Bài giảng môn Bệnh học thủy sản
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Bệnh học thủy sản", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_mon_benh_hoc_thuy_san.pdf
Nội dung text: Bài giảng môn Bệnh học thủy sản
- BỆNH HỌC THỦY SẢN
- 1 BÀI MỞ ĐẦU I. Nhiệm vụ và nội dung môn học 1. Mở đầu - Cung cấp cho kỹ sư nuôi trồng thủy sản một số kiến thức về bệnh học nói chung và bệnh thủy sản nói riêng. - Trang bị những kiến thức về nguyên nhân, nhân tố gây bệnh nuôi trồng thủy sản, những biện pháp phòng trị bệnh tổng hợp. Từ đó, giúp cho người kỹ sư có thể giải quyết những diễn biến bệnh tật xảy ra trong quá trình nuôi trồng thủy sản. -Trang bị cho kỹ sư thủy sản các phương pháp điều tra nghiên cứu cơ bản về bệnh học thủy sản. 2. Nội dung -Nhằm giải quyết các nhiệm vụ trên, môn học này bao gồm các nội dung chính như sau: + Giới thiệu một số khái niệm , một số định nghĩa về bệnh học thủy sản nói chung. + Giới thiệu và cung cấp những kiến thức về nguyên nhân, nhân tố về bệnh nói chung và bệnh thủy sản nói riêng. + Trang bị cơ sở khoa học để đề xuất biện pháp tổng hợp để phòng bệnh tổng hợp trong nghề nuôi thủy sản. + Giới thiệu một số các loại bệnh thường gặp và những biện pháp phòng và trị bệnh trong thực tế sản xuất. II. Liên quan của môn học này với môn học khác Môn bệnh học thủy sản là một môn học kỹ thuật ,chuyên nghiên cứu các diễn biến xảy ra trong cơ thể sinh vật, các nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển của các đối tượng nuôi nên nó gắn bó mật thiết với các môn chuyên ngành, các môn cơ bản và cơ sở nhằm giúp sinh viên có được kiến thức toàn diện về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản. 1. Liên quan đến các môn cơ bản và cơ sở Một trong những công tác nuôi trồng thủy sản là người kỹ thuật phải làm sao hạn chế tối đa mức độ cảm nhiễm bệnh trên các đối tượng nuôi. Để làm tốt điều này, chúng ta phải nghiên cứu các vấn đề liên quan như sau: - Vấn đề sinh thái: quan hệ các sinh vật trong vùng nước, phiêu sinh sống ở đáy , các vấn đề về dinh dưỡng, sinh thái, một số tác nhân gây bệnh và gây tác hại lớn như vi khuẩn, virus. Từ đó, có các biện pháp kỹ thuật phù hợp để kìm hãm, tiêu diệt các yếu tố gây bệnh và tạo điều kiện thuận lợi cho các yếu tố có lợi phát triển. Muốn vậy chúng ta phải có kiêïn thức tổng thể về vi sinh vật cơ bản, vi sinh vật nguồn nước, vi sinh vật ứng dụng, sinh thái môi trường, thực vật học, động vật học, thủy sinh đại cương - Khi nhân tố nào đó gây tác động đến cơ thể sinh vật làm kìm hãm hoạt động đến sinh vật đó, đây là vấn đề về bệnh lý và nó liên quan đến môn sinh lý sinh hóa sinh vật. - Việc dùng thuốc để chữa bệnh cho cá là một vấn đề quan trọng, chúng ta phái vận dụng cơ sở khoa học từ các môn hóa sinh, lý sinh , để phát huy tính hiệu quả của việc sử dụng thuốc.
- 2 2. Liên quan tới các môn kỹ thuật chuyên ngành Để phòng và chữa bệnh có hiệu quả, sinh viên cần nắm vững kỹ thuật nuôi từ việc tẩy dọn ao để thúc đẩy quá trình phân hủy vật chất trong ao, nhanh chóng tăng số lượng sinh vật làm thức ăn cho đối tượng nuôi,đến việc làm giảm các yếu tố gây bệnh như: -Thao tác rút nước, vét bỏ chất thải nhằm loại bỏ các chất thải và vi sinh vật . - Phơi nắng : tiêu diệt một số mầm bệnh. - Cày xới : Cung cấp Oxy nền đáy tạo muối dinh dưỡng, không thải khí độc trong ao. - Dùng thuốc sát trùng để tiêu diệt mầm bệnh. Tóm lại, để tiếp thu tốt kiến thức môn bệnh học thủy sản, sinh viên cần thiết phải có những kiến thức của nhiều môn học khác. Chỉ có như vậy sinh viên mới vận dụng các kiến thức đó nhằm quản lý tốt môi trường nuôi, kìm hãm và tiêu diệt mầm bệnh để đạt mục đích cuối cùng: Nâng cao chất lượng, số lượng đối tượng nuôi. III. Giới thiệu về tình hình phát triển của môn học Bệnh học thủy sản so với các ngành khoa học khác thì còn rất non trẻ. Nghề nuôi thủy sản và cá chỉ mới phát triển vào đầu thế kỷ 19, khi đó việc nghiên cứu bệnh cá mới ra đời, và chỉ khi nghề nuôi thủy sản được công nghiệp hóa thì việc nghiên cứu thủy sản mới có điều kiện phát triển. Thực chất, nó chỉ mới phát triển trong khoảng 30 năm gần đây, và đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. 1. Trên thế giới Từ lâu các nhà khoa học đã mô tả một số bệnh cá như: cuối thế kỷ 19 một số tác giả đã xuất bản cuốn sách hướng dẫn bệnh của cá, nhưng cơ bản vẫn mô tả các triệu chứng lâm sàng là chủ yếu. Sang đầu thế kỷ 20 các nhà khoa học thế giới đã bắt đầu nghiên cứu và viết sách hướng dẫn bệnh cá. Năm 1904, Bruno Hofer người Đức đã viết cuốn sách bệnh cá đầu tiên “Tác nhân gây bệnh của cá” (Father of Fish Pathology). Viện sĩ V.A.Dogiel (1882-1955) thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô cũ là người có công lớn trong việc nghiên cứu khu hệ ký sinh trùng cá. Ông đã viết phương pháp nghiên cứu ký sinh trùng cá (1929); Bệnh vi khuẩn ở cá (Bacteria Diseases of fish) -1939. Những năm 1930 bệnh truyền nhiễm của cá đã được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Năm 1949 cuốn sách về bệnh cá học đã được xuất bản ở Liên Xô cũ, chủ biên là tác giả E.M Lyaiman. Từ 1960-1980: Chủ yếu nghiên cứu về bệnh ký sinh trùng (do động vật gây ra). Thành tựu lớn nhất về ký sinh trùng, bệnh ký sinh trùng là các nhà khoa học đã tìm ra khu hệ ký sinh trùng cá nước ngọt ở Liên Xô (đã phân loại hơn 2000 loài). Các tác giả nghiên cứu về bệnh cá được tiếp tục phát triển ở các nước: Bychowsky, Bauer, Mysselius, Gussev- Liên Xô cũ, Schaperclaus Đức, Yamaguti ở Nhật và Hoffman ở Mỹ. Từ 1980 đến nay:Tập trung nghiên cứu về virus, vi khuẩn, nấm và bệnh do các yếu tố vô sinh, dinh dưỡng, các yếu tố môi trường gây ra. Đã có nhiều công trình mang lại hiệu quả cao trong công tác phòng và trị bệnh cho các đối tượng nuôi. Cho đến nay người ta đã công bố bệnh virus của cá, đã phân loại được hơn 60 loại virus thuộc 5 họ có cấu trúc AND hoặc ARN. Bệnh virus ở nhuyễn thể có 12 loài thuộc 8 họ, bệnh virus ở giáp xác có 14 loại ở tôm và 3 loại ở cua thuộc 5 họ. Trong đó họ Baculoviridae gặp nhiều nhất là 7 bệnh Baculovirus. Một loạt bệnh do vi khuẩn đã được các nhà khoa học nghiên cứu. Ví dụ: Khi hội chứng lở lóet xuất hiện ở cá, một loạt các nhà khoa học tập trung vào nghiên cứu và đã tìm ra được tác
- 3 nhân gây ra bệnh này. Từ đó, người ta đưa ra những biện pháp phòng, trị bệnh có hiệu quả. Hiện nay, người ta đã phân lập được hàng trăm loài vi khuẩn gây bệnh thuộc 9 họ vi khuẩn điển hình là nhóm Aeromonas spp, Pseudomonas spp gây bệnh ở nước ngọt và nhóm Vibrio spp gây bệnh ở nước mặn. Nấm gây bệnh ở động vật thuỷ sản nước ngọt: Saprolegnia, Achlya, Aphanomyces; ở động vật thuỷ sản nước mặn: Lagenidium sp, Fusarium, Halipthoros sp, Sirolpidium. Một số bệnh khác được các nhà khoa học nghiên cứu trong dự án bệnh tôm cá toàn cầu. Có hai nội dung nghiên cứu: - Đào tạo ra đội ngũ cán bộ thủy sản về bệnh. - Nghiên cứu bệnh gây tác hại lớn và bệnh tôm cá. Ngoài ra hiện nay một số vấn đề về bệnh thuỷ sản đang được thế giới quan tâm và tập trung nghiên cứu: - Nâng cao sức đề kháng ở động vật nuôi bằng cách ứng dụng công tác chọn giống, lai tạo ra đàn giống không mang mầm bệnh và có sức đề kháng cao nhằm quản lý dịch bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản. - Sử dụng các loại vaccine, chế phẩm vi sinh, chất kích thích miễn dịch để quản lý sức khoẻ vật nuôi, môi trường và phòng bệnh cho động vật thuỷ sản nuôi. - Quan tâm nghiên cứu những loại thuốc có nguồn gốc thảo dược có thể dùng để chữa bệnh cho động vật thuỷ sản nu ôi. 2. Ở Việt Nam Bộ môn bệnh cá được hình thành từ đầu năm 1960 thuộc trạm nghiên cứu cá nước ngọt Đình Bảng. Người thành lập môn bệnh cá đầu tiên là Phó tiến sỹ Hà Ký, nguyên cục trưởng Cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản Việt Nam. Đến nay, chúng ta đã có bộ môn bệnh cá được hình thành ở 3 viện I, II, III và có phòng chuẩn đoán bệnh tôm, cá: Trường Đại học thủy sản Nha trang, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Nông lâm Thủ Đức Năm 1968 có công trình nghiên cứu của Phó tiến sỹ Hà Ký về khu hệ ký sinh trùng ở cá nước ngọt Việt Nam, đã mô tả 120 loài ký sinh trùng trong đó có 42 loài ký sinh trùng, một giống và một họ phụ mới đối với khoa học. Năm 1980: Trường Đại Học Thủy Sản đã nghiên cứu bệnh ký sinh trùng trên vùng biển Khánh Hòa. Năm 1985: Một loạt các công trình khoa học của Nguyễn Thị Muội về khu hệ ký sinh trùng cá nước ngọt miền Trung, của Kỹ sư Bùi Quang Tề về khu hệ ký sinh trùng trên cá nước ngọt ở đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu về bệnh tôm. Từ 1985 đến nay: Các nhà khoa học Việt Nam chủ yếu nghiên cứu về bệnh tôm, về hội chứng lở lóet ở cá và đã có những thành công đáng kể, một số công trình đã được công bố, đó là: “Nghiên cứu một số bệnh trên tôm sú nuôi ở các tỉnh Nam Trung bộ” của Đỗ Thị Hoà (1992-1995), nghiên cứu này đ ã phát hiện một số bệnh do Pr otozoa, vi khuẩn và nấm gây ra trên tôm sú nuôi. Công trình lớn nhất là đề tài cấp nhà nước mã số KN-04-12 từ 1991-1995, do phó tiến sỹ Hà Ký chủ nhiệm đã nghiên cứu 13 bệnh tôm, cá. Lần đầu tiên Việt Nam tập trung nghiên cứu bệnh vi khuẩn với nội dung sau: Phân lập vi khuẩn, tác nhân gây bệnh, dấu hiệu bệnh lý, phân bố và lan truyền bệnh, biện pháp phòng và trị bệnh. Những bệnh đã nghiên cứu: Bệnh xuất huyết
- 4 đốm đỏ ở cá trắm cỏ nuôi lồng; bệnh xuất huyết ở cá ba sa nuôi bè; bệnh hoại tử do vi khuẩn ở cá trê; bệnh hoại tử đốm nâu tôm càng xanh; bệnh phát sáng ở ấu trùng tôm; bệnh đỏ dọc thân ở ấu trùng; bệnh viêm nhiễm sau khi cấy trai ngọc, “Tìm hiểu nguyên nhân gây chết tôm nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long” của Nguyễn Việt Thắng và ctv (1994-1996). Nghiên cứu này nhằm tìm ra nguyên nhân và hướng khắc phục tình trạng tôm chết ở các tỉnh Nam bộ. Từ năm 2000-2003, Nguyễn Văn Hảo và ctv đã “Nghiên cứu một số bệnh nguy hiểm trên tôm sú và tìm hiểu các yếu tố nguy cơ để đưa ra các phương pháp chẩn đoán, phòng trị bệnh”. Nghiên cứu này đã đưa ra được các biện pháp phòng bệnh từ các giải pháp môi trường, xác định mùa vụ và tăng cường sức khoẻ vật nuôi. Nhiều công trình nghiên cứu về bệnh virus trên tôm đã được tiến hành như: Các đề tài nghiên cứu của Đỗ Thị Hoà và ctv về bệnh Monodon Type Baculovirus (MBV) và bệnh virus đốm trắng (WSSV) trên tôm sú nuôi tại Khánh Hoà đã cho thấy tác hại, mức độ cảm nhiễm của các loại virus này trên tôm sú nuôi. Năm 2001, Văn Thị Hạnh đã phân lập được một số virus gây bệnh trên tôm sú nuôi như bệnh đốm trắng và bệnh đầu vàng.
- 1 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BỆNH HỌC THỦY SẢN I. Định nghĩa và phân loại bệnh 1. Định nghĩa về bệnh thủy sản Cơ thể sinh vật bị bệnh là sự rối loạn hiện tượng sống bình thường của cơ thể khi có nguyên nhân gây bệnh tác động. Lúc này cơ thể mất đi trạng thái cân bằng, khả năng thích nghi với môi trường giảm và có biểu hiện triệu chứng bệnh. lúc quan sát cơ thể sinh vật có bị bệnh hay không cần phải xem xét điều kiện môi trường. Chẳng hạn mùa đông trong một số thủy vực nhiệt độ hạ thấp cá nằm yên ở đáy hay ẩn nấp nơi kín không bắt mồi là hiện tượng bình thường, còn các mùa khác thời tiết ấm áp cá không ăn là triệu chứng bị bệnh. Hay định nghĩa một cách khác bệnh là sự phản ứng của cơ thể sinh vật với sự biến đổi xấu của môi trường xung quanh, cơ thể nào thích nghi thì tồn tại, không thích nghi thì mắc bệnh và chết. Động vật thủy sản bị bệnh do nhiều nguyên nhân của môi trường gây ra và sự phản ứng của cơ thể cá, hai yếu tố này tác dụng tương hỗ lẫn nhau dưới điều kiện nhất định. 2. Đặc điểm bệnh thủy sản Động vật thủy sản khác với các động vật khác do môi trường sống khác nhau. Môi trường sống của các động vật thủy sản là nước, các đối tượng sinh vật khác là môi trường không khí. Do đó khi động vật thủy sản bị bệnh nó có những đặc điểm như sau: * Đặc điểm chung cho tất cả sinh vật Trên cơ thể tôm cá và động vật thủy sản khác thường xuyên mang mầm bệnh, nhưng dấu hiệu bệnh lý không rõ ràng, không thể hiện, khi bệnh lý thể hiện thì bệnh đã bùng nỗ. Khả năng bị bệnh của động vật thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào sức đề kháng của cơ thể và điều kiện môi trường. Cùng một lúc trên cơ thể tôm cá có thể mắc nhiều bệnh khác nhau (đặc điểm cùng một lúc phải dùng thuốc trị nhiều bệnh). Phải xác định được tác nhân nào là chủ yếu, tác nhân nào là cơ hội để điều trị có hiệu quả. Ví dụ: Hội chứng lở lóet ở cá, tác nhân gây bệnh gồm có: virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng, điều kiện vô sinh. Khi nghiên cứu cá, người ta thấy có nhiều tác nhân như Protozoa, Crustacea, nấm thủy mi ký sinh trên một con cá. * Đặc điểm riêng của động vật thủy sản Do sống ở môi trường nước, nên khi động vật thủy sản bị bệnh thì tốc độ lây lan lớn do môi trường nước đưa vi khuẩn từ cá này sang cá khác, từ vùng này sang vùng khác. Khó phát hiện khi bệnh mới phát, khi phát hiện được thì bệnh đã nặng do đó biện pháp phòng trị ít mang lại hiệu quả. Việc dùng thuốc để trị bệnh trong thủy sản rất khó khăn: Không xác định được nồng độ thuốc chính xác, vì ta không thể tính được thể tích nước chính xác có trong ao, hồ nuôi tôm. Dùng thuốc với nồng độ thấp dưới mức tiêu diệt thì lại thúc đẩy tác nhân gây bệnh phát triển. Một số thuốc trị bên trong tôm cá thường phải trộn vào thức ăn, nhưng khi động vật thủy sản bị
- 2 bệnh chúng thường bỏ ăn, nên dù có sử dụng loại thuốc tốt thì hiệu quả cũng không cao. Việc dùng thuốc trong nuôi trồng thủy sản thường ít mang lại hiệu quả và tốn kém. Bệnh của động vật thuỷ sản có liên quan đến sức khoẻ con người và động vật trên cạn. Ví dụ như bệnh đường ruột ở người do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra, đây là loài vi khuẩn có mặt rất nhiều ở động vật thuỷ sản bị bệnh. Nhiều loại ký sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng ký sinh ở cá, giáp xác, động vật thân mềm nhưng đến giai đoạn trưởng thành ký sinh ở người và động vật có xương sống khác. 3. Phân loại bệnh thủy sản Có thể dựa vào một số yếu tố để phân chia các loại bệnh thủy sản. 3.1. Căn cứ vào tác nhân gây bệnh a. Bệnh do sinh vật gây ra: có hai loại *Bệnh do sinh vật ký sinh: - Bệnh do thực vật ký sinh: virus, vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào gây ra gọi là bệnh truyền nhiễm. - Bệnh do động vật ký sinh : nguyên sinh động vật, giun sán, đỉa cá, nhuyễn thể, giáp xác gây ra gọi là bệnh ký sinh. * Bệnh do sinh vật phi ký sinh (bệnh do sinh vật hại cá): Các sinh vật này không ký sinh ở cá, nhưng gây chết cá. Thường do loại tảo gây độc, thực vật, động vật hại cá. Ví dụ: + Bọn Bọ gạo (Notonecta) trong ao ương thường hút máu của cá bột làm cá chết hàng loạt. + Bọn Cyclops dùng chủy nhọn đâm vỏ trứng hoặc chích chết cá bột. b. Bệnh do yếu tố vô sinh: Chia ra một số loại: * Bệnh do yếu tố dinh dưỡng: Do sự tác động bởi thiếu các chất và điều kiện mà cơ thể cá cần như các chất dinh dưỡng không đủ, số lượng thức ăn thiếu, - Cá đói, ốm yếu, gầy còm cũng là bệnh do dinh dưỡng - Cá ăn không đủ chất. - Tôm bị thiếu vitamin C: Bệnh mềm vỏ, chết đen. * Bệnh do các yếu tố môi trường: Do các yếu tố cơ học, hóa học, vật lý, tác động. - Hội chứng tôm còi cọc trong điều kiện pH thấp. - Tôm, cá nổi đầu do thiếu oxy. * Bệnh di truyền 3.2. Căn cứ vào tình hình cảm nhiễm của bệnh * Cảm nhiễm đơn thuần: Cá, tôm bị bệnh do một số giống loài sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể gây ra. * Cảm nhiểm hỗn hợp: Cá, tôm bị bệnh do cùng một lúc đồng thời hai hoặc nhiều giống loài sinh vật xâm nhập vào cơ thể gây ra. * Cảm nhiễm đầu tiên: Sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể cá, tôm khỏe mạnh làm phát sinh ra bệnh. * Cảm nhiễm tiếp tục: cá, tôm bị cảm nhiễm bệnh trên cơ sở đã có cảm nhiễm đầu tiên như cá bị cảm nhiễm nấm thủy mi sau khi cơ thể cá đã bị thương.
- 3 * Cảm nhiễm tái phát: Cá, tôm bị bệnh đã khỏi nhưnh không miễn dịch, lần thứ hai sinh vật gây bệnh xâm nhập vào làm cho cá phát sinh ra bệnh. * Cảm nhiễm lặp lại: Cơ thể cá, tôm bị bệnh đã khỏi nhưng nguyên nhân gây bệnh vẫn còn, tạm thời ở trạng thái cân bằng giữa ký chủ và vật ký sinh nếu có sinh vật gây bệnh cùng chủng loại xâm nhập vào hoặc sức đề kháng của cơ thể yếu sẽ cảm nhiễm. 3.3. Căn cứ vào triệu chứng bệnh * Bị bệnh từng bộ phận (cục bộ): Bệnh xảy ra ở cơ quan nào thì quá trình biến đổi bệnh lý chủ yếu xảy ra ở đó, ở cá thường gặp như bệnh ngoài da, bệnh ở mang, bệnh đường ruột, bệnh ngoài cơ và bệnh ở một số cơ quan nội tạng * Bị bệnh toàn thân: Khi cá, tôm bị bệnh ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể như cá, tôm bị bệnh trúng độc, bị đói, bị thiếu chất dinh dưỡng. Sự phân chia ở trên chỉ là tương đối bất kỳ ở bệnh nào thường không thể chỉ ảnh hưởng cục bộ cho một cơ quan mà phải có phản ứng của cơ thể. Bệnh toàn thân bắt đầu biểu hiện ở từng bộ phận và phát triển ra dần toàn bộ cơ thể. 3.4. Căn cứ vào tính chất quá trình của bệnh Gồm: - Bệnh cấp tính. - Bệnh mãn tính. - Bệnh thứ cấp tính. * Bệnh cấp tính: Là một chứng bệnh xảy ra khi tỷ lệ mắc bệnh trong ao nuôi đạt rất cao. Diễn biến bệnh lý xảy ra rất nhanh (chỉ trong một hoặc hai ngày). Cơ thể bị bệnh hoạt động sinh lý bình thường biến đổi nhanh chóng thành bệnh lý, có một số bệnh triệu chứng bệnh chưa kịp xuất hiện rõ cơ thể đã chết, như bệnh nấm mang cấp tính chỉ cần một đến ba ngày cá đã chết. Hiện tượng chết trong ao xảy ra rải rác đến hàng loạt. Khi bệnh cấp tính xảy ra thì những biện pháp tác động của con người thường mang lại hiệu quả thấp. Bệnh cấp tính hay xảy ra ở động vật thuỷ sản do các bệnh truyền nhiễm gây ra. Ví dụ: Một đàn cá giống chuyển từ nơi xa đến một nơi nào đó, lúc đó cá vẫn bình thường nhưng sau ba ngày thì cá chết hàng loạt do các bệnh trắng đuôi, đốm đỏ. Ngyên nhân: Do môi trường mới trong ao gây sốc cho cá và cá do di chuyển trong đoạn đường dài thường bị xây xát, mất nhớt nên các tác nhân gây bệnh dể dàng thâm nhập và gây bệnh. * Bệnh mãn tính: Là bệnh khi xảy ra trong ao nuôi thì tỷ lệ cảm nhiểm thấp, diễn biến bệnh lý thay đổi chậm chạp (hàng tuần, hàng tháng hoặc hàng năm) và khi bệnh xảy ra thì hầu như không có hiện tượng chết xuất hiện trong ao mà chủ yếu ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng, phát triển (thành thục không đều, chậm thành thục). Bệnh này thường gặp ở bệnh ký sinh trùng do giun sán gây ra (cũng có thể bệnh đốm đỏ là bệnh mãn tính). Ví dụ: Sán lá đơn chủ Dactylogyrus (sán lá mười sáu móc) ký sinh trên mang cá nước ngọt, khi cảm nhiễm ở mức độ nhiều thì mới ảnh hưởng đến đời sống của cá. Nguyên nhân và điều kiện gây bệnh mãn tính tác dụng trong một thời gian dài, và không mãnh liệt nhưng cũng không dễ dàng tiêu diệt được. * Bệnh thứ cấp tính: Nằm trung gian giữa cấp tính và mãn tính. Quá trình phát triển của bệnh tương đối dài từ 2-6 tuần. Trong thực tế ranh giới giữa 3 loại trên không rõ ràng vì giữa chúng còn thời kỳ quá độ và lúc điều kiện thay đổi có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác.
- 4 3.5. Căn cứ vào thời kỳ phát triển của bệnh * Thời kỳ ẩn tính: Từ khi mầm bệnh đầu tiên xâm nhập vào cơ thể ký chủ cho đến khi dấu hiệu bệnh lý đầu tiên xuất hiện, thời kỳ này dài hay ngắn, lâu hay mau phụ thuộc vào một số yếu tố: - Tác nhân gây bệnh: + Do các bệnh truyền nhiễm thì thời kỳ này chỉ vài ngày. + Do các bệnh ký sinh trùng thì thời kỳ ẩn tính kéo dài rất lầu từ vài tháng đến vài năm vì nó còn phụ thuộc vào chủng loại, số lượng, phương thức cảm nhiểm. - Điều kiện môi trường và sức đề kháng của ký chủ: Cơ thể tôm cá bị bệnh thường không có thời gian ủ bệnh. Thời kỳ ẩn tính chia làm hai giai đoạn: + Từ khi tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể sinh vật đến khi sinh sản ( đối với sinh vật ký sinh). + Từ khi sinh sản đến lúc bị bệnh đầu tiên. Thời kỳ ẩn tính sinh vật ký sinh tìm mọi cách tích lũy chất dinh dưỡng để tăng cường độ sinh sản và hoạt động của nó. Về ký chủ trong thời kỳ này tạo ra những yếu tố miễn dịch để phòng vệ. Thời kỳ này nếu cá, tôm được chăm sóc, cho ăn đầy đủ, môi trường sống sạch sẽ thì thời kỳ này kéo dài, tác hại đến cá, tôm hầu như không đáng kể. Cần theo dõi quá trình ương nuôi cá, tôm để phát hiện sớm và có biện pháp để phòng trị kịp thời trong giai đoạn này là tốt nhất. * Thời kỳ tự phát: Là thời kỳ chuyển tiếp từ lúc xuất hiện dấu hiệu bệnh lý đầu tiên đến lúc bệnh lý rõ ràng. Thời kỳ tác nhân gây bệnh đã tác động đến tổ chức cơ quan của cá, tôm. Với tác nhân gây bệnh là sinh vật thời kỳ này chúng sinh sản càng mạnh. Thời kỳ này thường ngắn, có một số bệnh triệu chứng không thể hiện rõ ràng như bệnh xuất huyết mang. Ví dụ: Khi cá bị bệnh đốm đỏ: quan sát thì cá vẫn hoạt động bình thường nhưng khi cá bỏ ăn, cường độ bắt mồi giảm thì đây là dấu hiệu bệnh lý đầu tiên. Khi cá bỏ ăn, cường độ bắt mồi giảm và có đốm đỏ trên thân là lúc dấu hiệu bệnh lý rõ ràng. * Thời kỳ phát triển: là thời kỳ bệnh phát triển ở mức độ cao nhất, triệu chứng điển hình của bệnh thể hiện rõ. Thời kỳ này trên cơ thể cá có số lượng tác nhân rất cao, xâm lấn từ cơ quan này sang cơ quan khác, từ bộ phận mô này sang bộ phận mô khác, quá trình trao đổi chất cũng như hình thái cấu tạo tế bào, tổ chức các cơ quan trong cơ thể cá , tôm có sự biến đổi và thường gây tác hại lớn cho tôm, cá. Tùy theo sức khỏe của tôm cá, điều kiện môi trường nuôi và các biện pháp kỹ thuật mà người nuôi áp dụng, kết quả bệnh có thể chuyển sang các trường hợp sau: - Hoàn toàn hồi phục: cá tôm bị bệnh vào thời kỳ phát triển nhưng nếu áp dụng kịp thời các biện pháp phòng trị kết hợp với các qui trình kỹ thuật ương nuôi thì tác nhân gây bệnh bị tiêu diệt, sau một thời gian các dấu hiệu bệnh lý dần dần mất đi, cá, tôm dần dần trở lại hoạt động bình thường, hiện tượng cá, tôm chết trong thủy vực được chấm dứt. Trong thời kỳ này cần quan tâm cho cá ăn đủ chất lượng để sức khỏe cá, tôm được phục hồi nhanh chóng đảm bảo cho cá, tôm sinh trưởng bình thường. - Chưa hoàn toàn hồi phục: Hiện tượng chết không còn xảy ra trong ao và tỷ lệ nhiễm bệnh giảm xuống một cách đáng kể nhưng các mầm bệnh vẫn chưa tiêu diệt một cách triệt để và có thể nó tồn tại dưới dạng bào nang. Nếu có điều kiện thuận lợi như sức đề kháng của tôm cá giảm thì nó sẽ xuất hiện trở lại.
- 5 - Không hồi phục: Cơ thế cá, tôm bị tác nhân gây bệnh xâm nhập làm cho nhiều tổ chức cơ quan bị hủy hoại, sức đề kháng của cơ thể cá tôm giảm dần trong lúc đó tác nhân gây bệnh lại phát triển mạnh sau một thời gian đã gây tác hại lớn đến cá, tôm. Thời gian này hoạt động sinh lý bình thường của cá, tôm không thể hồi phục, cá, tôm sẽ chết đột ngột hoặc chết dần dần. Ví dụ khi ấp trứng cá chép, phôi phát triển đến giai đoạn hình thành bọc mắt nhưng nấm thủy mi bám vào màng trứng, toàn bộ trứng sắp nở bị cảm nhiểm sẽ bị ung hết. II. Một số khái niệm cơ bản về bệnh truyền nhiễm, bệnh ký sinh trùng, bệnh sinh vật gây hại cá và bệnh do các yếu tố vô sinh 1. Bệnh truyền nhiễm 1.1. Định nghĩa về hiện tượng truyền nhiễm và bệnh truyền nhiễm - Hiện tượng truyền nhiễm là hiện tượng tổng hợp xảy ra trong cơ thể sinh vật khi có tác nhân gây bệnh xâm nhập, tác nhân gây bệnh ở đây thuộc giới thực vật như : virus, vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào. Ví dụ: Khi nghiên cứu ở tôm đều thấy có vi khuẩn Vibrio tôm bị nhiễm khuẩn Vibrio. Trong trường hợp tác nhân xâm nhập vào cơ thể để gây bệnh nhưng chưa có dấu hiệu bệnh lý quá trình truyền nhiễm. * Định nghĩa: bệnh truyền nhiễm là kết quả của quá trình xâm nhập của tác nhân gây bệnh là thực vật với sự cảm thụ của cơ thể ký chủ dưới ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh nhất định. Bệnh truyền nhiễm = Hiện tượng truyền nhiễm + Dấu hiệu bệnh lý Tác nhân gây bệnh Sức đề kháng của ký chủ + ĐKMT Tác nhân gây bệnh truyền nhiễm có kích thước nhỏ hơn rất nhiều so với kích thước ký chủ song khả năng sinh sản của chúng rất nhanh, nhất là vi khuẩn và virus chỉ sau vài giờ số lượng của chúng tăng lên rất nhiều nên khả năng gây bệnh của chúng rất lớn. Các loại tác nhân này có tác động làm rối loạn hoạt động sinh lý của cơ thể ký chủ, làm thay đổi, hủy hoại tổ chức mô, đồng thời có thể tiết ra độc tố phá hoại tổ chức ký chủ, làm cho các tế bào tổ chức hoạt động không bình thường. 1.2. Một số hiện tượng truyền nhiểm - Truyền nhiễm ẩn tính: Là hiện tượng truyền nhiễm mà cơ thể đã nhiễm tác nhân gây bệnh nhưng dấu hiệu bệnh lý chưa xuất hiện. - Hiện tượng truyền nhiễm cục bộ: Cơ thể sinh vật bị nhiễm khuẩn hoặc một số tác nhân gây bệnh nhưng do sức đề kháng tốt nên nó cô lập tác nhân, kìm hãm sự phát triển của tác nhân và tác nhân chỉ ở một số cơ quan, không xâm lấn đến các cơ quan khác. Ví dụ: + Cá bị bệnh lở loét thì không xâm nhập vào máu, não và các cơ quan khác. Truyền nhiễm cục bộ kết quả gây ra bệnh nhẹ do vậy việc phòng chống bệnh có hiệu quả khá cao. + Bệnh mòn vỏ kitin ở tôm, thể nhẹ tôm chỉ bị cụt một đuôi, râu Cảm nhiễm cục bộ. - Cảm nhiễm toàn thân: là hiện tượng cảm nhiễm khi cơ thể sinh vật có sức đề kháng không tốt, điều kiện môi bất lợi dẫn tới tác nhân gây bệnh sinh sôi nảy nở và truyền toàn cơ thể từ cơ
- 6 quan này tới cơ quan khác theo hệ thống tuần hoàn, dấu hiệu bệnh lý xuất hiện ở nhiều cơ quan khác nhau của ký chủ. Ví dụ: Hội chứng lở loét: + Cục bộ: một số đốm đỏ trên da + Toàn thân: có ở gan, thận, não, máu. Gan teo, mật sưng, xuất huyết trên bề mặt các nội quan, trong xoang cơ thể xuất hiện dịch màu vàng, bụng trương, chết khi bệnh nặng, gây bệnh cấp tính. 1.3. Nguồn gốc và con đường lan truyền của bệnh truyền nhiễm 1.3.1. Nguồn gốc Trong các thủy vực tự nhiên: Ao, hồ, sông và các đầm, vịnh ven biển thường quan sát thấy động vật thủy sản bị mắc bệnh truyền nhiễm, động vật thủy sản bị mắc bệnh là “ổ dịch tự nhiên”. Từ đó mầm bệnh xâm nhập vào các nguồn nước nuôi thủy sản. Động vật thủy sản bị bệnh truyền nhiễm và những xác động vật thủy sản bị bệnh chết là nguồn gốc chính gây bệnh truyền nhiễm. Tác nhân gây bệnh truyền nhiễm ở động vật thủy sản sinh sản rất nhanh làm tăng số lượng, chúng đi vào môi trường nước bằng nhiều con đường tùy theo tác nhân gây bệnh như:Theo các vết loét của cá để đi ra môi trường nước qua hệ thống cơ quan bài tiết, cơ quan tiêu hóa, cơ quan sinh dục hoặc qua mang, xoang miệng, mũi. Ngoài ra trong nước có nhiều chất mùn bả hữu cơ, nước thải các nhà máy công nghiệp, các trại chăn nuôi gia cầm, gia súc, nước thải sinh hoạt, phân, rác cũng tạo điều kiện cho bệnh truyền nhiễm phát sinh phát triển. 1.3.2. Các con đường xâm nhập và lây lan của bệnh truyền nhiễm Bệnh truyền nhiễm xâm nhập theo các con đường sau: - Qua tiếp xúc trực tiếp: Tế bào vi khuẩn, các bào tử của nấm bám vào da, mang, vây, đặc biệt là các vị trí bị thương tổn rồi vào cơ thể đối tượng thủy sản nuôi. Đây là con đường phổ biến nhất. + Đối tượng thủy sản xây xát do: Tác động cơ học, ký sinh trùng. - Qua con đường thức ăn: Ví dụ: Bào tử nấm mang: Cảm nhiễm theo con đường tiêu hóa bám vào thành ruột, theo niêm mạc ruột vào hệ thống tuần hoàn đến ký sinh ở mang. • Vi khuẩn niêm ruột • Một số tác nhân gây bệnh trên tôm đều theo con đường tiêu hóa. Ví dụ: Tôm bố mẹ có virus gan: Quá trình thải phân và đẻ trứng của tôm bố mẹ mang theo vi thể virus, các vi thể này sẽ nhiễm vào ấu trùng tôm. - Qua đường hô hấp. Vi dụ: Bệnh nấm mang, một số vi khuẩn gây bệnh lở loét, đốm đỏ bị cảm nhiễm qua mang (đường hô hấp). 2. Bệnh ký sinh trùng 2.1. Các định nghĩa và khái niệm 2.1.1. Định nghĩa về hiện tượng ký sinh Trong tự nhiên cơ thể sinh vật yêu cầu về các điều kiện ngoại cảnh có khác nhau do có nhiều loại sinh vật có phương thức sống khác nhau và có sự khác biệt giữa các giai đoạn phát triển. Có một số sinh vật sống tự do, một số sinh vật sống cộng sinh, trái lại có những sinh vật trong từng giai đoạn hay trong cả quá trình sống nhất thiết phải sống bên trong hay bên ngoài của
- 7 một cơ thể sinh vật khác để lấy chất dinh dưỡng mà sống hoặc lấy dịch thể hoặc lấy tế bào cơ thể đó để làm thức ăn để duy trì sự sống của nó và phát sinh tác hại đối với sinh vật kia gọi là phương thức sống ký sinh hay còn gọi là sự ký sinh. Sinh vật sống ký sinh gọi là sinh vật ký sinh. Động vật sống ký sinh gọi là ký sinh trùng. Sinh vật bị sinh vật khác sống ký sinh gây tác hại gọi là ký chủ. Ký chủ không những là nguồn cung cấp thức ăn cho ký sinh trùng mà còn là nơi cư trú tạm thời hay vĩnh cữu của nó. Các loại biểu hiện sự hoạt động của ký sinh trùng và mối quan hệ qua lại giữa ký sinh trùng và ký chủ gọi là hiện tượng ký sinh. Khoa học nghiên cứu có hệ thống các hiện tượng ký sinh gọi là ký sinh trùng học. 2.1.2. Định nghĩa về bệnh ký sinh trùng Bệnh ký sinh trùng là hiện tượng ký sinh kết hợp với dấu hiệu bệnh lý trong đó tác nhân gây bệnh là động vật. Có nhiều loại ký sinh gây bệnh đối với đối tượng thủy sản chẳng hạn: Prrotozoa: có hàng trăm loài gây bệnh cho cá nước ngọt. Giun sán: Giun tròn, giun dẹp, giun đầu móc. Giáp xác Trong mối quan hệ ký sinh thì sinh vật có lợi là ký sinh trùng và sinh vật bị hại là ký chủ. 2.1.3. Khái niệm ký sinh vật, ký chủ, ký chủ trung gian, ký chủ cuối cùng, ký chủ bắt buộc, ký chủ không bắt buộc, ký chủ dự trữ, ký chủ thông qua - Ký sinh vật: Sinh vật sống ký sinh vào sinh vật khác gọi là ký sinh vật. - Ký chủ: Sinh vật bị sinh vật khác sống ký sinh và gây tác hại gọi là ký chủ. - Ký chủ bắt buộc: Là ký chủ có đặc điểm sinh lý, sinh thái của ký sinh trùng, do đó dễ xâm nhập và phát triển thuận lợi, mức độ cảm nhiễm của ký chủ đó cao. - Ký chủ không bắt buộc: là ký chủ có đặc điểm sinh lý, sinh thái không phù hợp với đặc điểm sinh lý, sinh thái của ký sinh trùng, do đó ký sinh trùng dể xâm nhập và phát triển thuận lợi do vậy mức độ cảm nhiễm của ký chủ đó cao. Trong tự nhiên nếu không có ký chủ bắt buộc thì ký sinh trùng đó khó duy trì được đời sống của mình. - Ký chủ thông qua: Mặc dù xâm nhập khó khăn và phát triển bất lợi nhưng trên ký chủ không bắt buộc ký sinh trùng vẫn hoàn thành vòng đời của mình; một số không hoàn thành vòng đời mà luôn bị đào thải ra. Ví dụ: Giun đũa ascaris: giun đũa ngựa rơi vào ống tiêu hóa, nó vẫn hoàn thành một vài giai đoạn của ascaris. Chu kỳ phát triển của ascaris Mạch máu Tĩnh mạch ho Ascaris (trứng) Gan Phổi Trứng bật ra đến ruột ruột gan lần 2 phát triển thành trưởng thành. Do đó mà giun đũa ngựa khi rơi vào ruột lần hai của thỏ thì bị đào thải ra ngoài qua phân. Hiện tượng ký sinh như vậy gọi là hiện tượng ký sinh thông qua. Đây là hiện tượng có ý nghĩa trong y học và thú y vì không tìm ra nguyên nhân khi có dấu hiệu bệnh lý. - Ký chủ cuối cùng: Ký sinh trùng ở giai đoạn trưởng thành hay giai đoạn sinh sản hữu tính ký sinh lên ký chủ thì gọi là ký chủ cuối cùng. - Ký chủ trung gian: Ký sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng hay giai đoạn sinh sản vô tính ký sinh lên ký chủ trung gian. Giai đoạn ấu trùng và giai đoạn sinh sản vô tính nếu ký sinh qua hai
- 8 ký chủ trung gian thì ký chủ đầu tiên là ký chủ trung gian thứ nhất còn ký chủ tiếp theo gọi là ký chủ trung gian thứ hai. - Ký chủ bảo trùng (lưu giữ): Có một số ký sinh trùng ký sinh trên nhiều cơ thể động vật, loại động vật này có thể trở thành nguồn gốc gián tiếp để cảm nhiễm ký sinh trùng cho động vật kia thì gọi là ký chủ bảo trùng. Ví dụ: Sán lá Clonorchis sinensis Cobbold, 1875 giai đoạn ấu trùng ký sinh trong cơ thể ký chủ trung gian thứ nhất là ốc Biphynina longiornis và ký chủ trung gian thứ 2 là các loài cá nước ngọt. Giai đoạn trưởng thành ký sinh trong gan, mật, ký chủ cuối cùng là người, mèo, chó và một số động vật có vú. Đứng về quan điểm ký sinh trùng học của người thì chó, mèo là ký chủ bảo trùng. Do đó muốn tiêu diệt bệnh sán lá gan thì không những cần diệt ký chủ trung gian mà cần diệt ký chủ bảo trùng. Ví dụ: Đối với cá, ký sinh trùng Cryptobia branchialis ký sinh trên mang cá trắm gây bệnh mang nghiêm trọng nhưng khi loài này bám trên mang cá mè trắng, cá mè hoa với số lượng nhiều hơn ở cá trắm, cá mè vẩn không bị bệnh. Do bản thân hai loài cá này có khả năng miễn dịch tự nhiên. Trường hợp này cá mè là ký chủ lưu giữ (bảo trùng) của bệnh Cryptobia branchialis. Trong các ao nuôi cá thường nuôi ghép nhiều loài cá nên muốn phòng bệnh Cryptobia branchialis cho cá trắm phải kiểm tra cẩn thận các loài cá cùng nuôi để xử lý tiêu độc các ký chủ lưu giữ mới phòng bệnh cho cá trắm được triệt để. 2.2. Các hình thức ký sinh 2.2.1. Dựa theo tính chất ký sinh của ký sinh trùng -Ký sinh giả: Ký sinh trùng ký sinh giả thông thường trong điều kiện bình thường sống tự do chỉ đặc biệt mới sống ký sinh ví dụ như: Haemopis sp sống tự do khi tiếp xúc với động vật lớn chuyển qua sống ký sinh. -Ký sinh thật: Ký sinh trùng trong từng giai đoạn hay toàn bộ quá trình sống của nó đều lấy dinh dưỡng của ký chủ, cơ thể ký chủ là môi trường sống của nó. Dựa vào thời gian ký sinh có thể chia ra làm hai lọai: + Ký sinh có tính chất tạm thời: Ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể ký chủ thời gian rất ngắn, chỉ lúc nào lấy thức ăn mới ký sinh như đỉa cá Piscola sp ký sinh hút máu cá. + Ký sinh mang tính chất thường xuyên: Một giai đoạn, nhiều giai đoạn hay cả qúa trình sống ký sinh trùng nhất thiết phải ký sinh trên ký chủ. Ký sinh thường xuyên lại chia ra ký sinh giai đoạn và ký sinh suốt đời. Ký sinh giai đoạn: Chỉ một giai đoạn nhất định trong quá trình phát triển ký sinh trùng sống ký sinh. Trong toàn bộ quá trình sống của ký sinh trùng có giai đoạn sống tự do, có giai đoạn sống ký sinh như: Giống giáp xác chân đốt Sinargasilus giai đoạn ấu trùng sống tự do, giai đoạn trưởng thành sống ký sinh trên mang của nhiều loài cá. Ký sinh suốt đời: Suốt cả quá trình sống ký sinh trùng đều sống ký sinh, nó có thể ký sinh trên một hoặc nhiều ký chủ, không có giai đoạn sống tự do nên khi tách khỏi ký chủ, nó bị chết, Ví dụ ký sinh trùng Trypanosoma ký sinh trong ruột đỉa cá, đỉa hút máu cá chuyển quá ký sinh trong máu cá. 2.2.2. Dựa vào vị trí ký sinh -Ngoại ký sinh: Ký sinh trùng ký sinh trên bề mặt cơ thể trong từng giai đoạn hay suốt đời đều gọi là ngoại ký sinh. Ở cá ký sinh trùng ký sinh trên da, trên vây, trên mang, hốc mũi, xoang miệng đều là ngoại ký sinh, ví dụ như các giống ký sinh trùng Trichodina, Ichthyopthirius, Argulus, Lernea
- 9 -Nội ký sinh: Là chỉ ký sinh trùng ký sinh trong các cơ quan nội tạng, trong tổ chức, trong xoang của ký chủ như: Sán lá Sanguinicola sp ký sinh trong máu cá; sán dây Cariophylloeus sp, giun đầu móc Acanthocephala ký sinh trong ruột cá. Ngoài hai loại ký sinh trên còn có hiện tượng siêu ký sinh, bản thân ký sinh trùng có thể làm ký chủ của ký sinh trùng khác. Ví dụ: Sán lá đơn chủ Gyrodactylus sp ký sinh trên cá nhưng nguyên sinh động vật Trichodina sp lại ký sinh trên sán lá đơn chủ. Như vậy sán lá đơn chủ Gyrodactylus là ký chủ của Trichodina nhưng lại là ký sinh trùng của cá. Tương tự như trùng mỏ neo Lernea sp ký sinh trên cá, nguyên sinh động vật Zoothamnium sp ký sinh trên trùng mỏ neo Lernea sp. 2.2.3. Nguồn gốc của hiện tượng ký sinh Thường nguồn gốc của động vật sống ký sinh chia làm hai giai đoạn. 2.2.3.1. Sinh vật từ phương thức sinh sống cộng sinh đến ký sinh Cộng sinh là hai sinh vật tạm thời hay lâu dài sống chung với nhau, cả hai đều có lợi hay một sinh vật có lợi (cộng sinh phiến lợi) nhưng không ảnh hưởng đến sinh vật kia, hai sinh vật sinh sống cộng sinh trong quá trình tiến hóa một bên phát sinh ra tác hại bên kia, lúc này từ cộng sinh chuyển qua ký sinh. Ví dụ như amip: Endamoeba histokytica Ychachadinn sống trong ruột người dưới dạng thể dinh dưỡng nhỏ lấy các chất cặn bả để tồn tại không gây tác hại cho người lúc náy nó là cộng sinh phiến lợi, nhưng lúc cơ thể ký chủ do bị bệnh tế bào tổ chức thành ruột bị tổn thương, sức đề kháng yếu amip thể dinh dưởng nhỏ tiết ra men phá hoại tế bào tổ chức ruột chui vào tầng niêm mạc ruột chuyển thành amíp thể dinh dưỡng lớn có thể gây bệnh cho người. Như vậy từ cộng sinh amip đã chuyển qua ký sinh. 2.2.3.2. Sinh vật từ phương thức sinh sống tự do chuyển qua ký sinh giả đến ký sinh thật Tổ tiên của ký sinh trùng có thể sinh sống tự do, trong quá trình sống do một cơ hội ngẫu nhiên, nó có thể sống trên bề mặt hay bên trong cơ thể sinh vật khác, dần dần nó thích ứng với môi trường sống mới, ở đây có thể thỏa mãn được các điều kiện sống, nó bắt đầu tác hại đến sinh vất kia trở thành sinh vật sống ký sinh. Phương thức sống ký sinh này được hình thành do ngẫu nhiên lặp đi lặp lại nhiều lần thông qua ký sinh giả rồi đến ký sinh thật. Tổ tiên của sinh vật ký sinh trải qua một quá trình lâu dài để thích nghi với hoàn cảnh môi trường sống mới, về hình thái cấu tạo và đặc tính sinh lý, sinh hóa của cơ thể có sự biến đổi lớn, một số cơ quan trong quá trình sinh sống ký sinh không cần thiết thì thoái hóa hoặc tiêu giảm như cơ quan cảm giác, cơ quan vận động Những cơ quan để đảm bảo sự tồn tại của nòi giống và đời sống ký sinh thì phát triển mạnh như cơ quan bám, cơ quan sinh dục. Một số đặc tính sinh học mới được hình thành, dần dần ổn định và di truyền cho đời sau. Qua nhiều thế hệ cấu tạo cơ thể càng thích nghi với đời sống ký sinh. 2.3. Ảnh hưởng của đời sống ký sinh đên hình thái cấu tạo của ký sinh trùng 2.3.1. Những biến đổi thoái hóa của ký sinh trùng - Cơ quan vận động: Ở ký sinh trùng cơ quan vận động phát triển rất kém, có nhiều ký sinh trùng trong suốt cuộc đời không có cơ quan vận động như:Sporozoa, hay nhiều ký sinh trùng chỉ xuất hiện khi ở giai đoạn đời sống tự do.
- 10 Trematoda trứng Miracidium( có tiêm mao để vận động) Ra môi trường nước Ký chủ trung gian Mollusca Cescaria Sporocyte (Xuất hiện tiêm mao) (Chỉ là túi không vận động) -Cơ quan tiêu hóa: Đa phần ký sinh trùng có cơ quan tiêu hóa phát triển kém. Vi dụ: Trematoda có ruột trước, giữa, không có hậu môn một số trong suốt cuộc đời không có cơ quan tiêu hóa dẩn đến thích nghi sâu sắc với đời sống ký sinh. Ví dụ: Sán dây Cestoida, giun đầu móc Acanthocephala có khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng trên toàn bề mặt cơ thể. - Cơ quan cảm giác: Do đời sống chủ động chuyển sang đời sống bị động nên một số cơ quan cảm giác của ký sinh trùng tiêu giảm như: Mắt kém phát triển và hầu như chỉ tồn tại ở một số giống loài ngoại ký sinh; những ký sinh trùng nội ký sinh hầu như không có cơ quan thị giác. Ví dụ: Giun dẹp Plathelminthes: Monogenoida: Ngoại ký sinh nhưng cơ quan thị giác tồn tại nhưng kém phát triển. Trematoda và Cestoida: Nội ký sinh nên hoàn toàn không có cơ quan thị giác. Ngoài ra một số cơ quan cảm giác khác cũng bị tiêu biến và kém phát triển. 2.3.2. Những biến đổi phát triển của ký sinh trùng Để tồn tại trong môi trường mới, song song biến đổi thoái hóa thì phải có những biến đổi phát triển. - Sự xuất hiện phát triển cơ quan bám: ký sinh trùng luôn luôn chịu sự đào thải của ký chủ do vậy để tồn tại thì cơ quan bám tương đối phát triển và rất đa dạng, có đặc điểm như: + Ký sinh trùng ngoại ký sinh cơ quan bám phát triển hơn ký sinh trùng nội ký sinh vì phải chống lại sự đào thải của cơ thể và của môi trường. Vidụ: Monogenia, Dactylogyrus ở trước có hai thùy bám, vừa bám vừa hút dinh dưỡng, ở sau có 14 móc kitin. Trematoda có hai giác bám ở đầu và bụng. Những sinh vật nội ký sinh mà ký sinh thì cơ quan bám phát triển hơn những sinh vật bấm sát ống tiêu hóa. Ví dụ: Trematoda ở mạch máu thì chỉ có những gò để di chuyển trong mạch máu. Giáp xác khi chuyển đời sống tự do đến ký sinh có hai đôi râu A1, A2 thì đôi A2 chuyển thành giác bám. -Tăng khả năng sinh sản. + Khi ký sinh trên cơ thể vật chủ thì nó bị đào thải do vậy để tồn tại trong môi trường thì ký sinh trùng tăng khả năng sinh sản. + Nhiều ký sinh trùng có chu kỳ sống phát triển phức tạp, qua một đến hai ký chủ trung gian, do đó chỉ một trục trặc nhỏ trong vòng đời thì ký sinh trùng sẽ chết đẩn đến không hoàn thành chu kỳ sinh sản cho nên tăng sức sinh sản.
- 11 +Khi ký sinh thì khả năng gặp gỡ giữa giao tử đực và giao tử cái, giữa con đực và con cái khó khăn nên tăng khả năng sinh sản để tăng sự gặp gỡ. Tăng khả năng sinh sản ở ký sinh trùng thể hiện ở các đặc điểm: * Ký sinh trùng đực, cái trên một cơ thể rất nhiều (cơ thể lưỡng tính). Vì vậy sinh saín lưỡng tính phổ biến là sự thích nghi mang tính sinh học sâu sắc. * Không phải chỉ có một cơ quan sinh sản lưỡng tính mà có nhiều cơ quan sinh sản trên một cơ thể. Vi dụ: Cestoidea: Dyphillobothrium: Trưởng thành dài 3-10m, có thể có hàng nghìn đốt, mổi đót có một cơ quan sinh dục lwỡng tính hoàn chỉnh nên mỗi đốt đều có khả năng duy trì nòi giống do vậy sức sinh sản lớn. * Trong chu kỳ phát triển của ký sinh trùng thì một số ký sinh trùng có sự xen kẽ giưã sinh sản vô tính và sinh sản hưũ tính làm cho sức sinh sản của ký sinh trùng tăng lên rất nhanh. * Một số ký sinh trùng mặc dù có phân tính đực, cái riêng biệt, nhưng nó có xu thế lợi dụng tối đa sự gặp gỡ giữa con đực và con cái. Ví dụ: Crustacea (Copepoda ): sau khi hình thành Metanauplius V thì đực và cái kết hợp, con đực trao toàn bộ túi tinh cho con cái sau một tuần rồi chết. Con cái lấy túi tinh rồi ký sinh trên một ký chủ để tiến hành lột xác, trưởng thành. * Sức sinh sản của nó lớn hơn rất nhiều so với các sinh vật sống tự do. Ví dụ: Giun tròn Nematoda: một số ít sống ký sinh trong tử cung của Ascaris có hàng triệu trứng, trong khi bọn sống tự do chỉ có vài chục trứng trong tử cung. 2.3.3. Một số biến đổi về hình thái và sinh lý Tùy theo hình thức ký sinh mà có sự biến đổi về hình thái và sinh lý khác nhau - Biến đổi về hình thái: + Ký sinh trong ống tiêu hóa: cơ thể kéo dài, đặc biệt những ký sinh trùng hấp thụ chất dinh dưỡng trên toàn bộ bề mặt thì kéo dài để tăng diện tích tiếp xúc. + Ký sinh trong cơ: Có xu thế co tròn lại để dễ di chuyển từ tế bào này sang tế bào khác. - Biến đổi về sinh lý: Nhiều ký sinh trùng ký sinh ở hầu và miệnh có nhiều tuyến đơn bào, tuyến đơn bào có khả năng tiết ra nhiều chất độc để phá hủy tổ chức cơ thể vật chủ, một số bọn hút máu tiết ra chất chống đông máu; một số ký sinh trong ống tiêu hóa thì tiết ra chất trung hòa men tiêu hóa. 3. Bệnh do sinh vật gây hại (địch hại) Bệnh do sinh vật gây hại là bệnh do sinh vật phi ký sinh gây nên, tức là chúng không sống ký sinh ở động vật thủy sản nhưng gây chết động vật thủy sản. Ví dụ: Bọ gạo trong ao ương hút máu cá bột làm cá bột chết hàng loạt do vậy bọ gạo là địch hại đối với cá bột. Bọn Cyclops dùng chủy nhọn đâm vỡ trứng hoặc chích chết cá bột. Tảo độc (Alexandrium) gây chết tôm, cá. 4. Bệnh do yếu tố vô sinh Chia ra một số loại như sau: - Bệnh do yếu tố dinh dưỡng: Khi cho ăn không đầy đủ: Cá đói, ốm yếu, gầy còm.
- 12 Khi khẩu phần ăn thiếu chất dinh dưỡng: như thiếu vitamin C trong khẩu phần thức ăn thì tôm sẽ bị bệnh mềm vỏ, chết đen. - Bệnh do yếu tố môi trường: Hội chứng tôm còi cọc trong môi trường pH thấp, tôm cá nổi đầu khi thiếu oxy. - Bệnh do di truyền: Cá bố mẹ trong ao nuôi không đạt chất lượng tốt , cá con mang nhiều đặc điểm bất lợi như còi cọc, dị hình, III. Mối quan hệ qua lại giữa ký sinh trùng - ký chủ - môi trường Ký sinh trùng, ký chủ và điều kiện môi trường có quan hệ mật thiết. Quan hệ giữa ký sinh trùng với ký chủ phụ thuộc vào giai đoạn phát triển, chủng loại, số lượng ký sinh trùng, vị trí ký sinh và tình trạng cơ thể ký chủ. Điều kiện môi trường sống của ký chủ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến ký sinh trùng, ký chủ và mối quan hệ giữa chúng với nhau. 1. Tác hại của ký sinh trùng với ký chủ Ký sinh trùng khi ký sinh lên ký chủ gây hậu quả tác hại ở mức độ tuy có khác nhau nhưng nhìn chung làm cho cơ thể ký chủ phát triển chậm, phát dục không tốt, sức đề kháng giảm có thể bị chết. Có thể tóm tắt ảnh hưởng của ký sinh trùng với ký chủ như sau: - Tác dụng kích thích cơ học và gây tổn thương tế bào tổ chức: đây là loại tác dụng thông thường nhất của ký sinh trùng đối với ký chủ . Rận cá Argulus dùng miệng và gai ở bụng cào lên da cá kích thích làm cho cá khó chịu bơi lội loạn xạ hoặc nhảy lên mặt nước. Ký sinh trùng gây tổn thương các tổ chức cơ quan ký chủ, hiện tượng này rất phổ biến nhưng mức độ có khác nhau nếu gây tổn thương nghiêm trọng có thể làm cho các cơ quan bị phá hoại, các tế bào bong ra gây thành sẹo, tổ chức bị tụ máu và tiết ra nhiều niêm dịch. - Tác dụng đè nén và làm tắc: có một số ký sinh trùng ký sinh ở các cơ quan bên trong làm cho một số tổ chức tế bào bị teo nhỏ lại hoặc bị tê liệt rồi chết, loại tác dụng này thường thấy ở các tổ chức gan, thận, tuyến sinh dục như sán dây Ligula sp, ký sinh trong xoang họ cá chép làm cho tuyến sinh dục của cá chỉ phát triển đến giai đoạn II. Một số ký sinh trùng ký sinh có thể chèn ép một số cơ quan quan trọng như tim, não dẩn đến làm cho ký chủ chết nhanh chóng. Ký sinh trùng ký sinh số lượng lớn trong ruột có thể làm tắc ruột của cá như Acanthocephala sp. Có một số ký sinh số lượng ít nhưng nó có thể làm kích thích dây thần kinh dẩn đến co giật, cũng có thể gây nên tắc ngẽn ruột, tác động tĩnh mạch. - Tác dụng lấy chất dinh dưỡng của ký chủ: tất cả ký sinh trùng thời kì ký sinh đều cần chất dinh dưỡng từ ký chủ vì vậy nên nhiều hay ít ký chủ đều bị mất chất dinh dưỡng gây tổn hại cho cơ thể, tuy nhiên với số lượng ký sinh ít hậu quả không thấy rõ, chỉ khi nào ký sinh trùng ký sinh với số lượng nhiều mới biểu hiện rỏ rệt. Ký sinh trùng Lernea ký sinh trên cá mè, cá trắm số lượng nhiều làm cá gầy, đầu rất to, bụng và đuôi thóp lại nếu không xử lý để lâu cá sẽ chết. - Tác dụng gây độc với ký chủ: ký sinh trùng trong quá trình ký sinh tiến hành trao đổi chất, bài tiết chất cặn bả lên cơ thể ký chủ đồng thời ký sinh trùng tiết ra chất độc gây độc cho ký chủ. Qua kết quả nghiên cứu ký sinh trùng cá nhiều tài liệu cho biết rận cá Argulus miệng có tuyến tế bào có khả năng tiết ra dịch phá hoại tổ chức da và mang cá, ký sinh trùng Sinergasilus ký sinh trên mang nhiều loài cá nước ngọt nó tiết ra chất làm tan rả tổ chức mang - Làm môi giới gây bệnh: những sinh vật ký sinh hút máu thường làm môi giới cho một số ký sinh trùng khác xâm nhập vào cơ thể ký chủ, ví dụ: đỉa cá hút máu cá thường mang một số ký sinh trùng lây cho số cá khỏe mạnh.
- 13 2. Phản ứng của ký chủ lên ký sinh trùng Đối với động vật thủy sản nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều nên sự ảnh hưởng thật cụ thể khó có thể kết luận chính xác. Nhìn chung tác dụng của ký chủ đối với ký sinh trùng biểu hiện dưới các mặt dưới đây: - Phản ứng của tế bào tổ chức ký chủ: ký sinh trùng xâm nhập vào cơ thể ký chủ gây kích thích cho tế bào tổ chức có phản ứng. Biểu hiện ở nơi ký sinh trùng đi vào tổ chức mô hình thành bào nang hoặc tổ chức xung quanh vị trí ký sinh có hiện tượng tế bào tăng sinh, viêm loét để hạn chế sinh trưởng và phát triển của ký sinh trùng, mặt khác làm cho cơ quan bám của ký sinh trùng kém vững chắc. Để hạn chế tác hại của ký sinh trùng, có lúc có thể tiêu diệt ký sinh trùng, ví dụ: Ký sinh trùng quả dưa Ichthyophthirius khi ký sinh trên da cá, da của ký chủ nhận kích thích, tế bào thượng bì tăng sinh bao vây ký sinh trùng thành các bọc trắng lấm tấm nên còn gọi là bệnh “bạch điểm”. Sán lá ký sinh trên da cá và cơ là Posthodiplostonrum cuticola hình thành bào nang, vách có tế bào sắc tố đen bao vây nên da có các hạt lấm tấm đen. - Phản ứng của dịch thể: ký chủ nhận kích thích khi có ký sinh trùng xâm nhập vào sản sinh ra phản ứng dịch thể. Phản ứng dịch thể có nhiều dạng như phát viêm, thẩm thấu dịch để pha loãng các chất độc, vừa tăng khả năng thực bào làm sạch các dị vật và tế bào chết của bệnh. Nhưng phản ứng dịch chủ yếu là sản sinh ra kháng thể, hình thành phản ứng miễn dịch. Phản ứng miễn dịch của cơ thể ký chủ trước đây người ta cho rằng chỉ có các bệnh do vi sinh vật gây ra nhưng qua các kết quả nghiên cứu gầy đây ký sinh trùng thuộc các ngành: nguyên sing động vật, giun sán, giáp xác ký sinh cơ thể ký chủ cũng có khả năng sản sinh ra miễn dịch nhưng yếu hơn. - Tuổi của ký chủ ảnh hưởng ký sinh trùng: thường ký chủ trong quá trình phát triển thì cơ thể tăng trưởng, ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể ký chủ cũng có sự thay đổi cho thích hợp. Đối với ký sinh trùng chu kỳ phát triển có ký chủ trung gian thường xảy ra hai hướng: + Một số giống loài ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể ký chủ có cường độ và tỷ lệ cảm nhiễm giảm đi theo sự tăng lên của tuổi ký chủ. Ví dụ sán dây Bothriocephalus gowkongensis ký sinh trong ruột cá trắm, thường cá dưới một tuổi có tỷ lệ và cường độ cảm nhiểm cao, do cá giống ăn thức ăn chủ yếu là sinh vật phù du trong đó có Cyclops là ký chủ trung gian của sán dây, cá trắm trên một tuổi tỷ lệ cảm nhiểm thấp do ăn cỏ. + Một số ký sinh trùng có cường độ và tỷ lệ cảm nhiễm tăng theo tuổi của ký chủ do lượng thức ăn tăng nên ký chủ trung gian cũng tăng, thời gian càng dài khả năng tích tụ và cơ hội nhiễm bệnh càng nhiều, vì vậy cá lớn thường có cường độ và tỷ lệ cảm nhiễm cao. Ký sinh trùng là ngoại ký sinh thường tỷ lệ và cường độ cảm nhiễm tùy thuộc vào diện tích tiếp xúc, cơ thể ký chủ càng lớn hoặc thời gian sống càng lâu thì ký sinh trùng ký sinh càng nhiều. Do cấu tạo cơ thể, môi trường sống của cá con và cá lớn khác nhau dẫn đến có sự sai khác giữa tỷ lệ và cường độ cảm nhiễm ký sinh trùng. + Một số ký sinh trùng phát triển không qua ký chủ trung gian ít có liên quan đến tuổi ký chủ như: Chilodonella sp, Trichodina sp ký sinh trên cá ở các giai đoạn, nhưng ở giai đoạn cá bột, cá hương, cá giống, cơ thể còn non, mật độ nuôi dày nên thường có cường độ và tỷ lệ cảm nhiễm cao gây thiệt hại lớn đến sản xuất. - Tính ăn của ký chủ ảnh hưởng đến ký sinh trùng: ký sinh trùng là nội ký sinh chịu tác động rất lớn bởi chuổi thức ăn của cá, do tính ăn không giống nhau mà chia các loài cá làm hai nhóm: cá hiền và cá dữ. Cá hiền ăn mùn bả hữu cơ, thực vật thủy sinh, động vật nhỏ nên hay cảm
- 14 nhiễm ký sinh trùng có chu kỳ phát triển trực tiếp hay giun sán có chu kỳ phát triển qua một ký chủ trung gian là động vật phù du. Ví dụ: cá hiền hay cảm nhiễm ký sinh trùng là bào tử gai Cnidosporidia, cá trắm cỏ thường cảm nhiễm ký sinh trùng Balantidium. Ngược lại cá dữ ăn các động vật thủy sinh lớn và ăn cá, thường bị cảm nhiễm các giống loài ký sinh trùng có chu kỳ phát triển phức tạp, giai đoạn ấu trùng của ký sinh trùng ký sinh ở các ký chủ là vật mồi của cá dữ như cá nheo, cá thiều hay cảm nhiễm sán lá song chủ Isoparorchis sp, cá trê, cá vược thường cảm nhiễm sán lá song chủ Dollfustrema sp. Cá ăn sinh vật đáy hay bị cảm nhiễm các loài giun sán mà qúa trình phát triển của chúng có qua ký chủ trung gian là nhuyễn thể, ấu trùng côn trùng như cá chép thường bị nhiễm sán dây Caryophyllaeus sp. - Tình trạng sức khỏe của ký chủ tác động lên ký sinh trùng: động vật khỏe mạnh sức đề kháng tăng không dễ dàng bị cảm nhiễm ký sinh trùng, ngược lại động vật gầy yếu sức đề kháng giảm, ký sinh trùng dể xâm nhập vào. Ví dụ: Trong các ao nuôi cá nếu nuôi dày, thức ăn thiếu, môi trường nước bẩn cá chậm lớn, dể dàng phát sinh ra bệnh vì thế trong quá trình ương nuôi cá hương, cá giống nếu không thực hiện đúng quy trình kỷ thuật, các ao ương có mật độ dày, cá dể dàng bị cảm nhiểm trùng bánh xe Trichodina hơn ao có mật độ vừa phải và thức ăn đầy đủ. 3. Quan hệ giữa ký sinh trùng với nhau Trên cùng một ký chủ đồng thời tồn tại một giống họ nhiều giống loài ký sinh trùng khác nhau vì giữa chúng sẽ nảy sinh mối quan hệ tương hỗ hay đối kháng. Có khi ký sinh trùng này tồn tại sẽ ức chế sự phát triển của ký sinh trùng kia, từ mối quan hệ này làm ảnh hưởng đến khu hệ ký sinh trùng. Theo E.G.Skruptrenko 1967, khi cá bị cảm nhiễm ký sinh trùng Apiosoma (Glossatella) thì không cảm nhiểm ký sinh trùng Chilodonella và ngược lại. Thường chúng ta gặp ấu trùng động vật nhuyển thể hai vỏ ký sinh trên mang cá vối cường độ cảm nhiễm cao thì ít gặp sán lá đơn chủ và giáp xác ký sinh ngược lại cũng như thế. Một số giống loài ký sinh trùng tuy khác nhau nhưng cùng sống trên cơ thể một ký chủ nó có tác dụng hổ trợ nhau nên khi ký sinh trùng này đồng thời cũng gặp ký sinh trùng kia cùng tồn tại như Lernea với Trichodina; Trichodina với Chilodonella 4. Tác dụng của điều kiện môi trường đến ký sinh trùng Ký sinh trùng sống ký sinh trên cơ thể ký chủ nên nó chịu sự tác động bởi môi trường thứ nhất là ký chủ đồng thời môi trường ký chủ sống cũng có ảnh hưởng đến ký sinh trùng có thể trực tiếp hay gián tiếp, làm tác động đến mức độ tác hại của ký sinh trùng đối với ký chủ. - Độ muối của thủy vực ảnh hưởng đến ký sinh trùng: Độ muối trong các thủy vực ảnh hưởng đến khu hệ cá và khu hệ ký chủ trung gian, ký chủ cuối cùng của ký sinh trùng. Giữa các giống loài cá sự mẫn cảm giữa ký sinh trùng có khác nhau nên khi khu hệ cá thay đổi ảnh hưởng đến khu hệ ký sinh trùng. Độ muối cao ảnh hưởng đến sự phát triển của ký chủ trung gian, ký sinh trùng cá nước ngọt. Ký chủ trung gian là động vật nhuyễn thể, giáp xác cần môi trường có nhiều muối carbonate để tạo vỏ. Độ muối ảnh hưởng đến ký sinh trùng không qua giai đoạn có ký chủ trung gian. Các chất Clorua và muối Sunfat trong nước mặn làm ảnh hưởng đến ký sinh trùng là nguyên sinh dộng vật, sán lá đơn chủ, giáp xác, nhuyễn thể ký sinh trên cá nước ngọt. Các loài cá di cư đẻ trứng, cá con khi ra biển đại bộ phận ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể nó bị tiêu diệt và ngược lại ở cá bố mẹ vào sông đẻ trứng.
- 15 - Ảnh hưởng của nhiệt độ nước đến ký sinh trùng: Nhiệt độ nước không những ảnh hưởng trực tiếp đến ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể động vật thủy sản mà còn ảnh hưởng đến ký chủ trung gian, ký chủ cuối cùng và điều kiện môi trường. Mổi giống loài ký sinh trùng có thể sống,phát triển ở nhiệt độ thích hợp. Nhiệt độ quá cao hay quá thấp đều không phát triển được. Ví dụ: sán lá đơn chủ 16 móc Dactylogyrus vastator ở nhiệt độ 24-260C sau khi trưởng thành 4-5 ngày sẽ thành thục và để trứng, 3-4 ngày phôi phát triển, tỷ lệ nở 80-90%. Nhưng sán lá đơn chủ 16 móc loài Dactylogyrus extensus thích hợp ở nhiệt độ 150C nếu nhiệt độ cao tỷ lệ nở của trứng sẽ rất thấp. Ký sinh trùng Trichodina phát triển mạnh cuối xuân đầu mùa hè, nhiệt độ nước trên 300C cường độ và tỷ lệ cảm nhiễm của cá đối với ký sinh trùng Trichodina giảm rỏ rệt - Đặc điểm của thủy vực ảnh hưởng đến ký sinh trùng : Thủy vực tự nhiên, thủy vực nuôi động vật thủy sản do có diện tích độ sâu, độ béo khác nhau nên đã ảnh hưởng đến thành phần, số lượng và cường độ cảm nhiễm của ký sinh trùng. Trong các thủy vực tự nhiên số loài ký sinh trùng phong phú hơn trong các ao nuôi cá do khu hệ cá, khu hệ động vật là ký chủ trung gian, ký chủ cuối cùng cũng đa dạng hơn, mặt khác thủy vực ao nuôi thường xuyên được tẩy dọn, diệt tạp, tiêu độc đồng thời cá nuôi trong thời gian ngắn. Tuy thế tôm, cá nuôi trong ao mật độ dày có bón phân và cho ăn nên môi trường nước bẩn hơn làm cho ký sinh trùng ký sinh trên tôm, cá phát triển thuận lợi và dể lây lan nên giống loài ít nhưng tỷ lệ và cường độ cảm nhiễm của ký sinh trùng trên tôm cá cao hơn các thủy vực mặt nước lớn. IV. Các quá trình bệnh lý cơ bản Quá trình bệnh lý là quá trình mà hoạt động sống của cá bị rối loạn, ngừng trệ hoặc phá hủy. Quá trình bệnh lý cơ bản là quá trình bệnh lý ở các bộ phận quan trọng. 1. Quá trình bệnh lý ở hệ thống tuần hoàn Vai trò của hệ thống tuần hoàn: cung cấp Oxy, chất dinh dưỡng cho tế bào ở các cơ quan; đào thải các chất cặn bả qua gan, thận, phổi: tham gia vào chức năng bảo vệ cơ thể như: máu của người và động vật nói chung có hai phần: phần loãng gọi là huyết tương và phần có hình gồm: hồng cầu, tiểu cầu và bạch cầu (limphocyte, monocyte, bạch cầu ưa acid và ưa kiềm, ); tham gia quá trình tạo ra kháng thể (huyết tương có một số acid amin tham gia quá trình tạo ra kháng thể); bảo vệ cơ thể bằng cách thực bào của bạch cầu (hai bạch cầu limphocyte và neutrophil). Tóm lại hệ thống tuần hoàn có hai chức năng quan trọng là dinh dưỡng và bảo vệ cơ thể. * Một số hiện tượng bệnh lý: - Chảy máu: gồm xuất huyết nội và ngoại. Xuất huyết nội là chảy máu vào nội quan. Chảy máu ảnh huởng đến số lượng và chất lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu làm thành phần máu thay đổi, áp lực trong máu giảm, do đó nước thẩm thấu qua thành tế bào làm máu loãng, dẩn đến rối loạn hệ tuần hoàn và rối loạn các hoạt động khác. Hiện tượng chảy máu có thể do một số tác nhân sau: +Tác nhân cơ học: Thao tác đánh bắt, vận chuyển làm thương tổn gây chảy máu. + Ký sinh trùng nội hoặc ngoại ký sinh: ký sinh trùng bám vào các cơ quan làm chảy máu ở cơ quan đó. + Ký sinh trùng ký sinh trong máu, nhưng đến giai đoạn ấu trùng mới đục thủng để ra môi trường và gây hiện tượng chảy máu. Ví dụ: ký sinh trùng sán lá song chủ. Một số thao tác tránh chảy máu:
- 16 + Các thao tác vân chuyển, đánh bắt phải nhẹ nhàng. + Giảm số lượng ký sinh trùng ký sinh trên cá. Hiện tượng chảy máu còn mở đường cho các tác nhân khác xâm nhập và gây bệnh ở cá. - Thay đổi thành phần của máu: Thành phần máu cá thay đổi do một số nguyên nhân: + Chảy máu. + Do một số hoạt động sinh lý. + Tác nhân gây bệnh: một số tác nhân khi ký sinh trong cá làm phá vỡ hồng cầu do vậy làm giảm số lượng hồng cầu trong máu. Khi tôm cá nhiễm bệnh thành phần và số lượng bạch cầu thay đổi, số lượng bạch cầu trung tính và tế bào bạch cầu mono tăng lên nhưng tế bào bạch cầu limpho giảm xuống, vì tế bào trung tính và tế bào mono có chức năng tiêu diệt vi khuẩn. Nguyên nhân làm cho bạch cầu tập trung là do những chất hóa học và độc tố của sinh vật tiết ra. Ví dụ: Trypanosoma ký sinh làm tiêu hủy hồng cầu, làm cho lượng hồng cầu trong máu cá giảm. + Một số yếu tố môi trường tác động làm rối loạn hệ thống tuần hoàn, làm thay đổi thành phần máu khi nhiệt độ cao, nhiệt độ thấp. - Đông máu: Đông máu là hiện tượng một số thành phần của máu trong tim hay trong mạch máu dính lại bị ngưng kết thành khối. Hiện tượng đông máu xảy ra khi máu từ thể lỏng Fibrinogen sang thể sợi bền Fibrin với chất xúc tác Trombin theo sơ đồ: Nơi sinhTrombin Trombocys Men Trombokinaza Trombin mô bị phá hủy Fibrinogen Fibrin Hiện tượng đông máu làm tắc mạch máu gây thiếu máu cục bộ, khi hiện tượng này kéo dài gây hoại tử cục bộ. Hiện tượng đông máu xảy ra trong các trường hợp: + Ở các mao mạch nhỏ ký sinh trùng va vào thành mạch máu làm phá hủy một số tế bào và làm kích thích sản sinh mầm đông máu gây đông máu. + Do rối loạn một số hiện tượng tùân hoàn. Ở tôm do thay đổi điều kiện ngoại cảnh gây hoại tử một số bộ phận. + Khi cá bị thương tổn có một số phản ứng bảo vệ làm đông máu để bớt chảy máu. - Tắc mạch máu: Máu không chảy được đến các tổ chức cơ quan, do một tác động tổn thương, giọt mỡ xâm nhập vào được mạch máu di chuyển theo máu gây tắc mạch máu.
- 17 Hiện tượng tắc mạch máu xảy ra do các nguyên nhân sau: + Hiện tượng đông máu. + Ký sinh trùng có kích thước lớn chui vào mao mạch nhỏ làm tắc mạch máu. Ví dụ: Âú trùng của Sanguinicola. + Hiện tượng bọt khí: Khí Oxy, Nitơ, gây độc . Ở mang: Hb + O2 HbO2 Phản ứng kết hợp phụ thuộc vào: nhiệt độ nước; áp suất riêng phần của Oxy; độ pH. Ở tế bào: HbO2 Hb + O2 Hb + CO2 HbCO2 Hai phản ứng trên phụ thuộc vào: áp suất Oxy ở tế bào; nhiệt độ và các yếu tố khác. Ở điều kiện bình thường (hàm lượng Oxy trong nước đầy đủ) có khoảng 99-100% Hb của máu cá chuyển thành HbO2 nên cá tồn tại và phát triển bình thường. Nếu Oxy trong máu ít hơn bình thường thì 90% Hb chuyển thành HbO2 làm cá thiếu Oxy và sống khó khăn. Trường hợp tảo nở hoa làm hàm lượng Oxy tăng cao đến mức bảo hòa thì 100% Hb chuyển thành HbO2, lúc này áp suất riêng phần của Oxy rất lớn sẽ đẩy một phần HbO2 tồn tại ở dạng bọt khí làm tắt nghẽn mạch máu gây rối loạn tuần hoàn và làm chết cá. 2. Quá trình bệnh lý xảy ra ở hệ tiêu hóa Hoạt động của hệ tiêu hóa bao gồm: - Bắt mồi - Ngiền, nén thức ăn (cơ học) - Tác động hóa học men tiêu hóa - Hấp thụ dinh dưỡng - Đào thải các chất cặn bã Khi có tác nhân tác động làm ảnh hưởng đến hoạt động bắt mồi. Ví dụ: Cá nhiễm nguyên sinh động vật làm cụt đuôi dẫn tới cá hoạt động mất thăng bằng, bắt mồi khó khăn. - Ảnh hưởng tới tiêu hóa thức ăn: Ví dụ: Nơi sản sinh ra men tiêu hóa như gan, mật, khi ký sinh trùng ký sinh trên gan, mật, làm gan teo, tắc mật, ảnh hưởng tới quá trình tiết men tiêu hóa. - Ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng: cơ quan hấp thụ là tế bào thành ruột, khi ký sinh trùng làm viêm, lóet tế bào thành ruột thì khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng sẽ bị hạn chế. Ngoài ra ký sinh trùng ký sinh còn hấp thụ chất dinh dưỡng làm giảm quá trình tiêu hóa. Vì vậy, cá có ký sinh trùng ký sinh trong ruột thì hệ số thức ăn sẽ lớn do một số chất dinh dưỡng bị ký sinh trùng hấp thụ và nó ngăn chặn sự hấp thụ chất dinh dưỡng. Tóm lại, khi có tác nhân gây bệnh tác động hoặc ký sinh sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng làm đàn cá gầy yếu và sức đề kháng giảm đi đáng kể. 3. Quá trình bệnh lý xảy ra ở cơ quan hô hấp - Cơ quan hô hấp là nơi trao đổi khí: Oxy tham gia vào mọi tế bào trên cơ thể sống, do đó khi cơ quan hô hấp bị tấn công thì nó có một số hiện tượng xảy ra trên cơ quan hô hấp như: Các tế bào mang bị phá hủy, ngăn cản sự trao đổi khí, dẫn tới cơ thể cá thiếu Oxy và dư thừa Cacbonic, làm cá chết.
- 18 - Dấu hiệu thể hiện: Tế bào mang bị phá hủy, hoặc thối rửa, mang nhợt nhạt, hoặc tối sẫm, cá nỗi đầu và thích dòng nước chảy. 4. Các quá trình bệnh lý khác Hoại tử cục bộ, phù và tích nước, hiện tượng viêm, cơ quan teo nhỏ: 4.1. Hoại tử cục bộ Hoại tử cục bộ là một bộ phận nào đó của cơ thể do cung cấp máu bị đình trệ làm cho tổ chức ở đó bị hoại tử. Nguyên nhân thường gặp là do xoang động mạch bị tắc, ngoài ra còn do sự đè nén bên ngoài động mạch. Bất kỳ động mạch nào bị tắc không chỉ do nhân tố cơ học làm cản trở máu chảy mà đồng thời hệ thống thần kinh bị kích thích mạnh làm cho mạch máu bị co giật liên tục cũng dẫn đến hoại tử bộ phận. 4.2. Phù và tích nước Dịch thể được tích tụ trong các khe của các tổ chức với số lượng nhiều thì gọi là phù, còn dịch thể tích tụ trong xoang gọi là tích nước. Trong dịch thể này hàm lượng albumin giảm, ở trong cơ thể hay ngoài cơ trhể đều không liên kết, dịch trong có màu xanh vàng. Thể tích các cơ quan, tổ chức bị phù tăng lên bề mặt bóng loáng, xanh xao, cơ năng hoạt động của các cơ quan bị giảm sút. Nguyên nhân dẩn đến các tổ chức cơ quan bị phù và tích nước có thể do tổ chức bị chèn ép, do tác động cơ giới, cơ thể sinh vật bị đói hoặc thành dinh dưỡng trong khẩu phần thức ăn thiếu, gan bị xơ cứng, thận bị yếu, hệ thống thần kinh bị rối loạn hoặc do ký sinh trùng. Nhìn chung các tổ chức cơ quan bị phù và tích nước sau khi tiêu trừ được nguyên nhân gây bệnh có thể hoàn toàn hồi phục. Nếu thời gian quá dài các tổ chức cơ quan bị phù và tích nước có những biến đổi quá lớn nên dù đã tiêu trừ được nguyên nhân gây bệnh nhưng hiện tượng phù và tích nước vẩn còn làm cho tổ chức bi viêm, chức năng hoạt động vẫn bị rối loạn, một số cơ quan quan trọng như não bị phù và tích nước dể dàng làm cho ký chủ bị tử vong. 4.3. Hiện tượng viêm Chứng viêm là hiện tượng cơ thể sinh vật phòng vệ cục bộ hay toàn thân khi có tác dụng kích thích từ ngoài vào thông qua phản xạ của hệ thống thần kinh. - Biến đổi về bệnh lý của chứng viêm: + Biến đổi về chất của tế bào tổ chức: tổ chức trong vùng bị viêm, tế bào phân giải tách ra, lúc mới có chứng viêm biến đổi về chất chiếm ưu thế nhất là ở chính giữa ổ viêm, còn xung quanh biến đổi không rõ ràng. Nguyên nhân làm cho tổ chức cơ quan bị viêm là quá trình trao đổi chất bị rối loạn, chất dinh dưỡng thiếu và do kích thích cục bộ. Mặt khác lúc tổ chức cơ quan bị viêm, hệ thống tuần hoàn rối loạn, tế bào tổ chức phát sinh ra biến đổi hoặc hoại tử phát triển, đồng thời có các sản vật phân giải như Protein, acid hữu cơ làm cho tính thẩm thấu của vách mạch máu tăng lên làm cho hệ thống tuần hoàn rối loạn. +Thẩm thấu tế bào và các chất đưa ra ngoài: thẩm thấu là hiện tượng cơ thể lúc có chứng viêm, dịch thể và thành phần tế bào máu thẩm thấu đi ra khỏi mạch máu và tổ chức. Tổ chức cơ thể bị viêm trước hết mạch máu thay đổi, do kích động kích thích động mạch nhỏ co lại, thời gian rất ngắn động mạch nhỏ lại nở ra, các mao quản trong vùng viêm cũng nở ra, bắt đầu máu chảy nhanh về sau máu chảy chậm lại hồng cầu chứa đầy xoang mạch máu, thậm chí có bộ phận máu ngừng chảy. Tính thấm thấu của vách mạch máu cũng tăng lên, nếu bị tổn thương nhẹ các phần tử nhỏ bị thẩm thấu ra, còn bị thương nặng các phần tử lớn như globulin rồi đến hồng cầu và Fibrinogen cũng thẩm thấu ra.
- 19 Trong dịch thể thẩm thấu ra có tế bào bị động đi ra như hồng cầu nhưng trái lại có một số tế bào chủ động đi ra như bạch cầu. Tế bào bạch cầu xuyên ra khỏi mạch máu sau khi tiếp xúc với vật kích thích, các sản vật phân giải của tổ chức, đem bao lại và có men thực hiện tiêu hóa, đây là hiện tượng thực bào. Ở cá tế bào bạch cầu hiện tượng thực bào có xảy ra hay không ý kiến chưa thống nhất. + Tăng sinh tế bào: Cơ thể sinh vật khi có tác nhân kích thích gây bệnh xâm nhập phát sinh ra chứng viêm cơ thể có phản ứng lại để phòng vệ nên một số tổ chức như mạch máu, tế bào, với mục đích cung cấp bổ sung cho những tế bào đã bị thẩm thấu ra ngoài làm cho tổ chức bị viêm không phát triển thêm đồng thời phục hồi nhanh chóng các tổn thất của tổ chức. Bất kỳ một chứng viêm nào của cơ thể sinh vật nó cũng không xảy ra các hiện tượng đơn độc mà nó có quan hệ hổ trợ mật thiết giữa 3 quá trình biến đổi về chất lượng, thẩm thấu ra và tăng sinh như ở chính giữa khu vực bị viêm biến đổi về chất lượng có thể kích thích tế bào tổ chức xung quanh tăng sinh, tế bào tiến hành tăng sinh, mạch máu nhận các chất dinh duỡng thúc đẩy quá trình biến đổi. Tăng sinh tế bào có thể là nguồn cung cấp tế bào và kháng thể thẩm thấu ra. Trong quá trình thẩm thấu, trao đổi chất của hệ thống tuần hoàn bị rối lọan đã ảnh hưởng đến chất lượng, số lượng tế bào tăng sinh. Trong các chứng viêm của tổ chức cơ quan trên cơ thể sinh vật, cường độ của 3 quá trình thường không giống nhau, quá trình biến đổi về chất chiếm ưu thế. Ở cá, tôm quá trình thẩm thấu ra tương đối thấp. - Triệu chứng chủ yếu của chứng viêm: + Tổ chức có màu đỏ: Tổ chức bị viêm sản sinh ra các thành phần hóa học và thần kinh cảm giác có phản xạ nên có quá trình tụ máu. Ngoài ra vùng bị viêm trao đổi chất được tăng lên, trao đổi mỡ bị trở ngại, độ kiềm và axit mất thăng bằng, axit có nồng độ cao dễ dẫn đến trúng độc cũng có thể làm cho mạch máu nở ra vì vậy đó không những chỉ do tụ máu mà còn do hồng huyết cầu thẩm thấu ra. + Tổ chức sưng: Do dịch thể thẩm thấu ra, do vi khuẩn và các sản vật trao đổi chất phân giải ra nhiều phân tử nhỏ, áp suất thẩm thấu tăng, tổ chức bị viêm dễ dàng sưng to. + Tổ chức bị nóng: Nhiệt độ bên trong cơ thể cao hơn bên ngoài, máu từ bên trong chảy ra ngoài nên vùng viêm có cảm giác nóng, cá, tôm là động vật máu lạnh nên nhiệt độ bên ngoài và trong cơ thể chênh lệch khoảng 200C vì vậy không có hiện tượng nóng ở tổ chức viêm. - Tổ chức vùng viêm bị đau: Cơ chế đau ở vùng viêm của tổ chức khá phức tạp, các chất thẩm thấu ra có sản vật làm đau, ngoài ra còn có thể do bị đè nén. Đối với cá, tôm cảm giác này khó biết được. - Cơ năng của tổ chức cơ quan bị thay đổi: Tổ chức có chứng viêm cường độ và năng lực co giãn của cơ giảm, niêm mạc phân tiết ra nhiều dịch, nhưng lúc nghiêm trọng lại ngừng phân tiết niêm dịch. Các cơ quan nội tạng bị viêm không có một số triệu chứng như nóng, đau và đỏ vì nội tạng nhiệt độ cao, thần kinh cảm giác thiếu. Viêm cục bộ có khi cũng có triệu chứng toàn thân như phát nóng, bạch cầu tăng. * Kết quả của chứng viêm: Chứng viêm có thể gây ra cho cơ thể sinh vật hậu quả nghiêm trọng nhưng đây là một phản ứng để phòng vệ cơ thể. Thông qua phản ứng để tiêu trừ nguyên nhân gây bệnh, phục hồi tổn thất do bệnh gây ra như thẩm thấu ra thành phần dịch thể trong máu và bạch huyết cầu, làm sạch những tế bào chết, các dị dạng, làm loãng những sản vật có hại. Tuy vậy các chất thẩm thấu ra sẽ trở thành môi trường nuôi dưỡng vi khuẩn, các chất phân giải ra độc
- 20 với cơ thể do đó chứng viêm phát triển đến mức độ nhất định ý nghĩa tích cực bị tác động có hại triệt tiêu, ảnh hưởng xấu đến cơ thể sinh vật. Kết quả sau cùng của chứng viêm trên tổ chức cơ thể sinh vật: - Tuyệt đại bộ phận chứng viêm của cơ thể sinh vật kết thúc tốt nhất là viêm cấp tính, sau một thời gian ngắn có thể thông qua hấp thụ, tái sinh liền lại và cơ năng của cơ thể hoàn toàn hồi phục. - Trong quá trình diễn biến của chứng viêm, tế bào chắc bị phá hoại quá nặng, lúc tu bổ không thể hồi phục kết cấu ban đầu thay thế là một tổ chức mới do tế bào sợi vừa sản sinh hoặc những chất thẩm thấu ra không bị hấp thụ hết và thải ra ngoài sau khi biến đổi thành chất sợi dính lại. Lúc này chứng viêm đã đình chỉ lưu lại là trạng thái bệnh lý. Các tổ chức cơ quan cơ năng có giảm nhưng mức độ có khác nhau. V. Các nhân tố gây ra bệnh 1. Tác nhân gây bệnh Có tác nhân gây bệnh thì mới có bệnh xảy ra, tác nhân gây bệnh phụ thuộc: - Số lượng tác nhân, tác nhân gây ra bệnh khi có số lượng đáng kể có thể chiến thắng được sức đề kháng của tôm, cá thì dịch bệnh mới xảy ra. Vậy chỉ cần làm giảm số lượng tác nhân để không đủ số lượng có thể gây bệnh. Ví dụ: Tắm tôm mẹ chỉ là hình thức để hạn chế vi khuẩn gây bệnh bên ngoài, còn bệnh bên trong tôm mẹ không thể tiêu diệt được. + Tảo: Dùng thuốc để tiêu diệt mầm bệnh nhưng chỉ dùng nồng độ thấp, vẫn còn tác nhân gây bệnh - Con đường xâm nhập: mỗi một loại tác nhân có một con đường xâm nhập. Ví dụ: Vi khuẩn gây bệnh lao, con đường xâm nhập là hô hấp. Trùng bánh xe Trichodina ký sinh ở mang da vây của cá và cảm nhiễm bằng cách trực tiếp lên cơ thể. Nếu cá ăn vào thì ký sinh trùng này không gây tác hại. + Nấm thủy mi (bào tử): Tác dụng ngay bề mặt cơ thể nếu cá ăn vào không gây tác hại, vậy cá không bị lở lóet thì hạn chế bệnh này. 2. Ký chủ và sức đ ề kháng của ký chủ. + Đối với tác nhân gây bệnh: muốn sống tồn tại phải có môi trường thích hợp, ký chủ chính là môi trường trực tiếp của ký sinh vật này. Còn môi trường bên trong chỉ là môi trường thứ hai tác động lên ký sinh vật. Trong thực tế vi khuẩn gây bệnh ở cá này nhưng không gây bệnh ở cá khác. Ví dụ: vi khuẩn gây viêm ruột thường xuất hiện ở cá trắm cỏ. Còn cá khác nuôi ghép thì không bị bệnh. - Sán lá đơn chủ Dactylogyrus ký sinh trên mang da nhiều loài cá, một số loài chỉ thích sống ký sinh trên một loài cá nào đó. - Dactylogyrus ctenopharyngodon: tác dụng lên mang của cá trắm cỏ còn cá khác thì không. Sức đề kháng của cơ thể chính là phản ứng của cơ thể khi bị tác nhân xâm nhập, phản ứng này có khả năng ngăn chặn sự xâm nhập, đào thải tác nhân, kìm hảm sự phát triển. Sức đề kháng này thể hiện một số cơ quan cơ thể cá: như bảo vệ da, niêm mạc chống sự xâm nhập (trong quá
- 21 trình vận chuyển do thao tác làm cá bị mất nhớt, đàn cá dễ bị nhiễm bệnh cấp tính, chết hàng loạt), phản ứng viêm của cơ thể để thải vi khuẩn xâm nhập. + Bạch cầu : Tham gia quá trình thực bào tiêu diệt tác nhân vi khuẩn, virus xâm nhập, số lượng bạch cầu tăng nhanh khi có tác nhân xâm nhập. + Khả năng tạo ra phản ứng kháng nguyên: Được hình thành khi tác nhân xâm nhập vào cơ thể nó tiết ra độc lực, gọi là kháng nguyên: nó tác động hệ thần kinh tác động đến huyết tương của cơ thể ra lệnh hiện tượng tiết ra chất trung hòa kháng nguyên đó là những kháng thể làm cho bệnh không xuất hiện. + Sức đề kháng mạnh thì bệnh ít xảy ra, sức đề kháng thay đổi tùy từng loài cá, từng giai đoạn phát triển, và thay đổi phụ thuộc dinh dưỡng và môi trường. Ví dụ: Các loài cá khác nhau có độ mẫn cảm bệnh tật khác nhau. Cá chép Việt Nam có đặc điểm: chậm lớn, thức ăn là sinh vật đáy nhưng thịt ngon Cá chép Hungary: Phổ thức ăn rộng hơn, nhanh lớn, thịt ngon nhưng sức đề kháng bệnh thấp. Khi lai tạo ra con lai có sức kháng bệnh cao, thịt ngon, nhanh lớn, phổ thức ăn rộng. Trong các loại cá như cá mè, trắm cỏ, chép, trôi và rô phi thì cá rô phi có sức đề kháng cao nhất. - Phụ thuộc vào giai đoạn phát triển: ở các giai đoạn phát triển khác nhau thì sức đề kháng của sinh vật nói chung khác nhau. Ví dụ: Ở người, sức đề kháng của người chia làm 3 giai đoạn: + Giai đoạn 1: Từ khi mới sinh đến 1 tuổi: sức đề kháng bệnh tật rất cao vì hệ thần kinh của trẻ con lúc này chưa phát triển nên nó không nhạy cảm với sự phát triển của môi trường. Và nó nhận được một số kháng thể qua sữa mẹ. + Giai đoạn 2: 1 tuổi đến 10 tuổi :có thể còn bú hoặc không bú nữa nên kháng thể từ mẹ truyền sang cho con không còn nữa . + Giai đoạn 3: từ 10 tuổi đến 30 tuổi :sức đề kháng cao nhất Ở cá : sức đề kháng chia 2 giai đoạn + Giai đoạn 1: Giai đoạn cá con + Giai đoạn 2 :Giai đoạn cá trưởng thành Giai đoạn cá con sức đề kháng yếu hơn giai đoạn cá trưởng thành. 3. Yếu tố môi trường Đối tượng thủy sản mà chúng ta nghiên cứu là sinh vật, một phần rất lớn tác nhân gây bệnh trên đối tượng ta nghiên cứu cũng là đối tượng sinh vật. Cả 2 loại này muốn tồn tại và phát triển được đều phải có tác động với môi trường. Một dịch bệnh nào đó xẩy ra cũng liên quan rất lớn đến điều kiện môi trường. Mỗi tác nhân gây bệnh khác nhau có thể tồn tại và phát triển được ở môi trường khác nhau. Do sự phụ thuộc vào điều kiện môi trường này mà dẫn đến hiện tượng mùa bệnh. Ví dụ: Ở người: - Dịch cúm có thể xẩy ra quanh năm nhưng rất hay xẩy ra ở nhiệt độ thấp vì virus gây bệnh cúm thích hợp nhiệt độ thấp. - Dịch tả rất thường xẩy ra ở mùa hè có nhiệt độ cao vì vi khuẩn gây dịch tả thích hợp với nhiệt độ cao, ngoài ra còn có nhiều ruồi, muỗi, trái cây tươi sống.
- 22 +Ở cá: Một số bệnh do nguyên sinh động vật gây ra như lớp tiêm mao trùng Ciliata (số lượng của loài phong phú nhất trong ngành nguyên sinh động vật). Những giống loài điển hình gây bệnh trên cá là:Trichodina (trùng bánh xe), Glosatella (trùng loa kèn), bọn này phát triển thích hợp trong nước từ 20-300C. Do đó nhiệt độ quá nóng về mùa hè hoặc quá lạnh về mùa đông không thích hợp đến sự phát triển của chúng. Bọn này phát triển mạnh vào mùa xuân hè, thu đông đây là 2 mùa ương cá chính ở các cơ sở sản xuất giống. Cũng bọn nguyên sinh động vật nhưng ở lớp thích bào tử Cnidosporidia nó ký sinh ở cá dưới dạng các bào nang trắng đục trong đó các bào tử khi nhiệt độ rất cao, bệnh xuất hiện ở cá vào những ngày nhiệt độ rất cao. Bệnh truyền nhiễm ở cá do thực vật gây ra, ở cá do virus, vi khuẩn, nấm, chúng rất phát triển trong điều kiện pH thấp (<6,5) , những ao nào có pH thấp rất dễ xảy ra bệnh nấm thủy mi, vi khuẩn, virus gây lở lóet .Biện pháp điều trị nên duy trì pH ở độ cao 7-8. * Điều kiện môi trường nhân tạo (do con người tạo ra): Cũng gây ra bệnh ở cá . Nếu nói đến dịch bệnh ở người thì gọi là điều kiện xã hội. khi xã hội càng phát triển thì việc phòng bệnh tạo ra môi trường sạch sẽ, điều kiện sinh thái tốt thì dịch bệnh ít xảy ra. Dịch bệnh xẩy ra khi có sự kết hợp của 3 nhân tố: Tác nhân gây bệnh, ký chủ-sức đề kháng và yếu tố môi trường. Được biễu diễn bằng sơ đồ sau. Ký chủ Bệnh Môi trường Mầm bệnh Hình 1. Mối liên quan giữa các nhân tố gây ra dịch bệnh
- 1 CHƯƠNG 2 BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH ĐỘNG VẬT THỦY SẢN A. BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH TỔNG HỢP TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN I. Mở đầu Động vật thủy sản sống trong nước nên việc phòng bệnh, chẩn đoán và phát hiện bệnh khó khăn, đặc biệt ở giai đoạn đầu tiên của bệnh. Việc trị bệnh khó khăn và ít hiệu qủa: Mỗi khi trong ao động vật thủy sản bị bệnh ta không thể chữa từng con mà phải tính cả ao cá hay trọng lượng cả đàn nên tính lượng thuốc khó chính xác, tốn kém lại lớn, các loại thuốc chữa bệnh ngoài da cho động vật thủy sản thường phun trực tiếp xuống nước chỉ áp dụng với các thủy vực mặt nước nhỏ còn diện tích mặt nước lớn không sử dụng được. Đặc biệt số con khỏe mạnh cũng phải dùng thuốc làm ảnh hưởng đến sinh trưởng. Những loại thuốc được sản xuất dùng trong thủy sản rất ít mà thường dùng thuốc trong y học, thú y, nên hiệu quả thấp, giá thành cao. Có rất nhiều tác nhân gây bệnh ở cá cũng là tác nhân gây bệnh ở người, gia súc và gia cầm khác. Nên phòng bệnh ở cá cũng là phòng bệnh cho người và động vật khác. Ví dụ: Sán dây Dynphillobothrium (dài 10 m): ấu trùng ký sinh ở cá, trưởng thành ký sinh ở ống tiêu hóa của người và động vật. Ký sinh trùng Opisthorchis (sán lá song chủ) ở giai đoạn ấu trùng ký sinh ở cá, còn ở giai đoạn trưởng thành ký sinh trong gan, mật của người và động vật ăn cá. II. Biện pháp phòng bệnh tổng hợp Cơ sở khoa học: Dựa vào nguyên nhân và điều kiện phát sinh dịch bệnh biện pháp phòng bệnh tổng hợp phải nhằm các mục đích sau: + Nâng cao sức khỏe cho đối tượng nuôi. + Ngăn chặn sự tác động của tác nhân gây bệnh. + Quản lý môi trường tốt. 1. Nâng cao sức khỏe cho đối tượng nuôi - Chọn đàn giống + Khỏe mạnh kích thước đồng đều, màu sắc tươi sáng, linh hoạt. Ngoài ra đàn giống phải sản xuất ra ngay tại địa phương đó hoặc địa phương gần nhất để có đàn giống có môi trường sống, kỹ thuật nuôi dưỡng gần giống nhau nên thuận lợi trong việc chăm sóc, cá tôm sẽ ít bệnh trong quá trình nuôi. + Có thể cho lai tạo giữa các đối tượng khác nhau tạo ra đàn giống có khả năng chống lại bệnh tật tại một địa phương nào đó. Ví dụ: Ở Trung Quốc cho lai tạo cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus) với cá chày (Megalobrma blyocephala) tạo được giống mới sinh trưởng chậm hơn nhưng ít bị bệnh viêm ruột, thối rửa mang, đốm đỏ như cá trắm cỏ.
- 2 - Gây miễn dịch nhân tạo Người ta dùng vacxin tiêm, trộn vào thức ăn của cá làm cho cơ thể tạo được khả năng miễn dịch nhằm vô hiệu hóa tác nhân gây bệnh. Phương pháp này áp dụng nhiều ở các nước phát triển, chủ yếu được dùng trong nghề nuôi cá. Theo các tài liệu hiện nay, người ta không dùng vacxin đối với giáp xác. - Phương pháp để sản xuất vacxin Chọn cá bệnh nặng nhưng còn sống mổ lấy gan, lá lách cho vào nước muối sinh lý theo tỷ lệ 1:5 hoặc 1:10, lọc sạch rồi cho vào nồi hấp giữ nhiệt độ 60-65oC trong 2-3h để thanh trùng sau đó cho 1% dung dịch Formol 40%vào, gắn kín miệng ống nghiệm giữ ở nhiệt độ 3-50C trong 2-3 tháng, đem tiêm cho cá để chống lại bệnh viêm lóet, thối mang rất có hiệu quả. - Mật độ nuôi Mật độ nuôi thích hợp có ý nghĩa phòng bệnh vì nếu khi nuôi mật độ thấp sẽ lãng phí công chăm sóc, nguồn nước Mặt khác khi nuôi ở mật độ cao thì sẽ dẫn tới việc cạnh tranh thức ăn, xảy ra hiện tượng phân đàn giữa con khỏe và con yếu, dễ xảy ra bệnh. Mật độ nuôi thích hợp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau: + Đối tượng nuôi. + Giai đoạn phát triển. + Qui mô sản xuất: thâm canh, bán thâm canh, quảng canh. + Trình độ quản lý của người nuôi. - Nuôi ghép Có ý nghĩa tăng sức khỏe tôm, cá và tăng khả năng phòng bệnh: + Có nhiều tác nhân gây bệnh cho đốïi tượng này mà không ảnh hưởng tới đối tượng khác như: D. ctenopharyngodon tác dụng lên mang cá trắm cỏ còn cá khác thì không tác dụng được. + Nuôi ghép tận dụng hết không gian, cơ sở thức ăn tự nhiên, còn có ý nghĩa làm sạch môi trường do sản phẩm thải của đối tượng này là thức ăn trực tiếp hoặc gián tiếp của đối tượng khác, giúp nhà kỹ thuật quản lý tốt chất thải, tăng sức khỏe đối tượng nuôi. Ví dụ: Ao cá nuôi ghép cá trắm cỏ, cá mè, cá chép, cá rô phi; tỷ lệ phụ thuộc vào dinh dưỡng cá, thành phần thức ăn tự nhiên, cơ sở nguồn nước. Cá trắm cỏ: Thực vật thượng đẳng. Cá mè: Sinh vật phù du. Cá chép: Sinh vật đáy. Cá rô phi: Mùn bã hữu cơ. - Thức ăn: chính là nguồn cung cấp năng lượng cho tất cả các hoạt động sống của đối tượng nuôi, nếu thức ăn đầy đủ và tốt thì sức khỏe của đối tượng nuôi tốt và ngược lại. Cho cá ăn theo phương pháp “4 định”: xác định số lượng thức ăn, chất lượng, thời điểm cho ăn và địa điểm cho ăn. + Số lượng thức ăn thay đổi theo giai đoạn phát triển, loại thức ăn. Ví dụ: Cá trắm cỏ thức ăn là thực vật thượng đẳng (gluxit), nếu thiếu thì có thể thay bằng bắp. Số lượng thức ăn còn phụ thuộc vào cơ sở thức ăn tự nhiên, điều kiện môi trường và đặc điểm sinh lý của đối tượng nuôi.
- 3 + Định điểm và thời gian cho ăn: Định thời gian cho ăn để tập thói quen dần cho đối tượng nuôi, giúp người nuôi có khả năng quan sát tổng thểí dễ dàng để phát hiện bất thường kịp thời. Như vậy vào mùa dịch giúp người kỹ thuật đặt các túi thuốc cho ăn tại các điểm nhất định để phòng bệnh. Chống được ô nhiểm môi trường do dễ dọn sạch thức ăn thừa. Tuy nhiên không phải giai đoạn nào cũng làm được như vậy mà trong giai đoạn ương cá bột lên cá hương, ương tôm Post lên giống thì không định điểm nơi cho ăn mà thường cho ăn xung quanh ao đêí tránh hiện tượng phân đàn. 2. Tiêu diệt và kìm hãm sự phát triển của mầm bệnh - Tẩy dọn: là những thao tác đầu tiên cho quá trình nuôi, một trong những mục đích của việc tẩy dọn là tiêu diệt mầm bệnh ở đáy ao. - Kiểm dịch đàn giống trước khi đưa vào nuôi luôn là một trong những biện pháp ngăn chặn mầm bệnh vào trong ao nuôi, ngăn chặn sự lan truyền mầm bệnh từ nơi này sang nơi khác. Do đó một đàn giống khi chuyển từ nơi này sang nơi khác cần phải được kiểm dịch. Nếu khi kiểm dịch thấy đàn giống bị nhiễm bệnh thì phải có biện pháp xử lý. Ví dụ: Khi kiểm dịch thấy đàn cá giống nhiễm nhiều trùng bánh xe (Trichodina) thì ta dùng CuSO4 tắm cho cá ở nồng độü 3-7 ppm tùy môi trường, kích cỡ cá trong khoảng 15- 30 phút. Tôm giống khi kiểm dịch thấy nhiều trùng loa kèn (Zoothamnium) thì chúng ta ngâm đàn tôm giống trong Formol nồng độü 20-30 ppm với thời gian 20-30 phút Kiểm dịch là cơ sở khoa học của các biện pháp kỹ thuật. - Sát trùng thức ăn: Trong nghề nuôi thủy sản có các loại thức ăn sau: + Thức ăn tươi sống: Tảo, Artemia. + Thức ăn chế biến: Cá, tôm được nấu chín. + Thức ăn tổng hợp: Tất cả các loại thức ăn này đều có thể mang mầm bệnh vào ao nuôi, nên phải sát trùng các thức ăn này trước khi đưa vào ao. - Sát trùng nơi cho ăn: Tại nơi cho ăn có nhiều thức ăn dư thừa nên làm mầm bệnh phát triển. Do đó, sau khi cho ăn ta phải vệ sinh nơi đó để ngăn chặn mầm bệnh. - Tiêu diệt mầm bệnh trên cơ thể cá hoặc ngoài ao nuôi: Khi mầm bệnh đã đạt được một số lượng nhất định và sức khỏe cá yếu đi thì cá mới bị bệnh, do đó tiêu diệt mầm bệnh khi cá còn khỏe thì sẽ kìm hãm được bệnh lý. Ví dụ:Trong bể ấp ấu trùng tôm thường có bệnh phát sáng do vi khuẩn Vibrio gây ra khi có số lượng cao; do đó vài ngày ta nên kiểm tra số lượng Vibrio một lần. Trong ao ương cá giống bệnh nguy hiểm nhất là do trùng bánh xe Trichodina gây chết ở giai đoạn 12-15 ngày tuổi, khi ương được một tuần thì ta kiểm dịch và dùng CuSO4 để tắm hoặc fun xuống ao để hiên tượng cá chết không xảy ra. 3. Quản lý môi trường nuôi thuỷ sản 3.1. Chọn vị trí xây dựng trại - Chọn địa điểm nuôi thích hợp: Một số chỉ tiêu cần quan tâm. + Nguồn nước: Cung cấp đầy đủ cho các khâu của quá trình sản xuất.
- 4 Cao trình của nguồn nước phải đạt ở mức độ tự chảy để giúp các thao tác thuận lợi. Giàu dinh dưỡng và trong sạch: nguồn muối dinh dưỡng phong phú để thức ăn tự nhiên phát triển tốt, không tồn tại các khí độc H2S, NH3, thuốc trừ sâu, không ảnh hưởng bởi nước thải. Độ pH của nước tốt nhất 7-8: cá phát triển thuận lợi và kìm hãm một số tác nhân gây bệnh ở đối tượng nuôi như vi khuẩn, virus. Nguồn nước phải xử lý trước khi đưa vào nuôi + Chất đất: Liên quan và ảnh hưởng rất lớn đến chất nước trong ao, nền đáy ao là một bộ phận tham gia quá trình chuyển hóa các chất trong ao và thủy vực. Chất đất phù hợp thì quản lý dễ dàng. Đất thịt pha cát và đất thịt là tốt nhất cho việc xây dựng ao nuôi do:tạo nên chất đáy giàu dinh dưỡng. Công trình xây dựng trên đó bảo đảm. Tránh hiện tượng rò rỉ, độ sâu nước ổn định, muối dinh dưỡng không thấm ra ngoài. Ở nền đáy cát xảy ra hiện tượng thẩm thấu chất cặn bã vào nền đáy dẫn tới suy thoái nền đáy sau các vụ sản xuất. - Thiết kế và xây dựng các công trình cho thích hợp với các thao tác kỹ thuật và phòng bệnh. + Phải có hệ thống cấp và tiêu nước riêng biệt, nếu thuận lợi thì tự chảy. + Bố trí khu sinh hoạt của người xa công trình nuôi cá. + Ao nuôi vỗ cá bố mẹ gần bể đẻ để vận chuyển cá bố mẹ dễ dàng. 3.2. Những biện pháp để quản lý các yếu tố môi trường - Các đối tượng thủy sản đều thích hợp trong môi trường nhất định: Do đó phải quản lý môi trường thích hợp với đối tượng nuôi và ổn định suốt vụ nuôi, đảm bảo dinh dưỡng hợp lý nhằm hạn chế sự ô nhiễm môi trường. + Nhiệt độ nước ổn định. + S( không biến động quá 5(. + pH: 6,5-9 tốt nhất 7-8 biến động không quá 0,5. + Oxy hòa tan ( 5mgO2/l. + Khí độc nếu có | NH3| < 0,1 mg/l; |H2S| <0,03 mg/l. - Quản lý nhiệt độ nước: Phụ thuộc vào cường độ chiếu sáng, mùa vụ và đặc biệt quản lý độ sâu thích hợp. Ví dụ: Miền Bắc vào mùa lạnh đưa cá vào ao sâu hơn 2m. - Quản lý pH: bằng cách quản lý pH đất, nguồn nước đưa vào, sự phát triển của phiêu sinh, thời tiết mưa hay nắng. Để điều chỉnh pH người ta dùng vôi bắng cách bón vôi vào ao, rải vôi xung quanh ao. Các loại vôi thường được dùng là CaO, Ca(OH)2, CaCO3. Vai trò của vôi: Bổ sung độ cứng của ao để duy trì sự phát triển của phiêu sinh, sát trùng và tiêu diệt mầm bệnh và làm thay đổi pH. CaO: Khi bón vào pH thay đổi rất lớn, dùng để tẩy dọn ao. Liều lượng dùng 100- 150 kg/ha, không bón vào ao nuôi tôm vì pH thay đổi đột ngột.
- 5 Ca(OH)2 có khả năng thay đổi pH rất lớn nhưng không bằng CaO, dùng trong ao tôm cá có pH<6, liều lượng 100-150 kg/ha; không nên dùng vào thời điểm nhiệt độ cao trong ngày. CaCO3 làm pH tăng không đáng kể, nhưng đảm bảo độ cứng của ao, đảm bảo sự phát triển của phiêu sinh. Dolomic vai trò gần giống CaCO3, liều dùng hai loại này là 150-300 kg/ha. pH thay đổi theo ngày đêm theo hàm lượng CO2 trong thủy vực. CO2 lại phụ thuộc vào phiêu sinh có trong ao và sự phân hủy chất hữu cơ có trong ao. Do đó việc quản lý pH là quản lý sự phát triển của phiêu sinh. Ngoài ra khi quản lý phiêu sinh tốt thì hàm lượng khí Oxy, CO2 hòa tan thích hợp và các khí độc giảm. Quản lý phiêu sinh bằng màu nước và độ trong thích hợp từ 30-40cm. Để tác động thích hợp phải thay nước, tăng độ cứng ao nuôi bằng CaCO3, bón phân. - Quản lý chất thải: Nguồn gốc chất thải do chu kỳ sản xuất trước để lại, sản phẩm trao đổi chất của đối tượng nuôi, do thức ăn thừa, nguồn nước đưa vào hoặc thực vật tàn lụi. Tùy vào nguồn gốc chất thải ta có các biện pháp xử lý khác nhau: + Tẩy dọn sạch sản phẩm thừa của đợt sản xuất trước đưa cách xa trại sản xuất. + Nguồn nước mang mầm bệnh: Xử lý trước khi đưa vào nuôi. + Xử dụng máy sục khí để ổn định Oxy, thoát khí độc, gom chất thải. B. THUỐC CHỮA BỆNH CHO ĐỘNG VẬT THỦY SẢN Thuốc và cơ thể sinh vật có mối quan hệ rất khắng khít, bất kỳ một loại thuốc nào khi vào cơ thể dưới tác động của nhiều yếu tố phát sinh ra biến đổi sau đó tác dụng lên cơ thể sinh vật. Thuốc thú y thủy sản là tất cả các loại sản phẩm có thể dùng để tiêu diệt tác nhân gây bệnh, phòng và trị bệnh, nâng cao sức khỏe động vật thủy sản trong khi nuôi, khi vận chuyển và sau khi thu hoạch, để quản lý môi trường đều được gọi là thuốc dùng trong nuôi trồng thủy sản. I. Tác dụng của thuốc Tác dụng chủ yếu của thuốc là tiêu diệt mầm bệnh, mỗi loại thuốc khác nhau có tác dụng khác nhau. Người ta chia ra các tác dụng sau: 1. Tác dụng cục bộ và tác dụng hấp thu 1.1. Tác dụng cục bộ Thuốc sử dụng ở bộ phận, cơ quan nào thì chỉ có tác dụng ở bộ phận cơ quan đó mà không có tác dụng đối với bộ phận, cơ quan khác. Ví dụ: Cồn Iode, xanh Methylen bôi trực tiếp vào các vết thương, vết lóet của cá bệnh. 1.2. Tác dụng hấp thu Thuốc sau khi vào cơ thể hấp thu đến hệ thống tuần hoàn phát huy hiệu quả như dùng kháng sinh trị bệnh cho cá. 2. Tác dụng lựa chọn Tính mẫn cảm của các cơ quan trong cơ thể sinh vật với thuốc không giống nhau nên tác dụng trực tiếp của thuốc với các tổ chức cơ quan của cơ thể sinh vật cũng có khả năng lựa
- 6 chọn. Do quá trình sinh hóa của tế bào tổ chức các cơ quan không giống nhau, tế bào tổ chức của cơ quan nào phân hóa càng cao, quá trình sinh hóa càng phức tạp thì khả năng can thiệp của thuốc càng lớn vì vậy tính mẫn cảm của thuốc càng cao như hệ thống thần kinh. Tuy mỗi cơ quan có đặc trưng riêng nhưng trên một số khâu có sự giống nhau nên nhiều loại thuốc ngoài khả năng lựa chọn cao đối với đối với các tế bào của cơ quan ra còn có thể tác dụng trực tiếp đến các cơ quan khác nhất là lúc hàm lượng thuốc tăng. Vì vậy, tính lựa chọn của thuốc cũng mang tính tương đối. Hiện nay, việc dùng một số hóa chất để tiêu diệt sinh vật gây bệnh có tính lựa chọn tương đối cao nên với nồng độ không độc hại vói cơ thể ký chủ nhưng can thiệp được quá trình sinh hóa riêng của sinh vật gây bệnh phát huy hiệu quả trị liệu cao. Những sinh vật gây bệnh ký sinh trong cơ thể ký chủ có khả năng thích ứng càng cao chứng tỏ quá trình sinh hóa càng gần với tổ chức ký chủ nên tiêu diệt rất khó như: Virus ký sinh trong cơ thể người và động vật. Ngoài một số thuốc có tính lựa chọn cao còn có một số thuốc lại có tác dụng độc hại đối với tế bào chất nói chung. Thuốc vào cơ thể can thiệp quá trình sinh hóa cơ bản nhất của bất kỳ tế bào chất nào, vì vậy tác dụng đến sự sống của tất cả các tổ chức cơ quan khác như các ion kim loại mạnh kết hợp với gốc SH của men làm rối loạn chức năng hoạt động của hệ thống men nên tế bào tổ chức không tổng hợp được Protein. 3. Tác dụng hồi phục và không hồi phục Tác dụng hồi phục là thuốc trong giây phút đầu tiên có khả năng ức chế, kìm hãm khả năng hoạt động của cá nhưng sau một thời gian ngắn thì hoạt động đó sẽ trở lại bình thường. Ví dụ: Khi sử dụng Clorua vôi Ca(OCl)2 chỉ sau một thời gian thì sẽ làm cá nỗi đầu do nó ức chế quá trình hô hấp của cá, nhưng sau một thời gian thì hiện tượng nổi đầu chấm dứt. Tác dụng không hồi phục là thuốc khi tiêu diệt mầm bệnh ở cơ quan nào đó thì cũng làm chức năng hoạt động cơ quan đó không hồi phục trở lại. Ví dụ: sử dụng Iod để chữa lở lóet, đốm đỏ cho cá (bôi trực tiếp vào chỗ bệnh) làm cho lớp tế bào trên bề mặt vết thương tổn chết đi, chức năng hoạt động của lớp tế bào đó không hồi phục trở lại. 4. Tác dụng chữa bệnh và tác dụng phụ của thuốc Dùng thuốc để chữa bệnh nhằm mục đích tiêu diệt nguyên nhân gây bệnh và các triệu chứng bệnh nên thường người ta dùng thuốc chữa bệnh lại có thêm thuốc bồi dưỡng khôi phục lại chức năng hoạt động của các tổ chức cơ quan. Trong quá trình dùng thuốc tuy đạt được mục đích chữa bệnh nhưng có một số thuốc gây ra một số phản ứng phụ có thể tác hại đến cơ thể như: Do tính toán không chính xác nên nồng độ thuốc quá cao thì cá sẽ chết vì thuốc mà chưa chết vì bệnh. Có khi dùng nồng độ thuốc trong phạm vi an toàn nhưng điều kiện môi trường biến đổi xấu hoặc cơ thể động vật thủy sản yếu cũng dễ gây ngộ độc, với các bệnh ở bên trong cơ thể động vật thủy sản phải dùng thuốc trộn với thức ăn nhưng có một số bỏ ăn nên tính lượng thuốc khó chính xác, những con tham ăn dễ bị ngộ độc. Do đó, mỗi khi dùng thuốc để trị bệnh cần phải tăng cường công tác quản lý chăm sóc. Dùng thuốc tiêm cho động vật thủy sản có khả năng gây ra hiện tượng lở lóet. Do ảnh hưởng của thuốc nên sau khi dùng thuốc để chữa trị, một số ao có hiện tượng sinh trưởng không đều.
- 7 5. Tác dụng hợp đồng và tác dụng đối kháng của thuốc Cùng một lúc dùng hai hay nhiều loại thuốc làm cho tác dụng mạnh hơn lúc dùng riêng rẽ, chẳng hạn như dùng Dipterex tinh thể 90% với nồng độ 0.2 - 0.3 ppm cho xuống ao để trị sán lá đơn chủ ký sinh trên da và mang cá nhưng nếu phối hợp Dipterex và Na2CO3 theo tỷ lệ 1:0,6 chỉ cần dùng nồng độ 0,1-0,24 ppm cũng có kết quả trị liệu. Trái lại, một số thuốc khi dùng riêng lẻ tác dụng lại mạnh hơn pha trộn nhiều loại thuốc bởi giữa chúng có thể triệt tiêu tác dụng làm cho hiệu nghiệm giảm, tuy nhiên vấn đề này ở động vật thủy sản chưa được nghiên cứu nhiều. II. Các yếu tố ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc 1. Nồng độ thuốc Khi nồng độ thuốc tăng thì tác dụng của thuốc cũng tăng lên. Tùy theo điều kiện môi trường mà ta có thể sử dụng nồng độ thuốc thích hợp để không ảnh hưởng đến cá. Ví dụ: Sử dụng thuốc để trị bệnh phát sáng: khi chưa có dấu hiệu bệnh lý và sức khỏe của tôm tốt thì ta sử dụng nồng độ thuốc cao (nhưng vẫn nằm trong biên độ cho phép, lúc này tôm chịu được nồng độ thuốc cao vì sức khỏe tôm còn tốt) thì sẽ tiêu diệt bệnh nhanh chóng. 2. Cách dùng Cùng một loại thuốc có thể có nhiều cách dùng khác nhau. Ví dụ: Khi dùng kháng sinh để trị bệnh cho cá có các cách dùng như: - Bôi vào các vết thương tỗn. - Tắm cho cá -Trộn vào thức ăn cho cá ăn - Tiêm cho cá: cách này có tác dụng nhanh chóng và toàn diện nhất nhưng không phải trong điều kiện nào cũng tiêm được. - Cho vào bể (với những bể nhỏ). Mổi cách dùng có những ưu điêím và nhược điểm cũng như có những tác dụng khác nhau (nhanh, chậm, triệt để, không triệt để). 3. Môi trường Khi sử dụng thuốc thì tác dụng của nó mạnh hay yếu đều có liên quan đến các yếu tố môi trường như: - Nhiệt độ nước: bản chất của các cơ chế khi sử dụng thuốc là các phản ứng hóa học. Các phản ứng này xảy ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt độ. Theo nguyên tắc chung khi nhiệt độ tăng thì tác dụng của thuốc tăng lên do vậy nên trong quá trình trị bệnh cho tôm, cá khi nhiệt độ cao thì dùng nồng độ thuốc thấp và ngược lại (ở ngưỡng cho phép). Trong thực tế có rất nhiều trường hợp các nhà kỷ thuật trị bệnh cho cá không quan tâm đến nhiệt độ nước làm cá chết hàng loạt. - Độ mặn: độ mặn trong nước ảnh hưởng đến sự hòa tan của các loại thuốc. Có thuốc có khả năng hòa tan trong nước mặn yếu và ngược lại, do vậy nó ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc. Ví dụ: CuSO4 có khả năng hòa tan trong nước ngọt rất mạnh do vậy tác dụng của loại thuốc này trong nước ngọt cao. Tuy nhiên CuSO4 lại hòa tan trong nước biển rất yếu do đó tôm cũng bị các bệnh do Ciliata gây ra nhưng người ta ít đề cập đến CuSO4 để chữa bệnh cho tôm.
- 8 4. pH ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc Khi đưa thuốc vào môi trường có pH khác nhau thì thuốc sẽ ở các dạng khác nhau và tác dụng của thuốc ở các dạng khác nhau là khác nhau. Ví dụ: Khi Cl2 đưa vào môi trường nước sẽ tồn tại ở dạng HOCl- HOCl- OCl- + H+ Do đó Cl2 khi đưa vào môi trường nước sẽ tồn tại hai dạng: HOCl- và OCl- . OCl- độc hơn HOCl- , dạng tồn tại của Cl2 trong nước phụ thuộc nhiều vào pH của nước. Ở nồng độ từ 6-8 thì Clo tồn tại ở dạng HOCl nên tác dụng của nó không cao, vì vậy khi sử dụng thuốc ở pH cao thì tác dụng của nó cao nhưng không nên dùng nhiều vì nó có tác dụng trị bệnh cao nhưng đồng thời nó cũng gây độc cho tôm, cá. 5. Độ đục Độ đục được tạo bởi các chất vẩn hữu cơ có ảnh hưởng lớn đến tác dụng của thuốc, cụ thể như: - Chất vẩn hữu cơ trong môi trường nước là nơi trú ẩn của các mầm bệnh làm giẩm tác dụng của thuốc. - Đa phần các chất dùng để trị bệnh cho cá, tôm có độ oxy hóa mạnh, nó tham gia vào các quá trìng oxy hóa các chất hữu cơ do đó tác dụng của thuốc bị giảm xuống. Ví dụ: Khi dùng CuSO4 để trị bệnh thì một phần hợp chất này sẽ tham gia vào quá trình oxy hóa các chất hữu cơ do đó tác dụng trị bệnh của chúng giảm. 6. Các chất độc (H2S, NH3 ) Các chất độc như các chất khí H2S, NH3 có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của đối tượng nuôi. H2S, NH3 có thể ảnh hưởng gián tiếp hoặc trực tiếp đêïn tác dụng của thuốc: + Aính hưởng trong quá trình oxy hóa (ảnh hưởng trực tiếp). + Trong môi trường nước chứa nhiều khí độc này thì sức chịu đựng của tôm, cá đối với thuốc kém đi (ảnh hưởng gián tiếp). Khi sử dụng thuốc phải thể hiện được 3 mục đích: + Tiêu diệt được mầm bệnh. + Cá phải khỏe. + Hiệu quả về kinh tế: lượng thuốc vừa phải, không ảnh hưởng đến môi trường, không ảnh hưởng đến nguồn nước. III. Nguyên tắc chọn thuốc - Chọn thuốc có tính chất diệt trùng cao và có khả năng chọn lọc thấp: chỉ dùng một loại thuốc có thể diệt được nhiều mầm bệnh khác nhau. Ví dụ: Cá nước ngọt cùng một lúc có thể có trùng quả dưa, trùng bánh xe, nấm thủy mi, sán lá đơn chủ do vậy ta có thể dùng muối ăn 2-3% để phòng, trị bệnh. - Chọn thuốc có tính ổn định cao, có tác dụng ngăn chặn tác nhân gây bệnh, kìm hãm và tiêu diệt bệnh trong một thời gian ngắn. Ví dụ: Nấm thủy mi gây bệnh cho cá, ta có thể dùng thuốc tím, nước muối, xanh Metylen. Thuốc tím có tác dụng diệt trùng mạnh nhất nhưng nhanh mất tác dụng dưới ánh sáng mặt trời và nhiệt độ nên bệnh mau tái phát, do vậy chọn xanh Metylen là hợp lý nhất, đây là cách chọn thuốc có tính ổn định cao.
- 9 - Chọn thuốc có biên độ an toàn lớn: Việc xác định nồng độ thuôïc trị bệnh cho cá rất khó chính xác. Do vậy khi trị bệnh cho tôm, cá nếu chọn thuốc có biên độ an toàn nhỏ sẽ dẫn tới các phản ứng phụ và gây tác hại lớn, vì vậy khi trị bệnh cho các đốïi tượng thủy sản nên dùng các loại thuốc có biên độ an toàn lớn để không ảnh hưởng đến sức khỏe của đối tượng thủy sản nuôi. - Chọn thuốc ít độc đối với đối tượng nuôi và cả người sử dụng. Ví dụ: Malachite green có độc tinh cao đối với đối tượng nuôi và cả người sử dụng nên bị nghiêm cấm dùng trong thủy sản. Hiện nay người ta thường dùng Dypterex có độc tính ít đặc biệt là trong môi trường nước một thời gian thì mất tính độc. Chlorin thường dùng nhưng cũng ảnh hưởng đến đối tượng nuôi và người sử dụng. Trong ao hợp chất này tiêu diệt hệ sinh vật làm đáy ao mau thoái hóa nên người ta thường dùng trong các bể nuôi. - Chọn thuốc rẻ tiền và dễ tìm: Dùng cây cỏ để trị bệnh cho cá như: lá xoan, mã đề, cây chó đẻ răng cưa, tỏi IV. Giới thiệu một số thuốc thường dùng trong nghề nuôi thủy sản 1. Thuốc là các chất vô cơ 1.1. Thuốc tím ( KMnO4) Là chất kết tinh có màu nâu, hòa tan rất tốt trong nước, KMnO4 có khả năng Oxy hóa rất mạnh. Trong môi trường nước KMnO4 có khả năng tạo ra Oxy nguyên tử mà chính nó tham gia vào quá trình Oxy hóa các Protein của tác nhân gây bệnh để tiêu diệt tác nhân gây bệnh. Trong thủy sản KMnO4 dùng để: - Sát trùng dụng cụ. - Tẩy ao. - Phòng và trị một số bệnh như: nguyên sinh động vật, nấm. Nồng độ dùng 10-20 ppm để tắm cho cá trong thời gian 30-40 phút tùy theo nhiệt độ nước. Ở Việt Nam người ta thường dùng KMnO4 để phòng và trị bệnh nấm thủy mi, nguyên sinh động vật ( trùng bánh xe). Dùng 2-5 ppm cho thẳng vào bể ấp trứng. 1.2. Khí Clo và các hợp chất chứa Clo(Clorin, Ca(OCl)2, NaOCl) Là các chất có khả năng Oxy hóa rất mạnh, các hợp chất chứa Clo thường là các chất bột có mùi Clo, dễ tan trong nước do đó chúng dễ hút ẩm và đễ đóng vón, dễ bay Clo làm giảm tác dụng của các hợp chất nên các hợp chất này cần được bảo quản ở những nơi khô ráo. - Trong môi trường nước các hợp chất Clo thường tồn tại ở 2 dạng: HOCl- và OCl- H2O - Cl2 HOCl + HCl H2O - Ca(OCl)2 CaCl2 + Ca(OH)2 + HOCl HOCl- H+ + OCl- Tác dụng diệt trùng của OCl-mạnh hơn HOCl- và phụ thuộc vào pH của nước. Các hợp chất Clo tác dụng đến hoạt động các men. - Các hợp chất Clo được dùng nhiều trong bể ấp, ao nuôi để tẩy trùng, phòng và trị bệnh, nồng độ dùng không ổn định.
- 10 + Clorin: dùng cho cá với nồng độ 1 ppm, dùng cho tôm với nồng độ 8-15 ppm tùy vào điều kiện sục khí để sát trùng nước, dụng cụ, nồng độ dùng không ổn định, trung hòa Clo thừa trong nước bằng Natrithiosulfat. Gần đây người ta còn cho rằng hợp chất Clo còn có khả năng tiêu diệt vi thể của virus ngoài môi trường. + Khí Clo ở các nước tiên tiến dùng để trị bệnh trong hệ thống ao nuôi thâm canh. 1.3. Sulphat đồng ( CuSO4 ) CuSO4 là chất kêt tinh màu xanh lam, rất dễ tan trong nước, khi để trong không khí thường hút nước và ngậm 5 phân tử nước. CuSO4 có khả năng Oxy hóa mạnh và khi dùng để chữa bệnh thì nó có khả năng tác dụng vào protein của tác nhân làm đông vón protein gây cho cơ thể tác nhân mất nước và chết. - Trong NTTS nước ngọt có thể dùng CuSO4 để tẩy ao, phòng và trị các bệnh NSĐV, tảo ký sinh, giáp xác với nhiều cách dùng khác nhau. + Tắm cho cá với nồng độ 1-10 ppm trong thời gian từ 15-20 phút tùy theo nhiệt độ. + Cho xuống ao 0,1-1 ppm (bằng 1/10 lần nồng độ tắm), thường dùng là: 0,3-0,7 ppm. + Pha CuSO4 trong bể có thể tích nhỏ để ngâm cá với nồng độ 1-2 ppm trong thời gian 1-2 ngày. Ngoài ra, ở một số nước người ta còn dùng kết hợp CuSO4 với FeSO4 theo tỷ lệ 3,5:1,5 để tăng hiệu quả của CuSO4. * Mỗi một cách dùng có những ưu diểm và nhược điểm riêng. + Tắm: ít tốn thuốc, không ảnh hưởng đến cơ sở thức ăn tự nhiên, điều kiện môi trường ao nuôi, tiêu diệt tác nhân gây bệnh trên cá mà không tiêu diệt tác nhân trong môi trường cho nên tác dụnh diệt trùng không triệt để. Không thể kéo hết cá lên tắm, khi kéo có thể làm ảnh hưởng đến sức khỏe của cá. + Cho xuống ao: dể làm nhưng ảnh hưởng đến cơ sở thức ăn tự nhiên, sức khỏe của đối tượng nuôi và môi trường ao, do đó sau 1-2 ngày tiêu diệt hết mầm bệnh phải thay nước để tạo môi trường ao nuôi trong sạch, không gây ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm, cá. 1.4. Clorua đồng (CuCl2) CuCl2 là chất kết tinh màu xanh lam, tan nhiều trong nước. Trong thủy sản CuCl2 được dùng để tẩy dọn ao, tiêu diệt một số ký chủ trung gian gây bệnh. 1.5. Vôi Có nhiều loại vôi được dùng trong thủy sản như: vôi sống (vôi nung), CaO, vôi tôi (Ca(OH)2), CaCO3, CaMgCO3. Trong thủy sản vôi có một số tác dụng như: + Sát trùng + Ổn định pH + Cải tạo môi trường nuôi và thúc đẩy quá trình chuyển hóa vật chất trong ao nuôi. - CaO: có tác dụng làm tăng pH nước lên rất cao, nồng độ 10% thì pH = 12, việc dùng CaO rất nguy hiểm nên người ta chỉ dùng loại này để tẩy ao là chủ yếu, đặc biệt ở những nơi có pH đất tiềm năng thấp.
- 11 - Ca(OH)2: cũng như CaO, Ca(OH)2 làm pH tăng cao, 10% loại vôi này làm tăng pH lên 11, do vậy Ca(OH)2 được dùng chủ yếu để diệt tạp. Trong ao nuôi tôm chỉ dùng Ca(OH)2 khi pH<6. - CaCO3 và CaMgCO3: Hai loại này ít có khả năng làm tăng pH (khi bón 10% 2 loại vôi này chỉ làm tăng pH lên 9), tác dụng chủ yếu của loại này là làm tăng độ cứng của nước trong ao tạo điều kiện thuận lợi cho sinh vật phù du phát triển, ổn định pH. Ở Việt Nam người ta chủ yếu dùng CaO, Ca(OH)2, nồng độ dùng tùy thuộc vào pH của nguồn nước. 1.6. I-ốt Là chất kết tinh lóng lánh có màu nâu. Iốt ít tan trong nước nhưng tan nhiều trong cồn, nên người ta thường dùng dưới dạng cồn i ốt bão hòa. Tính sát trùng của i ốt rất cao. Trong thủy sản người ta dùng i ốt bôi lên vết thương của cá để chữa bệnh do vi khuẩn, giáp xác hoặc nguyên sinh động vật gây ra. Ví dụ: Trị bệnh lở lóet, đốm đỏ của cá bố mẹ, người ta thường dùng cồn i ốt bôi lên vết thương tổn để tiêu diệt vi khuẩn và làm lành vết thương. 2. Thuốc là các chất hữu cơ 2.1. Xanh Methylen: C16H18N3SCl.3H2O Dạng bột màu xanh đậm, có khả năng hòa tan tốt trong môi trường nước. Xanh Methylen có khả năng oxy hóa các hệ men của vi sinh vật từ đó tiêu diệt được vi sinh vật. Trong thủy sản người ta dùng xanh Methylen để: - Phòng và trị một số bệnh do vi khuẩn, nấm, nguyên sinh động vật gây ra. - Cách dùng: ngâm cá hoặc trứng cá trong xanh Methylen ở nồng độ 0,2-0,3ppm. Hoặc dùng bôi vào vết thương tổn. Một số nước cho rằng có thể trộn xanh Methylen vào khẩu phần thức ăn của cá. 2.2. Formaline: CH2O Thực chất là Andehyt formic, hòa tan vào nước 35-40%. Tồn tại ở thể lỏng có mùi hăng và cay. Formaline có tính khử rất mạnh được dùng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản. - Dùng để tẩy dọn ao, bể, dụng cụ nuôi và xử lý nước. - Dùng để phòng và trị một số bệnh do nguyên sinh động vật, nấm: là thuốc đặc trị để phòng và trị bệnh do động vật đơn bào gây ra cho tôm: Zoothamnium. - Nồng độ dùng: 20-30ppm. Tắm cho cá 100ppm. 2.3. Dipterex: C4H8Cl3O4.P Là dạng bột có màu trắng ngà, trắng xám, được dùng phổ biến trong nông nghiệp và thú y. Dipterex có khả năng diệt trùng rất cao (90%); Trong nuôi trồng thủy sản Dipterex có nhiều loại khác nhau 2,5%; 25%; 50%. - Nồng độ dùng tùy theo từng loại Dipterex, thường dùng Dipterex 25% và 50% - Tác dụng tiêu diệt đặc biệt đối với: côn trùng, giáp xác, giun sán, động vật nguyên sinh. - Dipterex tác động lên hệ thần kinh của tác nhân gây bệnh. Trong nuôi trồng thủy sản, Dipterex dunìg để tẩy ao và trị các bệnh do giáp xác gây ra như bệnh trùng mỏ neo.