Bài giảng Nghệ thuật học

doc 116 trang phuongnguyen 6300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Nghệ thuật học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_giang_nghe_thuat_hoc.doc

Nội dung text: Bài giảng Nghệ thuật học

  1. MỤC LỤC CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC CỦA NGHỆ THUẬT 1 1. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu của nghệ thuật 1 1.1. Đối tượng nghiên cứu. 1 1.2. Phương pháp nghiên cứu 1 2. Nguồn gốc của nghệ thuật 1 2.1. Nguồn gốc của nghệ thuật được giải thích theo một số học thuyết 1 2.2. Vai trò của nghệ thuật trong đời sống xã hội 3 CHƯƠNG II: MỘT SỐ THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHƯƠNG TÂY 5 BÀI 1: NGHỆ THUẬT NGUYÊN THỦY 6 1. Đặc điểm chung của Mỹ thuật Nguyên thủy 6 2. Thành tựu nghệ thuật Nguyên thủy 6 3. Tính tượng trưng, ước lệ trong nghệ thuật Nguyên thủy 8 BÀI 2: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI 10 1. Hoàn cảnh xã hội thời kỳ Hy lạp cổ đại 10 2. Một số thành tựu nghệ thuật cơ bản 11 BÀI 3: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI 16 1. Văn hóa, xã hội thời kỳ La Mã cổ đại 16 2. Nghệ thuật Kiến trúc 16 3. Nghệ thuật Điêu khắc 18 BÀI 4: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TRUNG CỔ 21 1. Hoàn cảnh xã hội thời Trung cổ phương tây 21 2. Thành tựu nghệ thuật thời Trung cổ 21 3. Nghệ thuật Hội họa 22 4. Nghệ thuật Điêu khắc 23 BÀI 5: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHỤC HƯNG 24 1.Văn hóa, xã hội thời kỳ Phục hưng 24 2. Khái niệm và cơ sở hình thành nghệ thuật Phục Hưng 26 3. Thành tựu nghệ thuật Phục Hưng 27 BÀI 6: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CỔ ĐIỂN 34 1. Cơ sở hình thành nghệ thuật cổ điển 34 2. Đặc điểm nghệ thuật Cổ điển 34 BÀI 7: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT THẾ KỶ XVIII 38 1. Đặc điểm văn hóa, xã hội 38 2. Một số thành tựu nghệ thuật 38 BÀI 8: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẦU THẾ KỶ XIX 41 1. Vài nét về văn hóa, xã hội 41 2. Đặc điểm nghệ thuật 41
  2. CHƯƠNG III: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHƯƠNG ĐÔNG 46 BÀI 1: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT ẤN ĐỘ 47 1. Văn hóa, xã hội Ấn Độ 47 2. Đặc điểm nghệ thuật 48 BÀI 2: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 52 1. Vài nét về văn hóa, xã hội 52 2. Đặc điểm nghệ thuật Trung Quốc 53 3. Thành tựu mỹ thuật Trung quốc 54 CHƯƠNG IV: MỘT SỐ THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 62 1. Nghệ thuật Hội họa 62 1.1. Nghệ thuật Ân tượng 62 1.2. Xu hướng nghệ thuật Tân ấn tượng (Néo – Impresionnisme) và Hậu Ấn tượng 66 1.3. Nghệ thuật Dã thú 70 1.4. Nghệ thuật Lập thể 72 1.5. Nghệ thuật Trừu tượng 73 1.6. Nghệ thuật Siêu thực (SURRÉALESME) 75 2. Mỹ thuật ứng dụng (Design) 77 3. Nghệ thuật sắp đặt 77 CHƯƠNG V: ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT 79 BÀI 1: NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC 80 1. Cơ sở phân chia các loại hình nghệ thuật 80 2. Khái niệm nghệ thuật Kiến trúc 81 3. Lịch sử hình thành và phát triển 83 4. Đặc trưng ngôn ngữ và các thể loại Kiến trúc 83 BÀI 2: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC 87 1. Khái niệm 87 2. Lịch sử hình thành và phát triển 87 3. Đặc trưng ngôn ngữ điêu khắc 87 4. Các thể loại điêu khắc 88 BÀI 3: NGHỆ THUẬT HỘI HỌA 91 1. Khái niệm 91 2. Lịch sử hình thành và phát triển 91 3. Đặc trưng ngôn ngữ, các thể loại hội họa 91 BÀI 4: NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ 95 1. Khái niệm 95 2. Lịch sử hình thành và phát triển 95 3.Đặc trưng nghệ thuật trang trí 95 4. Các thể loại nghệ thuật trang trí 96 BÀI 5: NGHỆ THUẬT MÚA 98
  3. 1. Khái niệm 98 2. Lịch sử hình thành và phát triển 98 3. Đặc trưng nghệ thuật múa 98 4. Một số thể loại nghệ thuật múa 99 BÀI 6: NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU 103 1. Khái niệm 103 2. Lịch sử hình thành, phát triển 103 3. Đặc trưng ngôn ngữ, thể loại nghệ thuật Sân khấu 103 BÀI 7: NGHỆ THUẬT ĐIỆN ẢNH 107 1. Khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển 107 2. Đặc trưng ngôn ngữ, thể loại nghệ thuật Điện ảnh 107 BÀI 8: NGHỆ THUẬT VĂN HỌC 110 1. Khái niệm 110 2. Lịch sử hình thành và phát triển 110 3. Đặc trưng ngôn ngữ, các thể loại văn học 110
  4. CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC CỦA NGHỆ THUẬT Mở đầu Nghệ thuật học là môn học mang tính đại cương không quá đi sâu vào các loại hình nghệ thuật, không trình bày diễn trình phát triển của lịch sử mỹ thuật nói riêng, mà ở đây vấn đề nghiên cứu chính là những thành tựu của con người đạt được qua các giai đoạn lịch sử về: văn học, âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, kiến trúc, hội họa Từ đó nghiên cứu sâu về khái niệm, lịch sử hình thành cũng như những đặc trưng cơ bản của các loại hình nghệ thuật. Từng chương trong học phần này sẽ giải quyết các vấn đề đó. Chương 1 sẽ bắt đầu với việc lý giải nguồn gốc của nghệ thuật. Mục tiêu - Giải thích các căn cứ nguồn gốc của nghệ thuật - Nêu bật được tính khoa học và ưu thế của thuyết Tổng sinh lực và sinh lực thừa. Từ đó giúp người học có cái nhìn toàn diện về sự ra đời và nguồn gốc của nghệ thuật. 1. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu của nghệ thuật 1.1. Đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu những thành tựu cơ bản của nghệ thuật, các loại hình nghệ thuật cơ bản. 1.2. Phương pháp nghiên cứu Hệ thống những thành tựu cơ bản của nghệ thuật, so sánh các giai đoạn khác nhau để tháy được những tiến bộ vượt bậc của con người trong diễn trình lịch sử. 2. Nguồn gốc của nghệ thuật 2.1. Nguồn gốc của nghệ thuật được giải thích theo một số học thuyết. Khoảng một triệu năm trước đây con người đã đứng thẳng, thoát thai khỏi giới động vật. Hình thức sơ khai nhất của xã hội loài người được hình thành: Xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Công cụ lao động của các cư dân đầu tiên này đều được làm từ đá. Vì vậy, theo khảo cổ học thời kỳ này được gọi là thời kỳ đồ đá, gồm ba giai đoạn: Đồ đá cũ - đồ đá giữa và đồ đá mới. Ở thời kỳ đồ đá cũ con người sống bằng săn bắt và đánh cá. Họ biết chế tạo công cụ lao động. Trải qua một thời gian dài với người Crôma nhông, dấu hiệu về sự làm đẹp đã xuất hiện. Họ chú ý tới cách ăn mặc, trang trí vách hang bằng các hình vẽ thú vật và họ còn làm những bức tượng nhỏ bằng nhiều chất liệu như ngà, xương Tộc người này sống vào cuối thời kỳ đồ đá cũ. Phải chăng đây là lúc nghệ thuật tạo hình xuất hiện và một đời sống thẩm mỹ đã dần được hình thành? 1
  5. Không ai có thể khẳng định một cách chắc chắn nghệ thuật tạo hình bắt đầu ra sao và từ bao giờ. Tuy vậy căn cứ trên các hình vẽ tìm thấy ở một số hang động như Antamira (Tây ban nha) Látxcô (Pháp), một số bức tượng phụ nữ đã được xác định niên đại có thể cho ta hình dung về sự ra đời của nghệ thuật tạo hình trong đời sống nguyên thuỷ. Từ 30.000 năm đến 10.000 năm trước công nguyên đã bắt đầu để lại những dấu vết về nghệ thuật tạo hình, theo như cách gọi của chúng ta ngày nay. Cách chúng ta hơn 5.000 năm trước đây, con người mới phát hiện ra chữ viết, lúc đầu chỉ là những hình vẽ tượng trưng, những ký hiệu để trao đổi. Ví dụ hình tròn có chấm ở giữa là mặt trời ( ) Dần dần các chữ tượng hình xuất hiện. Như vậy thì từ “Nghệ thuật tạo hình” hay “Mỹ thuật” như ta thấy ngày nay xuất hiện sau những hình vẽ trên vách hang động thời tiền sử rất nhiều. Khi con người thời tiền sử vẽ hoặc khắc vạch lên vách, trần hang động nơi họ sinh sống có lẽ họ cũng chưa nghĩ rằng đó là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình. Những hình vẽ đó gắn với cuộc sống, với các đồ vật, nơi sinh hoạt của con người. Về một mặt nào đó, trong tư duy nguyên thuỷ việc vẽ hình cũng giống như việc săn bắt hay các công việc khác. Nó không chỉ mang ý nghĩa nghệ thuật mà còn gắn với cái có ích. Ngoài ra nghệ thuật tạo hình lúc này còn gắn với những tín ngưỡng, ma thuật. Theo E. H. Gombrich, tác giả cuốn “Câu chuyện nghệ thuật” thì “Tranh và tượng được họ dùng để thực hành pháp thuật”. “Những người thợ săn thời kỳ này nghĩ rằng chỉ cần vẽ hình con mồi và có lẽ tấn công chúng bằng giáo mác hay rìu đá, những con thú thật sẽ khuất phục sức mạnh của họ”. Tất nhiên đây là sự phỏng đoán của con người ngày nay khi nghiên cứu về 2 lịch sử mỹ thuật của thời nguyên thuỷ. Ngoài 2 ý nghĩa trên, các hình vẽ còn có ý nghĩa là những thông tin nhắn gửi cho các thế hệ sau về cuộc sống, sinh hoạt của con người thời tiền sử. Ví dụ qua các hình vẽ thú vật như bò rừng, ngựa, voi, ma mút cho chúng ta biết về các động vật thời nguyên thuỷ, ở bức tranh khác ta được chứng kiến cách đánh cá, cách quăng lưới, cách sử dụng các con cá mồi lớn. Thậm chí con người thời kỳ đó vẽ chỉ để giải trí. Thuyết bắt chước là sự mô phỏng các sự vật xung quanh, nghệ thuật là sự sáng tạo trên căn cứ có sẵn của thế giới hiện thực khách quan. Thuyết Du hí: Nghệ thuật giải trí lành mạnh: nghệ thuật Múa, âm nhạc ra đời. Thuyết ma thuật: Nghệ thuật không phải thứ tôn giáo thần bí, ma thuật .Tính chất ma thuật được thể hiện ở những gia đoạn sơ khai, mông muội khi con người cảm thấy mình quá nhỏ bé trước thế lực siêu nhiên. Thuyết Biểu hiện: Biểu hiện cảm xúc của tác giả được thể qua tác phẩm Nguồn gốc của nghệ thuật được lý giải trên cơ sở thuyết “Tổng sinh lực và sinh lực thừa”. Nghệ thuật bước ra từ đời sống con người. Ví dụ: Người bình thường sản xuất được 10 giỏ tre một ngày. 2
  6. Một người năng lực ưu tú vượt trội: sản xuất 10 giỏi tre chỉ 1/2 ngày, thời gian rỗi còn lại người đó còn chau chuốt cho giỏ tre đó thẩm mỹ hơn, sơn màu và trang trí các chi tiết đẹp mắt.Như vậy nghệ thuật ra đời khi con người thỏa mãn sự say mê của tác giả, đáp ứng cả nhu cầu vật chất và tinh thần. 2.2. Vai trò của nghệ thuật trong đời sống xã hội - Nghệ thuật giúp con người nhận thức thế giới trong tính tổng thể - toàn vẹn của nó. - Nghệ thuật phản ánh một mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực nói chung. - Nhờ nghệ thuật con người hiểu biết di sản văn hóa thế giới - Số phận con người trong xã hội là đối tượng trung tâm của phản ánh. Nghệ thuật giúp con người nhận thức được chính mình, tự nghiền ngẫm và xem xét bản thân Nghệ thuật đảm nhiệm chức năng giáo dục sâu sắc và có hiệu quả nhất so với hình thái ý thức xã hội. Nghệ thuật làm cho mỗi người phải tự ưu tư, trăn trở, lựa chọn, nêu ra những giá trị tích cực và phương tiện thẩm mỹ hay đạo đức mà không gò vào các khuôn mẫu. Sức mạnh giáo dục của nghệ thuật chủ yếu hướng vào tình cảm. Nghệ thuật chỉ ra, nhấn mạnh nét đẹp trong cuộc sống mà ở đời thường con người không nhận ra, khêu gợi tình cảm trong sáng của con người, làm con người thêm yêu và hòa nhịp vào cuộc sống. 3
  7. Câu hỏi: 1. Trình bày nguồn gốc của nghệ thuật và sự hiểu biết của bạn về Tổng sinh lưc và sinh lực thừa. 2. Phân tích tính sự đổi mới của thuyết Tổng sinh lực và sinh lực thừa trên cơ sở những minh chứng nghệ thuật cụ thể. 3. Nêu vai trò của nghệ thuật trong đời sống xã hội. 4
  8. CHƯƠNG II: MỘT SỐ THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHƯƠNG TÂY Mở đầu Con người ngay từ thời cổ đại đã có những sáng tạo vượt bậc về văn học, thiên văn học, khoa học, nghệ thuật. Trong đó mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, văn chương được coi là những loại hình phát triển, nó thể hiện tư duy thâm mỹ cao của con người. Dần dà qua các giai đoạn lịch sử với đỉnh cao thời kỳ văn hóa Phục Hưng con người đã thể hiện sức sáng tạo của những con người “khổng lồ”. Thời kỳ khai sáng, thời kỳ cận đại, nghệ thuật mang nhiều màu sắc. Chương 2 sẽ giải quyết những thắc mắc của con người hiện đại về những sáng tạo vô cùng kỳ diệu của con người phương Tây qua các giai đoạn cổ đại, Trung cổ, Phục Hưng, Khai sáng, Cận đại. Mục tiêu - Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản nền tảng về văn hóa xã hội phương Tây. - Làm bật lên những sáng tạo và thành tựu đạt được của con người trong các giai đoạn này, đồng thời hiểu biết cơ bản về đặc điểm nghệ thuật cũng như lý tưởng thẩm mỹ của con người phương Tây qua các giai đoạn khác nhau. 5
  9. BÀI 1: NGHỆ THUẬT NGUYÊN THỦY 1. Đặc điểm chung của Mỹ thuật Nguyên thủy 1.1. Đặc điểm về đối tượng nghệ thuật Trong các hình vẽ còn lại trên vách, hang, động nơi con người thời nguyên thuỷ sinh sống chủ yếu là các hình thú hoặc đơn lẻ hoặc bầy đàn, ở một số tác phẩm đã có ý thức bố cục các hình tượng theo một chủ đề nhất định. Người nguyên thuỷ đã rất thành công khi vẽ con vật. Nhất là các hoạt động của chúng được diễn tả khá điêu luyện và rất sống động. Đối tượng chủ yếu trong nghệ thuật giai đoạn này là các con thú như ngựa, bò, hươu, tuần lộc điều này có thể lý giải được. Với cuộc sống nguyên thuỷ, các con vật đó đã góp phần nuôi dưỡng con người, chúng là nguồn thức ăn chính của họ, là đối tượng gần gũi nhất đối với con người. Nghệ thuật luôn bắt nguồn từ thực tế, người nguyên thuỷ cũng không thể vượt quá cuộc sống hiện thực của mình, tầm hiểu biết của mình. 1.2. Đặc điểm về kỹ thuật, chất liệu Một vấn đề đặt ra: Người nguyên thuỷ vẽ bằng gì? Và cách họ vẽ ra sao? Màu vẽ được gọi là mầu thổ hoàng. Đó là một loại màu được chế tạo bằng cách mài các khoáng chất thành bột rồi pha với nước. Màu đỏ lấy từ đá hematite (ô xit sắt hay đất son) màu trắng từ đá Kalin hoặc phấn, màu đen từ dioxit mangan hay than đá. Một số cộng đồng người còn biết đun nóng các khoáng chất để tạo ra màu mới. Đôi khi để có chất kết dính màu thổ hoàng người nguyên thuỷ đã biết dùng mỡ, hoặc tuỷ sống động vật và nhựa cây. Kỹ thuật vẽ thì đơn giản, có thể dùng que, tay để vẽ. Chất liệu của điêu khắc phong phú lơn. Có thể họ khắc, chạm lên xương, sừng, ngà voi hay đá mềm 2. Thành tựu nghệ thuật Nguyên thủy Ngày nay chúng ta đã tìm được trên một trăm hang động có hình vẽ. Phần lớn đều nằm ở miền Bắc Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp. Tuy vậy có hai hang còn lưu giữ nhiều hình vẽ đẹp. Đó là hang Anta - mi - ra (Tây Ban Nha) và hang Látxcô (Pháp). Đây được coi là hai bảo tàng lớn của nguyên thuỷ. Hang Anta - mi - ra được phát hiện năm 1863 do một sự tình cờ. Sau 16 năm tìm hiểu, nghiên cứu về các hình vẽ bò rừng ở trong hang con người thế kỷ XIX mới tin rằng hang Anta - mi - ra chính là một trong những địa điểm nổi tiếng của mỹ thuật thời nguyên thuỷ. Trong hang có nhiều hình vẽ con bò rừng (Bi đông) trong các dáng khác nhau và rất sống động. Ngoài những đặc điểm được miêu tả chính xác các hình vẽ này còn được thể hiện với những đường nét mềm mại, đậm nhạt sinh động. Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật còn gọi hang Anta - mi - ra là “Toà tiểu giáo đường Xicxtin của thời nguyên thuỷ”. 6
  10. Hang Latxcô (Pháp) lại do một nhóm trẻ em đi chơi trong khu rừng Latxcô, do một sự bất ngờ chúng tìm thấy một chiếc hang lớn. Trên vách và trần hang chúng thấy có nhiều hình vẽ thú vật. Trong đó rõ và đẹp nhất là hình ngựa, bò Ngựa ở hang Latxcô được thể hiện có màu sắc và đậm nhạt gợi khối. Những hình vẽ này thành công đến mức người ta có thể ví nó với hình vẽ ngựa của các hoạ sĩ Trung Quốc, những bậc thầy về diễn tả con vật. Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng lối vẽ màu ở đây khá độc đáo. Màu được thổi lên hình vẽ qua một ống sậy hoặc ống xương. Các hình vẽ được tô màu đỏ là chủ yếu. Trên hình vẽ có một số mảng màu được cạo bớt đi để diễn tả khối, tạo sự sinh động cho hình tượng. Các tranh vẽ còn lại đến ngày nay được định tuổi từ khoảng 15.000 đến 10.000 năm trước công nguyên. Bên cạnh hình thú, ở đây còn có hình tượng con người: Những người đi săn bị thương ở giữa các con vật, hình người ném lao hoặc hình người nhảy múa với mặt nạ thú Cách chúng ta hơn 5.000 năm trước đây, con người mới phát hiện ra chữ viết, lúc đầu chỉ là những hình vẽ tượng trưng, những ký hiệu để trao đổi. Ví dụ hình tròn có chấm ở giữa là mặt trời ( ) Dần dần các chữ tượng hình xuất hiện. Như vậy thì từ “Nghệ thuật tạo hình” hay “Mỹ thuật” như ta thấy ngày nay xuất hiện sau những hình vẽ trên vách hang động thời tiền sử rất nhiều. Khi con người thời tiền sử vẽ hoặc khắc vạch lên vách, trần hang động nơi họ sinh sống có lẽ họ cũng chưa nghĩ rằng đó là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình. Những hình vẽ đó gắn với cuộc sống, với các đồ vật, nơi sinh hoạt của con người. Về một mặt nào đó, trong tư duy nguyên thuỷ việc vẽ hình cũng giống như việc săn bắt hay các công việc khác. Nó không chỉ mang ý nghĩa nghệ thuật mà còn gắn với cái có ích. Ngoài ra nghệ thuật tạo hình lúc này còn gắn với những tín ngưỡng, ma thuật. Theo E. H. Gombrich, tác giả cuốn “Câu chuyện nghệ thuật” thì “Tranh và tượng được họ dùng để thực hành pháp thuật”. “Những người thợ săn thời kỳ này nghĩ rằng chỉ cần vẽ hình con mồi và có lẽ tấn công chúng bằng giáo mác hay rìu đá, những con thú thật sẽ khuất phục sức mạnh của họ”. Tất nhiên đây là sự phỏng đoán của con người ngày nay khi nghiên cứu về 2 lịch sử mỹ thuật của thời nguyên thuỷ. Ngoài 2 ý nghĩa trên, các hình vẽ còn có ý nghĩa là những thông tin nhắn gửi cho các thế hệ sau về cuộc sống, sinh hoạt của con người thời tiền sử. Ví dụ qua các hình vẽ thú vật như bò rừng, ngựa, voi, ma mút cho chúng ta biết về các động vật thời nguyên thuỷ, ở bức tranh khác ta được chứng kiến cách đánh cá, cách quăng lưới, cách sử dụng các con cá mồi lớn. Thậm chí con người thời kỳ đó vẽ chỉ để giải trí. Những con người đầu tiên có mặt ở khắp nơi trên thế giới: Người Olduvai ở Đông phi, người Bắc Kinh (Trung Quốc), người Nêanđéctan (Đức), người Crôma nhông (Pháp) Dấu vết về nghệ thuật của họ vì vậy cũng trải ra trên một địa bàn rất rộng lớn: từ Châu Phi, Châu Á đến Châu Âu (Bắc Âu). 7
  11. 3. Tính tượng trưng, ước lệ trong nghệ thuật Nguyên thủy Nghệ thuật luôn bắt nguồn từ thực tế, người nguyên thuỷ cũng không thể vượt quá cuộc sống hiện thực của mình, tầm hiểu biết của mình. Cuộc sống ấy hướng vào những gì gần gũi, thân quen nhất. Đó chính là sự tìm hiểu các loài thú để có thể săn bắt được, hoặc tránh xa những con thú nguy hiểm, dữ tợn Tất cả những điều đó được thể hiện qua hình vẽ. Nghệ thuật nguyên thuỷ vì vậy mới chỉ dừng lại ở việc diễn tả một cách tài tình các con thú. Hình tượng con người cũng được đề cập tới, nhưng nghệ sĩ nguyên thuỷ đã sử dụng các sơ đồ hoá, hoặc phong cách hoá đơn giản và ước lệ khi vẽ con người. Ngược lại trong điêu khắc lại phát hiện thấy hầu hết là tượng người, mà chủ yếu là phụ nữ, được phát hiện nhiều nơi trên thế giới. Tượng có thể có kích thước to nhỏ khác nhau. Cái nhỏ nhất khoảng 3,5cm, cái lớn nhất khoảng 23cm. Các bức tượng này được làm bằng nhiều chất liệu như ngà, sừng, xương, đá hoặc đất nung chúng có chung đặc điểm là: Tỉ lệ chung chưa được chú ý, chưa cân đối. Phần đầu và tay chân không được diễn tả kỹ. Phần được chú trọng nhất là phần thân cùng với sự cường điệu phóng đại các chi tiết: Ngực, mông, bụng. Phần chân dung hầu như không được diễn tả. Có lẽ các nghệ sĩ khi làm những pho tượng này đã bị chi phối bởi những suy nghĩ đặc biệt, mang theo tinh thần tư duy nguyên thuỷ. 8
  12. Phong cách bao trùm mỹ thuật nguyên thuỷ là phong cách tả thực. Nghệ sĩ nguyên thuỷ đã đi từ đơn giản đến phức tạp dần. Nhưng dù đơn giản hay phức tạp họ đều đi đến một cái đích: Đó là cố gắng diễn tả đối tượng một cách đúng nhất và sống động nhất. Điều này chứng tỏ sự quan sát kiên trì và chính xác những đặc điểm của đối tượng. Sở dĩ người nguyên thuỷ thích tả thực vì những bức vẽ đó chưa đơn thuần là nghệ thuật mà nó còn gắn liền với nhiều chức năng khác. Những chức năng đó đòi hỏi hình vẽ phải chính xác, phải giống thực một cách tối đa. Lúc ban đầu, hình vẽ được diễn tả bằng nét là chính. Người thời nguyên thuỷ chú ý nhất đến đường sống lưng của con vật. Có thể nói đó chính là trục tạo dáng cho hình tượng nghệ thuật. Sau này, khi tư duy đã phát triển, con người biết tìm ra các màu vẽ, rồi tìm cách diễn tả chỗ đậm, chỗ sáng. Từ nét đậm nhạt, màu sắc, từ những hình đơn lẻ đến các bức tranh có ý thức bố cục, đề tài, đó chính là sự phát triển của mỹ thuật thời nguyên thuỷ thông qua loại hình nghệ thuật vẽ hình, chạm khắc hình lên vách, trần hang động. Cùng với phong cách tả thực, các nghệ sĩ nguyên thuỷ còn biết cách điệu, ước lệ hoá, sơ đồ hoá. Lấy bức chạm “Một đàn hươu qua sông” trên một mảnh xương tìm thấy ở hang Mê - ri làm ví dụ. Tác giả đã rất giỏi khi chạm hình 3 con hươu đầu đàn và một con cuối đà, ở giữa tác giả chỉ diễn tả các cặp sừng cao dần, phía dưới dùng các gạch chéo với cách làm như vậy tác giả đã cho chúng ta thấy một đàn hươu rất đông đang di chuyển. Các hoa văn gạch chéo, hay những cặp sừng tượng trưng. 9
  13. BÀI 2: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI 1. Hoàn cảnh xã hội thời kỳ Hy lạp cổ đại Sau Ai Cập cổ đại, vào khoảng thế kỷ XVIII TCN, ở phía bên kia Địa Trung Hải, Hy Lạp ra đời, lãnh thổ của nó bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo thuộc biển Ê Giê và vùng Tây Tiểu á. Hy Lạp không thuận lợi về nông nghiệp song lại tốt trong việc giao thông trên biển. Với tài nguyên dồi dào đã tạo điều kiện cho Hy Lạp phát triển thủ công nghiệp và ngoại thương. Nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nền văn minh Hy Lạp trong đó có nghệ thuật tạo hình. Cho đến tận ngày nay, khi nhắc đến Hy Lạp người ta sẽ nghĩ ngay đến đền thờ Pác Tê Nông (Parthénon), đến các pho tượng trên biển của Hy Lạp như tượng người ném đĩa, tượng vệ nữ Mi lô nghệ thuật Hy Lạp đã phát triển và để lại nhiều thành tựu vĩ đại. Thành tựu của nghệ thuật tạo hình Hy Lạp vừa biểu hiện sự sáng tạo tuyệt vời của người Hy Lạp vừa chứng tỏ đỉnh cao về sự mẫu mực của Hy Lạp về trí tuệ trong tạo hình. Con người thời nay không chỉ khâm phục trước những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu của Hy Lạp. Họ đã tìm thấy trong nền nghệ thuật cổ đại này một tư tưởng nhân văn cao thượng, một nền nghệ thuật hiện thực, ca ngợi giá trị và vẻ đẹp của con người. Đây là cơ sở để xây dựng một nền văn hoá mới, thấm đẫm những tư tưởng nhân văn. Nhà nước Hy Lạp cổ đại là xã hội chiếm hữu nô lệ chứa đựng những tư tưởng dân chủ tiến bộ, là Nhà nước thông bang, ở đó có hai vua với quyền lực như nhau, vừa là thủ lĩnh quân sự, vừa là tăng lữ và người xử án. Chế độ xã hội ở đây là chế độ dân chủ chủ nô, chế độ đó, mở đường cho các nhà khoa học, những nghệ sĩ, những công dân tự do này được phát triển tài năng, trí sáng tạo. Điều này giúp nghệ thuật cũng như khoa học Hy Lạp cổ đại phát triển mạnh. Nghệ thuật Hy Lạp còn được nuôi dưỡng bằng một nguồn đất đặc biệt – nguồn thần thoại Hy Lạp. Quan niệm của người Hy Lạp về thế giới thần linh giống như thế giới con người. Đó là quan niệm “thần nhân đồng hình”. Quan niệm này chi phối tới việc xây cất các công trình kiến trúc. Những câu chuyện gợi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nghệ sĩ tạo hình. Họ tìm thấy ở đây chất thơ, chất cảm xúc, thúc đẩy họ sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, thấm đượm tinh thần nhân văn. Năm 776 TCN thế vận hội lần đầu tiên tổ chức tại Hy Lạp. Phong trào rèn luyện sức khoẻ để trở thành các chiến binh dũng mãnh đồng thời tạo ra những cơ thể đẹp đẽ cân đối. Đó là nguồn mẫu hình lý tưởng cho các nghệ sĩ Hy Lạp nghiên cứu sáng tạo ra tỷ lệ vàng cho hình tượng con người. 10
  14. Hội tụ tất cả những yếu tố trên là điều kiện tuyệt vời cho sự phát triển của văn hoá, nghệ thuật Hy Lạp. Nghệ thuật Hy Lạp nhất là kiến trúc và điêu khắc đã đạt tới đỉnh cao chỉ sau hơn 200 năm, từ thế kỷ VII đến V TCN. 2. Một số thành tựu nghệ thuật cơ bản 2.1. Nghệ thuật hội họa Nghệ thuật hội hoạ Hy Lạp hầu như không còn giữ được tác phẩm nào, các tác giả, tác phẩm danh tiếng của họ còn được lưu truyền trong sách, truyện ta biết được tên tuổi: Apenlơ, Giơxít, Pôlinhơ với đề tài chủ yếu là lịch sử và thần thoại Hy Lạp. Các tác phẩm được vẽ với phong cách tả thực, sinh động. Ngoài ra có một nguồn tài liệu khá phong phú cho nghệ thuật vẽ hình mang tính đồ hoạ, đó là những hình vẽ trên những chiếc bình cổ Hy Lạp. Bình cổ Hy Lạp có nhiều kiểu dáng đẹp. Điều đáng chú ý là các hình vẽ trang trí trên đồ gốm cổ Hy Lạp có hai cách trang trí: Hình vẽ đen trên nền trắng sáng hoặc hình vẽ màu đỏ trên nền gốm đen. Các hoạ sĩ trang trí lưu ý đặc biệt đến yếu tố nét, mảng trong các hình vẽ. Đề tài thay đổi qua các thời kỳ: Thần thoại, duyên dáng và đa tình, lịch sử. Tính chất tôn giáo, thần thoại bộc lộ ở nội dung, đề tài. Nhưng qua các hình tượng nhân vật các tác giả lại muốn ca ngợi vẻ đẹp của con người, một vẻ đẹp hoàn thiện cả về ngoại hình và nội tâm. Các nghệ sĩ Hy Lạp đã bỏ được công thức chi phối trong nghệ thuật tạo hình buổi ban đầu, những ước lệ tạo hình cơ sở để tiến tới một nền nghệ thuật hiện thực giàu tính nhân văn. Các loại hình nghệ thuật tạo hình đều phát triển và có thành tựu cao, để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm vô giá. Đó là nền móng, là cơ sở cho nghệ thuật tạo hình châu âu sau này. 1.2 Nghệ thuật điêu khắc và trang trí kiến trúc Trong đời sống của người Hy Lạp thời cổ đại, tôn giáo đóng vai trò quan trọng. Họ thờ rất nhiều vị thần. Thể loại kiến trúc phát triển là kiến trúc đền thờ gần như toàn thể các công trình xây dựng có giá trị nghệ thuật, to đẹp nhất thuộc về tôn giáo. Kích thước đền thờ vừa phải, không quá lớn đồ sộ. Nó cũng giống nghệ thuật kiến trúc Ai Cập ở chỗ kiến thức kiến trúc chính là kiến thức cột. Kiến trúc Hy Lạp có 3 thức cột chính: Thức Đôríc, thức Iônic, và thức Corinthian Sự khác nhau giữa các thức cột này được phân biệt bởi phần đầu cột và các khía rãnh. Cột Đôríc có hai mươi khía rãnh khá rộng. Hai mươi bốn đôi khi là bốn tám khái của cột Ioníc sâu hơn, khít hơn. Cột Đôríc ra đời sớm nhất và phát triển ở Pðloponnêse và các khu dân cư ở miền Nam ý và đảo Sixin (Sicile). Phong cách Iôníc thanh mảnh và duyên dáng hơn. Phần đầu cột được trang trí bằng hình guột cột Đôríc Iônic 11
  15. Côranhtiêng trang trí. ở thời Hy Lạp hoá thức Cô ranh tiếng được sử dụng nhiều. Phần đầu cột được trang trí bằng những hoạ tiết và cách điệu mềm mại và trang nhã. - Đền thờ Pác tê non (Partenon) được khởi công trên đồi Acrôpôn (Acropolis) thờ nữ thần Atêna (Athena): là đền thờ kết hợp hài hoà giữa sự khoẻ khoắn của thức Đô níc và sự duyên dáng nhẹ nhàng của thức Iônic. Vẻ đẹp của Pác tê non thể hiện trong sự cân đối, hài hoà về tỷ lệ giữa các bộ phận kiến trúc. Nó còn bộc lộ trong sự đơn giản, trang nhã của khối kiến trúc chủ yếu dựa trên những đường thẳng với trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc và phù điêu dạng trụ ngang. Kiến trúc cân đối hài hoà của Pác tê non được trang điểm thêm đẹp đẽ, lộng lẫy bằng các tác phẩm điêu khắc của Phi đi át và các học trò của ông. Tác giả của Pác tê non là Ichtinốt và Can Li Crát. - Ngoài Pác tê non, Hy Lạp còn rất nhiều đền thờ nổi tiếng: Đền thờ thần Dớt ở Péc Gam Ô Lym Pia và đền thờ thần biển cả Pô Dây Đon (Poseidon) ở phía Nam Aten, Đền Pác-Tê-Nong Cho tới thế kỷ VI TCN, các đền thờ của Hy Lạp đều được làm bằng gỗ hoặc gạch. Đến thế kỷ V, người Hy Lạp chuyển sang các kiến trúc đá cẩm thạch lộng lẫy và sang trọng, với bốn mặt đền là các hàng cột đá. Kiến trúc tôn giáo là thể loại biểu hiện tài năng của người Hy Lạp. Bên cạnh đó họ còn quy hoạch đô thị, xây dựng các nhà hát, thành luỹ vào thời kỳ các thế kỷ IV – II TCN. Từ thế kỷ IV trong kiến trúc Hy Lạp còn phát triển loại kiến trúc lăng mộ, có những lăng lớn, đẹp đẽ được xếp vào một 12
  16. trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại như lăng vua Mô xô lơ (Mausole) ở Halicácnat (Halicrnasse) Kiến trúc Hy Lạp nói chung là vẻ đẹp trang nhã, mực thước, trong sáng với kết cấu kiến trúc chính là phong cột trên mặt bằng hình chữ nhật. Cũng giống như kiến trúc, điêu khắc Hy Lạp cũng được phát triển qua 3 thời kỳ. ở thời kỳ cổ sơ hình tượng điêu khắc rất đơn giản, trước đó nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp đã bắt đầu những bước đi dò dẫm từ thế kỷ X - VIII. Phần lớn là các tượng nhỏ bằng đồng thanh, đồng nung, hoặc ngà voi thể hiện một cách sơ lược hình tượng các con vật, con người hay các quái vật trong sự kết hợp giữa người và vật. Đôi khi còn có những tượng bằng gỗ, diễn tả các vị thần. Điêu khắc thời kỳ này gắn liền với tôn giáo. Thời cổ sơ (Thế kỷ VII – VI trước công nguyên) Trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp xuất hiện 2 loại tượng: Tượng nam khoả thân và nữ mặc áo dài. Những tượng này được thể hiện trong dáng đứng thẳng, hai tay buông theo thân. Tượng trong dáng tĩnh, nghiêm trang cân đối. Tỷ lệ cơ thể cũng như hình khối chưa chuẩn mực, chất liệu sử dụng là đá. Thời gian này, trong điêu khắc Hy Lạp vẫn thấy những ảnh hưởng của ước lệ tạo hình phương Đông. Tượng “nhìn ngay ngó thẳng” và gắn liền với tôn giáo tín ngưỡng. Sang thế kỷ VI trong phong cách làm tượng đã có sự chuyển biến. Các tượng thẳng đứng như cây cột dần được thay thế bằng những pho tượng dáng động từ đơn giản đến phức tạp dần. Nửa đầu thế kỷ V, điêu khắc Hy Lạp được đánh dấu bằng các tác phẩm chạm nổi ở đền thờ thần diễn tả 12 chiến công người anh hùng Hecquyn (Hercules). Con người được diễn tả ở nhiều tư thế vận động khác nhau, sinh động. Hình tượng điêu khắc đã thoát khỏi sự chi phối của ước lệ tạo hình cơ sở. Nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp bước vào thời kỳ mới. Thời cổ điển (Thế Kỷ V – IV trước công nguyên) Từ giữa thế kỷ V thành bang A ten đã phát triển trở thành trung tâm lớn của Hy Lạp cả về chế độ xã hội cũng như văn hoá nghệ thuật. Người đứng đầu về điêu khắc thời này là Phi đi át (Phiđias), Pô ly clét (Polycléte) và Mirông. Pô ly clét dành nhiều thời gian cho nghiên cứu và sáng tạo của mình cho việc tìm ra tỷ lệ chuẩn cân đối, hài hoà của cơ thể nam giới. Tiêu biểu là tượng Đôripho (Doryphore) người lực sỹ vác giáo: có tỷ lệ 7 đầu, cân đối, hài hoà của các tỷ lệ giữa đầu, thân, tay, chân, sự mềm mại, sống động của hệ thống cơ, chất đá đã biến thành da thịt, có cảm nhận được sự vững chắc của cơ thể, sự chuẩn xác về giải phẫu tạo hình kết hợp với cái đẹp của đường nét, hình khối. 13
  17. Mirông lại nghiên cứu dáng động của hình tượng con người. Tiêu biểu là tượng “người ném đĩa” cho ta hình ảnh của một lực sĩ cường tráng đang vận động hết sức của cơ thể để vung tay ném đĩa, ở đó có sự phối hợp cái đẹp về dáng, về hình, về tỷ lệ. Trong sự phối hợp phần chân nghiêng và thân nhìn chính diện. Sự kết hợp đã tạo ra sự chuyển động và vẻ đẹp hoàn mỹ cho tác phẩm. Người ném đĩa- Mi-ron Sang thế kỷ IV, điêu khắc Hy Lạp lại tiến thêm một bước, nếu ở thời kỳ trước các tác giả muốn đạt đến độ mẫu mực về tỷ lệ, hình khối, tạo dáng động thì thế kỷ này họ lại muốn tăng thêm chất liệu thực cho tượng, bớt chất lý tưởng hoá với đại biểu là: Xcopa (Scopas), Pra Xi Ten (Praxitéle), Li Xíp (Lisippe), Mô Xô Lơ tác phẩm của ông như (Hernes), Héc Mét, tượng nữ thần săn bắn ác Tê Mít và đặc biệt là các tượng vệ nữ như vệ nữ của cơ thể nữ. Đến đây các nghệ sĩ Hy Lạp đã phô diễn vẻ đẹp tuyệt mỹ mà tạo hoá đã ban tặng cho “phái yếu” qua những pho tượng khoả thân. Có lẽ cũng vì lẽ đó mà khi tìm thấy hai pho tượng vô danh: Vệ nữ Mi lô và tượng nữ thần chiến thắng ở Xa Mô Crát: Hai phong cách và hai vẻ đẹp khác nhau: Một lý tưởng hoà và một tràn đầy, hiện thực. Thời kỳ Hy Lạp hoá (thế kỷ III – II trước công nguyên) Ở thời kỳ này, Aten không còn là trung tâm cường thịnh duy nhất như thời trước, trên những miền đất mới ở Tiểu á và Bắc phi mọc lên những trung tâm mới. Điêu khắc cũng như điêu khắc đều muốn tìm đến một phong cách mới. Hoặc tiếp tục phong cách của giai đoạn trước nhưng đẩy cao hơn về mặt biểu hiện những tình cảm 14
  18. đau thương, bi thảm như những tác phẩm “người lính Gô loa bị trọng thương” hay người chiến binh gô loa giết vợ và tự sát” Trong pho tượng này gây ấn tượng mạnh cho thị giác và cảm xúc. Hoặc phức tạp hơn trong phong cách diễn tả, hoặc cường điệu hoá. Thể loại thường gặp trong điêu khắc thời Hy Lạp hoá là nhóm tượng và phù điêu lớn Phù điêu trên diềm mũ cột đền thờ Pðcgam dài khoảng 120m, bao quanh đền thờ, diễn tả cuộc giao chiến giữa các thần linh và những người khổng lồ. Mọi hình tượng đều được diễn tả bằng kỹ thuật điêu luyện, hình khối mạnh mẽ, cường độ dữ dội trong động tác. Nhóm tượng Lao Cun: Mang đầy chất bi tráng, diễn tả một cảnh tượng khủng khiếp về số phận con người. Nhóm tượng diễn tả 3 nhân vật, mỗi người mang một nét đẹp riêng. Ngoài cái đẹp lý tưởng về hình thể, tác giả còn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp về tính cách, về sự bộc lộ nội tâm. Qua hình dáng, thái độ khác nhau của 3 nhân vật đã bộc lộ nỗi khiếp sợ, đau đớn, kiệt sức của 3 cha con. Sức căng vặn của 3 cơ thể, kết hợp với đường cong ngoằn ngoèo của hai con rắn đã tạo nên nhóm tượng có bố cục chặt chẽ, gắn bó thể hiện nội dung sâu sắc 2.3 Nghệ thuật sân khấu Hy lạp là quốc gia xuất hiện nền văn minh khá sớm, người Hy lạp đặc biệt chú trọng đến đời sống tinh thần, những nhà hát ngoài trời, thư viện quốc gia (Aleccxăngđria) chứa hơn 40 vạn cuốn sách là một minh chứng cho sự phát triển văn hóa cộng đồng của người Hy Lạp. Nghệ thuật hát và biểu diễn ngoài trời phục vụ các công dân Hy lạp đã được người Hy Lạp rất hưởng ứng vì thế nó nhanh chóng trở thành loại hình nghệ thuật san khấu phát triển mạnh mẽ cho tới tận thời kỳ Hylạp hóa 2.4 Nghệ thuật văn học Văn chương là nguồn nuôi dưỡng tinh thần của người Hy lạp, những câu chuyện thần thoại chính là ước mơ mà người Hy lạp gửi gắm mong ước một xã hội nhân văn chỉ có niềm vui, một thế giới tinh thần mơ mộng của con người. Các thể loại chính: thần thoại, bi kịch, anh hùng ca 15
  19. BÀI 3: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI 1. Văn hóa, xã hội thời kỳ La Mã cổ đại Nền mỹ thuật La mã được hình thành do nhiều nguồn ảnh hưởng. Có hai nguồn nghệ thuật chính tạo nên dòng văn hoá La mã cổ đại là Hy Lạp và nghệ thuật của người Êtơrúcxcơ, một tộc người sống ở các quốc gia đô thị ở Bắc mỹ và chịu ảnh hưởng của người Hy Lạp, họ có thành tựu về đúc đồng. Điều đó góp phần tạo nên sự phát triển của La mã về điêu khắc, nhất là tượng chân dung. Người La mã đã học theo người Hy Lạp rất nhiều lĩnh vực về thần thoại, văn học, sử thi Mặc dù vậy, trong nghệ thuật và nhiều lĩnh vực khác La mã có những sáng tạo riêng và góp rất lớn cho khoa học và nghệ thuật tạo hình. Nhất là nghệ thuật kiến trúc. Sự phát triển và giàu có của La mã góp phần thúc đẩy sự ra đời và đạt đến đỉnh cao của một số loại hình nghệ thuật mang đặc điểm đặc trưng của La mã. Vì vậy có thể khẳng định rằng, nền văn hoá La mã là nơi hội tụ của nhiều tinh hoa văn hoá của nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Song nó vẫn có những sáng tạo riêng rất về nghệ thuật. 2. Nghệ thuật Kiến trúc Có thể nói nghệ thuật kiến trúc La mã đã phát triển phù hợp với nhu cầu của người La mã. Nó có nhiều điểm khác với Hy Lạp và nhất là Ai Cập. ở Hy Lạp những công trình xây dựng to lớn và tráng lệ thì nhà ở La mã lại nhỏ bé khiêm tốn. ở Ai Cập cũng chỉ chú ý đến các kiến trúc “nhà ở cho linh hồn”, và thần linh, còn nhà cho con người cũng đơn giản. Với La mã thì khác, họ xâm chiếm được vùng nào, họ cho xây dựng, quy hoạch đô thị, tạo tiện nghi cho cuộc sống của mình. Trong kiến trúc La mã, kiến trúc thế tục được đặc biệt chú trọng và phát triển. Các thể loại kiến trúc phong phú. Trong đó nổi lên là các kiến trúc công cộng như trụ sở Viện nguyên lão, đề thờ, cửa hàng, kho chứa, nhà tắm Ngoài ra còn có kiến trúc phục vụ cho nhu cầu về mặt tinh thần cho con người, nhất là để tôn vinh chiến công, chiến tích của các hoàng đế La mã, như các khải hoàn môn, trụ biểu, đấu trường, nhà hát Bên cạnh đó họ còn sáng tạo trong thể loại nhà ở tập thể. Đi theo với kiến trúc, trong quy hoạch đô thị người La mã đã chú ý đến các công trình cấp thoát nước. Đấu trường Côlidê (Colisée) – Rôma: Là một đấu trường lớn nhất La mã cổ đại, được xây dựng theo hình dạng elíp: vòng ngoài có kích thước 188 x 156m. Sân đấu bên trong là 86 x 54m. Mặt ngoài cao 49m gồm 4 tầng, 3 tầng dưới mỗi tầng có 80 vòm uốn. Sức chứa của đấu trường lên tới 50.000 người. Đây là sự kết hợp các thể 16
  20. thức kiến trúc của Hy Lạp. Tầng 1 là biến thể của thức Đôníc, tầng 2 là một cột theo kiểu Iôníc, tầng 3 là kiểu thức Côranhtiêng, tầng 4 sử dụng mảng đặc là chính. Thỉnh thoảng có chỗ cửa nhỏ, kết cấu theo kiểu nhẹ dần lên. Bên cạnh những hàng cột theo kiểu Hy Lạp là các vòm cuốn bán nguyệt mang đặc trưng kiến trúc La mã. Sự kết hợp đó đã tạo cho mặt ngoài đấu trường một dáng vẻ đặc biệt, phản ánh được một cách rõ nét đặc điểm của nghệ thuật La mã. Đấu trường Co-li-de Khải hoàn môn: Thường được bố cục 3 cổng vòm. Nổi bật là cổng chính ở giữa, hai bên là hai cổng nhỏ. Chúng thường có kích thước lớn, độ rộng và sử dụng nhiều vòm, vòng cung, thường được xây bằng gạch, đá vôi, ngoài bọc bằng đá cẩm thạch Khải hoàn môn thường được xây dựng để tôn vinh và ghi lại chiến thắng của các hoàng đế La mã. Vì vậy trang trí ở đây là phù điêu và chỉ phủ kín mặt ngoài kiến trúc. Nó không mang giá trị vật chất cụ thể mà là biểu trưng cho các hoàng đế, khẳng định quyền bá chủ dành cho người chiến thắng: Khải hoàn môn Trujan (114 – 129), Titus, Séptimiút (203) Trong tất cả thể loại kiến trúc La mã, họ đều sử dụng vòm cuốn nhiều kiểu. Người La mã tỏ ra có biệt tài trong việc xây dựng mái vòm với kỹ thuật điêu luyện, có sự kết hợp của nhiều vật liệu: Gạch, đá Họ xây dựng nhiều nhà tắm công cộng, phong tranh, thư viện, phục vụ cho nhu cầu của con người. 17
  21. Cầu dẫn nước: Qua sông Gard, cao 49m, dài 274m, gồm 3 tầng móng, lớp dưới có 6 cống vòm, lớp 2 có 11 cổng vòm, trên cùng là 35 cổng vòm, các cổng vòm này không giống nhau. Cầu móng có độ nghiêng thích hợp để lúc nào cũng có nước chảy. Được xây bằng gạch, đá để mộc. Điều này tạo vẻ đẹp cho tác phẩm nghệ thuật này. Do tướng quân và thống đốc La mã Aguriba, bạn và anh em cọc chèo với hoàng đế Augustua xây dựng. Cầu dẫn nước Kiến trúc La mã có nhiều đặc điểm khác hoàn toàn Hy Lạp. Nếu kiến trúc Hy Lạp có vẻ đẹp đơn giản, bình dị với đường thẳng là chính thì kiến trúc La mã lại có vẻ đẹp hùng vĩ, đồ sộ với những vòm cuốn, vòng cung nhiều loại: Trong nghệ thuật kiến trúc, thể loại kiến trúc dân dụng phát triển nhất và đã để lại trên đất ý ngày nay nhiều công trình danh tiếng, chứng tỏ tài năng về mặt kiến trúc của người La mã cổ đại. 3. Nghệ thuật Điêu khắc 3.1. Thể loại tượng tròn Ở La mã tượng chân dung, mà nhất là chân dung các hoàng đế đặc biệt phát triển. Thành tựu này khởi nguồn từ một tục lệ lâu đời của người La mã, tục lệ mang tính tín ngưỡng, tôn giáo: Tục lệ thờ cúng tổ tiên, cha mẹ. Trong nhà người La mã cổ có một chiếc tủ đựng chân dung bằng sáp của những người thân đã qua đời. Giống như người Ai Cập cổ, họ tin rằng những chân dung hình ảnh đó có linh hồn. Họ cũng tin rằng những con người đó vẫn tồn tại và hiện diện trong cuộc sống gia đình, tham gia vào mọi sinh hoạt của những người còn sống. Khi có tang lễ, người ta khiêng cả chiếc tủ đựng chân dung thờ đó đi theo đám tang. Lúc đầu người ta dùng sáp nóng đổ lên mặt người hòng có sự chính xác và chân dung giống thực một cách tối đa. Sau này 18
  22. họ tạo ra được các pho tượng, vẫn mang theo tinh thần trọng thực. Nhờ những hiểu biết về cấu trúc và đặc điểm của đầu người qua việc đổ trực tiếp bằng sáp nóng. Có thể nói tượng chân dung La mã mang tính tả thực cao độ và là tượng mang tính đặc tả tính cách nhân vật. Tuy nhiên cũng không thể bỏ qua sự kết hợp với tính chất lý tưởng hoá trong một số bức tượng chân dung của La mã cổ đại. Tính chất đó có thể biểu hiện ở hình dáng, trang phục, hay các pho tượng nhỏ kèm theo. Tượng Hoàng đế Ô guýt ở Prima - Poóta 20 - 17: Nhà điêu khắc đã rất giỏi khi thể hiện các nếp gấp mềm mại, buông rủ trên cánh tay trái của Ô guýt, tay phải Ô guýt giơ cao, tay trái cầm cây gậy quyền lực dưới chân phải là biểu tượng tiểu thần tình yêu cưỡi trên cá đô phin (cá heo). Đấy chính là nét lý tưởng hoá trong các pho tượng La mã. Tuy vậy dù dưới hình thức nào thì các pho tượng đó vẫn mang tính hiện thực. Dưới các hình thức đó, các công dân La mã vẫn nhận ra những nét tính cách riêng của các vị hoàng đế của mình. Bên cạnh các chân dung hoàng đế La mã vừa mang tính hiện thực vừa mang tính lý tưởng hoá còn có một loại chân dung hoàn toàn mang tính hiện thực một cách sâu sắc. Loại chân dung này mang đậm chất La mã hơn. Chân dung kiểu này trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp chưa thấy xuất hiện. 3.2. Thể loại chạm nổi Nghệ thuật La mã mang tính chất tôn vinh ca ngợi các hoàng đế La mã, hoặc họ được thần thánh che trở, hoặc họ là những bậc vĩ nhân. Trong những bức chạm nổi mang tính chất lịch sử đó, với chủ đề xoay quanh chuyện thần thoại, mang tính tập thể và khái quát chung, ở La mã lại là vai trò cá nhân tôn vinh cá nhân. Điều này được thể hiện trong các trụ tưởng niệm, hay phù điêu trang trí ở bề mặt các khải hoàn môn. 19
  23. Một hình thức thứ hai sử dụng diện phù điêu trang trí nhiều là những cái quách dùng trong các tang lễ. Hình thức này mang theo phong cách của từng xưởng sản xuất, từng vùng trên đất La mã. Điều này cũng quy định sự khác nhau giữa các mảng phù điêu. Có thể dùng nhiều hình tượng nhân vật, sắp đặt các hình tượng thưa hay dày thể hiện những đoạn thần thoại, hay các vị thần, hoặc trang trí bằng các tràng hoa và nhiều hình tượng khác rất phong phú. 20
  24. BÀI 4: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TRUNG CỔ 1. Hoàn cảnh xã hội thời Trung cổ phương tây La mã từ chỗ là một quốc gia thống nhất, bị chia làm 2 phần: Đế quốc La mã phương Tây và phương Đông. Chế độ phong kiến Tây Âu bắt đầu. Trong điều kiện sống hạn chế về tầm nhìn, về sự giao lưu kinh tế, văn hoá Châu Âu rơi vào tình trạng trì trệ, tối tăm Nền văn hoá phát triển rực rỡ vào thời kỳ cổ đại dần bị tàn lụi. Từ thế kỷ XI, Châu Âu bắt đầu được phục hồi. Mọi mặt của đời sống xã hội đều có sự đổi mới, chấm dứt sơ kỳ phong kiến bước vào thời kỳ trung kỳ phong kiến. Nổi bật là sự ra đời của thành thị và sự thành lập các trường Đại học (TK XII - XIII) đã tạo điều kiện cho một trào lưu văn hoá mới ra đời vào thế kỷ XV ở Ý. Đó là trào lưu văn hoá phục hưng. Trung cổ nằm giữa giai đoạn cổ đại và phục hưng. 2. Thành tựu nghệ thuật thời Trung cổ 2 1 Nghệ thuật Kiến trúc Bi dăng tanh Một phong cách nghệ thuật tồn tại trong giai đoạn này là Bi dăng xơ và thường được gọi là nghệ thuật Bi dăng tanh. Kiến trúc Bidăngtanh vẫn tiếp tục phát triển theo truyền thống La mã với các thể loại kiến trúc phong phú. Trong các công trình kiến trúc đáng chú ý là nhà thờ thánh Xôphia (360 - 1354). Công trình này lớn nhất thế giới thiên chúa giáo (thế kỷ XV). Nó được xây dựng là sự kết hợp giữa thể thức kiến trúc mặt bằng chữ nhật của La mã vừa tạo được mặt bằng chữ thập Hy Lạp. Đặc biệt là những nóc tròn, vòm cầu đồ sộ đã tạo nét riêng biệt với sáng tạo của nghệ thuật kiến trúc Bidăngtanh. Đồng thời cũng đánh dấu sự tiến bộ của kỹ thuật xây cất kiến trúc thời Bidăngtanh so với La mã thời cổ đại. Trên nóc tròn đồ sộ đó, các kiến trúc sư Bidăngtanh còn cho dát bằng các kim loại quý như vàng để tăng thêm phần sang trọng cho “ngôi nhà của chúa”. 2.2. Nghệ thuật Kiến trúc Roman Từ năm 63 TCN, ở La mã đã xuất hiện một tôn giáo mới đến thế kỷ IV TCN, đạo Kitô đã được chính thức công nhận là đạo chính ở La mã, cũng như ở Châu Âu. Đạo Kitô phát triển kéo theo việc xây dựng các nhà thờ Kitô giáo được chú trọng. Điều này thoả mãn nhu cầu chung cho cả quý tộc và nông nô. Từ thế kỷ IX đến thế kỷ XI một phong cách kiến trúc nhà thờ kitô giáo ra đời. Đó là phong cách kiến trúc Rô măng. Nghệ thuật Rô măng không phải là sự tiếp tục phát triển của nghệ thuật La mã. Tuy vậy tên gọi Rô măng cũng gợi về sự vang vọng của một nền nghệ thuật đã từng rực rỡ ở thời cổ đại. Nhìn bề ngoài, kiến trúc Rômăng là một khối nhà thấp, chắc chắn, nhiều mảng lớn hơn các khoảng trống. Vật liệu chủ yếu bằng đá. Thời kỳ này đã biết tạo ra các cột, 21
  25. mỗi hàng là một gian với vòm bán nguyệt trên mi cửa. Lối kiến trúc này có ưu điểm là khoẻ khoắn, chắc chắn. Nhưng do cửa sổ nhỏ và ít nên trong lòng kiến trúc thiếu sáng. 2. 3. Nghệ thuật Kiến trúc Gotich Đến thế kỷ XII, ở Pháp xuất hiện một phong cách kiến trúc mới: phong cách Gôtích (Gothique), đã tìm cách giải quyết những hạn chế kiến trúc Rômăng bằng một số kỹ thuật mới như tạo những hàng cột bên vững chãi, là bộ cung kép để đỡ mái bên. Để nâng cao vòm nhà, kiến trúc sư Gotích đã tạo ra hệ thống vòng cung gãy, khởi từ những đầu cột chính, cắt nhau tại trung tâm của vòm nhà. Điểm đặc trưng để phân biệt kiến trúc Gôtích với Rômăng là các vòm nhọn, các mi cửa không còn là cung tròn mà là một nửa hình thoi. Sau này Gotích có thay đổi là các cung nhọn thì bây giờ là hai cánh cung nối nhau ở đỉnh nhọn. Hình này là sự phối hợp hai thể thức Rômăng và Gôtích. Nó vừa giải quyết được vấn đề chiều cao cho công trình, vừa giải quyết được phần tạo dáng cho các vòm, vòng cung đẹp hơn, mềm mại hơn. Với cách xử lý kỹ thuật mới, các nhà thờ Gôtích vươn cao trên bầu trời. Đồng thời ánh sáng vẫn chan hoà trong lòng thánh đường, tạo một không gian kiến trúc tôn giáo phù hợp. 3. Nghệ thuật Hội họa Ứng với mỗi phong cách kiến trúc lại có những thể loại tranh phù hợp. Với phong cách Rômăng khi nghệ thuật mới được phục hồi trở lại sau một thời gian hạn chế và tàn lụi thể loại tranh được phát triển là tranh khuôn khổ nhỏ, làm chức năng minh hoạ cho các sách thánh kinh, hay còn gọi là các bức tiểu hoạ. Thể loại này có màu sắc đơn giản. Ngôn ngữ đặc trưng là nét, bố cục đơn giản, xúc tích và dễ hiểu đồng thời bộ lộ nội dung sâu sắc. Vì làm chức năng minh hoạ nên nội dung chính của thể loại tranh này là nội dung tôn giáo. Trong kiến trúc Gôtích, các nhà thờ có nhiều khoảng trống, phù hợp với thể loại tranh ghép kính màu. Bằng nhiều lớp kính màu, thể loại tranh này đã tạo hiệu quả trang trí cao. Khi ánh sáng mặt trời chiếu qua các lớp kính tạo ra một lớp ánh sáng huyền ảo, gợi không khí huyền bí linh thiêng trong nhà thờ. Tranh ghép kính màu ngày càng phát triển với nhiều kỹ thuật đa dạng hơn. Cùng với tranh ghép kính màu, trong thời kỳ Gôtích còn thể loại tranh thờ, tranh thánh. Những tranh này phần lớn được dùng trong trang trí, thờ phụng ở bàn thờ chúa. Đề tài chính là tranh vẽ các vị thánh, chúa. Có thể có tranh đơn, nhưng cũng có thể bày nhiều bức tranh đơn ghép lại thành bức thánh tượng bình (bức bình phong về tranh thánh) bày ngay trước bàn thờ chúa, ở nghệ thuật Bidăngtanh, tranh ghép bằng các mảnh gốm màu hoặc các mảng đá phát triển hơn cả. Trong các thể loại tranh kể trên, hầu hết là mang nội dung trích ra từ kinh thánh. Hình ảnh Chúa Trời đức mẹ và chúa hài đồng, các thánh được diễn tả bằng một quan 22
  26. niệm tạo hình đặc biệt. Điều chi phối những quan niệm này lại chính là tôn giáo. Ví dụ quan niệm tạo hình theo đẳng cấp được sử dụng triệt để. Các bậc thang đẳng cấp được tạo ra theo tình cảm tôn giáo, tư duy tôn giáo. Điều này thể hiện ở nhiều lĩnh vực của ngôn ngữ tạo hình, trong đó rõ nhất là ở tỷ lệ các nhân vật. Sự to nhỏ của hình tượng nhân vật là tuỳ thuộc vào địa vị tôn giáo của nhân vật mà không theo xa gần. Các nhân vật trong tranh thờ thường được kéo dài về tỷ lệ. Khuôn mặt gầy, hóp, đôi mắt mở to ngơ ngác hay đắm chìm vào một thế giới xa xăm nào đó thể hiện sắc xảo chân dung của người tu hành khắc khổ. Các màu xanh, đỏ, vàng được đặc biệt yêu thích trong tranh trung cổ. Có thể nhận định một cách chính xác rằng nghệ thuật thời trung cổ đã tạo ra được một kiểu người phù hợp với lý tưởng tôn giáo, niềm tin tôn giáo, ít chất hiện thực nhưng giàu tính siêu hình thần bí, biểu hiện cảm xúc, tình cảm tôn giáo, kiểu người mộ đạo thành kính. Sau thời cổ đại, tình hình xã hội thay đổi. Tôn giáo ngự trị trong xã hội, hướng cái đẹp lên thế giới của cha - con và thánh thần, thế giới thiên đàng vĩnh hằng. Nghệ thuật mang tính nhân văn của Hy Lạp La mã cổ bị hạn chế không được tiếp tục phát triển. Thay vào đó là một nền nghệ thuật tôn giáo phát triển gần như chiếm độc quyền. Điều này tạo cơ sở để các nhà tư tưởng phục hưng cách tân và đưa ra phong cách nghệ thuật mới, thay đổi một quan niệm sáng tạo nghệ thuật. 4. Nghệ thuật Điêu khắc Cùng với sự phục hồi của kiến trúc, điêu khắc cũng được phục hồi trở lại từ thế kỷ XI. Lúc đầu chỉ là những phù điêu trang trí với đề tài hoa lá Do quy định nghiêm ngặt của tôn giáo, giáo hội nên hình tượng người không được đề cập tới trong nghệ thuật tạo hình. Theo quan niệm tôn giáo, sẽ bị kết tội nếu kẻ nào làm việc tạo ra con người giống chúa trời. Say không bị cản trở bởi những tư tưởng cực đoan đó, trong nghệ thuật dần xuất hiện hình tượng con người trong đề tài quen thuộc: “Ngày phán xử cuối cùng”. Nhất là trong nghệ thuật gôtích, hình tượng điêu khắc được sử dụng rộng rãi hơn. Tượng người diễn tả các vị thánh và đề tài phán xét cuối cùng chiếm phần lớn trang trí kiến trúc như ở cổng phía nam của nhà thờ Sáctơrơ (Chartres) ở Pháp. Cổng này còn được gọi là cổng ngày phán xét cuối cùng và lòng từ bi (1215 – 1240). Điêu khắc Gôtích phát triển từ phù điêu hình tượng nỏi thấp đến cao dần, và cuối cùng là tượng tròn. Tính khoa học trong hình tượng điêu khắc cũng ngày một được nâng cao. Tỷ lệ cân đối hơn, hoàn thiện hơn. Trong nghệ thuật Bidăngtanh hầu như không sử dụng hình tượng điêu khắc mà chủ yếu là diện trang trí bằng các hoạ tiết trang trí phong phú và lộng lẫy về hình, màu sắc. Các mô típ thực vật như hoa hồng, hoa cẩm chướng, lá nho được sử dụng nhiều, kết hợp với các hoa văn hình học từ thế kỷ XVI. Hoa văn động vật không được người Bidăngtanh chú trọng. 23
  27. BÀI 5: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHỤC HƯNG 1.Văn hóa, xã hội thời kỳ Phục hưng Đầu thế kỷ XIV, XV ở ý đã xuất hiện quan hệ tư bản chủ nghĩa. Điều này đã tạo điều kiện cho văn hoá phục hưng do có tư tưởng mới xuất hiện, nền nghệ thuật cũ không đủ đáp ứng nhu cầu tinh thần nữa, và với những phát kiến về phát minh khoa học, địa lý tạo khả năng giao lưu giữa các nền văn hoá Đông - Tây. Những phát minh khoa học đã làm sáng tỏ nhiều điều về con người, về trái đất những điều đó trước đây bị nhiều tư tưởng như thần học, tôn giáo làm sai lệch. Trong nghệ thuật tạo hình cũng có những phát minh mới, trực tiếp thúc đẩy nghệ thuật phát triển, đặc biệt là hội hoạ. Đầu tiên là sự phát hiện ra một chất liệu mới trong hội hoạ: Chất liệu sơn dầu. Ưu việt của nó là: Biểu hiện tốt, khả năng tả chất, tả khối cao, màu sắc trong trẻo hơn, có độ sâu, bóng không thấm nước, đặc biệt tranh sơn dầu giữ được lâu, bền màu. Sơn dầu có từ thế kỷ XV và nó được phổ biến sử dụng trong giới hoạ sĩ khắp Châu Âu. Song song với sơn dầu là việc nhà kiến trúc sư kiêm nhà văn Lê ôn Bát tít sta An béc ti (Leon Battista Alberti: 1404 - 1472) đã phát minh ra phép phối cảnh, đó là diễn tả không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều, nó được nghiên cứu cẩn thận và hoàn thiện. Các hoạ sĩ có thể biểu hiện chiều sâu ngàn dặm lên mặt phẳng tranh. Đó là một phát minh trong lịch sử mỹ thuật, tạo điều kiện cho hội hoạ phát triển mạnh nhất từ trước tới lúc đó. Các nghệ sĩ thời phục hưng còn dũng cảm vượt qua rào chắn của tôn giáo tìm cách nghiên cứu về tỉ lệ, về giải phẫu tạo hình cơ thể người. Đồng thời với thành tựu của kỹ thuật in, nhiều sách về giải phẫu tạo hình cơ thể người đã được xuất bản. Cái đẹp thời phục hưng là cái đẹp của sự hài hoà và cân đối. Hình tượng con người được coi là kiểu mẫu cho tất cả. Mục tiêu văn hoá phục hưng là đấu tranh cho sự giải phóng con người. Kẻ thù của các nhà tư tưởng nhân văn và nghệ sĩ phục hưng là sự nghèo đói và dốt nát. Lý tưởng thẩm mỹ phục hưng là lý tưởng về sự hoàn thiện, hoàn mỹ. Cân đối và hài hoà là cơ sở xây dựng cái đẹp theo lý tưởng thẩm mỹ phục hưng. Được biểu hiện trong từng tác phẩm thời kỳ này. Thời tiền phục hưng Có thể nói mỹ thuật phục hưng bắt đầu ở ý với trung tâm là Florence và Siene vào cuối thế kỷ XIV. Thời kỳ này đã ghi lại tên tuổi của một số nghệ sĩ nổi tiếng như Giốt tô đi Bôn đô nê (Giotto Bonone: 1267 – 1337), Duye xi ô (Duccio: 1278 – 1319), Sang thế kỷ XV mỹ thuật phục hưng phát triển mạnh hơn. Tuy vậy về phong cách nghệ thuật chưa hoàn toàn định hình. Vì vậy, thời kỳ này được gọi là thời kỳ tiền phục hưng. Về hội hoạ thời tiền phục hưng có sự thay đổi lớn lao, hình tượng nhân vật được diễn tả có khối. Quan niệm nghệ thuật hiện thực được chú trọng. Con người xuất hiện trong tranh giống như trong cuộc đời: Sống động và giàu tình cảm. Cùng với nó 24
  28. điêu khắc cũng có thành tựu lớn, những nhà điêu khắc danh tiếng của thời kỳ này là Lô ren giô ghi béc ti (Lorenzo ghiberti) với tác phẩm Hai cánh cửa rửa tội ở Floren; Đô na ten lô với pho tượng vị thủ lĩnh Gát ta mơ la ta, Đa vít, Vê rô ki ô với các pho tượng kỹ mã nổi tiếng Kiến trúc thế kỷ XV được đánh dấu bằng các đặc điểm mới: Ở thời kỳ này kiến trúc thế tục vượt qua trình độ phát triển của kiến trúc tôn giáo. Thời trung cổ, kiến trúc tôn giáo chiếm ưu thế tuyệt đối với các phong cách kiến trúc Rômăng, Gôtích, Bidăngtanh. Kiến trúc thời này là sự kết hợp thể thức kiến trúc trung cổ (Gôtích) với nghệ thuật kiến trúc La mã. Trong thiết kế dành vị trí quan trọng cho nóc tròn trên đồ án hình vuông. Chòm cột nhỏ ở nhà thờ Gôtích được thay thế bằng trụ vuông hay cột tròn to. Vòm bán nguyệt trong kiến trúc Rômăng được thay thế bằng vòm tròn hỗn hợp cung tròn và nhọn của Rômăng và Gôtích. Sang nửa sau thế kỷ XV phong cách kiến trúc khởi đầu từ Floren được lan truyền đến các trung tâm khác của ý như Vơ ni dơ. Trong phong cách cũng có sự thay đổi, bởi sự tĩnh lặng, nghiêm trang thoáng đạt hơn và trang trí nhiều hơn. Thời kỳ phục hưng phát triển (thế kỷ XVI) Thế kỷ XVI được coi là thế kỷ cổ điển phục hưng (Renaissance Classique) theo cách hiểu trong nghệ thuật thời kỳ cổ điển của một nền, một phong cách nghệ thuật chính là lúc nghệ thuật đó đạt đến đỉnh cao, hoàn thiện, mẫu mực và định hình về phong cách. ở thời tiền phục hưng, mỹ thuật đã đạt được nhiều thành tựu. Song ở một vài tác giả, ở một số tranh của họ bên cạnh sự đổi mới về phong cách vẫn còn đôi chút ảnh hưởng của con người, sự biểu cảm chưa thật sâu sắc Nhưng sang thế kỷ XVI, mỹ thuật ý đã thực sự phục hưng. Một nền nghệ thuật đi theo hướng hiện thực, tự nhiên đã phát triển rực rỡ, để lại nhiều tác giả và tác phẩm có giá trị còn tồn tại mãi mãi. Một phong cách nghệ thuật mới đã thực sự định hình. Thời kỳ này chứng kiến sự phát triển của hội hoạ, điêu khắc cũng như kiến trúc. Đây là thời kỳ của những tên tuổi nổi tiếng như Đônatô Bramăngtơ (Donato Bramante: 1444 - 1514): Kiến trúc sư danh tiếng nhất của thời phục hưng với công trình kiến trúc vĩ đại và đồ sộ là nhà thờ thánh Pie (Saint Pierre), với công trình này được coi là toà giáo đường lớn nhất và là một kỳ quan của thế giới kitô giáo, Mi ken lăng giơ (Mikenlange) - nhà điêu khắc, kiến trúc sư, hoạ sĩ Trước phục hưng, tranh trên giá chưa thực sự phát triển. Suốt thời kỳ cổ đại, trung cổ thể loại tranh được sử dụng mạnh nhất là bích hoạ. Hay nói một cách khác là tranh luôn gắn với kiến trúc, “tựa” vào các mảng tường và tồn tại cùng với kiến trúc. Đến phục hưng, nhiều hoạ sĩ với những tác phẩm của họ được con người của nhiều thời đại yêu thích. Chưa bao giờ, hội hoạ lại phát triển và đạt được nhiều thành công như thời kỳ phục hưng. Các thể loai tranh đều được các hoạ sĩ thích thú thể hiện. Được 25
  29. ưa thích nhất là tranh chân dung, tranh tôn giáo, thần thoại, tranh sinh hoạt Hai trung tâm lớn là Rome và Vơnise. Các hoạ sĩ Vơnise vẫn tiếp tục phát huy sở trường của truyền thống hội hoạ Vơnise, họ say mê với sự phối sắc, màu sắc tươi sáng, rực rỡ, tranh của họ truyền đến cho người xem sự lạc quan, yêu đời vui vẻ và hạnh phúc. ở Rome là nơi thu hút các danh hoạ ý cũng như các hoạ sĩ ở nhiều quốc gia khác. Nơi đây được coi như trường học lớn, nơi đào tạo ra nhiều hoạ sĩ bậc thầy cho nền hội hoạ thế giới như Lê ô na đờ vanh xi, Raphaen, Tixiêng, Gioóc giôn Mỹ thuật phục hưng phát triển manh ở cả ba loại hình nghệ thuật: kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ. Điều đáng nói ở đây là một phong cách nghệ thuật tạo hình mới được hình thành và định hình vào thế kỷ XVI. Trong đó hội hoạ là loại hình nghệ thuật phát triển mạnh nhất từ trước đến lúc đó. Nó đã được các nghệ sĩ sáng tạo theo quan điểm mang tính chất nhân văn, vì giá trị, vẻ đẹp của con người. Tranh tượng phục hưng mang nhiều phẩm chất nghệ thuật cao quý. Tuy vậy cái đẹp của thời phục hưng, trong tranh tượng phục hưng là cái đẹp hoàn thiện, cái đẹp hài hoà, cân đối của tất cả các yếu tố ngôn ngữ tạo hình. Ngày nay, trong thời kỳ hiện đại, có thể đối với một số người tranh phục hưng với vẻ đẹp tĩnh lặng, trang nghiêm, mẫu mực, kinh điển là không phù hợp. Mặc dù vậy vượt qua không gian và thời gian, mỹ thuật phục hưng vẫn được kính trọng và sẽ còn là những bài học vô giá với nhiều thế hệ nghệ sĩ muốn học hỏi và nghiên cứu về nghệ thuật. 2. Khái niệm và cơ sở hình thành nghệ thuật Phục Hưng Danh từ phục hưng (Renaissance) theo tiếng Pháp nghĩa là sự tái sinh hay hồi phục. Quan niệm về sự tái sinh nghệ thuật, sự hồi sinh của tất cả những gì cao cả và vĩ đại. Nơi nghệ thuật phát triển mạnh mẽ nhất là ở Phờlorăngxơ (Florence). Người ý cho rằng nền nghệ thuật vẻ vang của họ thời La mã cổ đại đã bị người gốt (Goth - tên một man tộc ở Châu Âu) phá huỷ cùng với việc làm sụp đổ La mã. Vì vậy sứ mệnh của họ là phải làm cho nghệ thuật được phục hồi, được sống lại. Vào đầu thế kỷ XIV các nghệ sĩ ý đã quyết tâm tạo ra một nghệ thuật mới, khác xa với nghệ thuật thời trung cổ (Middle - Age). Cùng với sự tái sinh của mỹ thuật còn có sự tái sinh của văn chương của thuyết tâm linh Từ đó làm nảy sinh một làn sóng mới về nghệ thuật, văn học. Phong trào văn hoá mới này được gọi là phong trào văn hoá phục hưng. Mặt khác, ở ý thời kỳ này có nhiều trung tâm kinh tế phồn vinh, chính trị ổn định, tạo điều kiện cho nhiều tư tưởng mới phát triển. Mạnh mẽ nhất là tư tưởng nhân văn, đề cao giá trị của con người, ở đây không còn tư tưởng lấy thánh thần làm đích đánh giá và phấn đấu mà lấy chính con người, coi con người là thước đo mọi giá trị, là trung tâm của vũ trụ. Các tác phẩm mỹ thuật, đặc biệt là tranh, tượng thời kỳ này thực sự là bản anh hùng ca ca ngợi vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mỹ của con người. Nghệ thuật không những được tái sinh mà còn phát triển đến đỉnh cao trên cơ sở hoàn cảnh xã hội 26
  30. mới. Phong trào văn hoá phục hưng bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV và đến cuối thế kỷ XVI mới kết thúc. Thời kỳ đó trong lịch sử mỹ thuật được gọi là thời kỳ phục hưng, khởi đầu từ các đô thị ở miền Bắc nước ý. Dần lan sang các nước châu âu khác như Hà lan, Anh, Pháp, Đức Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của phục hưng là thế kỷ XVI. 3. Thành tựu nghệ thuật Phục Hưng 3.1 Nghệ thuật hội họa Hội họa Phục hưng đạt được nhiều ưu điểm, trước hết là sự hoàn thiện chất liệu sơn dầu và hơn hết là sự kết hợp yếu tố khoa học vào sáng tạo nghệ thuật; đưa phối cảnh vào trong tranh. Hội họa tả khối, tả chất sinh động. màu sắc hài hòa. Diễn tả tỉ lệ người theo tỉ lệ vàng với sự hoàn thiện của giải phẫu tạo hình. Một số tác giả tiêu biểu đã làm cho nền Hội họa phục hưng đạt đến đỉnh cao sáng tạo, họ là những nhà nghệ sĩ kết hợp nhiều tố chất Hoạ sĩ Giốt tô đi Bôn đô nê (Giotto di Bondone) 1267 - 1337 Là một hoạ sĩ vẽ tranh thờ rất nổi tiếng, tranh của ông vẽ đã có thay đổi về phong cách, trên khuôn mặt Chúa, các thánh Người thầy của ông là Ximabuê là người đã đưa vào tranh một thứ được chiếu dọi bởi một thứ ánh sáng tương phản mạnh tạo ra những nếp nhăn hằn sâu, những mảng khối mạnh. Vì vậy hình tượng nhân vật trong tanh ông mang tính biểu cảm hơn. Đến Giotto di Bondone kế thừa theo cách tân của thầy ông, đưa nghệ thuật về gần với cuộc sống. Chiều sâu của không gian trong tranh đã được chú ý tới. Ông không sử dụng nền trang trí trong tác phẩm, ông đặt các nhân vật của mình trong một không gian thực với các yếu tố phong cảnh làm nền. Tác phẩm “Phản bội chúa” đã biểu hiện được sự phản bội một cách minh bạch và cho thấy sự cách tân trong cách thể hiện con người, ánh sáng và sự cân đối hài hoà về sự sắp đặt màu sắc, bố cục. Tranh của ông đã đưa lại cảm xúc mạnh mẽ cho người xem, ở các nhân vật, ngoài việc diễn tả vẽ bên ngoài, hoạ sĩ đã chú ý đến sự biểu hiện của nội tâm: vẽ đau đớn, buồn bã, than khóc trước sự mất mát (tranh bích hoạ “Đám tang chúa Kitô”). Ma dắc xi ô (Masaccio) 1401 - 1428 Là người mở đầu cho nghệ thuật thế kỷ XV. Nghệ thuật của ông là sự tổng hợp của nhiều yếu tố, bởi ông được thừa hưởng các thành tựu về hình hoạ của Giôttô, phép phối cảnh trong kiến trúc, phân bố hệ thống ánh sáng trong tranh rõ ràng diễn tả con người sống động, hình tượng nhân vật, mảng sáng tối manh, tương phản, gợi khối tròn và mềm mại. Bức bích hoạ “Đôi vợ chồng đầu tiên bị đuổi khỏi vườn địa đàng” đã nói lên điều đó, ông đã thành công trong việc diễn tả hai cơ thể khoả thân bố cục trong hình chữ nhật đứng, ngoài cái đẹp về hình thể, khối, đậm nhạt, tác giả còn nhấn mạnh 27
  31. tâm trạng của hai con người này. Màu sắc trong tranh nhẹ nhàng, trừ mảng màu đỏ ở hình tượng thiên thần, còn tất cả hoà trong hoà sắc vàng trong sáng nhẹ nhàng, sự mềm mại, gợi cảm của chất da thịt còn thiếu vắng. Thay vào đó là sự rành mạch đậm nhạt, gợi vẻ cứng rắn, khoẻ mạnh của cách tạo khối điêu khắc. Ông còn nhiều tác phẩm khác như “Tiền quyên góp”, “Chúa ba ngôi”, “Đức mẹ Thánh John và Những người dâng cúng” Tranh ông phần lớn là đề tài tôn giáo. Nhưng qua đề tài tôn giáo hoạ sĩ gửi tới người xem thông điệp về vẻ đẹp và giá trị của con người. Chiều thứ 3 của không gian được diễn tả tốt nhờ sự chắc chắn về hình, đậm nhạt và tương quan nóng lạnh của màu sắc trong tranh. Hoạ sĩ Bô ti xen li (Botticelli) 1445 – 1510 Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông có nhiều tác phẩm: Tranh ở nhà thờ Sanh nghệ thuật Maria Maggiore ở Floren, tranh về lịch sử tình yêu, tranh bàn thờ thánh, trong số đó người ta nhắc đến nhiều hơn những tác phẩm “Mùa xuân”, “Ngày sinh của thần vệ nữ”. “Lễ truyền tin” Bên cạnh những đề tài tôn giáo quen thuộc, ông đã đề cập đến đề tài thần thoại. Một sự thay đổi, hay một sự quay trở về với truyền thống vinh quang thời cổ đại La mã? Tranh “Ngày sinh của thần vệ nữ” cho thấy một vẻ đẹp tổng thể, hài hoà của nhiều yếu tố tạo hình: Đường nét, màu sắc và chất biểu cảm: Thần vệ nữ là một cô gái đẹp mảnh dẻ, lả lướt với những lọn tóc vàng dày, nặng song mềm mại cuộn rủ xuống thân hình khoả thân, tác giả đã diễn tả chất da thịt căng tròn, đầy cảm xúc, thân hình mượt mà, sống động. Tác phẩm “Mùa xuân” lại mang đến cảm xúc khác: Xem tranh ta có thể thấy hết biểu hiện của mùa xuân như sắc đẹp, hoa trái, duyên dáng, niềm vui, say mê hạnh phúc Màu sắc của tranh tươi sáng, trang trọng và rực rỡ, kết hợp với sức sống từ những hình tượng thần linh với đường nét mềm mại, ánh sáng dàn trải nhưng mạnh mẽ đã cho chúng ta cảm xúc đầy đủ tràn đầy về mùa xuân. Tác phẩm “Truyền tin” lại cho ta thấy sự rõ ràng, rành mạch, song vẫn có sự tương phản giữa những đường thẳng, sắc cạnh trong các chi tiết tường nhà, nền gạch với những đường cong nếp gấp mềm mại trong việc diễn tả trang phục của nhân vật. Rồi sự tương phản về nóng lạnh của màu sắc để diễn tả xa gần. Điều đáng chú ý là việc sắp xếp hai hình tượng thiên thần và đức mẹ, hai thái độ tình cảm. Hoạ sĩ Lê ô na đờ vanh xi (Léonar de vin ci) 1452 – 1519 Với nhiều tác phẩm thành công tên tuổi của Léonar de vin ci ngày càng nổi và ông vẫn tự hào cho rằng ông đã đấu tranh để chứng minh được hội hoạ đúng là nghệ thuật tự do như nghệ thuật hùng biện, văn phạm, triết học và phép biện chứng. Ông và các hoạ sĩ khác nghĩ rằng phải dựa trên cơ sở khoa học mới có thể biến hội hoạ từ nghề thủ công bị coi nhẹ thành nghệ thuật đáng coi trọng. Đó là lẽ cũng chính là lý do khiến Léonar de vin ci say mê nghiên cứu luật phối cảnh và cấu trúc cơ thể người, ông muốn nghệ thuật gắn bó với khoa học. 28
  32. Tài năng của Léonar de vin ci không chỉ dừng lại ở hội hoạ mà còn ở kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, chế tạo súng, đạn, vũ khí, máy móc, mô hình máy bay - Tác phẩm “Bữa tiệc cuối cùng” - Tranh tường (1495 - 1498) - Tác phẩm “Mônalida” - Sơn dầu trên gỗ - Tác phẩm “ Đức mẹ đồng trinh trong hang” - Sơn dầu Raphaen Xăng ti (Raphael Santi) 1483 – 1520 Cùng với Lê ô na đờ vanh xi và Mikenlăngiơ, Raphaen góp phần tạo nên sự chuẩn mực, định hình cho sự phát triển của phong cách nghệ thuật phục hưng, nếu Mikenlăngiơ phong cách mạnh mẽ, cường liệt bao nhiêu thì ngược lại phong cách của Raphaen lại mềm mại, nhẹ nhàng bấy nhiêu. Trong mỹ thuật phục hưng hai nghệ sĩ này được coi là hai thái cực đối lập nhau. Những tác phẩm nổi tiếng của Raphaen là: - Đức mẹ của Đại công tước - Đức mẹ đồng trinh và Chúa hài đồng – Sơn dầu (1505) -Trường Aten – Bích hoạ (1510 – 1512) - Đức mẹ Sixtime (1512 – 1513) Tranh của Raphaen biểu hiện cái đẹp nhẹ nhàng, uyển chuyển và duyên dáng, mang nội dung lịch sử tôn giáo và tín ngưỡng nhân vật sâu sắc. Tranh của ông là những mẫu mực về màu sắc, bố cục, về hình hoạ. 29
  33. 3.2 Nghệ thuật điêu khắc Điêu khắc phục hưng đạt đến chuẩn mực về giải phẫu tạo hình. Nhiều nhà điêu khắc nổi tiếng đã làm rạng danh đất nước Italia với phong cách điêu khắc da dạng và đề tài sáng tác phong phú. Đô na ten lô (Donatello) 1386 – 1466 Trong tác phẩm của mình, đề tài được ông đề cập tới nhiều nhất là đề tài tôn giáo, gắn với các công trình kiến trúc tôn giáo: Thánh Mác (phù điêu đá), thánh Gioóc Mỗi bức một khác nhau về bố cục, về tình cảm mẹ con Nhưng cái đẹp chung toát ra từ những bức phù điêu hoặc tượng của ông là vẻ đẹp hiện thực của con người trần tục và tình cảm yêu thương vô hạn của Đức mẹ với đức Chúa con. Ngoài ra chủ đề những người anh hùng dân tộc trong đấu tranh chống giặc, những sự tích hay huyền thoại ca ngợi cuộc sống cũng được ông thể hiện. Ông cũng rất thành công khi xây dựng tác phẩm hoành tráng đài kỷ niệm người thủ lĩnh quân sự Gát ta mơ la ta. Tài năng của ông cũng được biểu hiện qua các bức chạm nổi trên nhiều chất liệu: đá, đồng trên mặt phẳng, ông khéo léo tạo nhiều lớp khối cao thấp khác nhau rất phong 30
  34. phú nên đã tạo được không gian sống cho nhân vật trong phù điêu. Dáng của các nhân vật ở mọi chất liệu đề tài đều rất động, đa dạng, đường nét mềm mại, dịu dàng. Mi Ken lăng giơ Bu ô na rô ti (Michel Ange Buonarroti) 1475 – 1564 Hoạ sĩ sứ Phờ lô grăng xơ, đồng thời là nhà điêu khắc, kiến trúc sư và nhà thơ của nước ý. ông là một trong những nhân vật vĩ đại nhất thời phục hưng. Nghệ thuật của Mi ken lăng giơ là nguồn lực hình thành nên phong cách kiểu cách (Manierisme), báo trước sự ra đời của nghệ thuật Barốc cơ, Mi ken lăng giơ sinh ngày 18/2/1564 tại Rome. ông bắt đầu học mỹ thuật trong xưởng của thầy đơ mơ ni cô (Domenico) và thầy Đavít ghi rlang đai ô (Giardino Medicco) và được nhà điêu khắc Béc tôn đô đi giô van ni (Bertoldl di Giovanni) dạy học hình hoạ, nặn tượng và làm phù điêu. khi thầy giáo mất Mi ken lăng giơ rời Phờ lô răng xơ đến Blônhơ (Blogne) tạc rất nhiều tượng cho nhà thờ thánh Đô mơ ni cô. các bức tượng tuyệt tác ấy làm cho tên tuổi Mi ken lăng giơ lẫy lừng cả xứ. Năm 1494, Mi ken lăng giơ trở lại Phờ lô răng xơ, từ 1496 đến 1513 ông sống và làm việc tại Tome. Giai đoạn này đánh dấu sự làm việc xung sức của nghệ sĩ, ông hoàn thành vô số các bức tượng thánh và Đức mẹ trong nhà thờ, năm 1501 Mi ken lăng giơ đi Xiên nơ (SiêNhà nước) và Phờ lô giăng xơ, lần này ông bị cuốn hút vào việc tạc tượng Đavid khổng lồ. Cao khoảng hơn 3m với 1 tảng đá hoa cương lớn, tới 1504 ông mới hoàn thành xong tác phẩm. Từ 1505 Mi ken lăng giơ bắt đầu làm dự án lăng mộ giáo hoàng Duy lơ II (Jules II) và kết thúc vào năm 1513. Năm 1508, Mi ken lăng giơ còn trang trí vòm nhà thờ Xích xtin, đến năm 1512 mới xong. Từ 1520 - 1534 Mi ken lăng giơ kí hợp đồng về kiến trúc cho nhà thò Mê đi xi (Mðdicis), công trình này được đánh giá là tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, tổng hợp hài hoà giữa mỹ thuật và kiến trúc, năm 1535 - 1536 Mi ken lăng giơ quay lại Rôme và thể hiện những bức tranh tường đồ sộ, đầu tiên là bức “Sự phán xét cuối cùng” trên vách của nhà thờ Xích xtin khổ 20m x 10m, năm 1541 tác phẩm vĩ đại này mới được hoàn thành. Một thời gian sau, Mi ken lăng giơ thể hiện 2 bức tranh tường lớn ở nhà thờ Pôlinnơ (Pauline) ở Vaticăng. Nhà thờ riêng của giáo hoàng không lâu sau đó Mi ken lăng giơ nhận thầu tiếp 2 công trình kiến trúc tại Rome, trụ sở làm việc Xanh Pi e rơ (St. Pierre) ở Ba đi li cơ (Basilique) và hoàn thiện Pla da Phác nê dơ (Plazza Farnese). 31
  35. Piet ta- Mikenlăng Đavít 3.3 Nghệ thuật kiến trúc 32
  36. Hai công trình kiến trúc tại Rome, trụ sở làm việc Xanh Pi e rơ (St. Pierre) ở Ba đi li cơ (Basilique) và hoàn thiện Pla da Phác nê dơ (Plazza Farnese) Ở trung tâm văn hoá rộng lớn này do Mikenlăng đảm nhiệm. Mi ken lăng giơ còn làm nhiều dự án kiến trúc khác, cả cuộc đời làm kiến trúc Mi ken lăng giơ luôn thể hiện phong cách kiến trúc Badilicơ (Basilique: Kiến trúc Phục hưng thường được thể hiện Kiểu kiến trúc có các khung hình chữ nhật hoặc vuông phía dưới, cong phía trên là nửa hình tròn) 15 năm cuối đời, Mi ken lăng giơ luôn gắn mình với cong việc kiến trúc, điêu khắc, Hội hoạ trong các ngà thờ Xanh Pie rơ và nhà thờ Xpho rda (Sforra). Mi ken lăng giơ cũng là tác giả của nhiều bài thơ tình mang dấu ấn đặc sắc của con người thời phục hưng. đọc những bài thơ này, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn cá tính đa dạng, diệu kỳ của ông, Mi ken lăng giơ mất tại Rôme ở tuổi 89, thi hài của ông dược an táng tại nhà thờ Xanh cô rô xơ (St. Coroce) thuộc Phờ lô răng xơ.Thời kỳ phục hưng, nghệ thuật kiến trúc cũng đạt đỉnh cao không chỉ bởi kết cấu vật liệu mà hơn hết là sự kế thừa, phục hồi lại những thành tựu điển hình của thời kỳ cổ đại cả quy mô và nghệ thuật tạo hình với các chi tiết trang trí độc đáo. 33
  37. BÀI 6: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CỔ ĐIỂN 1. Cơ sở hình thành nghệ thuật cổ điển Trường phái Cổ Điển được định nghĩa trong t điển là trình độ cao nhất về Văn Chương và Nghệ Thuật, đặc biệt là phụ thuộc vào nền Văn Hóa Cổ Hy Lạp và Cổ La Mã. Danh từ Cổ Điển mang hàm ý rằng trong quá khứ, con người đã đạt tới sự tuyệt vời về nghệ thuật và ngày nay những công trình văn học, nghệ thuật liên quan tới truyền thống cũ đều được coi là cổ điển. Các nghệ sĩ cổ điển trong thế kỷ 18 tại châu Âu đã không quan tâm tới cá tính hay các kinh nghiệm cá nhân như là sơ liệu nghệ thuật của họ. Một công trình nghệ thuật tự bản thân nó đã có sẵn cái đẹp, cái hay mà không cần tới sự diễn tả của bản ngã người nghệ sĩ trong khi các nghệ sĩ thuộc trường phái lãng mạn (romantic) lại coi Nghệ Thuật là một phương tiện để tự thể hiện. Trường phái cổ điển hướng về sự trong sáng của tư tưởng và vẻ đẹp của hình thể, coi trọng sự kiểm soát và kỷ luật nơi nghệ thuật, quan tâm tới tiềm năng trong cách diễn tả thuần lý, trong công phu gọt dũa tỉ mỉ và tầm nhận thức về vẻ đẹp lý tưởng. Tất cả căn bản của phong cách cổ điển đã khuyến khích người nghệ sĩ chú tâm vào các phẩm chất của trật tự, của sự thăng bằng và sự hòa hợp. Sau 3 thế kỷ làm văn hóa phục hưng giai cấp tư sản chưa đủ lực để làm cách mạng giành chính quyền, mỹ thuật phát triển đến thế kỷ XVI thì trì trệ. Châu âu bước sang thế kỷ XVII với nhiều biến động, đổi mới quan hệ sản xuất, xuất hiện nền văn minh công nghiệp, cải cách tôn giáo điều đó dẫn đến sự phát triển mới của xu hướng nghệ thuật. 2. Đặc điểm nghệ thuật Cổ điển 2.1. Nghệ thuật Hội họa - Coi thành tựu nghệ thuật Hy lạp, La mã là những mẫu mực để noi theo - Lấy cái hài hòa, mực thước làm cơ sở thẩm mỹ - Xung đột cơ bản mà nghệ thuật Cổ điển khai thác là sự xung đột giữa nghĩa vụ và dục vọng. 34
  38. "Cái chết của Socrate" của Họa sĩ Jaques-Louis-David Do ảnh hưởng cổ điển, các nghệ sĩ cũng diễn tả những tư tưởng hướng về Hy Lạp và La Mã. Họa sĩ Jaques-Louis-David đã vẽ bức danh họa " chết của Socrates " theo cảm hứng từ nghệ thuật và văn hóa Cổ Hy Lạp. Các cuốn tiểu thuyết của Samuel Richardson, Henry Fielding, Laurence Stern và Tobias Smolett đã chứa đựng các tình cảm trưởng giả, giống như thơ phú của Thomas Gray, Oliver Goldsmith và William SCowper. Nhưng dưới ánh vẻ hào nhoáng của các vương triều và trong các xã hội mà quyền uy đã được coi như thiên mệnh, đang âm thầm các sức mạnh bộc phá, làm lung lay nền móng của các chế độ cai trị. Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ là một đòn mạnh đánh vào chủ thuyết thần quyền của các vị vua chúa, rồi Cuộc Cách Mạng Pháp đã làm rung chuyển toàn thể châu Au. Thời kỳ cổ điển đã chứng kiến ngày tàn của các thể chế cũ và bình minh của châu Au hiện ra với các biến đổi chính trị, kinh tế, nhờ đó quyền lực được chuyển từ giai cấp quý tộc sang giai cấp trung lưu. Chế độ tư bản đang bành trướng nhờ Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ với các tiến bộ về Khoa Học, Kỹ Thuật, nhờ năng lực hơi nước, đường xe lửa,các nhà máy, các hầm mỏ . . . Vào giữa thế kỷ 18, nhiều phát minh khoa học đã ra đời chẳng hạn như máy se sợi của Hargreaves năm 1760, máy hơi nước của James Watt năm 1765, máy dệt của Cartwright năm 1785, máy cán bông gòn của Eli Whitney năm 1793 Bộ môn Khoa Học Thuần Lý đã có sự đóng góp của Benjamin Franklin tìm ra Điện Lực năm 1752, Priestly khám phá ra Oxygen năm 1774, Bác Sĩ Jenner hoàn chỉnh cách Chủng Ngừa năm 1796, nhà toán học Laplace đã tính toán cách vận hành của Vũ Trụ và pin Điện Cực được Alessandro Volta phát minh vào năm 1800. Sinh hoạt trí thức cũng có các đóng góp đáng kể như cuốn sách "Lịch sử nghệ thuật cổ" của Winckelman xuất bản 35
  39. năm 1764, Từ Điển Bách Khoa Pháp (1751-52) và Từ Điển Bách Khoa Britanica với ấn bản đầu tiên vào năm 1771. Sinh hoạt trí thức của thời Cổ Điển như vậy đang đứng trước hai trào lưu đối nghịch. Một xu hướng là nghệ thuật cổ điển đang được tinh luyện trong đời sống nhưng cũng đang đi dần tới kết thúc, xu hướng kia là một cách sống mới đang vật lộn để chào đời. Thế kỷ 18 còn được gọi là Thời Đại của Lý Trí (the Age of Reason). Các nhà triết học người Pháp như Voltaire, Diderot, Rousseau, Condorcet, d'Alembert . . . đã tạo nên Bộ Từ Điển Bách Khoa như một dụng cụ Khai Sáng, đã đề cao Lý Trí với mục đích tấn công vào nền trật tự đang hiện hữu trong khi giai cấp trung lưu chiếm dần các vị trí quan trọng trong cuộc nổi dậy. Văn Hóa của thế kỷ 18 đã được đặt dưới sự bảo trợ của giới quý tộc vì Nghệ Thuật được coi là một thứ trang hoàng cho đời sống vương giả. Cuộc sống của các ông hoàng, các mệnh phụ được diễn ra nơi lâu đài, với các yến tiệc, các lễ nghi đòi hỏi tới sự lịch duyệt trong phong cách và vẻ đẹp trong kiểu mẫu. Các nghệ sĩ của thế kỷ 18 đã sống trong khung cảnh đó. Họ là những người phục vụ cho các vương triều, các ông hoàng bà chúa, để có được sự an toàn kinh tế và địa vị xã hội. Các nghệ sĩ vì thế đã sáng tác ra các tác phẩm theo đòi hỏi của giới quý tộc. 2.2. Nghệ thuật Kiến trúc Nghệ thuật kiến trúc của thế kỷ 18 mang các dấu ấn đặc thù, với các lâu đài nguy nga và các khu vườn rộng lớn, tất cả được xây dựng theo tỉ lệ cân đối, với các chi tiết trang hoàng tỉ mỉ. Vào giữa thế kỷ này, Vua Louis 15 của nước Pháp đã chủ xướng các lễ hội xa hoa tại Cung Điện Versailles, đồng thời các vương triều khác cũng ngự trị tại các quốc gia láng giềng: Frederic Đại Đế cai trị nước Phổ, Catherine là Nữ Hoàng của nước Nga và Maria Thérésa trị vì nước Ao. Tại châu Au thời đó, giai cấp cai trị đã nắm quyền lực nhờ vào đặc quyền thừa kế. Xã hội của thời kỳ này tôn trọng quá khứ, đề cao truyền thống và hiện trạng được duy trì. Các nhà quý tộc đã coi trọng hình ảnh của các thần linh cổ xưa, đề cao thành tích của các vua chúa, các anh hùng hiệp sĩ vì đây là phản ánh của chính họ, của những gì quý phái, cao sang. 2.3. Nghệ thuật sân khấu Về âm nhạc và sân khấu, sự phân chia rõ ràng giữa cổ điển và lãng mạn đã không có một mốc thời gian nhưng khi xét các khuynh hướng nghệ thuật của thế kỷ 18, các nhà phê bình cho rằng thế kỷ đó đã có những dấu nét đặc biệt, khác biệt với trào lưu nghệ thuật của thế kỷ sau. Nghệ thuật đã trở thành sự mẫu mực mà ở sân khấu người nghệ sĩ cụ thể hóa cuộc đời và xã hội. Về âm nhạc, các nhạc sĩ nam nữ thời đó sống nhờ vào các cung đình, họ là ca sĩ, nhạc công và giáo sư âm nhạc cho các gia 36
  40. đình quý tộc giàu có. Họ viết nhạc để phục vụ tôn giáo, hoặc soạn ra các bài thực tập âm nhạc dành cho nhạc sinh, hoặc sáng tác ra các bản nhạc để hát, để đàn trong các buổi giao tế xã hội của giới quyền quý. Thời kỳ Cổ Điển của bộ môn Âm Nhạc có thể được coi là từ năm 1750 tới năm 1825 với các tác phẩm của bốn bậc Thầy tiêu biểu, thuộc trường phái Vienna là Haydn, Mozart, Beethoven và Schubert. Trong thời kỳ này, nghệ thuật Am Nhạc đã kết nụ, nở hoa vì những thí nghiệm và khám phá, và các nhạc sĩ đã phải đứng trước ba thử thách, thứ nhất là thám hiểm vào phạm vi rộng lớn của hệ thống âm giai trưởng-thứ, thứ hai là làm hoàn chỉnh ngành âm nhạc tuyệt đối (the absolute instrumental music) và thứ ba là tận dụng các thể loại âm nhạc mới với các sonata đơn và kép, các trio, quartet, concerto, thể loại giao hưởng (symphony) và các loại nhạc thính phòng. Nếu nói rằng các nhạc sĩ bậc thầy như Haydn, như Beethoven, thuộc trường phái cổ điển thì cũng chưa hẳn chính xác. Các nhạc sĩ thuộc trường phái Vienna đã thí nghiệm một cách táo bạo và không ngừng dùng các vật liệu âm nhạc trong tầm tay. Lúc đầu họ phải quy phục các nguyên tắc của các thể loại đã có từ trước, rồi về sau đã diễn tả tình cảm nội tâm qua các tác phẩm. Cũng vì thế các bản nhạc của Haydn hay của Beethoven vào thời kỳ đầu đã mang nhiều sắc thái cổ điển hơn, trong khi Schubert ở cuối giai đoạn lại mang màu sắc trữ tình. Cho nên danh từ Cổ Điển có thể bao hàm ý nghĩa của sự toàn hảo, sự huy hoàng của Am Nhạc vì các bậc Thầy của thời đó đã trình bày, đã sáng tác ra các bản giao hưởng, concerto, sonata, trio, quartet mà sau này được coi là những mẫu mực không vượt qua được. Âm Nhạc của trường phái Vienna còn có các giai điệu vừa lịch lãm, vừa ca ngợi, thường căn cứ vào các câu 4 nhịp đối xứng có đoạn kết rõ ràng nhờ đó âm nhạc dễ dàng thâm nhập vào tâm hồn thính giả. Các giai điệu cổ điển này vừa có thể dùng để ca hát, vừa dùng cho nhạc cụ, đã đi từng bước ngắn, nhẩy các quãng hẹp lại bám rễ vững vàng vào cung khóa (key). Sự trong sáng của bản nhạc được nổi bật nhờ các câu nhạc lặp lại và nhờ cách dùng thường xuyên các tiếp khúc (sequence) hay sự nhắc lại một mẫu câu nhạc bằng giọng cao hơn hay trầm hơn. Các câu nhạc vừa đối xứng, vừa cân đối nên dễ làm cho người nghe thưởng thức được phong vị của giai điệu. 37
  41. BÀI 7: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT THẾ KỶ XVIII 1. Đặc điểm văn hóa, xã hội Trung tâm văn hóa, nghệ thuật phương tây thế kỷ XVIII tập trung chủ yếu ở Pháp. Xã hội Pháp trước Cách mạng phân hoá làm 3 đẳng cấp (tu sĩ, quý tộc, bình dân) đã tạo nên sự bất bình đẳng sâu sắc, bất hợp lý về cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hoá tinh thần, tư pháp, chính trị, giáo dục. Triều đình Louis XVI của Pháp sống xa xỉ và phung phí đã dẫn đến khủng hoảng tài chính rồi khủng hoảng chính trị. Cuộc Cách mạng Pháp với khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" là mơ ước của nhân dân Pháp, nhưng họ đã hoàn toàn tan vỡ khi họ phải chứng kiến một thời kỳ dài đầy biến động liên tiếp: Quốc ước hội nghị (1792-1795) thành lập Đệ nhất cộng hoà, Chấp chánh hội nghị (1795-1799), Chế độ Tổng tài (1799-1804), sự kiện 1793 (phái Jacobin cực đoan nắm quyền với chính sách tàn sát đẫm máu). Năm 1804 Napoléon Bonaparte làm cuộc chính biến thành lập Đế chế thứ nhất và lên ngôi hoàng đế. Đế chế thứ nhất kéo dài 10 năm (1804-1814) với những sự kiện đáng chú ý: sự ra đời của bộ dân luật (code civil), chiến thắng Austerlitz năm 1805 , đây là những niềm tự hào của Đế chế. Sự tan vỡ của huyền thoại Napoléon về khát vọng anh hùng, khát vọng chiến thắng được phản ánh trong nhiều tác phẩm lãng mạn và hiện thực đương thời như: Chiến tranh và Hoà bình, Tội ác và trừng phạt 2. Một số thành tựu nghệ thuật 2.1 Nghệ thuật Hội họa Hội họa hình thành hai khuynh hướng một là nghệ thuật hướng thiện hai là nghệ thuật tân cổ điển. Nghệ thuật pháp ở vương triều Lu-I XVIII.(Khuynh hướng nghệ thuật Pháp thể kỳ XVIII :khuynh hướng Hướng thiện,khuynh hướng Tân cổ điển. 2.2 Nghệ thuật điêu khắc Nghệ thuật điêu khắc lấy tiêu chí từ thời kỳ cổ đại làm kim chỉ nam cho những sáng tạo nghệ thuật. Chất liệu chính chủ yếu vẫn là đá, đồng. Những hình mẫu của con người thời kỳ này là những công dân thành bang anh hùng hoặc những nhân vật phi phàm. Có thê nói điêu khắc Pháp thế kỷ XVIII mang phẩm chất anh hùng 2.3. Nghệ thuật văn học Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp 38
  42. phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba chàng lính ngự lâm, còn được dịch Ba chàng ngự lâm pháo thủ (Trois Mousquetaires) và Bá tước Monte Cristo (Le Comte de Monte-Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt, cuốn Đại từ điển ăn uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Dumas nức tiếng là người thay nhân tình như thay áo. Quả thật, ông cưới vợ chỉ một lần, gia đình này tan vỡ rất nhanh. Ông dan díu với 25 người đàn bà, có nhiều con hoang, mỗi con của một mẹ. Chỉ 3 con được công khai, trong đó con trai, cũng tên Alexandre Dumas, thường được gọi Alexandre Dumas con, trở nên một nhà văn lừng danh. Con gái thứ hai thì cuộc đời lỡ làng, con gái út – mà mẹ cô trẻ hơn Dumas đến gần 40 tuổi – thì chết cô đơn năm 1936 ở một làng quê trong nghèo khổ và không được ai biết đến là con gái cưng của một trong những vĩ nhân của nước Pháp. Mãi gần đây, người ta mới vỡ lẽ rằng Dumas đến với nhiều phụ nữ là do thương họ. Ông đồng thời chu cấp tiền nong đầy đủ cho vài người. Dumas là người hết sức quý trọng tình bạn. Trừ Balzac và Musset, các nhà văn cùng thời đều chơi với ông, thân nhất là Victor Hugo, người đã đánh giá chính xác vai trò của ông ngay khi ông qua đời. Hugo viết: "Trong thế kỷ này, không ai được dân chúng yêu mến sâu rộng và thắm thiết bằng Alexandre Dumas. Các thành công của ông đều tầm cỡ hơn thành công nói chung nhiều. Đó là những đại thắng lợi. Đó là những ngọn đèn pha". Ông cũng là người đại lượng, năm 1831, do ghen tức với thành công của vở Antony của ông, Hugo cho người viết báo chê bai. Hai người giận nhau. Song năm 1834, ông chủ động giảng hoà. Để hoàn toàn chủ động trong hoạt động sân khấu, ông bỏ ra một món tiền lớn để xây dựng Nhà hát kịch lịch sử của riêng ông. Khán giả rất nồng nhiệt, song không bù đắp nổi chi phí bỏ ra, nên cuối cùng nhà hát đóng cửa. Từ năm 1848, ông đã ra tờ báo đầu tiên. Sau đó, ông còn ra nhiều tờ báo nữa. Nhưng do quản lý kém, bị kiểm duyệt gây khó dễ, các tờ báo ấy tồn tại không bền, và ngốn của ông rất nhiều công sức và tiền bạc. Ông cũng hai lần ứng cử vào Nghị viện đều thất bại, ứng cử vào Hội quốc ước thì chỉ được 261 phiếu, trong khi các đối thủ được 220.000, rồi phải sang Bỉ lưu vong năm 1851, sau cuộc đảo chính của Napoléon III. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: "trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời" (rentrer 39
  43. dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti de la vie du passé), "nơi một nghĩa địa đẹp (Villers-Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh " (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher le D'Artagnan là hậu duệ một dòng dõi quý tộc đã sa sút ở xứ Gascony. Năm 18 tuổi, chàng rời nhà trên một con ngựa còm để đến Paris với mong ước trở thành một lính ngự lâm của vua Louis XIII. Dọc đường, d'Artagnan làm mất lá thư tiến cử của cha mình với ông De Treville, đội trưởng lính ngự lâm, do đó ông này đón tiếp anh không mấy nhiệt tình. Tiếp đó, d'Artagnan húc trúng vào cái vai đang bị thương của Athos, một lính ngự lâm đầy phong cách quí tộc. Anh này đòi quyết đấu với d'Artagnan vào giữa trưa và được đồng ý ngay. Ngay sau đó, d'Artagnan gặp Porthos, một lính ngự lâm khác rất đô con và mang một dải đeo kiếm cực xịn nhưng d'Artagnan khám phá ra rằng chỉ có mặt ngoài là đẹp thôi, còn bên trong làm bằng da bò. Thế là d'Artagnan có cuộc quyết đấu thứ 2 vào sau buổi trưa. Cuối cùng d'Artagnan nhặt được một chiếc khăn tay của một lính ngự lâm đẹp trai tên Aramis (khăn của tình nhân của anh này), cãi nhau, và có cuộc hẹn đấu kiếm thứ 3 trong ngày. Đến các buổi hẹn đấu kiếm, d'Artagnan thấy 3 người kia đi cùng nhau, họ là bạn thân. Tuy nhiên luật hồi đó cấm đấu kiếm, và các vệ sĩ của Giáo chủ de Richelieu đến bắt họ. Một cuộc chiến diễn ra và d'Artagnan về phe các ngự lâm quân.s cadavres). Có thể nói, văn học Pháp giai đoạn này đã thực sự thành công, nhiều tên tuổi lớn làm rạng danh nước Pháp nói riêng và nền văn hóa châu Âu noi chung. 40
  44. BÀI 8: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẦU THẾ KỶ XIX 1. Vài nét về văn hóa, xã hội Cuối thế kỷ XVIII, sang thế kỷ XIX có nhiều biến động hơn do sự xác lập chủ nghĩa tư bản ở nhiều nước Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản. Những phát minh khoa học, kỹ thuật lớn được công nhận như thuyết Đác Uyn, bảng hệ thống tuần hoàn Men đê lê ép, phóng xạ Uraium của Becơzen Phát minh về điện, dầu lửa, đã tạo điều kiện cho các phương tiện giao thông, phát triển nhiều nguồn năng lượng mới. Đời sống xã hội có sự chuyển biến lớn đó là xuất hiện giai cấp vô sản, tạo ra luồng tư tưởng mới, quan điểm thẩm mỹ mới ra đời. Sự phân hoá tư tưởng sâu sắc đã dẫn đến sự hình thành nhiều xu hướng nghệ thuật tạo hình. Cùng với nghệ thuật Tân cổ điển, nghệ thuật lãng mạn, thế kỷ XIX chứng kiến sự thắng thế của chủ nghĩa hiện thực với hoạ sĩ Pháp Cuốc Bê. Đó là cuộc cách mạng về đề tài và cả kỹ thuật. Các xu hướng nghệ thuật cổ điển và hiện thực tranh cãi về chủ đề và đề tài song đỉnh cao của sự lựa chọn đó là hiện thực cuộc sống đương đại được các hoạ sĩ cảm hứng và sáng tạo trong tác phẩm của mình. Từ những năm 60 của thế kỷ XIX có một nhóm hoạ sĩ trẻ ở Pháp đã nhận thấy phải tìm đến sự thay đổi về cách vẽ tạo ra được một loại tranh mới, khác hẳn các tranh đã tồn tại từ trước đến lúc đó. Họ đã thực sự đưa ra một loại tranh mới: Tranh ấn tượng (15/4/1874 – Ca puy xin – Paris). Sau 12 năm tồn tại với 8 lần triển lãm tranh vẫn không trinh phục và hấp dẫn được khán giả, một số hoạ sĩ trong nhóm đã tách ra đưa ra cách vẽ Tân ấn tượng. 10 năm cuối thế kỷ XIX được coi là thời kỳ hậu ấn tượng với đại biểu Xê dan, Van Gôcác, Gô ganh. Ba danh hoạ với ba phong cách đã tạo ra một thời kỳ nghệ thuật đầy hấp dẫn ở cuối thế kỷ XIX. Đồng thời khép lại 1 thời kỳ, giai đoạn nghệ thuật đầy biến động và mở ra một kỷ nguyên mới trong nghệ thuật tạo hình thế giới 2. Đặc điểm nghệ thuật 2.1. Khuynh hướng nghệ thuật lãng mạn Lãng mạn được hiểu theo nghĩa chiết tự là sóng tràn bờ, chỉ một sự phóng túng, tự do, vượt lên trên mọi ràng buộc. Xung quanh từ lãng mạn có rất nhiều thuật ngữ khác nhau mà chủ nghĩa lãng mạn chỉ là một trong số đó như: "phương thức lãng mạn", "hình thái lãng mạn", "tính chất lãng mạn".Phương thức lãng mạn là kiểu sáng tác tái tạo, là một trong hai kiểu sáng tác chính của lịch sử văn học bên cạnh kiểu sáng tác tái hiện theo cách gọi của Friedrich Engels.Hình thái lãng mạn là khái niệm đặc thù được Georg Wilhelm Friedrich Hegel dùng để đối lập với hình thái tượng trưng trong lịch sử phát triển nghệ thuật.Tính chất lãng mạn là một thuộc tính thẩm mỹ biểu hiện chủ yếu ở chỗ vươn lên trên thực tại và đã hình thành trong lịch sử sáng tác văn học. 41
  45. Lãng mạn cùng với trữ tình là hai phạm trù nghệ thuật nằm trên những bình diện khác nhau: đối lập với lãng mạn là hiện thực, đối lập với trữ tình là tự sự. Trữ tình là kết quả của việc biểu hiện cảm xúc, tâm trạng chủ quan của con người, do phản ánh ước mơ và khát vọng của con người nên thường vươn lên trên thực tại. Vì vậy, trữ tình và lãng mạn dù khác nhau nhưng thường đi đôi với nhau. Cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, đánh đổ chế độ phong kiến, là một bước ngoặt vĩ đại không chỉ đối với Pháp mà còn đối với cả Châu Âu. Chính sự sụp đổ của chế độ phong kiến và sự hình thành quan hệ xã hội mới đã tác động sâu sắc đến tư tưởng tình cảm của mọi tầng lớp trong xã hội. Đối với lớp người thuộc ý thức hệ quý tộc (lớp người cũ), họ cảm thấy bất mãn với trật tự xã hội mới (các đặc quyền, đặc lợi của họ trước kia hoàn toàn mất sau cuộc cách mạng này), lo sợ trước các phong trào quần chúng, hoang mang vì tương lai mờ mịt đồng thời luyến tiếc thời oanh liệt không còn nữa. Một bộ phận tầng lớp tiểu tư sản bị phá sản khi cách mạng nổ ra nên họ có tâm trạng bi đát. Đối với lớp người ủng hộ và đặt hy vọng vào cuộc cách mạng thì họ cảm thấy thất vọng (cái họ chống đối không phải là lý tưởng cách mạng mà là thành quả thực tế của cuộc cách mạng không như họ mong muốn).Chính những phản ứng đối với xã hội thực tại của họ đã sản sinh ra chủ nghĩa lãng mạn.Friedrich Engels cũng đã có nhận xét về giai đoạn này: "Vì những cơ cấu mới tưởng như hợp lý hơn so với trước kia, thì lại hoàn toàn không hợp lý Phương châm bác ái được thực hiện bằng những trò lừa bịp, đố kị trong cạnh tranh ". Sau Cách mạng Pháp, thế lực quý tộc cũ nổi dậy, tầng lớp dân chủ cấp tiến vươn lên. Nên khuynh hướng lãng mạn tiêu cực ra đời sớm hơn khuynh hướng lãng mạn tích cực. Chủ nghĩa lãng mạn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, nhưng chia làm hai khuynh hướng: lãng mạn tiêu cực và lãng mạn tích cực. Là sự phản ánh ý thức hệ của giai cấp bị Cách mạng tư sản tước đoạt quyền lợi và đẩy ra khỏi đời sống chính trị. Những nhà văn lãng mạn xuất thân từ tầng lớp quý tộc thường tìm tới thời Trung cổ, thời hoàng kim của chế độ phong kiến, hướng tới lý tưởng về cuộc sống đẹp đẻ êm đềm của thời xưa cũ. Khuynh hướng lãng mạn tiêu cực này mơ ước khôi phục lại chế độ cũ và đức tin đối với nhà thờ để truyền bá thuyết Thần bí về thế giới. Chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực chịu sự tác động của Chủ nghĩa lãng mạn tích cực gắn liền với tâm trạng quần chúng nhân dân đang bất mãn trước những hệ quả của cuộc Cách mạng tư sản Pháp. Nhưng họ cũng mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn thực tại mà họ đang sống, nơi đó con người được giải phóng khỏi mọi áp bức bất công. Chủ nghĩa lãng mạn tích cực chịu sự ảnh hưởng của hai nhà 42
  46. tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, họ "nhìn vào chiều hướng của sự phát triển thực tại", nhưng thực tế họ đã đi trước sự phát triển của thực tại. Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ứng chống lại xã hội đương thời, con người muốn thoát li thực tế tìm đến một thế giới khác giúp con người quên đi cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc sống làm thỏa mãn "cái tôi" bị tổn thương cái tôi của con người, nên thế giới trong chủ nghĩa lãng mạn là thế giới mộng tưởng. Tùy vào sự phản ứng khác nhau của hai khuynh hướng tiêu cực và tích cực. Đối với những người lãng mạn tiêu cực thì họ có thái độ bi quan trốn chạy cuộc đời, họ thường tìm về quá khứ vào mộng ảo hay thu mình vào "cái tôi" bí ẩn, thiên định về cuộc đời, về ái tình, về cái chết (Nỗi lòng chàng Werther của Johann Wolfgang von Goethe). Đối với những người lãng mạn tích cực thì họ không hòa hoãn thỏa hiệp với thực tại mà họ mong muốn thiết lập nên một xã hội mới đảm bảo hạnh phúc cho con người, họ thường vẽ nên một xã hội lý tưởng ( Nhà thờ đức bà Paris, Những người khốn khổ của Victor Hugo. Chủ nghĩa lãng mạn còn được gọi là chủ nghĩa tình cảm, vì ở đây tình cảm của con người được biểu hiện rõ rệt nhất. Vì vậy, chủ nghĩa lãng mạn chính là sự phản ứng chống lại chủ nghĩa cổ điển đề cao và tôn sùng lý trí với những quy tắc tam duy nghiêm ngặt (không đề cập đến tình cảm của của con người, không đưa thiên nhiên vào tác phẩm ) đã siết chặt tính sáng tạo và tình cảm của con người. Nên trong chủ nghĩa lãng mạn tình yêu của con người được khai thác ở mọi phương diện, thiên nhiên được phản ánh một cách sinh động nhất, trở thành nơi phản ánh nội tâm và nuôi dưỡng tình cảm của con người. Vì đề cao mộng tưởng và tình cảm nên con người muốn hướng đến một cuộc sống tự do, thoát khỏi mọi ràng buột. Ở chủ nghĩa lãng mạn người nghệ sĩ được trả lại tất cả mọi quyền tự do để họ thỏa sức sáng tạo và tưởng tượng. Nên đa số các tác phẩm của họ hướng đến cái khoáng đạt phi thường, vì chủ nghĩa lãng mạn không chấp nhận những quy định nghiêm ngặt (đôi khi vô lý), nên nó đã tự cho phép mình đạt đến sự tự do tuyệt đối. Sự tái lập chế độ phong kiến với triều đình nhà Bourbons từ năm 1815 đến 1830, rồi đến chế độ quân chủ tư sản của Louis-Philippe I từ 1830 đến 1848. Cách mạng Pháp không theo con đường "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" như khẩu hiệu đề ra làm cho nhiều tầng lớp (quý tộc, trí thức, bình dân ) đều thất vọng. Chính những điều trên đã dẫn đến hiện tượng phủ nhận thực tại sau cách mạng thể hiện qua nhiều thái độ khác nhau. Sự phủ nhận của các tầng lớp nhân dân đối với xã hội mới thiết lập sau Cách mạng Pháp do nhiều nguyên nhân khác nhau: sự thất vọng sâu xa về cơ chế xã hội đã không đáp ứng được khát vọng tự do, dân chủ và hạnh phúc của nhân dân. 43
  47. Từ đó dẫn đến nhiều thái độ khác nhau trước thực tế xã hội và trong sáng tác văn học, đồng thời đây cũng là tiền đề lịch sử dẫn đến sự ra đời của văn học lãng mạn Pháp."Chủ nghĩa lãng mạn là phản ứng đầu tiên đối với Cách mạng Pháp và tư tưởng khai sáng gắn liền với cuộc cách mạn đó." ( Karl Marx)"Chủ nghĩa lãng mạn là sự ghê tởm đối với thực tại và nguyện vọng muốn thoát ra khỏi thực tại đó" ( Emile Faguet) ảnh hưởng bởi tư tưởng ánh sáng: Thế kỷ ánh sáng, khoảng thế kỷ 18, là một thế kỷ mà văn chương Pháp đã dành trọn thời gian để hướng về mục tiêu khai sáng, đổi mới nền văn hóa tinh thần của nước Pháp. Đây là thế kỷ của văn chương triết học, văn chương chính luận và bút chiến; đặc biệt văn chương còn hướng về mục tiêu chống phong kiến, chống lại cơ chế văn hóa tinh thần trung đại, cổ vũ cho một nền văn học mới với những mục tiêu nhân bản mới. Các nguyên lý cơ bản của tư tưởng ánh sáng: - Dựa trên nền tảng chính là nguyên lý tự do tri thức và duy lý (tính duy lý này không phải là tính duy lý của chủ nghĩa cổ điển). Nguyên lý này ảnh hưởng đến sự ra đời của khái niệm "cái tôi cá nhân" - Chống định kiến đề cao suy tư khách quan, chống tinh thần tiên nghiệm, không dùng một nguyên lý duy nhất để giải thích mọi sự kiện. - Tách rời niềm tin tôn giáo khỏi tri thức con người. - Thích thực nghiệm, cổ vũ tìm tòi kiến thức. 2.2. Khuynh hướng nghệ thuật Hiện thực (Réalesme) Suốt cả thế kỷ XVIII và XIX Pháp trở thành trung tâm về nhiều mặt: xã hội, chính trị, văn hoá nghệ thuật. Nhiều xu hướng thay đổi liên tiếp nhau. Nhưng đều xoay quanh chủ đề lịch sử, tôn giáo, thần thoại với lối vẽ kinh điển. Giữa thế kỷ XIX, năm 1855 có một hoạ sĩ Pháp đã tổ chức cuộc triển lãm tại Paris với tiêu đề: “Chủ nghĩa hiện thực của Gút sta vơ Cuốc bê (Le Réalisme – Gustave Courbe: 1819 – 1877). Cuốc bê chính là người đại diện cho nghệ thuật hiện thực. Nghệ thuật hiện thực theo đuổi cái đẹp ngay trong thực tế cuộc sống. Hoạ sĩ tìm cảm hứng sáng tác ngay từ cuộc sống bình thường, những con người bình thường trong xã hội và đưa họ vào trong tranh một cách trân trọng, đẹp đẽ. Trong tranh của Cuốc bê là “Những chị kéo sợi ngủ quên”, “Những người sàng lúa”, “ Những người thợ đá”, “Những cô gái bên bờ sông Xen”, “Đám tang ở Oóc năng xơ” Ngoài những tác phẩm diễn tả về cuộc sống, con người thực, bình dân trong xã hội, ông còn có những tác phẩm thể hiện thái độ và quan niệm trong sáng tạo nghệ thuật của mình như: “Chào ông Cuốc bê”, “Xưởng vữ”. Hiện thực không chỉ biểu hiện ở nội dung mà còn được biểu hiện ở kỹ thuật. ánh sáng trong tranh dường như thực hơn, rực rỡ hơn như ở tranh “Chào ông Cuốc bê”. Ánh sáng mặt trời, hay đúng hơn là ánh nắng được diễn tả trong trẻo lạ thường. Cuốc 44
  48. bê đã tạo ra một sự đổi mới trong nghệ thuật tạo hình cả về đề tài và kỹ thuật. Nghệ thuật của ông ảnh hưởng đến các hoạ sĩ lớp sau. Họ đã từ những bước đi đầu tiên của Cuốc bê để tạo lập nền tảng cho hội hoạ hiện đại sau này. Câu hỏi: 1. Nêu những thành tựu nghệ thuật thời văn học thời kỳ Hy Lạp, Cổ điển 2. Phân tích những ảnh hưởng của văn hóa xã hội đến những thành tựu của con người thời Phục Hưng về mỹ thuật. 3. Trình bày những hiểu biết về nghệ thuật Hiện thực thế kỷ XIX 45
  49. CHƯƠNG III: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHƯƠNG ĐÔNG Mở đầu Nếu như ngay từ thời cổ đại người phương Tây đã đạt được những thành tựu đáng kể về văn học nghệ thuật thì phương Đông nổi lên với các quốc gia Trung Quốc, Ấn Độ cũng có những tiến bộ vượt bậc về thiên văn học, toán học, khoa học, nghệ thuật. Trong đó, kiến trúc, hội họa, điêu khắc, văn chương là những loại hình nghệ thuật mang những dấu ấn đậm nét A Đông đáng để đời sau học hỏi và kính nể. Mục tiêu - Giúp người học cóp những hiểu biết cơ bản về thành tựu nghệ thuật Trung Quốc, Ấn Độ. - Nắm được những đặc điểm của nghệ thuật- mỹ thuật Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại từ đó có kỹ năng phân tích giá trị nghệ thuật. 46
  50. BÀI 1: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT ẤN ĐỘ 1. Văn hóa, xã hội Ấn Độ Nếu ở Phương Tây thời kỳ cổ đại có những nền văn minh phát triển để lại nhiều tác phẩm nghệ thuật kiệt xuất cho thế giới thì ở Phương Đông vào thời kỳ đó cũng có nhiều nền văn minh phát triển như văn minh ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản. Mặc dù cùng là những nước ở Châu á, nhưng do đặc điểm về dân tộc, phong tục, tôn giáo, lịch sử của từng nước khác nhau, do đó sự phát triển về nghệ thuật cũng rất khác nhau. Điều đó tạo nên sự phong phú đa dạng cho nghệ thuật châu á. Văn minh Trung Quốc và ấn Độ được coi là hai trong những nền văn minh đầu tiên của loài người cùng với văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập. Ấn Độ nằm ở phía Nam Châu á, đất nước ấn Độ bao gồm ba dạng địa hình chính: vùng đồng bằng được tạo bởi hai dòng sông: ấn và Hằng; vùng núi cao Hymalaya và vùng cao nguyên Deccan. Miền Bengan mưa nhiều nhưng đất đai rất phì nhiêu, dân cư đông đúc. Trái lại cao nguyên Deccan thì đất rộng như cằn, người sống thưa thớt. ấn Độ có khí hậu nhiệt đới, song do có sự thay đổi về địa hình nên khí hậu cũng có nhiều biến thiên mạnh. Mùa nóng kéo dài chín tháng. Đứng trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên, con người thấy mình nhỏ bé. Nhưng mùa mưa về, con người lại thấy mình tràn trề sinh lực. Đối với người ấn Độ, nước có một vai trò quan trọng, đó là nước từ thiện, nước linh thiêng. Các loài cây, hoa sống trong nước trở thành môtíp quan trọng xuất hiện thường xuyên trong nghệ thuật. Ấn Độ rất đa dạng và tương phản về địa hình. Về mặt xã hội, ấn Độ cũng rất đa dạng về chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và văn hoá. ở ấn Độ xã hội có sự phân chia đẳng cấp rõ ràng, có nhiều thứ tôn giáo cùng tồn tại trong một xã hội, chi phối tới đặc điểm của mỹ thuật. Đạo quan trọng nhất là đạo Bà La Môn, một tôn giáo đa thần, các vị thần như Barốcâm, Siva, Visnu chiếm vị trí hàng đầu trong tôn giáo Bà La Môn. Vào giữa thế kỷ 1TCN, đạo Phật xuất hiện ở ấn Độ và nhanh chóngpt, nó còn ảnh hưởng tới Trung Quốc, Lào, Cămpuchia, Thái Lan Ngoài ra ở ấn Độ còn có các loại đạo Hồi, đạo Gian (Jain), đạo Xích (Sikh). Tuy vậy tôn giáo ảnh hưởng đến nghệ thuật tạo hình rõ nhất là ấn Độ giáo, Phật giáo và Hồi giáo. Tinh thần của ấn Độ giáo là sự dung hoà, hoà hợp của các mặt đối lập. Nghệ thuật của ấn Độ cũng mang tính lý tưởng hoá, thần thánh, tôn giáo đồng thời các hình tượng nghệ thuật lại mang tính nhục cảm cao, dồi dào sinh khí và sống động. Các giai đoạn phát triển của nghệ thuật Ấn Độ: Theo giáo trình về lịch sử văn minh thế giới, PGS Nguyễn Gia Phu đã chia lịch sử cổ như sau: - Thời kỳ văn minh sông ấn (III TCN – giữa TK II TCN) 47
  51. - Thời kỳ Vê đa (giữa TK II đến TK I TCN) - Ấn Độ từ giữa TK I TCN đến TK XII - Văn hoá ấn Độ giai đoạn từ 1200 đến 1875. Mỹ thuật ấn Độ cũng phát triển tương ứng với các giai đoạn lịch sử của ấn Độ. ở mỗi giai đoạn, mỗi loại hình nghệ thuật đều có những đặc điểm riêng. Dân tộc ấn Độ là một dân tộc có nhiều đặc điểm riêng. Họ có những quan điểm riêng về mỹ thuật mà các dân tộc khác khó lý giải, khó cảm nhận. ở đó luôn tồn tại hai mặt đối lập song lại rất hoà hợp. Điều này tạo ra bản sắc dân tộc trong mỹ thuật ấn Độ. Các loại hình nghệ thuật ấn Độ đều phát triển và để lại những thành tựu lớn. Trong đó có những công trình kiến trúc được xếp vào hàng kỳ quan của thế giới như lăng Tadj Mahal. Hai loại hình kiến trúc và điêu khắc đã bộc lộ tài năng và xứng đáng tiêu biểu cho mỹ thuật ấn Độ. 2. Đặc điểm nghệ thuật 2.1. Nghệ thuật kiến trúc ấn Độ Cũng giống như Ai Cập cổ đại, kiến trúc ấn Độ cũng chịu ảnh hưởng của tôn giáo, vì vậy ở kiến trúc tôn giáo ấn Độ cũng có 3 thể loại. Ấn Độ giáo là tôn giáo lớn nhất ở ấn Độ, 85% dân số ấn Độ theo ấn Độ giáo, có nhiều công trình kiến trúc mang phong cách ấn Độ giáo. Trong đó có khu đền thờ ở miền Nam ấn Độ, gần thành Mađrát (Madzas) bên bờ vịnh Bengan. Đó là di tích Mahabalipuram, được xây dựng vào khoảng những năm 630 và 715. Đây là một khu di tích gồm nhiều ngôi đền ấn Độ giáo to nhỏ khác nhau và đền thờ thần Shiva xây bằng đá. Các ngôi đền thờ đền được tạc vào các tảng đá lớn liền khối Một trong những ngôi đền đó mang tên Dharmeradja có thân vuông (canh 8,85m) và bộ mái 3 tầng nhỏ dần về phía đỉnh. Tầng trên cùng là khối vòng tròn lớn. Ngôi đền này cao 12,2m, gây được ấn tượng hoành tráng. Các ngôi đền khác có cấu trúc hình chữ nhật, với những bộ mái cong, mái tranh bốn múi rất phong phú. Toàn bộ các công trình trong khu Đharmazadja đều được trang trí bằng các dãy phù điêu đá diễn tả các truyền thuyết rút ra từ bộ sử thi Mahabharata nổi tiếng của ấn Độ. - Kiến trúc Phật giáo Trong nghệ thuật tạo hình ấn Độ, kiến trúc Phật là loại hình phát triển và thể hiện tài năng của các “kiến trúc sư” ấn Độ. ở kiến trúc Phật giáo, đặc sắc nhất là ngôi chùa. Đầu tiên chỉ là gò đất chứa xá lợi của Đức Phật sau dần tiến hoá, cái gò mộ hình bán cầu đó thay thế bằng các hình khác như hình tháp, hình nón và cuối cùng là kiến trúc chùa. Những chùa kiểu này ra đời đầu tiên ở ấn Độ vào cuối thế kỷ II, I TCN. Đó là những chùa trong núi, trong hang động và được gọi là chùa hang. Đến thế kỷ V kiến trúc Phật giáo phát triển mạnh, đến TK XVI công trình nổi tiếng về thể loại chùa hang là chùa át Gian TA (Ajanta), chùa Cácly (Karli) hay đền lộ thiên tạc trong núi đá như 48