung học cơ sở nói chung thường nảy sinh mâu thuẫn với người lớn? Từ đó, áp dụng được gì trong cuộc sống và dạy học, giáo dục? Trả lời: - An nói riêng và học sinh Trung học cơ sở nói chung đang trong giai đoạn xuất hiện nhu cầu hình thành kiểu quan hệ mới. Đó là kiểu quan hệ mà trong đó, trẻ được đối xử bình đẳng, tin tưởng, được tôn trọng nhân cách. Trẻ ở giai đoạn này không muốn người lớn coi chúng như trẻ con nữa. Cách cư xử của thầy chủ nhiệm trong tình huống trên không đáp ứng được nhu cầu này. Tuy việc đem điện thoại di động vào trường là sai nhưng cách tịch thu điện thoại của An mà không giải thích của thầy chủ nhiệm đã làm An cảm thấy mình bị đối xử thiếu tôn trọng. Nếu tôn trọng An, thầy nên cho An biết lý do tại sao hoặc nhắc lại cho An nghe về nội quy của trường để An nhận thức được hành động của em là sai và em phải chịu trách nhiệm trước hành động của mình. Với cách cư xử của thầy, An có thể có suy nghĩ thầy chủ nhiệm không tin tưởng
  98. em. An thấy mình đã lớn, đã biết suy nghĩ cụ thể là tuy mang điện thoại theo nhưng em chỉ sử dụng trong giờ ra chơi và khi bố mẹ gọi. - Do đó, thầy chủ nhiệm của An nói riêng và người lớn nói chung nên đặt trẻ em vào vị trí người bạn giúp việc và cư xử với các em như là người mẫu mực, đáng tin cậy. Từ đó, ta có thể áp dụng trong cuộc sống: nên đối xử bình đẳng, tin tưởng và tôn trọng hơn đối với trẻ. Gương mẫu và tạo niềm tin đối với trẻ. Câu hỏi: Tình huống: “Khoa, Lan, Ngọc và Di cùng học với nhau từ cấp một. Nhưng khi lên lớp 7, Khoa ngày càng học giỏi hơn trong khi Lan, Ngọc và Di lại trở nên lười biếng, ham chơi không chịu học mà còn lôi kéo Khoa cúp học. Thấy vậy, mẹ Khoa cấm Khoa không được chơi với Lan, Ngọc và Di nữa. Khoa không chịu, hỏi lý do thì mẹ chỉ nói là mẹ không thích ba bạn đó. Thất vọng vô cùng, Khoa quyết định không thèm nói chuyện với mẹ. Đã hơn một tháng nay, dù mẹ làm mọi cách cũng không thể nghe được một lời nào từ Khoa. Mẹ Khoa rất hoang mang và buồn nản.”
  99. Anh, chị hãy liệt kê các đặc điểm tâm lý lứa tuổi thể hiện trong tình huống trên. Từ đó, anh chị hãy dựa trên kiến thức Tâm lý học lứa tuổi để đưa ra lời khuyên cho mẹ của Khoa. Trả lời: Những đặc điểm tâm lý lứa tuổi thể hiện trong tình huống trên: - Tình huống cho các bạn học sinh này học lớp 7 nên đặc điểm tâm lý thể hiện trong tình huống này là những đặc điểm tâm lý của học sinh Trung học cơ sở. - Quan hệ giao tiếp bạn bè vượt ra khỏi quan hệ học tập và có nhu cầu giao tiếp với bạn bè trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Do vậy, Khoa vẫn chơi với các bạn cũ. Em vẫn được và thích các bạn mời tham gia vào các họat động khác bên ngoài hoạt động học tập. - Học sinh có nguyện vọng có bạn bè thân thiết, tin cậy, được bạn bè thừa nhận. Đặc điểm này bộc lộ khi mẹ cấm Khoa chơi với các bạn thì Khoa không chịu vì em muốn giữ tình bạn thân thiết của
  100. mình. - Tình cảm của học sinh Trung học cơ sở còn bồng bột, dễ bị kích động nên Khoa đã nhanh chóng đi đến quyết định “giận mẹ” và không nói chuyện với mẹ một tháng. - Học sinh Trung học cơ sở đang trong giai đoạn xuất hiện nhu cầu hình thành kiểu quan hệ mới. Đó là kiểu quan hệ mà trong đó, trẻ được đối xử bình đẳng, tin tưởng, được tôn trọng nhân cách. Trẻ ở giai đoạn này không muốn người lớn coi chúng như trẻ con nữa. Trẻ muốn được người lớn đặt nó vào vị trí người bạn giúp việc và muốn người lớn là người mẫu mực, đáng tin cậy. - Nếu người lớn không nhận thức được nhu cầu này ở trẻ và thay đổi cách cư xử cho phù hợp thì đứa trẻ sẽ tìm cách thay đổi bằng con đường phản kháng. Ở đây, mẹ Khoa chưa nhận ra nhu cầu của Khoa và đã cư xử với Khoa theo kiểu quan hệ cũ: ép buộc Khoa phải làm theo ý mình mà không giải thích hay thuyết phục. Do đó đã dẫn đến việc Khoa phản kháng lại bằng cách không thèm nói chuyện với mẹ hơn một tháng.
  101. - Trẻ em muốn được người lớn đặt nó vào vị trí người bạn giúp việc và muốn người lớn là người mẫu mực, đáng tin cậy. Lời khuyên cho mẹ của Khoa: - Hãy giải thích rõ ràng lý do tại sao không đồng ý cho Khoa chơi với Di, Ngọc và Lan. - Sau đó, cùng với Khoa đưa ra giải pháp nên làm thế nào để mẹ không lo lắng mà em vẫn có thể chơi với các bạn. Câu hỏi: Ở tuổi thiếu niên, mối quan hệ giữa trẻ với người lớn có gì đổi mới? Trả lời: Mối quan hệ giữa tuổi thiếu niên với người lớn có những điểm đổi mới sau: - Ở tuổi thiếu niên xuất hiện một cảm giác rất độc đáo: “cảm giác mình đã là người lớn”. Các em cảm thấy mình không còn là trẻ con nữa, nhưng các em cũng có cảm giác mình chưa thực sự là người lớn. Cảm giác về sự trưởng thành của bản thân là
  102. nét đặc trưng trong nhân cách thiếu niên, vì nó biểu hiện lập trường sống mới của thiếu niên đối với người lớn và thế giới xung quanh. Cảm giác mình đã là người lớn được thể hiện rất phong phú về nội dung và hình thức. Các em quan tâm đến hình thức, tác phong, cử chỉ và những khả năng của bản thân. - Trong học tập các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức, muốn có lập trường và quan điểm riêng. - Trong phạm vi ý thức xã hội, các em muốn được độc lập và không phụ thuộc vào người lớn ở một mức độ nhất định. - Các em đòi hỏi, mong muốn người lớn quan hệ đối xử với mình bình đẳng như đối xử với người lớn, không can thiệp quá tỉ mỉ vào một số mặt trong đời sống riêng của các em. - Thiếu niên bắt đầu chống đối những yêu cầu mà trước đây nó vẫn thực hiện một cách tự nguyện. Các em bảo vệ ý kiến của mình không chỉ trong lời nói mà cả trong hành động. - Cảm giác về sự trưởng thành và nhu cầu
  103. được người lớn thừa nhận nó là người lớn đã đưa đến vấn đề quyền hạn của người lớn và các em trong quan hệ với nhau. Các em mong muốn hạn chế quyền hạn của người lớn, mở rộng quyền hạn của mình; Các em mong muốn người lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính độc lập của các em. - Nguyện vọng muốn được tin tưởng và độc lập hơn, muốn được quyền bình đẳng nhất định với người lớn có thể thúc đẩy các em tích cực hoạt động, chấp nhận những yêu cầu đạo đức của người lớn và phương thức hành vi trong thế giới người lớn, khiến các em xứng đáng với vị trí xã hội tích cực. Nhưng mặt khác nguyện vọng này cũng có thể khiến các em chống cự, không phục tùng những yêu cầu của người lớn. - Có những nguyên nhân nhất định khiến thiếu niên có cảm giác về sự trưởng thành của bản thân: Các em thấy được sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể và sức lực của mình; các em thấy tầm hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo của mình được mở rộng; thiếu niên tham gia nhiều hơn vào cuộc sống xã hội, cuộc sống của người lớn. Tính tự lập khiến các em thấy mình giống người lớn ở nhiều điểm
  104. - Xu thế cường điệu hóa ý nghĩa của những thay đổi của bản thân, khiến cho các em có nhu cầu tham gia vào đời sống của người lớn, trong khi đó kinh nghiệm của các em chưa tương xứng với nhu cầu đó. Đây là một mâu thuẫn trong sự phát triển nhân cách thiếu niên. - Cần phải thấy rằng nhu cầu và nguyện vọng của thiếu niên là chính đáng, người lớn phải thay đổi thái độ đối xử đối với thiếu niên. - Nếu người lớn không chịu thay đổi quan hệ với các em, thì các em sẽ trở thành người khởi xướng thay đổi mối quan hệ này. - Nếu người lớn chống đối, sẽ gây ra những phản ứng của các em với người lớn dưới dạng bướng bỉnh, bất bình, không vâng lời - Nếu người lớn thấy sự phản đối của các em,mà không suy xét về phía mình để thay đổi quan hệ với các em, thì sự xung đột của các em với người lớn còn kéo dài đến hết thời kì của lứa tuổi này. - Những quan hệ xung đột giữa các em và người lớn làm nảy sinh những hành vi tương ứng ở
  105. các em: xa lánh người lớn, không tin tưởng vào người lớn, cho rằng người lớn không hiểu các em và không chịu hiểu các em, khó chịu một cách có ý thức với những yêu cầu, những đánh giá, những nhận xét của người lớn. Tác động giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút. - Có nhiều yếu tố làm cho người lớn vẫn giữ nguyên quan hệ như trước đây đối với các em: các em vẫn còn là học sinh, vẫn phụ thuộc vào cha mẹ về kinh tế; cha mẹ và giáo viên vẫn đang giữ vai trò giáo dục các em; hơn thế nữa, ở các em vẫn còn những nét trẻ con trên khuôn mặt, trong dáng dấp, trong hành vi và trong tính cách. Mặt khác, nhiều người lớn còn thấy việc tăng quyền hạn và tính độc lập cho thiếu niên là không hợp lý. - Chính sự không thay đổi thái độ của người lớn khi thiếu niên đang trở thành người lớn là nguyên nhân gây ra “đụng độ” giữa thiếu niên với người lớn. Nếu người lớn không thay đổi thái độ, các em sẽ thái độ chống đối, các em sẽ xa lánh người lớn, cho rằng người lớn không hiểu và không thể hiểu mình Vì vậy, trong quan hệ với thiếu niên, người lớn
  106. cần: - Phải mong muốn và biết cách tôn trọng tính độc lập và quyền bình đẳng của thiếu niên. - Quan hệ giữa thiếu niên và người lớn có thể không có mâu thuẫn nếu quan hệ đó được xây dựng trên cơ sở tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau. - Khi tiếp xúc với thiếu niên cần gương mẫu, khéo léo, tế nhị Như vậy, tính độc lập và quyền bình đẳng trong quan hệ của các em với người lớn là vấn đề phức tạp và gay gắt nhất trong giao tiếp của các em với người lớn nói riêng, trong việc giáo dục các em ở lứa tuổi này nói chung. Không nên chỉ coi đây là biểu hiện của sự “khủng hoảng” tuổi dậy thì mang tính tự nhiên hay sẵn có, mà là sự khủng hoảng trong quan hệ của thiếu niên với người lớn, chủ yếu do người lớn gây ra. Những khó khăn, mâu thuẫn có thể hạn chế hoặc không xảy ra, nếu người lớn và các em xây dựng được mối quan hệ bạn bè, quan hệ có hình thức hợp tác trên cơ sở tôn trọng, thương yêu, tin cậy, bình đẳng và tế nhị trong cư xử với thiếu niên.
  107. Sự hợp tác này cho phép người lớn đặt các em vào vị trí mới - vị trí của người giúp việc và người bạn trong những công việc khác nhau, còn bản thân người lớn trở thành người mẫu mực và người bạn tin cậy của các em. Câu hỏi: Phân tích những đặc điểm nổi bật trong hoạt động giao tiếp của học sinh Trung học cơ sở với bạn bè? Trả lời: Những đặc điểm nổi bật trong hoạt động giao tiếp của học sinh Trung học cơ sở với bạn bè: Nhu cầu giao tiếp với bạn phát triển mạnh là một đặc điểm quan trọng ở tuổi thiếu niên a. Sự giao tiếp của học sinh Trung học cơ sở với bạn bè cùng lứa tuổi: - Quan hệ với bạn bè cùng lứa tuổi phức tạp, đa dạng hơn nhiều so với học sinh tiểu học. Sự giao tiếp của các em đã vượt ra ngoài phạm vi học tập, phạm vi nhà trường, mà còn mở rộng trong những
  108. hứng thú mới, những việc làm mới, những quan hệ mới trong đời sống của các em, các em có nhu cầu lớn trong giao tiếp với bạn bè vì: + Một mặt, các em rất khao khát được giao tiếp và cùng hoạt động chung với nhau, các em có nguyện vọng được sống trong tập thể, có những bạn bè thân thiết tin cậy. + Mặt khác, cũng biểu hiện nguyện vọng không kém phần quan trọng là được bạn bè công nhận, thừa nhận, tôn trọng mình. - Học sinh Trung học cơ sở cho rằng quan hệ bạn bè cùng tuổi là quan hệ riêng của cá nhân, các em có quyền hành động độc lập trong quan hệ này bảo vệ quyền đó của mình. Các em không muốn người lớn can thiệp vào chuyện bạn bè của mình. Nếu có sự can thiệp thô bậo cảu người lớn, khiến các em cảm thấy bị xúc phạm, thì các em chống đối lại. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè là một nhu cầu chính đáng của các em. Các em mong muốn có một tình bạn riêng, thân thiết để “gửi gắm tâm tình”. Các em có nhiều nhận xét, băn khoăn về dáng vẻ bên ngoài, về tình cảm, ý nghĩ tâm tư của mình, về quan hệ của mình
  109. với người khác và cả quan hệ của mọi người với nhau Các em cần trao đổi với bạn bè để có được hiểu biết đầy đủ hơn, đúng hơn về bản thân và một số vấn đề khác - Nếu như quan hệ của người lớn và các em không hòa thuận, thì sự giao tiếp với bạn bè cùng tuổi càng tăng và ảnh hưởng của bạn bè đến với các em càng mạnh mẽ. - Sự bất hòa trong quan hệ bạn bè cùng lớp, sự thiếu thốn bạn thân hoặc tình bạn bị phá vỡ đều sinh ra những cảm xúc nặng nề và tình huống khó chịu nhất đối với các em là sự phê bình thẳng thắn của tập thể, của bạn bè; còn hình phạt nặng nề nhất đối với các em là bị bạn bè tẩy chay, không muốn chơi với mình. - Tình bạn trong đời sống học sinh Trung học cơ sở đã sâu sắc hơn. Các em thích giao tiếp và kết bạn với nhau, nhưng không phải mọi em ở trong lớp đều được các em thích và giao tiếp như nhau. Các em chỉ kết bạn với những em được mọi người tôn trọng, có uy tín và tiến bộ rõ rệt về mặt nào đó. - Lúc đầu phạm vi giao tiếp của các em