Bài giảng Corel DRAW - Hoàng Ngọc Giao

doc 112 trang phuongnguyen 3390
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Corel DRAW - Hoàng Ngọc Giao", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_giang_corel_draw_hoang_ngoc_giao.doc

Nội dung text: Bài giảng Corel DRAW - Hoàng Ngọc Giao

  1. Bài giảng Corel DRAW
  2. Hoàng Ngọc Giao Xin nói ngay rằng không nhất thiết phải là họa sĩ trình bày hoặc họa viên kỹ thuật chuyên nghiệp, một khi bạn yêu thích màu sắc, đường nét và bố cục, Corel DRAW chắc chắn sẽ đem đến cho bạn những niềm vui tuyệt vời mỗi khi có nhu cầu, có cơ hội bộc lộ thị hiếu thẩm mỹ của mình. Tài liệu này giúp bạn tìm hiểu cách dùng Corel DRAW thuộc bộ Corel Graphics Suite 11 và rèn luyện những kỹ năng đồ họa căn bản. Cần nói rằng Corel Graphics Suite thực ra là một bộ công cụ đồ họa. Nếu cài đặt Corel Graphics Suite đầy đủ, bạn có trong tay nhiều công cụ khác nhau: Corel TRACE, Corel PHOTO-PAINT, Corel R.A.V.E., và quan trọng nhất là Corel DRAW, "trái tim" của Corel Graphics Suite. Cửa sổ Corel DRAW Giả sử máy tính của bạn đã được cài đặt bộ công cụ Corel Graphics Suite. Ta bắt đầu nhé Bấm nút Start, trỏ vào Programs, trỏ vào Corel Graphics Suite 11 và bấm vào Corel Khởi động Corel DRAW. DRAW trên trình đơn vừa hiện ra. Từ đây về sau, thao tác mà bạn cần thực hiện được trình bày trong bảng tương tự như trên. Cột trái của bảng mô tả thao tác. Cột phải giải thích ý nghĩa, tác dụng của thao tác. Khi thủ tục khởi động kết thúc, cửa sổ Corel DRAW xuất hiện trên màn hình (hình 1). Nếu chưa từng dùng Corel DRAW lần nào, có lẽ bạn sẽ hơi hoảng (và ngao ngán nữa!) vì những chi tiết nhằng nhịt trong cửa sổ Corel DRAW. Thực ra không có gì ghê gớm lắm đâu. Trấn tĩnh một chút, phân biệt từng bộ phận của cửa sổ Corel DRAW, bạn sẽ tự tin trở lại. Hình 1
  3. Như bạn thấy ở hình 1, chỗ trên cùng của cửa sổ Corel DRAW là thanh tiêu đề (title bar), nơi hiển thị tên bản vẽ hiện hành (Corel DRAW tự động lấy tên bản vẽ mới là Graphics1). Ngay dưới thanh tiêu đề là thanh trình đơn (menu bar). Gọi như vậy vì thanh này nêu tên các trình đơn. Mỗi trình đơn có một lô mục chọn, cho phép ta thực hiện các thao tác khác nhau. Chẳng hạn trình đơn Effects giúp bạn tạo ra các hiệu ứng đặc biệt. Bấm vào mục Effects trên thanh trình đơn Trình đơn Effects hiện ra (hình 2) Hình 2 Phần trống trải nhất trên cửa sổ Corel DRAW là miền vẽ (drawing area). Giữa miền vẽ là trang in (printed page), được biểu diễn dưới dạng hình chữ nhật có bóng mờ phía sau. Chỉ có những đối tượng (object) nằm trong trang in mới được in ra giấy mà thôi. Nếu đối tượng có một phần nằm trong trang in, một phần nằm ngoài trang in, chỉ có phần nằm trong trang in được in ra giấy. Bằng cách bày ra trang in ngay trên màn hình, Corel DRAW giúp bạn hình dung rất rõ ràng bố cục của bản vẽ trên giấy, làm cho công việc thiết kế trở nên tự nhiên, rất giống cách làm truyền thống. Quanh miền vẽ lại còn có thước đo (ruler) dọc và ngang, cho phép ước lượng dễ dàng kích thước thực sự trên giấy của các đối tượng và khoảng cách giữa chúng. Phía dưới thanh trình đơn và bên trái miền vẽ là các thanh công cụ (toolbar). Gọi như vậy vì đấy là nơi chứa các công cụ làm việc, tựa như hộp "đồ nghề" của bạn. Mỗi công cụ xuất hiện trên thanh công cụ dưới dạng một nút bấm và đều có tên gọi riêng (tiếng Anh kêu bằng tooltip). Để biết công cụ nào đó kêu bằng gì, bạn trỏ vào công cụ ấy và đợi chừng một giây. Một ô nhỏ màu vàng hiện ra cạnh dấu trỏ chuột, trình bày tên công cụ đang xét. Bấm vào đâu đó trên miền vẽ Trình đơn Effects biến mất Trỏ vào một công cụ nào đó tùy ý bạn trên Xuất hiện một ô nhỏ màu vàng nêu tên thanh công cụ ở bên trái miền vẽ và chờ công cụ đang xét (hình 3) chừng một giây
  4. Hình 3 Có khá nhiều mục chọn trên các trình đơn được biểu diễn bằng công cụ rõ ràng treên thanh công cụ giúp bạn thao tác tiện lợi. Khi đã quen với Corel DRAW, chắc chắn bạn sẽ thích "vớ lấy" các món cần thiết trên thanh công cụ hơn là chọn mục tương đương trên trình đơn. Bên phải miền vẽ là bảng màu (palette) gồm nhiều ô màu (color box), nhờ đấy bạn có thể chọn màu cho mỗi đối tượng của bản vẽ. [Đầu trang] Thay đổi vị trí các thanh công cụ và bảng màu Thực ra bạn có thể tùy ý sắp xếp vị trí trên màn hình của bảng màu cũng như của các thanh công cụ sao cho thuận tiện, không nhất thiết phải giữ nguyên cách bố trí hiện có. Rất đơn giản, bạn chỉ việc "nắm lấy" bản thân thanh công cụ (ở chỗ không có nút bấm) và kéo đến bất kỳ nơi nào bạn muốn. Thông thường, ta nắm lấy thanh công cụ ở phần đầu (nơi có hai dấu vạch) là dễ hơn cả. Trỏ vào phần đầu thanh công cụ ở ngay dưới thanh trình đơn Thanh công cụ tái hiện ở giữa màn hình Kéo thanh công cụ đến giữa màn hình dưới dạng một cửa sổ (hình 4) Hình 4 Nhìn vào thanh công cụ giữa màn hình, bạn thấy tên gọi Standard, ngụ ý nói rằng đấy là thanh công cụ chuẩn có các chức năng phổ biến (hầu hết công cụ trên Windows đều có thanh công cụ Standard chứ không riêng gì Corel DRAW). Như mọi cửa sổ trong môi trường Windows, bạn có thể di chuyển hoặc điều chỉnh kích thước cửa sổ Standard. Để di chuyển cửa sổ, chắc bạn đã biết, ta phải nắm lấy thanh tiêu đề của nó. Muốn co dãn cửa sổ, bạn trỏ vào biên cửa sổ sao cho dấu trỏ biến thành mũi tên hai đầu và kéo biên cửa sổ tùy ý để đạt được kích thước mong muốn. Ghi chú * Để di chuyển thanh công cụ từ vị trí cố định sang trạng thái "trôi nổi", thay vì "nắm kéo", bạn có thể bấm-kép vào phần đầu thanh công cụ (chỗ có hai dấu vạch). Kéo biên cửa sổ Standard để thay đổi hình dạng cửa sổ Trỏ vào thanh tiêu đề của cửa sổ Standard và kéo lên trên một chút
  5. Trỏ vào phần đầu thanh công cụ ngay dưới Thanh công cụ Property Bar xuất hiện thanh trình đơn (ở chỗ có hai dấu vạch) và bên dưới thanh công cụ Standard (hình kéo đến chỗ bên dưới thanh công cụ 5) Standard Trỏ vào phần đầu thanh công cụ bên trái miền vẽ và kéo đến chỗ bên dưới thanh công cụ Property Bar Trỏ vào phần đầu bảng màu và kéo bảng màu đến chỗ bên dưới thanh công cụ Toolbox Hình 5 Bạn đã "quen quen" với thao tác trên các thanh công cụ rồi đó. Sau này, tùy theo công việc đang thực hiện, bạn có thể "tha" các thanh công cụ đến những nơi thuận tiện nhất trên màn hình. Thanh công cụ Toolbox là hộp "đồ nghề" cực kỳ quan trọng mà bạn sẽ cần đến rất thường xuyên khi làm việc với Corel DRAW. Thanh công cụ Property Bar có nhiệm vụ cung cấp các phương tiện để bạn điều chỉnh thuộc tính của các đối tượng. Sau này bạn sẽ thấy rằng thanh công cụ Property Bar thay đổi linh hoạt như "cắc kè bông" tùy tho tình huống, tùy theo công cụ đang dùng và đối tượng được chọn. Các thao tác vừa thực hiện giúp bạn thấy rằng ta có thể chủ động điều chỉnh môi trường làm việc của mình như thế nào. Tuy nhiên lúc này ta nên đặt các thanh công cụ vào lại vị trí như "thuở ban đầu". Nói chung, đấy là cách bố trí hợp lý, gọn gàng nhất trừ khi bạn có yêu cầu "bức xúc" trong tình huống nào đó. Trỏ vào thanh tiêu đề của cửa sổ Standard Cửa sổ Standard "đậu" vào chỗ cố định và kéo cửa sổ này đến chỗ bên dưới thanh bên dưới thanh trình đơn, có dạng thanh trình đơn nằm ngang Tương tự, kéo cửa sổ Property Bar đến chỗ Cửa sổ Property Bar "đậu" vào chỗ cố
  6. bên dưới thanh công cụ Standard định bên dưới thanh công cụ Standard, có dạng thanh nằm ngang Cửa sổ Toolbox "đậu" vào chỗ cố định Kéo cửa sổ Toolbox đến biên trái cửa sổ ở biên trái cửa sổ Corel DRAW, có dạng Corel DRAW (biên trái màn hình) thanh thẳng đứng Kéo bảng màu đến biên phải cửa sổ Corel Bảng màu trở lại tư thế thẳng đứng, bám DRAW dình vào biên phải cửa sổ Corel DRAW [Đầu trang] Corel DRAW là gì nhỉ? (Bài 2) [Hoàng Ngọc Giao] Trình đơn cảnh ứng Có một cách nhanh chóng để làm thanh công cụ bất kỳ biến mất hoặc hiện ra: bạn bấm-phải vào thanh công cụ nào đó và tùy ý bật/tắt các thanh công cụ được liệt kê trên trình đơn vừa hiện ra (hình 1). Bạn chú ý, phải "nhắm" vào bản thân thanh công cụ, đừng đụng nhầm vào các nút trên thanh công cụ. Hình 1 Trình đơn xuất hiện do thao tác bấm-phải được gọi chung là trình đơn cảnh ứng (context-sensitive menu). Nghĩa là trình đơn "tương ứng với hoàn cảnh" í mà! Gọi như vậy là vì tùy theo bạn bấm-phải vào chi tiết nào trên màn hình, trình đơn hiện ra có các mục chọn liên quan đến chi tiết ấy. Trình đơn cảnh ứng liên kết với thao tác bấm-phải là phương tiện giao tiếp phổ biến trong Corel DRAW và trong môi trường Windows nói chung. Bạn thử ngay xem Bấm-phải vào thanh công cụ Property Trình đơn cảnh ứng hiện ra (hình 1) trình Bar bày danh sách mọi thanh công cụ Nhìn vào trình đơn cảnh ứng vừa hiện ra, bạn để ý, trước mỗi tên gọi thanh công cụ có thể có dấu duyệt (check mark) hoặc không. Dấu duyệt ngụ ý nói rằng thanh công cụ tương ứng đang hiển thị trên màn hình. Muốn bật/tắt thanh công cụ nào, bạn bấm vào tên gọi của nó trên trình đơn cảnh ứng. Bấm vào Toolbox trên trình đơn cảnh Thanh công cụ Toolbox biến mất ứng Bấm-phải vào thanh công cụ Property Trình đơn cảnh ứng hiện ra. Lúc này
  7. Bar trước tên Toolbox đã mất dấu duyệt vì thanh công cụ Toolbox ở trạng thái "tắt" Bấm vào Toolbox trên trình đơn cảnh Thanh công cụ Toolbox hiện ra ứng Chắc bạn đang "nóng máy", muốn bắt tay vào chuyện vẽ vời chi đó ngay tức thì. Bạn bình tĩnh, ta nên "đi dạo" trong Corel DRAW thêm chút nữa, xem cho biết. [Đầu trang] Cửa sổ neo đậu Tên gọi kỳ cục nêu trên nhằm nói đến một phương tiện giao tiếp phổ biến của Corel DRAW. Cửa sổ neo đậu (docker) là cửa sổ có khả năng neo đậu gọn gàng, cố định ở biên phải hoặc biên trái của cửa sổ Corel DRAW. Cũng như mọi loại cửa sổ, bạn có thể kéo cửa sổ neo đậu đến bất cứ chỗ nào trên màn hình tùy theo yêu cầu công việc. Tuy nhiên, có lẽ trạng thái "neo đậu" của loại cửa sổ này ở biên phải hoặc biên trái cửa sổ Corel DRAW vẫn thuận tiện cho bạn hơn cả (tùy theo bạn thuận tay phải hay tay trái). Ta thử cho hiển thị cửa sổ neo đậu Object Manager. Cửa sổ này dùng để trình bày các lớp (layer) của bản vẽ và liệt kê những đối tượng trên từng lớp. Bấm Tools trên thanh trình đơn và bấm Cửa sổ neo đậu Object Manager xuất Object Manager (để cho tiện, sau này ta hiện, bám dính vào biên phải miền vẽ nói vắn tắt: chọn Tools > Object (hình 2). Miền vẽ bị thu hẹp Manager) Để thấy rằng cửa sổ neo đậu cũng có thể "trôi nổi" linh hoạt như thanh công cụ, bạn trỏ vào hai vạch dài nằm ngang ở cạnh trên cửa sổ neo đậu và kéo cửa sổ "rời bến". Trỏ vào cạnh trên cửa sổ neo đậu Object Cửa sổ neo đậu Object Manager trở Manager và kéo nó sang trái, vào giữa thành cửa sổ bình thường (hình 3) miền vẽ Trỏ vào thanh tiêu đề của cửa sổ Object Cửa sổ Object Manager "cập bến", trở Manager, kéo sát vào biên phải miền vẽ về tình trạng neo đậu như lúc đầu Bạn chú ý dấu mũi tên kép chỉ qua phải ở đầu cửa sổ neo đậu. Nếu bấm vào đấy, cửa sổ sẽ thu gọn thành một thanh dài, chạy dọc biên phải miền vẽ (cứ như loại cửa mành kéo vậy). Ta thực hiện thao tác này khi muốn tạm thời dẹp cửa sổ neo đậu qua một bên để thêm chỗ làm việc. Bấm vào dấu mũi tên kép ở đầu cửa sổ Cửa sổ Object Manager bị thu gọn neo đậu Object Manager thành một thanh dài Lúc này ở đầu cửa sổ Object Manager thu gọn có dấu mũi tên kép chỉ qua trái. Nếu bạn bấm vào đấy, cửa sổ được "bung ra", trở lại hình dạng cũ. Bấm vào mũi tên kép ở đầu cửa sổ neo Cửa sổ Object Manager được phục hồi đậu Object Manager kích thước cũ Hình 2
  8. Hình 3 [Đầu trang] Các cửa sổ bản vẽ Khi bạn mở bản vẽ, Corel DRAW nạp bản vẽ lưu trữ trên đĩa vào bộ nhớ của máy và hiển thị bản vẽ trên màn hình. Bạn có thể mở nhiều bản vẽ cùng lúc. Mỗi bản vẽ được hiển thị trong cửa sổ dành riêng gọi là cửa sổ bản vẽ (drawing window). Muốn làm việc với bản vẽ nào, một cách tự nhiên, bạn bấm vào bản vẽ ấy để chọn. Bản vẽ được chọn gọi là bản vẽ hiện hành (current drawing). Theo mặc định, bản vẽ cuối cùng được mở là bản vẽ hiện hành. Hiện thời, cửa sổ của bản vẽ hiện hành (bản vẽ Graphic1 trống trơn của ta) đang có kích thước cực đại. Để thấy rõ rằng bản vẽ hiện hành nằm trong một cửa sổ dành riêng, bạn thao tác như sau. Bấm vào nút "phục hồi" (Restore) ở góc Cửa sổ bản vẽ Graphic1 lấy kích thước trên, bên phải cửa sổ bản vẽ (hình 4) "bình thường", không phải kích thước cực đại Hình 4
  9. Bạn thấy rõ cửa sổ Graphic1 nằm "chỏng trơ" trên màn hình. Như đối với mọi cửa sổ, bạn có thể điều chỉnh kích thước "bình thường" của cửa sổ bản vẽ. Cụ thể, bạn trỏ vào biên cửa sổ (sao cho dấu trỏ biến thành mũi tên hai đầu) và kéo biên cửa sổ để đạt được kích thước mong muốn. Việc này không có gì đáng chú ý. Ta hãy mở xem vài bản vẽ có sẵn. Chọn File > Open Hộp thoại Open Drawing xuất hiện giúp bạn tìm đến thư mục chứa các tập tin bản vẽ Tìm đến thư mục Program Bạn thấy vài tập tin bản vẽ như hình 5. Files\Corel\Corel Graphics Bạn để ý, phần phân loại của tên tập tin 11\Draw\Samples bản vẽ là CDR (viết tắt của Corel DRaw) Bấm-kép vào bản vẽ Sample1 (hoặc bấm Mở bản vẽ Sample1 vào Sample1 rồi bấm nút OK) Hình 5 Cửa sổ bản vẽ Sample1 xuất hiện trên màn hình, "gối đầu" lên cửa sổ bản vẽ Graphic1. Bản vẽ Sample1 đủ cho bạn thấy Corel DRAW có thể giúp ta trình bày trang in tinh tế như thế nào. "Thừa thắng xông lên", ta hãy mở thêm bản vẽ khác, bản vẽ Sample2.
  10. Chọn File > Open rồi bấm-kép vào bản Bản vẽ Sample2 xuất hiện, gối đầu lên vẽ Sample2 bản vẽ Sample1 (hình 6) Bấm vào thanh tiêu đề của cửa sổ Bản vẽ Sample1 được đưa lên "trên Sample1 cùng", trở thành bản vẽ hiện hành Bấm vào thanh tiêu đề của cửa sổ Bản vẽ Graphic1 được đưa lên "trên Graphic1 cùng", trở thành bản vẽ hiện hành Hình 6 [Đầu trang] Ghi chú • Đối với bản vẽ phức tạp, nếu máy của bạn không được mạnh lắm, thời gian mở bản vẽ có thể kéo dài. Nếu không đủ kiên nhẫn ngồi "đếm ruồi", chờ Corel DRAW mở xong bản vẽ, bạn có thể gõ phím Esc để cắt ngang tiến trình ấy, xin thôi mở. Với cách bày biện các cửa sổ bản vẽ như hiện thời, mỗi lúc bạn chỉ có thể quan sát một bản vẽ. Trong môi trường Windows, ngoài kiểu phối trí gối đầu (cascade) của các cửa sổ, bạn còn có thể chọn kiểu phối trí lấp đầy (tile), theo đó, các cửa sổ được dàn ra theo hàng ngang hoặc theo hàng dọc sao cho lấp đầy vùng màn hình được phép hiển thị. Chọn Window > Tile Horizontally Bạn quan sát được cả 4 bản vẽ Giả sử bạn cần quay trở lại làm việc với bản vẽ Graphic1 Bấm vào nút "phóng to" (Maximize) Cửa sổ Graphic1 trở lại kích thước cực trên cửa sổ Graphic1 đại, che khuất các cửa sổ bản vẽ khác Lại giả sử bạn cần xem lại bản vẽ "của người ta" Bấm vào nút "thu gọn" (Minimize) Cửa sổ Graphic1 thu nhỏ hết cỡ, chỉ còn trên cửa sổ Graphic1 lại thanh tiêu đề, để lộ ra các bản vẽ đã
  11. mở Chọn Window > Tile Vertically Các cửa sổ bản vẽ Sample1 và Sample2 "đứng thẳng lên" Bạn đã biết rõ thế nào là cửa sổ bản vẽ và có dịp thực hiện các thao tác căn bản khi làm việc với nhiều bản vẽ cùng lúc: chọn bản vẽ hiện hành, sắp xếp các bản vẽ trên màn hình, phóng to hoặc thu gọn bản vẽ. Việc mở nhiều bản vẽ cùng lúc sẽ làm bộ nhớ máy tính bị chiếm mất nhiều chỗ và thu hẹp lại. Hoạt động của Corel DRAW có thể trở nên chậm chạp hơn do thường xuyên dọn chỗ trên bộ nhớ (sao chép tạm thời dữ liệu từ bộ nhớ "xuống" đĩa cứng và ngược lại). Vì vậy, khi không còn cần đến bản vẽ nào, bạn nên đóng bản vẽ ấy lại, nói rõ hơn là đóng cửa sổ bản vẽ bằng cách bấm vào nút Close ở góc trên, bên phải cửa sổ. Khi ấy, dữ liệu của bản vẽ bị xóa bỏ trên bộ nhớ. Bạn chú ý, thao tác đóng cửa sổ khác với thao tác thu gọn cửa sổ như ta vừa thực hiện. Cửa sổ bản vẽ bị thu gọn vẫn hiện diện trên bộ nhớ và sẵn sàng hiển thị "đàng hoàng" trên màn hình khi bạn bấm vào nút phục hồi hoặc phóng to. Bấm vào nút Close trên cửa sổ Cửa sổ Sample2 biến mất Sample2 Tương tự, đóng cửa sổ Sample1 Cửa sổ Sample1 biến mất Bấm vào nút "phóng to" (Maximize) Cửa sổ Graphic1 trở về kích thước cực trên cửa sổ Graphic1 đại Bạn mệt chưa? Ta nghỉ đi nhé Chọn File > Exit Cửa sổ Corel DRAW biến mất Khi bạn chọn File > Exit hoặc bấm nút Close ở góc phải, trên cùng, bản thân Corel DRAW bị xóa khỏi bộ nhớ máy tính. Corel DRAW là gì nhỉ? (Bài 3) [Hoàng Ngọc Giao] Hỏi-Đáp Sao Corel DRAW không cho phép in ra tuốt luốt mọi đối tượng trong miền vẽ mà bày đặt "trang in" làm gì nhỉ? Chắc bạn mới "gặp gỡ" Corel DRAW lần đầu tiên? Những người từng dùng Corel DRAW thậm chí từ "cái thuở ban đầu lưu luyến" ở thập niên 80 đều biết rõ ích lợi của "trang in" nằm giữa miền vẽ. Với cái gọi là trang in, Corel DRAW giúp bạn hình dung rõ ràng tờ giấy (với kích thước đã chọn), có thể ngắm nghía khá chính xác thành quả của mình trước khi thực sự in ra giấy. Nếu không, có lẽ ta sẽ tiêu tốn khá nhiều giấy để in thử nhiều lần, loay hoay trong cái vòng luẩn quẩn "in rồi sửa, sửa rồi in đại". Tôi hỏi thế này khí không phải, mọi thứ được vẽ ra để mà in, có ai ngu gì mà "vẽ voi" bên ngoài trang in? Có những hình ảnh mà ta chỉ cần in một phần (hình bít-máp thu được từ máy quét chẳng hạn). Ngoài ra, bạn có công nhận rằng đôi khi vẽ toàn bộ hình ảnh chi đó rồi in một phần lại dễ hơn vẽ chỉ có "một phần"? Và chỉ cần xê dịch hình ảnh để phần "chìm" của nó lọt vào trang in, bạn có ngay một bản vẽ khác. Khi nào cần bỏ qua, không muốn in chi tiết gì đó trong bản vẽ, bạn chỉ việc kéo nó ra ngoài trang in. Khỏe re! Nếu đổi ý, bạn lại kéo chi tiết ấy vào trang in. Nói chung, đặt tạm các đối tượng chưa cần in ở ngoài trang in là điều nên làm hơn xóa bỏ hẳn đối tượng đó. Tình thế công việc luôn luôn thay đổi, bạn biết đó. Tôi để ý thấy phía dưới miền vẽ của Corel DRAW, ở bên trái có dấu mũi tên và dấu cộng. Đó là gì vậy? Bạn tinh ý thật! Đó là bộ phận chuyển trang (page navigator), rất cần thiết đối với bản vẽ gồm nhiều trang. Dấu cộng giúp bạn chèn thêm trang mới. Hai dấu mũi tên với vạch đứng kế bên giúp bạn lật đến trang cuối và trở về
  12. trang đầu. Mở nhiều bản vẽ cùng lúc có ích lợi gì? Máy thì chạy chậm chạp, mình lại bị hoa mắt! Trong những phiên bản đầu tiên, Corel DRAW chỉ cho phép ta mỗi lúc làm việc với một bản vẽ duy nhất. Khi cần gì đó trong bản vẽ khác ("cọp pi" vài thứ có sẵn chẳng hạn), bạn phải mở bản vẽ ấy, để rồi sau đó mở lại bản vẽ đang làm dở dang. Trong mỗi lần mở bản vẽ, Corel DRAW dò tìm bản vẽ nằm trên đĩa cứng và nạp bản vẽ vào bộ nhớ máy tính. Thao tác này khá mất thì giờ. Khi bạn mở nhiều bản vẽ cùng lúc, Corel DRAW "bày biện" các bản vẽ ngay trên bộ nhớ, giúp bạn làm việc thuận lợi hơn. Tuy nhiên, nếu máy tính của bạn có bộ nhớ "hơi bị" nhỏ (dưới 128 MB) thì ích lợi của việc mở cùng lúc nhiều bản vẽ có lẽ sẽ tiêu tan! Thôi thì bạn cố gắng "bơm" thêm bộ nhớ cho máy tính. Để làm ăn chuyên nghiệp, máy tính của bạn nên có bộ nhớ từ 256 MB trở lên. Ngoài ra, để khỏi rối mắt, hoa mắt, bạn nên dùng màn hình lớn hơn (17 inch trở lên) và dùng chế độ hiển thị 1024 pixel x 768 pixel (tối thiểu). Nếu không thấy khá hơn, chắc bạn "phê phê" vì thứ gì khác rồi! [Đầu trang] Sao bảng màu của Corel DRAW chỉ có một ít màu, vậy thì làm ăn gì được? Corel DRAW có nhiều bảng màu khác nhau, ta chỉ chưa xét đến đó thôi. Bảng màu mà bạn thấy trong lần đầu tiên làm việc với Corel DRAW sau khi cài đặt gọi là bảng màu mặc định (default palette). Thật ra, bảng màu mặc định cũng có khá nhiều màu. Bạn chỉ cần bấm vào mũi tên chỉ lên hoặc mũi tên chỉ xuống ở hai đầu bảng màu để xê dịch đến các ô màu bị che khuất. Bạn cũng có thể bấm vào mũi tên chỉ qua trái ở cuối bảng màu (hình 1) để bảng màu được "bung ra", dễ chọn màu hơn. Muốn bảng màu thu nhỏ lại thành một cột như cũ, bạn bấm vào phần trống cuối bảng màu (chỗ không có ô màu) hoặc bấm vào đâu đó trên miền vẽ. Theo hướng dẫn, tôi trỏ vào một công cụ của Corel DRAW và chờ tên gọi của nó hiện lên (cho biết). Chờ riết nhưng chả thấy chi cả. Nói vậy mà hổng phải vậy? Chắc là người nào đó dùng Corel DRAW trước bạn (trên máy tính mà bạn đang dùng) đã quá thành thạo đến nỗi không thích tên gọi của công cụ hiện lên "rườm rà" và đã dẹp bỏ các tên ấy đi. Thế thì bạn có thể cho người ấy "biết mặt anh hào" bằng cách quy định lại, cho tên công cụ hiện ra bình thường. Cách thức như sau. Bạn chọn Tools > Options để mở hộp thoại mang tên Options . Tiếp theo, bạn bấm vào dấu cộng trước Workspace trong sơ đồ cây bên trái hộp thoại để "bung" các nhánh con thuộc nhánh Workspace (nếu trước Workspace là dấu trừ, tức các nhánh con của nhánh Workspace đã xuất hiện, bạn không cần thực hiện thao tác này). Xong, bạn bấm vào Display (một nhánh con của Workspace). Những quy định liên quan đến chế độ hiển thị của Corel DRAW được bày ra bên phải hộp thoại. Chắc chắn bạn sẽ thấy ô duyệt (check box) Show Tooltips ở trạng thái "tắt" (không có dấu duyệt). Bạn "bật" ô duyệt Show Tooltips rồi chọn OK là xong.
  13. Corel DRAW là gì nhỉ? (Bài 4) [Hoàng Ngọc Giao] Bạn đã biết cách khởi động Corel DRAW, khá quen mắt với cửa sổ Corel DRAW, khá quen tay với chuột (chuột máy tính í!), xem như "đã tỏ đường đi lối về". Giờ là lúc bạn có thể bắt đầu tập tành các thao tác thông thường trên đối tượng của bản vẽ, các thao tác sẽ lặp đi lặp lại trong suốt thời gian bạn làm việc với Corel DRAW sau này. Đối tượng! Bạn đã nghe nhắc đến đối tượng vài lần nhưng chưa một lần gặp mặt. Đối tượng là bất cứ thứ gì được đưa vào bản vẽ, được tạo bởi chính Corel DRAW hoặc bởi các phương tiện khác. Dù các đối tượng có thể có nguồn gốc khác nhau, có bản chất khác nhau nhưng một khi đã nằm trên bản vẽ của Corel DRAW, bạn thao tác với chúng theo cùng cách thức. Để thuận tiện trong bước đầu, ta hãy lấy một đối tượng có sẵn ở đâu đó, từ trên mạng chẳng hạn. Lấy đối tượng từ mạng Chọn Tools > Scrapbook > Contents on Cửa sổ neo đậu Scrapbook hiện ra, đồng the Web thời Windows yêu cầu bạn nối kết với Internet (nếu bạn chưa "ở trên mạng") Bấm-kép vào thư mục Clipart rồi bấm Bạn thấy một số hình vẽ vui vui kép vào thư mục Fun_people trong cửa (hình 1) sổ Scrapbook
  14. [Đầu trang] Scrapbook là nơi cất trữ những hình vẽ linh tinh để "làm vốn". Với thao tác vừa thực hiện, bạn đã truy xuất bộ sưu ảnh (clip-art) do hãng Corel cung cấp. Đó là những hình vẽ xinh xinh được tạo bởi Corel DRAW và được sắp xếp theo chủ đề. Trỏ vào hình vẽ nào đó mà bạn thích Hình đã chọn xuất hiện trên miền vẽ. trong cửa sổ Scrapbook, kéo nó vào miền Bạn đã có được đối tượng đầu tiên vẽ Xin nhắc bạn, khi nghe nói "kéo", bạn phải ấn giữ phím trái của chuột. Bạn chỉ thả phím ấy lúc hoàn thành thao tác. Thu gọn cửa sổ neo đậu Scrapbook Điều chỉnh tầm nhìn Trên "hộp công cụ" Toolbox ở cạnh trái miền vẽ có một cái "kính lúp" giúp bạn "nhìn gần lại" (zoom in) hoặc "nhìn lui xa" (zoom out) các đối tượng trong miền vẽ. Nói một cách trịnh trọng, đó là công cụ nhìn (zoom tool). Cách dùng rất đơn giản. Bạn chỉ việc nắm lấy "kính lúp" rồi bấm vào chỗ mà bạn muốn "nhìn gần lại" hoặc "căng" một khung xác định phạm vi cần quan sát. Bấm vào "kính lúp" trên hộp công cụ Trỏ vào phía trên, bên trái hình vẽ và kéo Bạn thấy hình vẽ lớn lên (hình 2) "kính lúp" xuống dưới, qua phải
  15. [Đầu trang] Xin nhấn mạnh rằng thao tác vừa thực hiện chỉ điều chỉnh tầm nhìn chứ không ảnh hưởng đến đối tượng. So với kích thước trang in, kích thước hình vẽ của bạn vẫn thế, không thay đổi Ngay khi cầm lấy "kính lúp", bạn để ý thanh công cụ Property Bar lập tức thay đổi, bày ra các khả năng lựa chọn như hình 3, giúp bạn điều chỉnh tầm nhìn theo những cách khác nhau (để biết tên gọi của từng khả năng lựa chọn, bạn biết đó, ta chỉ cần trỏ vào biểu tượng tương ứng và chờ chừng một giây). Nếu bấm vào Zoom In , bạn sẽ "nhìn gần lại" trang in với độ phóng đại là 2 (tức là thấy hình ảnh lớn lên gấp đôi). Ngược lại, khi bấm vào Zoom Out , bạn có thể "lui ra xa", thấy hình ảnh nhỏ đi phân nửa. Zoom to Selected giúp bạn chỉnh tầm nhìn vừa đủ bao quát mọi đối tượng đã chọn (ta sẽ xem xét cách chọn đối tượng trong phần tiếp theo). Nếu chọn Zoom to Page , tầm nhìn sẽ được chỉnh sao cho vừa đủ bao quát toàn trang in. Tương tự, Zoom to Page Width và Zoom to Page Height giúp bạn lấy tầm nhìn vừa đủ bao quát chiều rộng hoặc chiều cao của trang. Lần lượt chọn từng khả năng vừa nêu trên thanh công cụ Property Bar và quan sát kết quả Các thao tác điều chỉnh tầm nhìn được thực hiện rất thường xuyên khi làm việc với Corel DRAW. Do vậy bạn nên lặp lại nhiều lần thao tác như vậy cho đến khi cảm thấy hoàn toàn thoải mái khi cầm "kính lúp". Trong những công việc mà ta sẽ làm từ đây về sau, bạn cứ tự nhiên dùng "kính lúp" để "nhìn gần lại" hoặc "lui ra xa" bất cứ lúc nào có nhu cầu. [Đầu trang] Di chuyển đối tượng Một cách tự nhiên, mỗi khi muốn làm chi đó với một đối tượng, ta phải chọn đối tượng ấy. Nhờ vậy, Corel DRAW mới biết rằng bạn muốn tác động vào đối tượng nào. Để chọn đối tượng, bạn dùng công cụ chọn (pick
  16. tool) . Đó là công cụ đầu tiên của hộp công cụ (ở cạnh trái miền vẽ). Bấm vào công cụ chọn Lấy công cụ chọn (hình 3) Bấm vào hình vẽ Tám dấu chọn (ô vuông nhỏ, màu đen) xuất hiện quanh hình vẽ Bấm vào đâu đó trên miền vẽ Các dấu chọn biến mất. Hình vẽ được "thôi chọn" Bấm vào hình vẽ Tám dấu chọn lại xuất hiện quanh hình vẽ [Đầu trang] Sau khi bấm vào giữa hình vẽ để chọn, bạn thấy xuất hiện các dấu chọn (selection handle), tức là các ô vuông nhỏ, màu đen bao quanh hình, biểu thị tình trạng "được chọn". Về sau, bạn sẽ thấy rõ rằng đối tượng vừa tạo ra đương nhiên ở trong tình trạng "được chọn". Tám dấu chọn giúp bạn hình dung về một khung chữ nhật bao quanh đối tượng. Người ta gọi đấy là khung bao (bounding box) của đối tượng. Khi nào bạn nghe nói về kích thước của đối tượng, thực chất đó là kích thước của khung bao đối tượng. Bạn để ý, giữa hình vẽ có một dấu X. Đó là "tay nắm" để bạn di chuyển (move) đối tượng. Cụ thể, muốn di chuyển đối tượng, bạn trỏ vào dấu X ở giữa đối tượng được chọn (sao cho dấu trỏ của chuột biến thành "mũi tên bốn đầu") rồi kéo đối tượng đến vị trí mới. Trỏ vào dấu X ở giữa hình vẽ Dấu trỏ chuột biến thành "mũi tên bốn đầu" Kéo hình vẽ sang trái hoặc sang phải Như bạn thấy, thao tác di chuyển đối tượng rất tự nhiên, tựa như ta di chuyển một vật trên bàn: chạm tay vào vật, giữ chặt và đưa vật đến vị trí mới. Các thao tác co dãn (stretch), quay tròn (rotate) và kéo xiên (skew) đối tượng cũng được thực hiện một cách tự nhiên giống như vậy. Co dãn đối tượng (Bài 5) [Hoàng Ngọc Giao] Bạn có thể làm cho đối tượng mập ra hay ốm đi, cao lên hay lùn xuống tùy thích bằng cách trỏ vào một trong các dấu chọn (sao cho dấu trỏ chuột biến thành mũi tên hai đầu) và kéo chuột tới lui cho đến khi đối tượng đạt được dáng điệu như ý.
  17. Dấu trỏ chuột biến thành mũi tên hai đầu, Trỏ vào dấu chọn bên dưới, ở giữa thẳng đứng Kéo chuột lên trên Nhân vật của ta bị "bẹp gí" (hình 1) Thả phím chuột Các dấu chọn tái hiện Chọn Edit > Undo Stretch hoặc ấn Ctrl+Z Nhân vật "đẹp giai" trở lại Hình 1 Undo và Redo Màn trình diễn "chuột vờn người" của ta kết thúc một cách "có hậu" nhờ tổ hợp phím Ctrl+Z, tương đương với mục chọn Undo trên trình đơn Edit. Bằng cách ấn tổ hợp phím Ctrl+Z, bạn hủy bỏ kết quả của thao tác vừa thực hiện. Nếu ấn Ctrl+Z nhiều lần, bạn có thể hủy bỏ liên tiếp kết quả của nhiều thao tác đã thực hiện, khôi phục tình trạng cũ nào đó của bản vẽ. Theo mặc định, bạn có thể lần lượt hủy bỏ kết quả của 99 thao tác trong quá khứ. Do vậy, khi làm việc với Corel DRAW, ta hầu như không sợ sai lầm (sướng thiệt!). Trên trình đơn Edit còn có mục chọn Redo, có tác dụng ngược với Undo. Bạn chọn Redo trong trường hợp đổi ý, muốn "lấy lại" kết quả bị hủy bỏ "quá trớn" bởi Undo. Chọn Edit > Redo Stretch Nhân vật "bẹp gí" Chọn Edit > Undo Stretch hoặc ấn Ctrl+Z Nhân vật "đẹp giai" Với Undo và Redo, bạn có thể đi lại nhiều lần trên con đường của quá khứ để bình tĩnh suy nghĩ, lựa chọn "cái được" và "cái mất", điều mà ta không thể có trong cuộc đời thực! Từ đây về sau, khi "nhào nặn" nhân vật, ta sẽ thường xuyên dùng tổ hợp phím Ctrl+Z để khôi phục tình trạng cũ, tránh sự biến dạng thái quá làm cho bạn khó nhận định về hiệu lực của thao tác. Ta hãy tiếp tục thử nghiệm thao tác co dãn đối tượng. Dấu trỏ biến thành mũi tên hai đầu, nằm Trỏ vào dấu chọn bên trái, ở giữa ngang Kéo chuột qua phải Nhân vật bị "sụt cân" (hình 2) Thả phím chuột Các dấu chọn tái hiện Ấn Ctrl+Z Nhân vật trở lại như cũ
  18. Hình 2 [Đầu trang] Phóng to, thu nhỏ đối tượng Trong thao tác vừa thực hiện, ta đều làm biến dạng nhân vật do chỉ thay đổi chiều cao hoặc chiều rộng của hình. Nếu muốn hình được phóng to hoặc thu nhỏ trên trang in nhưng không bị mất cân đối, bạn kéo dấu chọn ở một trong bốn góc. Khi ấy, chiều rộng và chiều cao thay đổi cùng lúc, tỉ lệ giữa chúng được giữ nguyên. Dấu trỏ biến thành mũi tên hai đầu nằm Trỏ vào dấu chọn ở góc dưới, bên phải nghiêng Nhân vật lớn dần theo sự điều khiển của Kéo chuột qua phải, xuống dưới bạn Kéo chuột qua trái, lên trên Nhân vật nhỏ dần đi Thả phím chuột Nhân vật có kích thước mới Ấn Ctrl+Z Nhân vật trở lại kích thước cũ Để nhấn mạnh sự khác biệt với thao tác co dãn, gây biến dạng đối tượng, người ta gọi chung thao tác phóng to, thu nhỏ không làm đối tượng biến dạng như bạn vừa thực hiện là định cỡ (scale) đối tượng. Bạn nên lặp lại nhiều lần thao tác nêu trên cho quen tay, lấn lượt nắm lấy các dấu chọn ở các góc khác nhau, tùy thích phóng to hình nhân vật để quan sát thật rõ các đường nét. Tác dụng của phím Shift Bạn để ý, khi ta kéo dấu chọn ở góc dưới, bên phải, nhân vật sau khi được phóng to, thu nhỏ bị lệch tâm so với trước. Muốn hình ảnh được phóng to hoặc thu nhỏ một cách cân đối ở cả bốn phía, bạn ấn giữ phím Shift khi kéo dấu chọn và chỉ thả phím Shift sau khi thả phím chuột. Dấu trỏ biến thành mũi tên hai đầu, nằm Trỏ vào dấu chọn ở góc dưới, bên phải nghiêng Kích thước nhân vật thay đổi và tâm của Kéo chuột tùy ý hình bị xê dịch Ấn giữ phím Shift Kích thước nhân vật thay đổi nhưng tâm
  19. của hình không thay đổi Thả phím chuột rồi thả phím Shift Bạn có kết quả như ý Ấn Ctrl+Z Hủy bỏ "kết quả như ý" đó Xin nhấn mạnh rằng phím Shift có hiệu lực trong mọi thao tác co dãn đối tượng. Bạn hãy thực hiện thao tác tương tự như trên với các dấu chọn khác xem sao nhé. Tác dụng của phím Ctrl Nếu bạn ấn giữ phím Ctrl khi đang kéo dấu chọn trong thao tác co dãn đối tượng, tỉ lệ co dãn sẽ không thể thay đổi tùy ý mà được khống chế ở các mức cố định: 100%, 200%, 300%, Điều này rất cần thiết khi bạn muốn co dãn đối tượng một cách chính xác để có kích thước gấp đôi, gấp ba, Cũng như trường hợp phím Shift, bạn chỉ thả phím Ctrl sau khi thả phím chuột. Kéo dấu chọn bên trái, ở giữa qua phải Nhân vật co dãn linh hoạt theo sự điều hoặc qua trái khiển của bạn Bạn thấy "sượng tay" vì nhân vật chỉ Ấn giữ phím Ctrl và kéo chuột qua trái "chịu" kéo dãn gấp đôi, gấp ba Vẫn ấn giữ phím Ctrl, kéo chuột qua phải Nhân vật bị lật từ trái qua phải Thả phím chuột và thả phím Ctrl Ấn Ctrl+Z Trong trường hợp nhân vật bị lật từ trái qua phải như trên, tỉ lệ co dãn theo chiều rộng là -100%, tỉ lệ co dãn theo chiều cao là 100% (tức chiều cao không đổi). Bạn cứ tự nhiên tiếp tục thử nghiệm theo ý mình để "cảm thấy" rõ rệt hiệu lực của phím Ctrl. Tác dụng "khó chịu" của phím Ctrl còn thể hiện trong nhiều thao tác khác, chứ không riêng gì thao tác co dãn. Chẳng hạn, nếu ấn giữ phím Ctrl khi đang di chuyển đối tượng, bạn chỉ có thể đưa đối tượng đi ngang hoặc đi dọc (tác dụng như vậy của phím Ctrl thật ra rất có ích khi bạn muốn dàn các đối tượng thành hàng ngang hoặc hàng dọc). Khi quay tròn đối tượng (ta sẽ tìm hiểu sau), nếu bạn ấn giữ phím Ctrl, góc quay chỉ được phép thay đổi theo từng mức 15 độ: 0 độ, 30 độ, 45 độ, Chính vì tác dụng "khống chế" phổ biến của phím Ctrl, người dùng Corel DRAW thường gọi phím Ctrl là phím khống chế (constraint key). Chú ý rằng hiệu lực của phím Shift và phím Ctrl hoàn toàn độc lập, không xung đột nhau. Bạn có thể vừa ấn phím Shift, vừa ấn phím Ctrl để cả hai phím cùng lúc phát huy tác dụng. Thanh công cụ Property Bar (Bài 6) [Hoàng Ngọc Giao] Chắc bạn còn nhớ, thanh công cụ Property Bar có khả năng thay đổi xoành xoạch tùy theo tình huống cụ thể. Khi co dãn đối tượng, bạn để ý, thanh công cụ Property Bar có dạng như hình 1 (bạn sẽ thấy tên gọi của các thành phần khác nhau trên thanh công cụ nếu trỏ vào từng thành phần và chờ chừng một giây).
  20. Hình 1 Ý nghĩa của mỗi thành phần trên thanh công cụ Property Bar như sau: Object(s) Position: Đây là thành phần thể hiện vị trí của đối tượng (cụ thể là tọa độ góc trên, bên trái của khung bao), bao gồm hai ô x và y cho biết hoành độ và tung độ, tính từ mốc số 0 trên thước đo ngang và thước đo dọc. Muốn di chuyển đối tượng đến vị trí nào đó có tọa độ cho trước, bạn có thể bấm-kép vào ô và gõ tọa độ. Trong Windows, người ta thường gọi loại ô như vậy là ô nhập liệu (input field). Object(s) Size: Thành phần này thể hiện kích thước đối tượng (thực chất là kích thước của khung bao). Ô nhập liệu bên trên cho biết chiều rộng, ô nhập liệu bên dưới cho biết chiều cao. "Gọi là ô nhập liệu? Nghĩa là ta có thể gõ trị số mới vào đấy?". Vâng, đúng như vậy. Bạn có thể quy định "thẳng thừng" kích thước chính xác của đối tượng bằng cách gõ trị số cụ thể vào hai ô nhập liệu đang xét. Scale Factor: Hai ô nhập liệu này thể hiện liên tục tỉ lệ co dãn theo chiều rộng và theo chiều cao trong khi bạn đang co dãn đối tượng. Bạn có thể gõ vào ô nhập liệu tỉ lệ co dãn cụ thể. Chẳng hạn, để làm đối tượng được chọn dãn rộng gấp đôi, bạn gõ vào ô nhập liệu bên trên trị số 200 (tức 200%). Nonproportional Scaling/Sizing Ratio: Thành phần này có biểu tượng hình ổ khóa với hai trạng thái đóng và mở (để đóng/mở bạn chỉ việc bấm vào ổ khóa). Khi ổ khóa đóng, tỉ lệ co dãn theo chiều rộng và theo chiều cao luôn luôn bằng nhau, giữ cho đối tượng không bị biến dạng. Ví dụ, nếu bạn đóng khóa này và gõ 200 trong ô nhập liệu Scale Factor bên trên, ô nhập liệu Scale Factor bên dưới tự động nhận trị số 200. Để có thể điều chỉnh độc lập mỗi ô nhập liệu Scale Factor, bạn phải mở khóa. Angle of Rotation: Khi bạn quay tròn đối tượng (ta sẽ tìm hiểu cách làm chuyện này trong phần tiếp theo), góc quay tính bằng độ được thể hiện trong ô nhập liệu này. Cũng như các ô nhập liệu vừa nêu, bạn có thể quay tròn đối tượng được chọn bằng cách gõ trị số góc quay cụ thể vào ô nhập liệu Angle of Rotation. Mirror Buttons: Thành phần này gồm hai nút bấm giúp bạn lật ngang hoặc lật đứng đối tượng được chọn. Cách thức này nhanh chóng hơn so với việc nắm lấy dấu chọn, điều chỉnh để có tỉ lệ co dãn theo chiều rộng hoặc theo chiều cao là -100%. Bạn còn thấy có những thành phần khác nữa trên thanh công cụ Property Bar nhưng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu trong dịp khác. Lúc này ta hãy thử "chơi bời" chút xíu với các thành phần vừa nêu. Bấm-kép vào ô nhập liệu Scale Factor bên Trị số 100.0 trong ô bị "đảo màu", thể trên hiện tình trạng sẵn sàng để thay đổi Đóng khóa Nonproportional Scaling/Sizing Khóa được "bấm lại" Ratio Gõ 200 và gõ Enter Nhân vật của ta lớn lên gấp đôi Ấn Ctrl+Z Bấm vào nút Mirror Buttons bên trên Nhân vật bị lật ngang Ấn Ctrl+Z
  21. Bấm vào nút Mirror Buttons bên dưới Nhân vật bị lật đứng Ấn Ctrl+Z Trị số 0.0 trong ô bị "đảo màu", thể hiện Bấm-kép vào ô nhập liệu Angle of Rotation tình trạng sẵn sàng để thay đổi Gõ 45 và gõ Enter Nhân vật bị quay tròn 45 độ Ấn Ctrl+Z [Đầu trang] Quay tròn đối tượng Việc quay tròn (rotate) đối tượng bằng cách gõ trị số góc quay cụ thể chỉ thích hợp khi bạn có dự định thật rõ ràng. Thông thường, ta chỉ "xoay trở" đối tượng để tìm một tư thế nào đó được xem là thích hợp (mà ta cũng chưa rõ lắm). Cũng như khi nắm lấy đối tượng để di chuyển, Corel DRAW cho phép bạn quay tròn đối tượng một cách trực quan, rất dễ chịu. Khi đối tượng đang có các dấu chọn hình vuông bao quanh, nếu bạn bấm vào đối tượng ấy lần nữa (vào giữa đối tượng hoặc vào đường nét của đối tượng), các dấu chọn hình vuông biến thành mũi tên hai đầu, thể hiện tình trạng sẵn sàng "khiêu vũ" (hình 2). Ta sẽ gọi các dấu chọn như vậy là dấu chọn quay (rotation handle). Thay cho dấu X giữa đối tượng là một vòng tròn nhỏ có dấu chấm ở tâm nhằm thể hiện thật rõ tâm quay. Để cho tiện, ta gọi chính vòng tròn nhỏ ấy là tâm quay (center of rotation). Bạn chỉ việc trỏ vào dấu chọn quay ở một trong bốn góc khung bao (sao cho dấu trỏ thay đổi thành dạng mũi tên tròn hai đầu) và kéo đối tượng quay tròn tùy thích. Tâm quay mặc định nằm giữa đối tượng. Bạn có thể kéo tâm quay đến vị trí khác để tạo ra phép quay như ý. Hình 2 Lúc này nhân vật của ta đang ở trong tình trạng "được chọn" thể hiện bởi các dấu chọn hình vuông bao quanh. Bấm vào giữa nhân vật Các dấu chọn quay xuất hiện (hình 2) Trỏ vào dấu chọn quay ở một trong bốn góc Dấu trỏ của chuột biến thành mũi tên khung bao tròn hai đầu Nhân vật quay tròn theo sự điều khiển Kéo dấu chọn quay tròn của bạn
  22. Thả phím chuột Nhân vật yên vị ở tư thế mới (hình 3) Ấn Ctrl+Z Nhân vật trở về tư thế cũ Kéo tâm quay qua bên trái Kéo dấu chọn ở một trong bốn góc quay tròn Nhân vật quay tròn quanh tâm mới Ấn Ctrl+Z Nhân vật trở về tư thế cũ Ấn Ctrl+Z lần nữa Tâm quay trở về vị trí cũ Hình 3 [Đầu trang] Kéo xiên đối tượng Nếu bạn trỏ vào dấu chọn quay ở giữa cạnh khung bao (thay vì ở góc), dấu trỏ sẽ biến thành mũi tên kép. Khi ta kéo dấu chọn quay như vậy, đối tượng sẽ không quay tròn mà bị nghiêng đi, "quay quắt". Người ta gọi thao tác như vậy là kéo xiên (skew). Trỏ vào dấu chọn quay ở giữa cạnh trái Dấu trỏ biến thành mũi tên kép thẳng khung bao đứng Kéo dấu chọn lên trên Nhân vật của ta càng "cười sằng sặc" Thả phím chuột (hình 4) Ấn Ctrl+Z
  23. Hình 4 Tác dụng của phím "cộng lớn" (Bài 7) [Hoàng Ngọc Giao] Khi đang kéo xiên đối tượng, nếu bạn gõ phím "bự con" có dấu cộng (+) ở rìa phải bàn phím (thuộc bộ phím số), Corel DRAW sẽ tự động sao chép đối tượng được chọn để tạo ra đối tượng mới. Trỏ vào dấu chọn quay ở giữa cạnh trên Dấu trỏ biến thành mũi tên kép nằm khung bao ngang Kéo dấu chọn qua phải Nhân vật của ta "cười nghiêng ngả" Nhân vật "cười nghiêng ngả" trở thành Gõ phím "cộng lớn" đối tượng mới Bạn có hai nhân vật ở hai tư thế khác Thả phím chuột nhau (hình 1) Để thấy rõ rằng ta thực sự có hai nhân vật, bạn thử di chuyển nhân vật "cười ngả nghiêng" về phía sau Dấu chọn quay chuyển thành dấu chọn Bấm vào nhân vật "cười nghiêng ngả" bình thường. Dấu X ở giữa nhân vật tỏ vẻ sẵn sàng để bạn di chuyển Bạn thấy rõ hai nhân vật khác nhau (hình Kéo nhân vật "cười nghiêng ngả" qua phải 2)
  24. Hình 1 Hình 2 Tác dụng "sinh sản vô tính" của phím "cộng lớn" có hiệu lực tương tự trong mọi thao tác trên đối tượng mà bạn đã biết (di chuyển, co dãn, quay tròn). Trong trường hợp muốn tạo ra đối tượng mới giống hệt đối tượng được chọn và ở cùng vị trí, bạn chỉ cần gõ một phát vào phím "cộng lớn" là xong. Khi ấy, đối tượng mới nằm chồng khít trên đối tượng cũ. [Đầu trang] Xóa bỏ đối tượng Muốn thực tập việc sao chép đối tượng cho quen tay, bạn cần biết cách xóa bỏ đối tượng (nếu không bạn sẽ hoa mắt vì số lượng đối tượng gia tăng nhanh chóng). Rất đơn giản, để xóa bỏ đối tượng nào đó, bạn chọn đối tượng ấy (dĩ nhiên) và gõ phím Delete. Thay vì gõ phím Delete, ta có thể thực hiện thao tác có hiệu lực tương đương: chọn Edit > Delete (nhưng chẳng ai dại gì mà làm vậy). Lúc này, nhân vật "cười ngả nghiêng" đang được chọn. Vậy thì ta chỉ cần Gõ phím Delete Nhân vật "cười ngả nghiêng" biến mất Đã biết cách "điều tiết dân số", bạn cứ tự nhiên thử nghiệm hiệu lực của phím "cộng lớn" trong thao tác di chuyển, co dãn và quay tròn nhân vật, theo đúng cách thức như trong thao tác kéo xiên vừa rồi. Để "chơi đùa" thoải mái hơn, bạn lấy thêm hai nhân vật nữa từ mạng. Chọn Tools > Scrapbook > Contents on Cửa sổ neo đậu Scrapbook xuất hiện the Web (nếu bạn chưa kết nối với mạng, máy sẽ
  25. đề nghị bạn kết nối) Mở thư mục Clipart > Fun_people Lần lượt kéo thêm hai nhân vật nữa vào Bạn tạo được khung cảnh "đầm ấm", vui miền vẽ và đặt các nhân vật gần bên nhau vẻ như hình 3 Hình 3 [Đầu trang] Sắp xếp thứ tự các đối tượng Khi đưa các nhân vật đến gần nhau, bạn thấy rõ rằng đối tượng mới "đứng phía trước" (hoặc "nằm bên trên") đối tượng cũ (ông béo đứng trước ông gầy, chú bé đứng trước ông béo). Tuy nhiên, ta có thể thay đổi dễ dàng thứ tự "trước sau" của các đối tượng thông qua các mục chọn trên trình đơn con Order ("thứ tự") của trình đơn Arrange ("sắp xếp") như bạn thấy trên hình 4. Hình 4 Bốn mục chọn đầu tiên của trình đơn con Order có ý nghĩa như sau: To Front: Đưa đối tượng được chọn lên trên cùng. To Back: Đưa đối tượng được chọn xuống dưới cùng. Forward One: Nâng đối tượng được chọn lên một mức. Back One: Hạ đối tượng được chọn xuống một mức. Chọn ông gầy Chọn Arrange > Order > To Front hoặc ấn Ông gầy được đưa lên trên cùng, đè lên Shift+PageUp cậu bé (hình 5)
  26. Chọn Arrange > Order > To Back hoặc ấn Ông gầy được đưa xuống dưới cùng (như Shift+PageDown cũ) Chọn Arrange > Order > Forward One Ông gầy được đưa lên một mức, đè lên hoặc ấn Ctrl+PageUp ông béo Chọn Arrange > Order > Forward One Ông gầy được đưa lên một mức nữa, đè hoặc ấn Ctrl+PageUp lên cậu bé Chọn Arrange > Order > Back One hoặc Ông gầy được đưa xuống một mức, nằm ấn Ctrl+PageDown dưới cậu bé nhưng đè lên ông béo Chọn Arrange > Order > Back One hoặc Ông gầy được đưa xuống một mức nữa, ấn Ctrl+PageDown nằm dưới cùng Hình 5 Hai mục chọn tiếp theo của trình đơn con Order giúp bạn có thể thay đổi thứ tự các đối tượng nhanh hơn, linh hoạt hơn: In Front Of: Đặt đối tượng được chọn ở ngay trên đối tượng nào đó do bạn chỉ định. Behind: Đặt đối tượng được chọn ở ngay dưới đối tượng nào đó do bạn chỉ định. Chọn ông gầy Corel DRAW hiển thị một "mũi tên đen" Chọn Array > Order > In Front Of to đùng, ngỏ ý đề nghị bạn cho biết cần đặt ông gầy ở phía trước nhân vật nào Bấm "mũi tên đen" vào cậu bé Ông gầy được đặt trên cậu bé Corel DRAW lại hiển thị một "mũi tên Chọn Array > Order > Behind đen", đề nghị bạn cho biết cần đặt ông gầy ở phía sau nhân vật nào Bấm "mũi tên đen" vào ông béo Ông gầy được đặt sau ông béo Chọn nhiều đối tượng (Bài 8) [Hoàng Ngọc Giao] Cho đến giờ, bạn chỉ quen thuộc với việc chon từng đối tượng một. Sẽ có nhiều thao tác đòi hỏi bạn phải chọn cùng lúc nhiều đối tượng. Có hai cách để làm việc này: 1. Dùng công cụ chọn để "căng" một khung chữ nhật bao quanh các đối tượng mà bạn muốn chọn (giống như
  27. khi dùng "kính lúp"). Người ta gọi khung chữ nhật như vậy là khung chọn (marquee box). Cách thức này thường dùng trong trường hợp bạn muốn chọn hết các đối tượng nằm "dồn đống" trong phạm vi nào đó. 2. Dùng công cụ chọn để bấm vào từng đối tượng muốn chọn đồng thời ấn giữ phím Shift. Cách thức này thích hợp khi các đối tượng cần chọn nằm rải rác, xen kẽ với các đối tượng mà bạn không muốn chọn. Bấm vào công cụ chọn Trỏ vào phía trên, bên trái nhóm nhân vật vui vẻ của Chọn cả 3 đối tượng: cậu bé, ông gầy và ông béo. ta, kéo chuột qua phải, xuống dưới sao cho khung Khung chọn là khung chữ nhật có nét "gạch gạch" màu chọn bao quanh cả ba nhân vật (hình 1) xanh dương. Tám dấu chọn xuất hiện, bao quanh cả 3 nhân vật, tỏ ý Thả phím chuột rằng 3 đối tượng này cùng được chọn Bấm vào đâu đó trên miền vẽ "Thôi chọn" các nhân vật Bấm vào ông gầy Lại chọn ông gầy Ấn giữ phím Shift rồi bấm lần lượt vào cậu bé và ông Chọn thêm cậu bé và ông béo. Bạn có kết quả như béo trước: cả 3 nhân vật đều được chọn Hình 1 Để cho tiện, ta gọi chung các đối tượng cùng được chọn là tập hợp chọn (selection set). Muốn loại một đối tượng nào đó ra khỏi tập hợp chọn ("thôi chọn" một đối tượng trong tập hợp chọn), bạn cũng ấn giữ phím Shift và bấm vào đối tượng ấy. Do vậy, khi cần chọn khá nhiều đối tượng nằm rải rác, trước hết ta dùng khung chọn để "vây bắt" nhanh chóng tất cả đối tượng trong phạm vi cần thiết. Sau đó, bạn tiến hành "thanh lọc" các đối tượng không muốn chọn bằng cách ấn giữ phím Shift và bấm vào từng đối tượng như vậy. Cậu bé bị "thôi chọn". Tập hợp chọn chỉ còn ông gầy và Ấn giữ phím Shift và bấm vào cậu bé ông béo Cậu bé lại được chọn. Tập hợp chọn bao gồm cả 3 nhân Ấn giữ phím Shift và bấm vào cậu bé vật. [Đầu trang] Lưu trữ bản vẽ Tạm ngưng nô đùa với các nhân vật vui vẻ của ta, giờ là lúc nghĩ đến chuyện lưu trữ bản vẽ dưới dạng tập tin trên đĩa, ít ra là để làm kỷ niệm. Rồi mai đây bạn có thể xem lại và nhớ về "cái thuở ban đầu lưu luyến" với Corel DRAW. Tốt nhất bạn nên tạo cho mình một thư mục riêng để lưu trữ các bản vẽ thực tập được tạo ra trong quá trình tìm hiểu Corel DRAW. Sau này bạn sẽ có thói quen lưu trữ mỗi công việc cụ thể trong một thư mục. Tập quán như vậy giúp cho hoạt động của bạn được suôn sẻ, ngăn nắp, lại không làm phiền người khác (nếu bạn phải dùng chung máy). Chọn File > Save hoặc ấn Ctrl+S Hộp thoại Save Drawing xuất hiện
  28. Bấm vào dấu mũi tên chỉ xuống ở ô Save in và chọn Vào thư mục gốc của đĩa cứng C (C:) Bấm vào nút Create New Folder và gõ tên thư mục mà bạn muốn tạo ra. Bạn có thể lấy tên của mình để đặt cho thư mục thực tập Bấm-kép vào thư mục thực tập Vào thư mục mới tạo ra Bấm vào ô File name và gõ tên bản vẽ, chẳng hạn Đặt tên cụ thể cho tập tin bản vẽ thay cho tên mặc định thuc tap 01 là Graphic1 (hình 2) Hình 2 Dĩ nhiên bạn có thể đặt tên tùy ý cho tập tin bản vẽ. Về nguyên tắc, bạn có thể đặt tên tập tin dài tối đa 256 chữ cái. Với 256 chữ cái, ta có thể diễn đạt thoải mái, rõ ràng ý nghĩa, nội dung của bản vẽ. Trong ô Save as type trên hộp thoại Save Drawing, bạn có thể chọn dạng thức tập tin bản vẽ. Thông thường ta không cần sửa đổi gì và chỉ việc chấp nhận dạng thức cdr, dạng thức tiêu chuẩn để ghi bản vẽ của Corel DRAW. Nếu vậy, cdr trở thành phần phân loại (extension) trong tên tập tin bản vẽ của bạn. Nói khàc đi "tên họ" đầy đủ của tập tin bản vẽ sẽ là thuc tap 01.cdr. Các ô Keywords và Notes giúp bạn có cơ hội ghi chú thích về bản vẽ. Bạn cần gõ vào ô Keywords các từ vắn tắt, dễ nhớ, gọi là "từ chốt", giúp bạn sau này có thể tìm được bản vẽ đang xét (trong cả ngàn bản vẽ khác chẳng hạn!) bằng các công cụ tìm kiếm trong Windows. Trong ô Notes, bạn có thể mô tả khá thoải mái nội dung bản vẽ, "lai lịch" của nó hoặc lời nhắn chi đó với người được bạn "thân tặng" bản vẽ. Phía bên phải hộp thoại Save Drawing, bạn thấy có "ô liệt kê buông xuống" Version, cho phép ta ghi bản vẽ theo dạng thức của các phiên bản Corel DRAW khác nhau. Đieều này rất có ích khi bạn cần "giao lưu" với các đồng nghiệp còn trung thành với phiên bản cũ. Lựa chọn tại ô Thumbnail giúp bạn có thể tạo ra hình tiêu đề (thumbnail, bitmap header) cho bản vẽ. Hình tiêu đề là "ảnh chụp" nho nhỏ của bản vẽ, được ghi dưới dạng bitmap ở đầu tập tin bản vẽ. Khi chọn mở bản vẽ có "gắn" hình tiêu đề, bạn sẽ thấy ngay nội dung "đại khái" của bản vẽ trong ô Preview của hộp thoại Open Drawing. Đó là vì hình tiêu đề của bản vẽ được Corel DRAW nạp rất nhanh vào bộ nhớ của máy. Nhờ vậy, bạn không phải mất công mở từng bản vẽ khi dò tìm (có khi phải chờ đợi ngán ngẩm chỉ để biết sơ lược trong bản vẽ chứa cái giống gì). Cụ thể, ô Thumbnail bày ra các khả năng lựa chọn như sau: None: Khỏi ghi hình tiêu đề (lựa chọn mặc định). 1K (mono): Ghi hình tiêu đề ở dạng trắng đen, lớn chừng 1 KB. 5K (color): Ghi hình tiêu đề ở dạng có màu, lớn chừng 5 KB. 10K (color): Ghi hình tiêu đề ở dạng có màu "khá đẹp", lớn chừng 10 KB. Nếu kèm hình tiêu đề, tập tin bản vẽ của bạn sẽ phình lên chút xíu, chừng 1 KB, 5 KB hay 10 KB. Tuy nhiên, do lợi ích mà hình tiêu đề mang lại, bạn rất nên tạo hình tiêu đề cho bản vẽ (khi số bản vẽ của bạn đã trở nên đáng kể, bạn khó mà nhớ rõ nội dung bản vẽ dựa vào tên tập tin). Nói chung, trừ việc xác định thư mục và đặt tên tập tin bản vẽ, bạn có thể không chú ý các phần còn lại của hộp thoại Save Drawing và bấm ngay vào nút Save. Tuy nhiên, đối với bản vẽ "lấy hên" này, bạn nên chịu khó một chút
  29. Bấm vào ô Keywords và gõ từ chốt chi đó, chẳng hạn nhung nguoi thich dua Bấm vào ô Notes và ghi vào đấy đôi lời "tâm huyết" của bạn Bản vẽ được ghi lên đĩa. Corel DRAW đưa bạn trở lại Bấm vào nút Save với miền vẽ. tên tập tin xuất hiện trên thanh tiêu đề của cửa sổ Corel DRAW Trước mắt bạn là bản vẽ "những người thích đùa" đang nằm trên bộ nhớ của máy. Để tin chắc bản vẽ này đã được lưu trữ trên đĩa dưới dạng tập tin, ta hãy thử đóng bản vẽ (xóa nó trên bộ nhớ) và mở tập tin bản vẽ vừa tạo ra (nạp lại bản vẽ vào bộ nhớ). Chọn File > Close Đóng bản vẽ hiện hành Chọn File > Open hoặc ấn Ctrl+O Hộp thoại Open Drawing xuất hiện (hình 3) Bạn thấy rõ rành rành trong thư mục "thực tập" của mình có tập tin bản vẽ mà ta vừa tạo ra. Bấm vào tên tập tin rồi bấm vào nút Open (hoặc Corel DRAW nạp bản vẽ đầu tay của bạn vào bộ nhớ bấm-kép vào tên tập tin) Hình 3 Gióng hàng các đối tượng (Bài 9) [Hoàng Ngọc Giao] Ngoài việc sắp xếp thứ tự "trên dưới" cho các đối tượng, khi làm việc với Corel DRAW, không hiếm khi bạn có nhu cầu bố trí các đối tượng sao cho "thẳng hàng dọc", "thẳng hàng ngang" hoặc nằm cân đối giữa trang in. Ta gọi chung các thao tác như vậy là gióng hàng (align). Dĩ nhiên bạn có thể di chuyển đối tượng và gióng hàng bằng cách ngắm nghía thật kỹ. Tuy vậy, không phải ai cũng có con mắt "thợ tiện". Hơn nữa, Corel DRAW có sẵn chức năng giúp bạn gióng hàng cho các đối tượng một cách nhanh chóng và chính xác "cực kỳ". Cụ thể, bạn phải chọn các đối tượng cần gióng hàng rồi chọn mục Align and Distribute trên trình đơn Arrange (hoặc bấm vào nút Align and Distribute trên thanh công cụ Property Bar). Thử thực tập đôi chút, bạn sẽ hiểu ngay Bố trí các nhân vật của ta một cách thoải mái như trên hình 1 Ấn giữ phím Shift, bấm vào ông gầy, ông béo và cậu bé Chọn cả ba nhân vật Chọn Arrange > Align and Distribute trên thanh công Hộp thoại Align and Distribute xuất hiện cụ Property Bar
  30. Hình 1 Hộp thoại Align and Distribute gồm 2 trang, trình bày hai chức năng: Align (gióng hàng) và Distribute (phân phối). Khi hộp thoại này vừa xuất hiện, bạn thấy trang Align nằm trên. Muốn chọn trang dưới, bạn bấm vào Distribute. [Đầu trang] Trên trang Align, các ô duyệt bên trên (Left, Center và Right) giúp bạn gióng hàng dọc cho các đối tượng (làm cho chúng "thẳng hàng dọc"). Các ô duyệt bên trái (Top, Center và Bottom) cho phép ta gióng các đối tượng theo hàng ngang (làm cho chúng "thẳng hàng ngang"). Trong phần Align to, ô duyệt Edge of page có tác dụng gióng hàng cho các đối tượng theo cạnh trang in và Center of Page có tác dụng sắp xếp sao cho chúng nằm cân đối giữa trang in. Ông gầy, ông béo và cậu bé được gióng thẳng hàng Bật ô duyệt Left và bấm Apply dọc theo rìa trái của cậu bé (hình 2) Chọn Edit > Undo Align Ông gầy, ông béo và cậu bé được gióng thẳng hàng Tắt ô duyệt Left, bật ô duyệt Top và bấm Apply ngang theo rìa trên của cậu bé Chọn Edit > Undo Align Ông gầy, ông béo và cậu bé được gióng thẳng hàng Bật ô duyệt Bottom và bấm Apply ngang theo rìa dưới của cậu bé Chọn Edit > Undo Align
  31. Hình 2 Chắc bạn không khỏi ngạc nhiên tự hỏi vì sao hình cậu bé lại có địa vị chủ chốt trong việc gióng hàng? Số là ta đã chọn cậu bé sau cùng (bạn nhớ lại, khi ấn giữ phím Shift, ta đã bấm vào cậu bé sau ông gầy và ông béo). Theo quy định của Corel DRAW, đối tượng được chọn sau cùng sẽ là đối tượng "làm mốc" cho việc gióng hàng. Ta hãy tiếp tục tìm hiểu chức năng gióng hàng theo trang in. Tắt ô duyệt Bottom, bật ô duyệt Left, bật ô duyệt Edge Gióng rìa trái của ông gầy, ông béo và cậu bé theo of page và bấm Apply cạnh trái trang in (hình 3) Chọn Edit > Undo Align Bật ô duyệt Center of page và bấm Apply Cả ba nhân vật nằm dồn đống ở giữa trang in Hình 3 [Đầu trang] Khi bạn bật ô duyệt Center of Page, Corel DRAW tự động bật ô duyệt Center ở bên trên và ở bên trái trang Align vì hiểu rằng bạn muốn gióng tâm của các đối tượng sao cho vừa thẳng hàng dọc, vừa thẳng hàng ngang với tâm trang in. Kết quả là các đối tượng được chọn nằm chen chúc (nhưng cân đối) ở giữa trang in. Có thể có những tình huống thực tế buộc ta làm như vậy nhưng thông thường chức năng Center of page chỉ được dùng để đưa một đối tượng nào đó vào giữa trang in (nghĩa là trước khi vào hộp thoại Align and Distribute, bạn chỉ chọn một đối tượng). Để cải thiện tình trạng "ngột ngạt" của các nhân vật, bạn có thể tắt bớt ô duyệt Center bên trái trang Align để Corel DRAW không gióng tâm của các đối tượng ấy thẳng hàng ngang mà chỉ gióng thẳng hàng dọc với tâm trang in. Chọn Edit > Undo Align Tắt ô duyệt Center bên trái trang Align và bấm Apply Ghi lại thay đổi vừa tạo ra trên bản vẽ, đè lên nội dung Chọn File > Save hoặc ấn Ctrl+S cũ của tập tin bản vẽ trên đĩa (nếu bạn thích kết quả thu được)
  32. Khi chọn File > Save (hoặc ấn Ctrl+S) lần này, bạn không thấy hộp thoại Save Drawing xuất hiện như lúc trước. Đó là vì giờ đây Corel DRAW hiểu rằng bạn muốn ghi nội dung mới của bản vẽ (trên bộ nhớ máy tính) đè lên nội dung cũ của tập tin bản vẽ (trên đĩa) và đã mau mắn thực hiện yêu cầu ấy. Nói chung, sau này khi làm việc lâu dài với Corel DRAW, thỉnh thoảng bạn nhớ ấn Ctrl+S để bản vẽ trên bộ nhớ được lưu giữ trên đĩa, phòng khi máy tính có trục trặc gì đó hoặc bị cúp điện bất ngờ. Muốn ghi lại bản vẽ trên bộ nhớ thành tập tin trên đĩa với tên gọi khác, bạn phải chọn File > Save As. Khi ấy hộp thoại Save Drawing lại hiện ra, chờ đợi bạn gõ một tên tập tin khác. Thế là bạn đã có dịp thực hành những thao tác cơ bản, những thao tác được lặp đi lặp lại hằng ngày của người dùng Corel DRAW chuyên nghiệp. Miễn là bạn điều khiển chuột thành thạo (thường chỉ "quậy" một buổi là đã thấy quen tay), các thao tác trên đối tượng (di chuyển, co dãn, quay tròn, kéo xiên) của Corel DRAW tỏ ra rất tự nhiên, làm cho ta có cảm giác như đang cầm nắm, nhào nặn các vật thể thực sự đặt trên bàn. Việc sắp xếp thứ tự "trên dưới" cũng như gióng hàng cho các đối tượng tuy không tự nhiên bằng nhưng cũng rất "dễ chịu", phải không bạn? Ngoài thao tác trên các đối tượng, bạn còn biết cách điều chỉnh tầm nhìn đối với bản vẽ và đã tự mình tạo ra tập tin bản vẽ đầu tiên trên đĩa. Ngày sau khi trở thành "tay tổ" về Corel DRAW, bản vẽ đầu tiên sẽ luôn là "đồ lưu niệm" đáng nhớ của bạn về bước đầu chập chững. Hỏi-Đáp (Bài 10) [Hoàng Ngọc Giao] Làm cách nào để chỉnh tầm nhìn sao cho ta thấy các đối tượng với kích thước thực, giống như khi in ra giấy? Có như vậy tôi mới dễ hình dung kết quả trước khi in thực sự. Để dễ hình dung kích thước thực của các đối tượng, có lẽ trước hết ta nên dùng đơn vị xăng-ti-mét hoặc mi-li- mét trên thước đo (nếu thước đo mà bạn thấy trong Corel DRAW đang dùng đơn vị khác, inch chẳng hạn). Muốn vậy, bạn bấm-phải vào thước đo (dọc hoặc ngang) và chọn Ruler setup trên trình đơn cảnh ứng vừa hiện ra. Lập tức, Corel DRAW hiển thị các quy định liên quan đến thước đo trên hộp thoại Options (hình 1). Bạn chọn đơn vị xăng-ti-mét hoặc mi-li-mét trong phần Units. Hình 1 Tiếp theo, ta cần quy định rằng tầm nhìn 100% của Corel DRAW tương ứng với kích thước thực. Nghĩa là khi đó khoảng cách 1 cm trên thước đo của Corel DRAW đúng bằng 1 cm trong thế giới thực. Trên sơ đồ hình cây ở bên trái hộp thoại Options, bạn mở nhánh Workspace (bấm vào dấu + trước Workspace), mở nhánh con Toolbox và chọn Zoom, Hand Tool. Các quy định liên quan đến công cụ chỉnh tầm nhìn xuất hiện bên phải hộp thoại Options (hình 2). Tại đó, bạn bật ô duyệt Zoom Relative to 1:1.
  33. Hình 2 Chưa hết, để chắc chắn rằng thước đo của Corel DRAW là chính xác, bạn hãy bấm nút Calibrate Rulers (định cỡ thước đo). Corel DRAW hiển thị ngay 2 thước đo dọc và ngang giữa màn hình (hình 3). Bạn hãy lấy cây thước của mình (tốt nhất là loại thước nhựa trong) áp vào thước đo ngang trên màn hình và bấm vào mũi tên chỉ lên hoặc chỉ xuống ở ô Horizontal sao cho 1 cm của thước đo trên màn hình bằng 1 cm thực sự trên cây thước của bạn. Tiếp theo, bạn thao tác tương tự với thước đo dọc (điều chỉnh bằng cách bấm vào mũi tên chỉ lên hay chỉ xuống ở ô Vertical). Xong xuôi, bạn bấm OK. Hình 3 Trở về với hộp thoại Options, bạn lại bấm nút OK. Trên thanh công cụ chuẩn của Corel DRAW, bạn thử chọn 100% trong ô Zoom Levels. Khi ấy Corel DRAW lấy tầm nhìn ứng với kích thước thực (các đối tượng mà bạn thấy trên màn hình có kích thước giống như khi in ra giấy), giúp bạn hình dung chính xác kết quả in trước khi in thực sự. [Đầu trang] Khi gióng hàng các đối tượng, đối tượng ta chọn sau cùng được lấy làm mốc. Thế nhưng nếu ta chọn các đối tượng bằng cách "căng" khung chọn vây lấy chúng (thay vì ấn giữ phím Shift và bấm vào từng "em") thì "đối tượng" được chọn sau cùng là cái gì đây? Bạn rất tinh ý! Trong trường hợp chọn "đại trà" như vậy dĩ nhiên không thể có "đối tượng được chọn sau cùng". Khi ấy, Corel DRAW lấy đối tượng được tạo ra sau cùng làm mốc. Cụ thể, trong bản vẽ thực tập của bạn vừa qua, "cậu bé" là đối tượng được tạo ra sau cùng (được lấy sau cùng từ mạng, bạn nhớ không). Gióng hàng các đối tượng là chuyện cần làm thường xuyên nhưng lại phải bật/tắt rắc rối trên hộp thoại "gì gì đó". Có cách nào khác nhanh hơn không? Rất may cho bạn, Corel DRAW cho phép ta gióng hàng bằng cách gõ phím, không cần mở hộp thoại Align and Distribute. Trước hết, bạn cũng phải chọn tất cả đối tượng cần gióng hàng như thường lệ. Sau đó, bạn chỉ gõ
  34. một trong các phím sau đây là xong ngay: * Phím T (tức "Top") để gióng thẳng hàng ngang ở rìa trên * Phím B (tức "Bottom") để gióng thẳng hàng ngang ở rìa dưới * Phím R (tức "Right") để gióng thẳng hàng dọc ở rìa phải * Phím L (tức "Left") để gióng thẳng hàng dọc ở rìa trái * Phím C (tức "Center") để gióng thẳng hàng dọc ở tâm * Phím E (tức "cEnter") để gióng thẳng hàng ngang ở tâm Tôi đã chọn một đối tượng. Nếu đổi ý, muốn chọn đối tượng khác, trước hết có cần phải "thôi chọn" đối tượng cũ không? Xem ra bạn rất cẩn thận, muốn mọi việc đều "có trước có sau". Xin thưa rằng bạn cứ dùng công cụ chọn bấm ngay vào đối tượng mới tùy thích, Corel DRAW sẽ tự động "thôi chọn" đối tượng mà bạn đã chọn. Bạn cũng có thể gõ phím Tab liên tiếp để "nhảy" từ đối tượng này qua đối tượng khác trên bản vẽ cho đến khi gặp đối tượng "mong ước" (khi ấy, Corel DRAW lần lượt chọn các đối tượng theo thứ tự tạo lập). Nếu vô tình "bước qua" đối tượng cần chọn, muốn "nhảy lui", bạn ấn Shift+Tab. Nói khác đi, phím Tab và tổ hợp phím Shift+Tab giúp bạn "đi lại" tự nhiên qua các đối tượng của bản vẽ. Làm việc với Corel DRAW rất thoải mái, bạn không phải cân nhắc, e dè như khi chọn đối tượng "ngoài đời" đâu! Trong trường hợp các đối tượng nằm dồn đống, chồng chất lên nhau, để chọn đối tượng nằm dưới, tôi cứ phải "canh me" phần thò ra của nó. Không hiểu nếu đối tượng bị che lấp hoàn toàn thì làm sao chọn? Bạn yên tâm. Giả sử ta có "cậu bé" chồng lên "ông béo", "ông béo" chồng lên "ông gầy". Muốn chọn "ông béo", bạn ấn giữ phím Alt và bấm vào "cậu bé". Khi ấy, Corel DRAW hiểu rằng bạn muốn chọn đối tượng bên dưới "cậu bé" chứ không phải chọn chính "cậu bé", tức là phải chọn "ông béo". Nếu bạn cứ tiếp tục ấn giữ phím Alt và bấm phát nữa vào "cậu bé", Corel DRAW đủ thông minh để hiểu rằng bạn muốn "bới" đến "ông gầy" ở dưới "ông béo". Bạn thấy đó, ta có thể làm việc rất đàng hoàng, không cần chi phải "nhắm nhe" vào những phần "thò ra"! Khi "căng" khung chọn, có phải "bủa vây" trọn vẹn các đối tượng hay chỉ cần để cạnh khung chọn cắt ngang đối tượng là đủ? Có lẽ bạn đã có kinh nghiệm sử dụng nhiều loại phần mềm nên mới nảy sinh ý nghĩ như vậy. Vâng, bạn có thể cho cạnh khung chọn cắt ngang đối tượng cần chọn (chỉ một phần đối tượng "ló" vào khung chọn) với điều kiện phải ấn giữ phím Alt khi "căng" khung chọn. Có cách nào nhanh chóng để chọn hoặc thôi chọn mọi đối tượng của bản vẽ không? Nếu bản vẽ có nhiều đối tượng mà cứ phải "bấm, bấm" hoài thì mệt quá! Có chứ! Để chọn mọi đối tượng của bản vẽ (khi bạn cần tác động chi đó lên toàn bản vẽ) ta chọn Edit > Select All > Objects hoặc nhanh hơn nữa, bấm kép vào công cụ chọn. Thôi chọn mọi đối tượng của bản vẽ còn dễ hơn, bạn chỉ cần bấm đại vào chỗ trống nào đó trên miền vẽ hoặc gõ phím Esc. Xin mách thêm cho bạn một mánh như thế này: muốn thôi chọn nhiều đối tượng nằm gần nhau để loại bỏ chúng ra khỏi tập hợp chọn, bạn ấn giữ phím Shift và "căng" khung chọn bao quanh các đối tượng ấy, không cần phải bấm "rỉ rả" vào từng đối tượng. CorelDRAW (Bài 11) [Hoàng Ngọc Giao] Cho đến nay, ta chỉ dùng hình ảnh có sẵn. Chắc bạn đang mong muốn có thể tự vẽ lấy một hình ảnh gì đó, thật nhanh và thật đẹp! Nếu bạn nghĩ vậy, xin hãy bình tĩnh. Bây giờ chưa phải lúc để "lả lướt". Trước mắt, bạn cần biết cách tạo ra các hình ảnh đơn giản, "chất phác": hình khung, hình elip, đa giác, Đúng là bản thân các hình như vậy không có gì thú vị nhưng để có các bản vẽ ngoạn mục sau này, bạn cần biết dùng thành thạo mọi công cụ tạo hình và thao tác vững vàng từ những bước đầu tiên. Hơn nữa, bạn sẽ thấy rằng nếu biết khéo sắp xếp, nhiều thứ vốn tẻ nhạt có thể làm nên những hình ảnh "ưa nhìn". Tạo hình khung Bạn hãy để ý biểu tượng hình chữ nhật nho nhỏ ở hộp công cụ. Nếu trỏ vào biểu tượng ấy chừng một giây, ta thấy hiện lên dòng chữ Rectangle Tool, tỏ ý nói rằng đó là công cụ để tạo hình khung. Chúng tôi gọi là "hình khung" cho tổng quát (thay vì "hình chữ nhật") vì nhờ công cụ này bạn có thể tạo ra "hình có dạng cái
  35. khung" với bốn góc uốn tròn. Thao tác tạo hình khung giống hệt việc "căng" khung chọn mà bạn từng thực hiện. Nghĩa là cũng trỏ vào đâu đó để định vị một góc của hình và kéo chuột đến góc đối diện. Dấu trỏ biến đổi thành dạng chữ thập với hình khung Bấm vào công cụ tạo hình khung (hoặc gõ phím nhỏ bên cạnh, tỏ ý nói rằng ta đang nắm trong tay F6) công cụ tạo hình khung. Trỏ vào đâu đó trên miền vẽ, ấn phím trái của chuột, Hình khung được "căng" ra theo sự điều khiển của kéo chuột xuống dưới, qua phải bạn. Bạn được hình khung như ý trong tình trạng "được Thả phím chuột chọn" (hình 1). Với công cụ tạo hình khung trong tay, bạn cứ tiếp tục "trỏ, kéo, thả" thỏa thích để tạo ra thêm nhiều hình khung khác nữa. Mỗi hình khung mà bạn tạo ra là một đối tượng. Như bạn đã biết, đối tượng vừa được tạo ra luôn luôn ở tình trạng "được chọn". Như thường lệ, giữa hình khung được chọn có dấu X để ta nắm lấy và di chuyển hình khung. Chọn hình khung tùy ý bạn. Tám dấu chọn xuất hiện Bấm vào giữa hình khung nào đó quanh hình khung. Giữa hình khung có dấu X. Kéo dấu X để di chuyển hình khung Kéo một trong các dấu chọn để co dãn hình khung Hình 1 [Đầu trang] Tác dụng của phím Shift và Ctrl Đối với việc tạo hình khung, phím Shift và phím Ctrl có vai trò giông giống như trong các thao tác di chuyển, co dãn, quay tròn hoặc kéo xiên đối tượng. Cụ thể, muốn "căng" hình khung từ tâm của nó (thay vì từ một góc), bạn ấn giữ phím Shift khi kéo chuột. Nếu ấn giữ phím Ctrl khi "căng" hình khung, hình khung sẽ bị "khống chế" để luôn có các cạnh bằng nhau, tức kết quả là một hình vuông (square). Bạn cũng có thể ấn giữ cả hai phím Shift và Ctrl (nếu rảnh ngón tay!) để kết hợp hiệu lực của chúng ("căng" hình vuông từ tâm của nó). Ấn giữ phím Shift, trỏ vào điểm nào đó mà bạn muốn là tâm hình khung, "căng" hình khung, thả phím chuột Căng hình khung từ tâm của nó rồi thả phím Shift Ấn giữ phím Ctrl và căng hình khung Tạo hình vuông Chỉnh dạng hình khung Nếu tinh ý, bạn thấy ở mỗi góc của hình khung được chọn có một ô vuông nhỏ xíu. Đó là cách thể hiện nút (node). Đối với Corel DRAW, hình khung là một đường khép kín có 4 nút. Nếu bạn "đụng" vào một nút nào đó, nút ấy phình lên, tỏ ý sẵn sàng để bạn điều chỉnh. "Điều chỉnh gì cơ?". Suỵt, bạn cứ thử kéo một nút nào đó thì khắc biết Bấm vào giữa hình khung nào đó Chọn hình khung Trỏ vào nút ở một trong 4 góc (hình 2) Dấu trỏ đổi dạng. Nút bị đụng phình lên Kéo nút dọc theo cạnh hình khung Góc hình khung uốn tròn theo sự điều khiển của bạn Thả phím chuột Bạn có hình khung "trơn tru"
  36. Hình 2 [Đầu trang] Thanh công cụ Property Bar Lúc đang kéo nút hình khung để chỉnh dạng cho nó, nếu liếc nhìn thanh công cụ Property Bar, bạn thấy có những trị số thay đổi liên tục theo sự điều khiển của bạn (hình 3). Đó là độ tròn góc (Rectangle Corner Roundness) biểu thị sự "mềm mại" của góc hình khung một cách định lượng, dành cho những ai thích "cân đong đo đếm". Cụ thể, hình chữ nhật "khẳng khiu" có độ tròn góc bằng 0. Độ tròn góc tối đa là 100 ứng với trường hợp cạnh ngắn của hình khung trở thành nửa đường tròn. Bạn có thể trực tiếp thay đổi độ tròn góc để chỉnh dạng hình khung. Hình 3 Độ tròn góc của các góc hình khung không còn bị ràng Bấm vào "ổ khoá" Round Corner Together trên buộc với nhau. Bạn có thể chỉnh độ tròn góc ở từng thanh công cụ Property Bar góc Bạn thoải mái "nhào nặn" hình khung để có hình dạng Thay đổi tùy ý độ tròn góc ở các góc hình khung như ý (hình 4) Hình 4 Màu tô và màu nét Theo mặc định, hình khung mà ta vừa tạo ra có màu nét đen và không có màu tô. Để tô màu cho (một hoặc nhiều) hình khung đã chọn, bạn chỉ việc bấm vào ô màu "hạp nhãn" nào đó của bảng màu. Muốn chỉ ra màu nét, bạn bấm-phải vào ô màu. Thao tác quy định màu tô và màu nét như vậy có hiệu lực đối với mọi đối tượng của Corel DRAW. Bấm vào giữa hình khung nào đó Chọn hình khung Bấm vào ô màu mà bạn thích trên bảng màu Chỉ định màu tô cho hình khung đã chọn Bấm-phải vào ô màu nào đó trên bảng màu (dĩ nhiên Chỉ định màu nét cho hình khung đã chọn cũng là màu bạn thích!) Cứ thế bạn "đi màu" thoải mái và tha hồ sắp xếp các hình khung "xanh, đỏ, tím vàng" trên màn hình (hình 5). Ta thật hạnh phúc được ngắm nhìn màu sắc tinh tường như lúc này, bạn có thấy vậy không?
  37. Hình 5 Bạn để ý, ô đầu tiên trong bảng màu có dấu vạch chéo. Đó là ô "không màu". Nếu bạn bấm vào ô "không màu", đối tượng được chọn trở nên "trong suốt" (không có màu tô). Tương tự, đường nét của đối tượng được chọn sẽ biến mất nếu bạn bấm-phải vào ô "không màu" (không có màu nét). Cần nhấn mạnh rằng "không màu" không có nghĩa là màu trắng! Tạo hình e-líp (Bài 12) [Hoàng Ngọc Giao] Không cần đến Corel DRAW, bạn vẫn có thể vẽ hình khung một cách sắc sảo trên giấy bằng thước và viết. Tuy nhiên, trong trường hợp cần đến hình e-líp (còn gọi là hình ô-van hay hình bầu dục), dám chắc rằng không mấy khi bạn hài lòng với kết quả của lối vẽ thủ công. Trong hộp công cụ của Corel DRAW có một công cụ dành riêng để vẽ hình e-líp gọi là Ellipse Tool. Cách dùng công cụ này giống hệt trường hợp vẽ hình khung. Bạn cũng "căng" ra một hình khung, nhưng là hình khung tưởng tượng, Corel DRAW sẽ tạo nên e-líp nội tiếp trong hình khung đó. Nói khác đi, hình khung mà bạn xác định khi vẽ e-líp chính là khung bao (bounding box) của e-líp được tạo ra. Chọn mọi hình khung mà bạn đã tạo ra Bấm-kép vào công cụ chọn Gõ phím Delete Dọn sạch miền vẽ Bấm vào công cụ vẽ e-líp (hoặc gõ phím F7) Trỏ vào đâu đó, "căng" một khung bao và thả phím Bạn có được đối tượng e-líp, mặc nhiên ở trong tình chuột trạng "được chọn" (hình 1) Với công cụ vẽ e-líp trong tay, bạn tiếp tục "căng" khung bao để tạo ra e-líp khác. Chỉ vài lần, bạn sẽ thấy quen tay thôi. Bấm vào giữa e-líp nào đó Chọn e-líp Kéo dấu X giữa e-líp để di chuyển nó đến chỗ khác Kéo một trong các dấu chọn để co dãn e-líp Bấm vào e-líp lần nữa Các dấu chọn quay hiện ra Kéo dấu chọn quay để quay tròn e-líp Bấm vào một ô màu tùy ý Chọn màu tô cho e-líp Bấm-phải vào ô màu tùy ý Chọn màu nét cho e-líp
  38. Hình 1 [Đầu trang] Tác dụng của phím Shift và Ctrl Nếu thấy cách vẽ e-líp vừa nêu không được tự nhiên, bạn ấn giữ phím Shift khi căng khung bao. Khi ấy, Corel DRAW xem chỗ xuất phát là tâm e-líp. Nếu ấn giữ phím Ctrl khi căng khung bao, bạn sẽ lại có dịp chứng kiến sự "khó chịu" của phím này: e-líp được tạo ra là một đường tròn. Như vậy, để vẽ một đường tròn với tâm định trước, bạn ấn giữ cả hai phím Shift và Ctrl khi căng khung bao. E-líp được tạo ra ngay và co dãn theo sự điều khiển Trỏ vào đâu đó và căng khung bao của bạn Ấn giữ phím Ctrl Đường tròn xuất hiện thay cho e-líp Thả phím chuột và thả phím Ctrl Bạn có đường tròn như ý Trỏ vào đâu đó mà bạn muốn là tâm đường tròn, ấn giữ phím Shift và Ctrl, căng khung bao, thả phím chuột Vẽ đường tròn với tâm định trước rồi thả phím Shift và Ctrl Chỉnh dạng e-líp Để ý e-líp nào đó đang được chọn, bạn thấy có một nút (ô vuông nhỏ xíu) duy nhất nằm ở đỉnh hoặc ở đáy e-líp (tùy theo bạn căng e-líp theo chiều nào, từ trên xuống hay từ dưới lên). Cũng như trường hợp hình khung, bạn có thể kéo nút ấy dọc theo e-líp để chỉnh dạng e-líp. Nếu bạn kéo nút e-líp ở miền trong e-líp, e-líp sẽ có dạng bánh (pie), cụ thể là bánh bị "thẻo" mất một miếng. Nếu kéo nút e-líp ở miền ngoài e-líp, e-líp sẽ trở thành một cung (arc). Các dấu chọn xuất hiện. Trên e-líp có một nút vuông Bấm vào e-líp nào đó để chọn nhỏ xíu Trỏ vào nút e-líp Nút e-líp phình lên (hình 2) Kéo nút dọc theo e-líp ở miền trong E-líp có dạng bánh Kéo nút dọc theo e-líp ở miền ngoài E-líp có dạng cung E-líp có dạng bánh hoặc dạng cung tùy theo bạn thả Thả phím chuột phím chuột khi ở miền trong hoặc miền ngoài e-líp Bạn có thể tiếp tục vẽ e-líp, tô màu và chỉnh dạng như gợi ý ở hình 3 cho đến khi thật quen tay. Chú ý rằng nếu ấn giữ phím Ctrl khi chỉnh dạng e-líp, tác dụng "khống chế" của phím này biểu hiện ở chỗ góc quét của dạng bánh hoặc dạng cung chỉ có thể thay đổi từng mức 15 độ.
  39. Hình 2 Hình 3 [Đầu trang] Thanh công cụ Property Bar Khi có một e-líp được chọn, thanh công cụ Property Bar có các thành phần điều khiển như bạn thấy ở hình 4 (ngoài các thành phần điều khiển kích thước và độ co dãn mà bạn đã quen thuộc), giúp ta chỉnh dạng e-líp một cách chính xác: * Ellipse: Cho e-líp "hiện nguyên hình" nếu e-líp được chọn đang có dạng bánh hoặc dạng khung. * Pie: Làm cho e-líp đã chọn có dạng bánh theo quy định về góc quét (angle) ở hai ô nhập liệu Starting and Ending Angles tiếp theo. * Arc: Làm cho e-líp đã chọn có dạng cung theo quy định về góc quét ở hai ô nhập liệu Starting and Ending Angles tiếp theo. * Starting and Ending Angles: Ô nhập liệu bên trên xác định vị trí xuất phát của góc quét (vị trí mặc định là 0 độ). Ô nhập liệu bên dưới xác định vị trí kết thúc của góc quét (vị trí mặc định là 270 độ). Bạn có thể gõ trị số tùy ý trong hai ô nhập liệu này hoặc tăng giảm trị số hiện hành bằng cách bấm vào các dấu mũi tên "chỉ thiên, chỉ địa". * Clockwise/Counterclockwise Arcs or Pies: Bạn có thể bật/tắt nút bấm này để đổi chiều góc quét. Hình 4 Chọn e-líp dạng bánh nào đó
  40. Bấm vào nút Arc trên thanh công cụ Property Dạng bánh chuyển thành dạng cung Bar Bấm vào nút Clockwise trên thanh công cụ Góc quét đổi chiều Property Bar Bấm vào nút Ellipse trên thanh công cụ Property E-líp trở lại nguyên vẹn Bar Bấm-kép vào công cụ chọn Chọn mọi e-líp hiện có Gõ phím Delete Dọn sạch miền vẽ Tạo hình đa giác và ngôi sao (Bài 13) [Hoàng Ngọc Giao] Nếu rành hình học, bạn bắt bẻ ngay: "Hình ngôi sao cũng là đa giác chứ bộ! Chẳng qua là đa giác lõm thôi". Vâng, đúng là như vậy. Tuy nhiên, hình ngôi sao trong Corel DRAW thực ra là một "đa giác chéo". Từ đa giác (polygon) trong Corel DRAW nhằm chỉ đa giác thường. Nói vậy có lẽ bạn khó hình dung. Tốt nhất ta lấy ngay công cụ vẽ đa giác Polygon Tool từ hộp công cụ và "quậy" chút xíu. Tuy có "hầm bà lằng" đủ loại đa giác, cách vẽ đa giác trong Corel DRAW lại rất đơn giản và nhất quán: bạn chỉ cần căng một khung bao là xong. Ghi chú Có thể bạn không thấy công cụ vẽ đa giác trên hộp công cụ mà lại thấy công cụ vẽ đường xoắn ốc Spiral Tool hoặc công cụ vẽ khung lưới Graph Paper Tool . Các công cụ này được đặt cùng một "ngăn kéo" của hộp công cụ. Nếu công cụ vẽ đường xoắn ốc đang nằm trong hộp công cụ trong khi ta lại cần công cụ vẽ đa giác, bạn bấm vào công cụ vẽ đường xoắc ốc và giữ phím chuột chừng một giây. Khi "ngăn kéo" thò ra, bạn thả phím chuột rồi bấm vào công cụ vẽ đa giác. Dấu trỏ thay đổi hình dạng, cho biết bạn đang cầm công Bấm vào công cụ vẽ đa giác cụ mới trong tay Đa giác được tạo ra với số đỉnh được định trước (theo Trỏ vào đâu đó và căng khung bao mặc định là 5) trên đường e-líp nội tiếp của khung bao Cứ thế bạn vẽ thêm vài đa giác nữa cho quen tay. Ấn giữ phím Ctrl và căng khung bao Vẽ ngũ giác đều (đa giác có các cạnh bằng nhau) Bấm vào nút Star trên thanh công cụ Property Ngũ giác đều biến thành ngôi sao năm cánh (hình 1) Bar Bấm vào ô màu nào đó (màu vàng chẳng hạn) Tô màu cho ngôi sao năm cánh Hình 1 Bạn để ý, trên thanh công cụ Property Bar có một thước chỉnh với con chạy, mang tên Sharpness of Polygon. Đó là phương tiện để quy định độ nhọn của ngôi sao. Độ nhọn là số đỉnh nằm giữa hai đỉnh được nối với nhau. Số đỉnh như vậy càng nhiều, ngôi sao trông càng nhọn. Thước chỉnh độ nhọn chỉ có tác dụng nếu ngôi sao đã chọn có ít nhất 7 đỉnh. Với ngôi sao 7 đỉnh, bạn có thể chọn độ nhọn là 1 hoặc 2. Thử quan sát hiệu lực của thước chỉnh, bạn sẽ hiểu ngay.
  41. Lúc này bạn thấy thước chỉnh Sharpness of Polygon "mờ câm" vì ngôi sao của ta chỉ có 5 đỉnh. Bạn thu được ngôi sao 12 đỉnh. Thước chỉnh độ nhọn Bấm-kép vào ô Number of Points và gõ 12 "tươi tỉnh" hẳn lên, tỏ ý sẵn sàng phục vụ Với độ nhọn mặc định là 1, ngôi sao 12 đỉnh của bạn trông như hình 2. Ngôi sao trở nên "sáng" hơn như hình 2. Với ngôi sao 12 Chỉnh con chạy để có độ nhọn là 4 hoặc gõ 4 vào ô đỉnh có độ nhọn là 4, bạn thấy rõ giữa 2 đỉnh được nối nhập liệu bên phải thước chỉnh và gõ Enter với nhau ta đếm được 4 đỉnh. Ngôi sao đã nhiều đỉnh, lại nhọn hoắc, sợ bạn liên tưởng đến "hát-i-vê". Vậy thì Gõ 5 vào ô Number of Points và gõ Enter Trở lại với ngôi sao năm cánh Hình 2 [Đầu trang] Chỉnh dạng đa giác Ngôi sao năm cánh với các đường nối đỉnh vắt chéo, trông giống như lồng đèn, chắc không phải là ngôi sao mà bạn mong đợi. Có lẽ bạn đang muốn có ngôi sao năm cánh được tô một màu trọn vẹn (để tạo hình "cờ đỏ sao vàng" chẳng hạn). Nếu vậy, bạn nên xuất phát từ hình ngũ giác đều. Bấm vào nút Polygon trên thanh công cụ Ngôi sao năm cánh biền thành ngũ giác đều Property Bar Bạn thấy rõ ô vuông nhỏ tại đỉnh, tức là có một nút tại Trỏ vào một đỉnh ngôi sao đấy Kéo nút ở đỉnh xuống dưới Ngũ giác chuyển thành "ngôi sao lệch" như hình 3 Muốn có ngôi sao đứng thẳng, lẽ ra ta nên kéo nút ở giữa cạnh (vâng, ở giữa cạnh đa giác cũng có một nút). Ấn Ctrl+Z Trỏ vào nút ở giữa cạnh trên, bên trái đỉnh cao nhất Kéo nút ở cạnh xuống dưới Ngũ giác chuyển thành ngôi sao cân đối Nếu quả thật bạn muốn có "sao vàng năm cánh", ta phải chỉnh cho thật đều. Phím "khống chế" Ctrl sẽ giúp bạn trong việc này. Khi ấn giữ phím Ctrl, bạn chỉ có thể kéo đỉnh theo đường xuyên tâm của đa giác, gần lại tâm hoặc ra xa tâm. Ấn Ctrl+Z Ấn giữ phím Ctrl và kéo nút ở giữa cạnh trên xuống Bạn thu được ngôi sao rất cân đối dưới
  42. Hình 3 [Đầu trang] Tạo đường xoắn ốc Đường xoắn ốc (spiral) có thể là phương tiện đắc lực để bạn xây dựng một bản vẽ thu hút người xem với những "ảo ảnh" chóng mặt! Hoàn toàn tương tự như trường hợp vẽ e-líp hoặc đa giác, sau khi chọn công cụ vẽ đường xoắn ốc Spiral Tool ở hộp công cụ, bạn căng ra một khung bao và thu được đường xoắn ốc nằm gọn trong khung bao ấy. Vẫn như thường lệ, nếu bạn ấn giữ phím Ctrl khi căng ra khung bao, đường xoắn ốc sẽ được "khống chế" để có hình dạng tròn trịa. Bên cạnh đó, phím Shift giúp bạn vẽ nên đường xoắn ốc từ một tâm. Bấm vào công cụ vẽ đa giác chừng một giây Một "ngăn kéo" thò ra từ hộp công cụ Dấu trỏ đổi dạng, cho biết bạn đang nắm trong tay công Bấm vào công cụ vẽ đường xoắn ốc Spiral Tool cụ mới Đường xoắn ốc xuất hiện, nằm gọn trong khung bao do Căng một khung bao (tưởng tượng) bạn xác định (hình 4) Ấn giữ phím Ctrl và căng một khung bao khác Bạn thu được đường xoắn ốc tròn trịa Ấn giữ phím Shift, trỏ vào chỗ nào đó mà bạn muốn Bạn thu được đường xoắn ốc có tâm đặt tại vị trí xuất là tâm của đường xoắn ốc rồi kéo chuột phát Hình 4 [Đầu trang] Thanh công cụ Property Bar Khi cầm công cụ vẽ đường xoắn ốc trong tay, bạn thấy có một vài thành phần điều khiển liên quan đến đường xoắn ốc xuất hiện trên thanh công cụ Property Bar (hình 5). Ý nghĩa của chúng như sau. Spiral Revolutions: Ô nhập liệu thể hiện số vòng quay của đường xoắn ốc. Muốn quy định số vòng quay, bạn chủ động gõ trị số mới vào ô nhập liệu này. Symmetrical spiral: Nút bấm giúp bạn tạo đường xoắn ốc đối xứng, tức là đường xoắn ốc có các vòng quay
  43. cách đều (hình 6). Nút bấm này được "ấn xuống" theo mặc định, do đó các đường xoắn ốc mà bạn vừa vẽ đều là đường xoắn ốc đối xứng. Logarithmic spiral: Nút bấm giúp bạn tạo "đường xoắn ốc lô-ga-rít", tức là đường xoắn ốc có các vòng quay rộng dần kể từ tâm (hình 6). Spiral Expansion Factor: Thước chỉnh giúp bạn quy định "hệ số bành trướng" của đường xoắn ốc "lô-ga-rít". Hệ số này càng lớn, các vòng quay của đường xoắn ốc dãn nở càng nhanh. Chú ý rằng bạn phải lựa chọn, điều chỉnh trên thanh công cụ Property Bar trước khi vẽ đường xoắn ốc. Các quy định mới của bạn chỉ có hiệu lực đối với đường xoắn ốc được tạo ra sau đó, không ảnh hưởng gì đến những đường xoắn ốc đã có. Hình 5 Hình 6 Tạo khung lưới (Bài 14) [Hoàng Ngọc Giao] Bạn có bao giờ phải vẽ trên giấy kẻ ô (graph paper)? Corel DRAW có một công cụ giúp bạn tạo nên nhanh chóng một khung lưới có số lượng ô định trước. Với khung lưới như vậy, trang in của bạn lập tức trở thành một trang giấy kẻ ô, có lẽ sẽ rất có ích nếu bạn là một họa viên kỹ thuật. Với công cụ vẽ khung lưới (Graph Paper Tool) trong tay, bạn tạo ra khung lưới theo cách giống hệt như khi vẽ hình khung. Ngoài ra, Corel DRAW vẫn tỏ ra nhất quán trong việc duy trì hiệu lực của phím Ctrl và Shift đối với thao tác vẽ khung lưới (chắc bạn đoán ra ngay tác dụng cụ thể của hai phím Ctrl và Shift trong trường hợp này). Bấm vào công cụ vẽ đường xoắn ốc chừng một giây Một "ngăn kéo" thò ra từ hộp công cụ Dấu trỏ đổi dạng, cho biết bạn đang nắm trong tay Bấm vào công cụ vẽ khung lưới Graph Paper Tool công cụ mới Khung lưới xuất hiện, nằm gọn trong khung bao do Căng một khung bao (tưởng tượng) bạn xác định (hình 1) Hình 1
  44. Khung lưới được tạo ra mặc nhiên có 4 cột và 3 hàng, nghĩa là gồm 12 ô. Bạn có thể thấy rõ quy định này khi nhìn vào thanh công cụ Property Bar. Để tạo ra khung lưới có số hàng và số cột như ý, bạn chủ động gõ số cột và số hàng vào hai ô nhập liệu Graph Paper Columns and rows trên thanh công cụ Property Bar trước khi căng khung. Số cột và số hàng tối đa được phép là 99. Khung lưới thực chất là một nhóm đối tượng (group), nói rõ hơn là một nhóm các hình khung. Nếu chọn khung lưới và chọn Arrange > Ungroup (hoặc ấn Ctrl+U), bạn giải thể (ungroup) thành những hình khung riêng biệt. Để quen tay, bạn thử tạo ra hình ảnh như hướng dẫn ở hình 2 xem sao nhé. Chú ý rằng ta có thể chọn màu tô, màu nét cho khung lưới và sao chép khung lưới bằng phím "cộng lớn" như mọi đối tượng khác trong Corel DRAW. Hình 2 [Đầu trang] Các phương tiện giúp vẽ chính xác Chỉ với một hình đơn giản như hình 2, có lẽ bạn đã thấy lúng túng vì khó sắp xếp ngay ngắn các đối tượng đúng như ý. Lúc nhìn từ xa, mọi việc dường như đã ổn. Nhưng khi lấy tầm nhìn gần, vẫn còn những xộc xệch nhất định. Và những xộc xệch ấy rất có thể hiện ra rành rành trên giấy khi in! Nếu bài tập nêu trên yêu cầu kích thước chính xác như bản vẽ kỹ thuật thì chắc bạn còn bối rối hơn. Tất cả là vì miền vẽ mà bạn thấy trên màn hình là một thứ "không gian rời rạc", cấu thành bởi nhiều chấm nhỏ, khác với không gian thực tế. Do vậy, ở tầm nhìn xa, thước đo của Corel DRAW không thể chính xác như ở tầm nhìn gần. Nhưng lẽ nào để có được sự chính xác như ý, ta phải làm mọi chuyện ở tầm nhìn thật gần? Mà "gần" đến thế nào mới gọi là chính xác đây? Để giúp bạn vẽ chính xác một cách dễ dàng, ngoài thước đo dọc và ngang, Corel DRAW còn có lưới định vị (grid) và các đường gióng (guideline). Nếu ta thiết lập chế độ bắt dính vào lưới định vị (snap to grid) hoặc bắt dính vào đường gióng (snap to guideline), bạn sẽ thấy rằng việc đặt chính xác đối tượng nào đó vào tọa độ cho trước chỉ còn là "trò trẻ con". Tuy nhiên, trước hết bạn cần biết cách điều chỉnh thước đo của Corel DRAW để có đơn vị và vạch chia như ý. Điều chỉnh thước đo Nếu không thấy thước đo đâu cả, bạn chọn View > Rulers để thước đo tái hiện Bấm-phải vào thước đo và chọn Rulers Setup trên trình đơn nho nhỏ vừa hiện ra (hoặc bấm-kép vào thước đo Hộp thoại Options hiện ra (hình 3) cũng được)
  45. Hình 3 Hộp thoại Options là nơi bạn có thể điều chỉnh mọi thứ trong môi trường làm viêc của Corel DRAW. Những bộ phận của Corel DRAW được phân loại chặt chẽ thành một cấu trúc cây, được trình bày bên trái hộp thoại. Ta có thể gọi đấy là cây hệ thống (system tree). Khi mở hộp thoại Options theo cách như vừa làm, Corel DRAW tự động chọn mục Rulers trên cây hệ thống và bạn thấy ngay các quy định liên quan đến thước đo được trình bày bên phải hộp thoại. Nếu không mở hộp thoại Options theo cách nêu trên, bạn sẽ phải "đi" xa hơn: chọn Tools > Options, bấm vào ô có dấu cộng trước Document để "bung" nhánh con tương ứng rồi chọn Rulers trên nhánh con ấy. Để cho gọn, từ đây về sau ta sẽ diễn đạt "đường đi nước bước" như vậy bằng cách nói đơn giản "chọn Tools > Options > Document > Rulers". Bạn có thể chọn đơn vị cho thước đo ở phần Units bên phải hộp thoại Options (chẳng hạn inches, milimeters, points, didots, ). Nếu ta bật ô duyệt Same units for Horizontal and Vertical rulers (ô duyệt này bật sẵn theo mặc định), đơn vị được chọn cho thước đo ngang đương nhiên cũng là đơn vị cho thước đo dọc. Nếu muốn chọn đơn vị khác nhau cho hai thước đo, bạn phải tắt ô duyệt ấy đi. Phần Origin dùng để quy định vị trí gốc của thước đo (vị trí của vạch chia số 0). Bạn gõ trị số cụ thể vào hai ô nhập liệu Horizontal và Vertical trong phần Origin để xác định tọa độ của gốc mới so với gốc hiện hành. Ô liệt kê Tick divisions cho phép quy định số khoảng chia trên một đơn vị. Bạn có thể chọn 6, 8 hoặc 10 tùy theo đơn vị đo đang dùng. Nếu bạn chọn 10 per tick chẳng hạn, trên một đơn vị đo sẽ có 10 khoảng chia với 9 vạch nhỏ. Bên dưới ô Tick divisions là ô duyệt Show fractions, cho phép hiển thị hỗn số (số nguyên và phân số kèm theo) trên thước đo thay vì số thập phân. Bạn chỉ nên chọn dạng thức hỗn số khi dùng hệ inch, với những số đo như "nửa inch", "một phần tư inch", rất thường gặp. Tuy nhiên, vì ta chủ yếu dùng hệ mét, dạng thức thập phân thích hợp hơn. Chọn centimeters tại "ô liệt kê buông xuống" Horizontal Chọn đơn vị đo là xăng-ti-mét trong phần Units của hộp thoại Options Chọn 10 per tick tại "ô liệt kê buông xuống" Tick Lấy 10 vạch chia trên một xăng-ti-mét divisions Tắt ô duyệt Show fractions (nếu ô duyệt này đang bật) Chọn dạng thức thập phân Chọn OK Đóng hộp thoại Options. Thế là bạn đã có thước đo "phù hợp thị hiếu". Lưới định vị (Bài 15) [Hoàng Ngọc Giao] Chọn View > Grid Lưới định vị xuất hiện Như bạn thấy, lưới định vị là hệ thống các đường chấm chấm màu xám bày ra dọc ngang miền vẽ, phù hợp với vạch chia của thước đo. Người ta thường gọi giao điểm của những đường chấm chấm như vậy là mắt lưới (grid dot). Lưới định vị không thuộc về bản vẽ của bạn, không xuất hiện trên giấy khi in bản vẽ, mà chỉ nhằm giúp ta định vị dễ dàng. Lợi ích của lưới định vị càng rõ ràng khi bạn làm việc ở chế độ bắt dính vào mắt lưới (snap to grid), trong đó sự di chuyển trên miền vẽ bị ràng buộc vào các mắt lưới.
  46. Bấm-kép vào công cụ chọn và gõ phím Delete Dọn sạch miền vẽ Chọn View > Snap To Grid Chọn chế độ "bắt dính vào lưới" Hình khung của bạn quả thực bị "bắt dính vào lưới" Dùng công cụ Rectangle Tool để vẽ một hình (hình 1). Bạn không thể chọn đỉnh hình khung ở giữa khung những mắt lưới Gõ phím Delete Xóa bỏ hình khung vừa vẽ Hình 1 Bạn có thể quy định lại khoảng cách giữa hai mắt lưới liên tiếp (spacing) nếu cần. Việc điều chỉnh như vậy cũng được thực hiện thông qua hộp thoại Options. Bấm-phải vào thước đo và chọn Grid Setup trên trình Hộp thoại Options xuất hiện (hình 2) đơn nho nhỏ vừa hiện ra Do mở hộp thoại Options theo cách như trên, bạn thấy bày ra các quy định tương ứng với mục Grid trên cây hệ thống. Để quy định khoảng cách giữa hai mắt lưới, bạn chọn Spacing. Bấm vào Frequency, bạn có thể điều chỉnh tần suất của lưới định vị, tức là số mắt lưới ứng với một đơn vị của thước đo. Khi dùng đơn vị đo khá nhỏ (như pixel, point hoặc mi-li-mét chẳng hạn), bạn nên quy định tần suất của lưới là trị số nhỏ hơn 1 để tránh làm cho mắt lưới quá dày đặc. Hình 2 Trên hộp thoại Options, bạn còn thấy có hai quy định loại trừ nhau (bạn chỉ có thể chọn một trong hai): Show grid as lines: Hiển thị lưới định vị dưới dạng các đường chấm chấm (như bạn thấy rồi đó). Nếu bạn là họa viên kỹ thuật quen làm việc trên giấy kẻ ô, có lẽ đây là khả năng tốt lành. Show grid as dots: Chỉ hiển thị những mắt lưới. Cách hiển thị này đỡ rối mắt hơn cách vừa nêu. Nếu ta bật nút Show grid as dots, nút bấm Show grid as lines tự động tắt. Người ta thường quen gọi các nút "tròn tròn" đi với nhau thành bộ, trong đó mỗi lúc chỉ có một nút ở trạng thái bật, là các nút đài (radio button), tức
  47. là nút bấm trên cái "đài" (cái ra-đi-ô í mà!). Bật nút đài Spacing Quy định khoảng cách ngang giữa 2 mắt lưới liên tiếp Bấm-kép vào ô Horizontal và gõ 1 là 1 cm Quy định khoảng cách dọc giữa 2 mắt lưới liên tiếp là 1 Bấm-kép vào ô Vertical và gõ 1 cm Bật nút đài Show grid as dots Chọn OK Đóng hộp thoại Options Việc tạo hình khung với kích thước cho trước trở nên Dùng công cụ Rectangle Tool để vẽ hình khung rộng dễ dàng nhờ có lưới định vị thích hợp và chế độ "bắt 7 cm, cao 5 cm dính vào lưới" Gõ phím Delete Xóa hình khung vừa vẽ [Đầu trang] Đường gióng Ngoài lưới định vị, Corel DRAW còn có phương tiện khác giúp bạn định vị dễ dàng hơn nữa, đó là đường gióng (guideline). Bạn có thể đặt đường gióng ngang dọc trên bản vẽ để phân chia trang in thành nhiều khu vực, tựa như ta kẻ tạm những đường chì mờ mờ trên giấy với mục đích đánh dấu các bộ phận của bản vẽ. Nhiều người ưa thích dùng đường gióng để định lề cho bản vẽ, tự nhắc mình không để hình ảnh nằm sát biên trang in (không chỉ mất đẹp mà còn không an toàn vì máy in thường không thể in sát biên trang giấy). Cũng như lưới định vị, đường gióng không thuộc về bản vẽ, do đó không xuất hiện trên giấy khi bạn in bản vẽ. Để tạo đường gióng ngang, bạn trỏ vào thước đo ngang và kéo dấu trỏ của chuột (dấu trỏ mũi tên) vào miền vẽ. Tương tự, bạn "kéo ra" đường gióng dọc từ thước đo dọc. Trỏ vào thước đo ngang, kéo dấu trỏ vào miền vẽ Bạn thu được một đường gióng ngang Bạn thấy rõ đường gióng là đường thẳng có nét đứt đoạn ("gạch gạch") Trỏ vào thước đo dọc, kéo dấu trỏ vào miền vẽ Bạn thu được một đường gióng dọc Thao tác như trên chắc sẽ làm cho bạn có cảm giác thước đo là nơi "sản xuất" đường gióng. Mà quả thật, bạn có thể "lấy" bao nhiêu đường gióng tùy ý từ thước đo, cứ như làm ảo thuật vậy. Trong trường hợp muốn có đường gióng dọc ứng với vị trí nào đó trên thước đo ngang, bạn trỏ vào vị trí ấy, ấn giữ phím Alt khi kéo dấu trỏ từ thước đo ngang. Tương tự, ấn giữ phím Alt khi kéo dấu trỏ từ thước đo dọc, bạn dễ dàng thu được một đường gióng ngang tại vị trí đã định. Trỏ vào vị trí nào đó trên thước đo ngang, ấn giữ phím Bạn thu được đường gióng dọc tại vị trí đã định trên Alt và kéo dấu trỏ vào miền vẽ thước đo ngang Trỏ vào vị trí nào đó trên thước đo dọc, ấn giữ phím Bạn thu được đường gióng ngang tại vị trí đã định trên Alt và kéo dấu trỏ vào miền vẽ thước đo dọc Thế là bạn có 4 đường gióng, 2 ngang, 2 dọc, đại khái như hình 3. Bạn để ý, đường gióng được tạo ra sau cùng có màu đỏ, biểu thị tình trạng "được chọn", phân biệt với các đường gióng không được chọn có màu xanh dương. Hình 3 Bạn không cần quá dè dặt, tỉ mỉ trong việc chọn chỗ cho đường gióng khi kéo đường gióng từ thước đo. Ta cứ
  48. tự nhiên lấy "ồ ạt" bao nhiêu đường gióng tùy ý từ thước đo rồi di chuyển từng đường gióng đến chỗ cần thiết. Giống như khi thao tác với đối tượng của bản vẽ, bạn có thể chọn đường gióng để di chuyển, quay tròn hoặc xóa bỏ. Chọn View > Snap To Grid Chấm dứt chế độ "bắt dính vào lưới" Chọn View > Grid Cho lưới định vị biến đi Bấm vào công cụ chọn Trỏ vào đường gióng ngang màu đỏ Dấu trỏ biến thành mũi tên hai đầu Kéo đường gióng lên trên hoặc xuống dưới Di chuyển đường gióng Bấm vào đường gióng đã chọn Dấu chọn quay xuất hiện Kéo dấu chọn quay Đường gióng quay tròn Thả phím chuột Bạn thu được đường gióng nằm nghiêng (hình 4) Muốn chọn nhiều đường gióng cùng lúc, như đã làm với các đối tượng, bạn ấn giữ phím Shift và lần lượt bấm vào các đường gióng cần thiết. Chọn đường gióng dọc. Đường gióng được chọn Bấm vào một đường gióng dọc chuyển thành màu đỏ Ấn giữ phím Shift và bấm vào đường gióng dọc thứ Chọn thêm một đường gióng dọc nữa hai Trỏ vào một trong hai đường gióng và kéo qua trái Cả hai đường gióng được chọn cùng di chuyển hoặc qua phải Hình 4 Cũng như trường hợp lưới định vị, ích lợi của đường gióng càng rõ ràng nếu bạn làm việc ở chế độ bắt dính vào đường gióng (snap to guideline), trong đó đường gióng có tác dụng như một nam châm, nghĩa là có thể "hút" đối tượng gần nó. Để thử nghiệm, ta hãy thử kẻ một đường thẳng dọc theo đường gióng. Corel DRAW có một công cụ chuyên dùng để kẻ đường thẳng gọi là Freehand Tool , với biểu tượng hình "bút chì". Bạn chỉ cần nắm lấy "bút chì" và bấm lần lượt vào hai điểm nào đó trên miền vẽ để xác định hai đầu mút đường thẳng. Chọn công cụ Freehand Tool từ hộp công cụ Chọn View > Snap To Guideline Chọn chế độ "bắt dính vào đường gióng" Bấm vào gần giao điểm của đường gióng nằm Đầu mút thứ nhất được bắt dính vào giao điểm của hai nghiêng với một đường gióng thẳng đứng đường gióng Bấm vào gần giao điểm của đường gióng nằm Đầu mút thứ hai được bắt dính vào giao điểm của hai nghiêng với đường gióng thẳng đứng thứ hai đường gióng. Bạn thu được đường thẳng như hình 5. Chọn Edit > Select All > Guideline Chọn mọi đường gióng Gõ phím Delete Xóa bỏ mọi đường gióng
  49. Hình 5 Vậy là bạn đã thấy được ích lợi của các phương tiện giúp vẽ chính xác: thước đo (ruler), lưới định vị (grid) và đường gióng (guideline). Nếu phải thực hiện các bản vẽ kỹ thuật, bạn sẽ rất cần đến chế độ bắt dính vào lưới định vị (snap to grid) hoặc bắt dính vào đường gióng (snap to guideline). Cho dù bạn không phải "dân kỹ thuật" mà chỉ "làm văn nghệ", thước đo, lưới định vị và đường gióng vẫn là các phương tiện cần dùng thường xuyên. Khóa đối tượng (Bài 18) [Hoàng Ngọc Giao] Các hình hà mã, nai, khỉ, lạc đà thế là ổn. Có lẽ ta không cần sửa sang chi nữa. Để tránh cho các đối tượng
  50. hoàn chỉnh bị ảnh hưởng bất ngờ bởi thao tác nào đó sau này, người ta thường khóa (lock) chúng lại. Một khi bạn khóa đối tượng, đối tượng ấy sẽ không thay đổi do bất cứ tác động nào cho đến khi bạn mở khóa (unlock). Dù bạn vẫn được phép chọn đối tượng bị khóa (dĩ nhiên rồi, có thế mới mở khóa được), CorelDRAW sẽ “lờ tịt” các đối tượng ấy trong mọi hoạt động, xử sự như thể chúng không được chọn. Căng khung chọn bao quanh hà mã, nai, khỉ, lạc đà và Chọn hà mã, nai, khỉ, lạc đà và các “chuồng” của các hình khung của chúng chúng Các dấu chọn biến thành các ổ khóa xinh xinh, biểu thị Chọn Arrange > Lock Object tình trạng “cửa đóng then cài” (hình 1) Ấn Ctrl+S Ghi bản vẽ lên đĩa (nhanh nhanh lên, bạn!) Hình 1 Từ giờ trở đi, bạn không sợ hà mã, nai, khỉ, lạc đà bị xê dịch hoặc đổi màu do các thao tác “vô ý” của mình sau này. Chuyện như vậy không hiếm đâu, dù cẩn thận cỡ nào ta cũng có lúc lẫn lộn chứ! Những người dùng CorelDRAW thành thạo sẽ nói cho bạn biết rằng họ từng sai lầm nhiều lần, làm cho bản vẽ xộc xệch, “rung rinh” mà không hay, đến lúc in ra giấy mới tá hỏa! Ghi chú Để khóa đối tượng, bạn có thể thao tác theo cách khác: bấm-phải vào đối tượng ấy và chọn Lock Object trên trình đơn cảnh ứng vừa hiện ra. Muốn mở khóa cho đối tượng bị khóa, bạn chọn đối tượng ấy rồi chọn Arrange > Unlock Object hoặc bấm-phải vào đối tượng và chọn Unlock Object trên trình đơn cảnh ứng. Nếu cần “phóng sinh” mọi đối tượng, bạn không phải chọn đối tượng chi cả, chỉ việc chọn ngay Arrange > Unlock All Objects là xong. Yên tâm một chuyện, ta tiếp tục “tính sổ” với sư tử. Dĩ nhiên bạn có những ý kiến riêng về cách thiết kế nhưng ta hãy thỏa thuận một phương án trình bày như trên hình 2 (bạn xem trước đi). Phương án như vậy nhằm tạo “tiêu điểm” cho bản vẽ, nhấn mạnh mục tiêu nghiên cứu đời sống hoang dã. Để tiện vẽ hình vuông và hai đường tròn đồng tâm như hình 2, ta hãy đặt hai đường gióng giao nhau tại “tiêu điểm” cần thiết. Bạn nhớ rằng chế độ “bắt dính” vào đường gióng đang có hiệu lực. Kéo đường gióng ngang hiện có đến vị trí như hình 2 Kéo đường gióng dọc từ thước đo đến vị trí như hình 2 Chọn công cụ vẽ hình khung Ấn giữ phím Shift và Ctrl, trỏ vào giao điểm hai đường Bạn thu được hình vuông nhỏ có tâm nằm tại giao gióng và căng một hình khung nhỏ điểm hai đường gióng Chọn công cụ vẽ e-líp Ấn giữ phím Shift và Ctrl, trỏ vào giao điểm hai đường gióng và căng một đường tròn có kích thước cỡ gấp ba hình vuông vừa vẽ Lấy công cụ chọn Ấn phím “cộng lớn” Sao chép đường tròn vừa vẽ. Bạn có hai đường tròn
  51. nằm chồng khít. Đường tròn mới ở trạng thái “được chọn” Ấn giữ phím Shift và kéo dấu chọn ở một góc để dãn Tạo ra đường tròn thứ hai đồng tâm với đường tròn đường tròn mới sao cho đường tròn mới lớn hơn thứ nhất đường tròn cũ như hình 2 Chọn “bút chì” ở hộp công cụ (công cụ vẽ đường thẳng) Lần lượt kẻ hai đường thẳng vuông góc, tạo thành chữ thập như trên hình 2 Ta có thể dẹp bỏ các đường gióng được rồi Bấm vào đường gióng dọc và gõ phím Delete Xóa đường gióng dọc Bấm vào đường gióng ngang và gõ phím Delete Xóa đường gióng ngang Hình 2 [Đầu trang] Phân bố đối tượng Hiện giờ nền trang in vẫn còn trống trải. Hình 7 đề nghị với bạn một cách để “làm dịu” đường nét khô khốc, khẳng khiu của các hình khung và dấu chữ thập (bạn xem trước đi). Bốn hình e-líp nhạt màu với sắc độ chuyển dần thành trắng dàn hàng ngang lấp đầy chiều rộng trang in, tạo cho người xem cảm giác “thư giãn”. Bạn thích không? Ta làm đi, hén? Chọn công cụ vẽ e-líp và căng e-líp dài theo chiều cao trang in như hình 3 Bấm vào ô màu nào đó (mà bạn thấy “ăn” với màu của Chọn màu tô cho e-líp các hình khung) Bấm-phải vào ô “không màu” Bỏ màu nét của e-líp Tạo ra 3 bản sao của e-líp vừa vẽ. Cả bốn e-líp nằm Gõ phím “cộng lớn” ba lần chồng khít lên nhau. E-líp được tạo ra sau cùng nằm trên cùng và ở trạng thái “được chọn”
  52. Hình 3 Để “trải” các e-líp hiện có cho đầy chiều rộng trang in, ta sẽ dùng chức năng phân bố đối tượng, được trình bày trên hộp thoại Align and Distribute. Trước khi mở hộp thoại ấy, bạn phải chọn tất cả đối tượng cần “trải”. Bấm vào công cụ chọn Các e-líp “thò” vào trong khung chọn sẽ được chọn. Ấn giữ phím Alt và căng khung chọn như hình 4 Nghĩa là cả bốn e-líp nằm chồng lên nhau đều được chọn Chọn Align and Distribute trên thanh công cụ Hộp thoại Align and Distribute (hình 5) xuất hiện Property Bar (hoặc chọn Arrange > Align and Distribute) Bấm vào Distribute Chuyển qua thẻ Distribute Phân bố các đối tượng đã chọn cho đầy chiều rộng Bật ô duyệt Extent of Page và bật ô duyệt Left trang in. Rìa trái của các đối tượng cách đều Bấm vào Apply rồi bấm vào Close Đưa bốn e-líp xuống dưới cùng. Bạn thu được kết quả Ấn Shift+PageDown như hình 6 Hình 4
  53. Hình 5 Hình 6 Trên trang Distribute của hộp thoại Align and Distribute, bằng cách bật ô duyệt Extent of Page và một trong các ô duyệt ở hàng ngang bên trên, bạn có thể phân bố các đối tượng đã chọn cho đầy chiều rộng của trang. Bật ô duyệt Extent of Page và một trong các ô duyệt ở hàng dọc bên trái, bạn có thể phân bố các đối tượng đã chọn cho đầy chiều cao của trang. Các ô duyệt ở hàng ngang bên trên cho phép lựa chọn các khả năng khác nhau khi phân bố theo chiều rộng: làm cho rìa trái (Left), rìa phải (Right), tâm (Center) của các đối tượng cách đều hoặc làm cho khoảng hở giữa chúng bằng nhau (Spacing). Tương tự, các ô duyệt ở hàng dọc bên trái giúp bạn làm cho rìa trên (Top), rìa dưới (Bottom), tâm (Center) của các đối tượng cách đều hoặc làm cho khoảng hở giữa chúng bằng nhau (Spacing) khi phân bố theo chiều cao. Quan sát kỹ biểu tượng của mỗi ô duyệt, bạn sẽ hiểu ngay. Trong trường hợp bốn e-líp đang xét, tác dụng của các ô duyệt Left, Center, Spacing và Right cho bạn kết quả như nhau. Bạn còn thấy có ô duyệt gọi là Extent of selection. Đấy là khả năng phân bố trong phạm vi xác định bởi các đối tượng được chọn, chỉ có hiệu lực trong trường hợp các đối tượng nằm rải rác. Do bốn e-líp của ta nằm “một đống”, nếu bạn bật ô duyệt Extent of selection và bấm Apply, bạn sẽ chẳng thấy có chi “nhúc nhích”. [Đầu trang] Sử dụng dải màu Màu trơn của bốn e-líp chiếm một mảng lớn trông khá buồn tẻ. Trừ khi bạn dự định trang trí thêm chi đó, ta nên thay màu trơn mảng lớn bằng dải màu (fountain fill, gradient fill). Đó là một dải gồm nhiều màu và sắc độ khác nhau (từ đậm thành nhạt và ngược lại), thường làm cho người xem có cảm giác êm dịu tựa như tiếng trầm ngân nga đệm cho những nốt nhạc thánh thót (nếu so sánh như thế thì mảng màu của bốn e-líp hiện giờ là một thứ tiếng “ù ù”!). Để tạo ra dải màu, bạn có thể dùng công cụ Interactive Fill Tool, tạm dịch là công cụ tô tương tác. Gọi là “tương tác” vì công cụ này tạo ra các “nút chỉnh” và “con chạy” nằm ngay trên đối tượng được tô, cho phép điều chỉnh tức thời sự biến chuyển sắc độ trong dải màu. Lúc này cả bốn e-líp đang được chọn. Do vậy ta có thể tô dải màu cho chúng cùng một lượt. Dấu trỏ thay đổi, cho biết bạn đang cầm trong tay công Chọn Interactive Fill Tool từ hộp công cụ cụ mới
  54. Xuất hiện dải màu thay cho màu tô trơn của e-líp. Các Trỏ vào rìa dưới của một e-líp và kéo dấu trỏ băng qua sắc độ trên dải màu diễn tả sự biến chuyển từ màu vốn chiều cao e-líp, chạy đến rìa trên có của e-líp thành màu trắng Bạn để ý hai nút chỉnh hình vuông ở hai đầu e-líp. Nếu bạn kéo nút chỉnh như vậy, hướng biến chuyển của dải màu thay đổi (thẳng đứng hoặc nằm nghiêng). Giữa hai nút chỉnh là một con chạy. Tùy theo vị trí con chạy, màu ở đầu này e-líp sẽ lấn át màu kia trong dải màu hoặc ngược lại. Kéo “nút trắng” ở rìa trên e-líp sao cho dải màu thẳng đứng (nếu dải màu chưa được thẳng đứng) Màu trắng tỏ ra lấn át trong dải màu, làm cho dải màu Kéo con chạy xuống dưới một chút (hình 7) nhạt hơn (và “nhã” hơn) Hình 7 Interactive Fill Tool chỉ là một trong những công cụ tương tác của CorelDRAW. Nét chung lý thú của những công cụ như vậy là sự thay đổi diễn ra tức thời trên bản vẽ tùy bạn điều khiển, theo kiểu “tay làm, mắt thấy liền”, không cần hộp thoại, không có nút bấm Apply hay OK chi cả. Sức mạnh của máy tính để bàn hiện nay đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện của các phương tiện làm việc thật dễ chịu! Ghi chữ lên bản vẽ (Bài 19) [Hoàng Ngọc Giao] Hình ảnh và màu sắc của bản vẽ “thú rừng” thế là ổn. Ta hãy tính đến chuyện “chữ nghĩa”. CorelDRAW có một công cụ giúp bạn ghi chữ lên bản vẽ, gọi là Text Tool . Cách dùng rất đơn giản: bạn lấy công cụ ấy ở hộp công cụ, bấm vào chỗ nào đó trên miền vẽ mà bạn muốn đặt dòng chữ và gõ dòng chữ từ bàn phím. Xin nói ngay, bạn đừng quá dè dặt khi chọn chỗ cho dòng chữ. Như mọi đối tượng của CorelDRAW, ta có thể di chuyển dòng chữ rất dễ dàng. Để tập trung theo dõi dòng chữ sắp tạo ra, bạn hãy dùng một chế độ hiển thị thô sơ gọi là Simple Wireframe, “diễn nôm” là khung sườn đơn giản. Gọi là “khung sườn” vì trong chế độ hiển thị như vậy, CorelDRAW chỉ trình bày đường nét của đối tượng bằng màu đen và lột bỏ hết màu tô. Các đối tượng hiện ra trơ trụi như bị “chụp X quang” vậy. Chọn View > Simple Wireframe Bạn có thấy “nhẹ nhõm” chút nào không? Dấu trỏ có chữ A đeo bên dưới, cho biết bạn đang Chọn công cụ ghi chữ Text Tool trên hộp công cụ “cầm” công cụ ghi chữ Dấu nhắc (có dạng vạch thẳng đứng) xuất hiện tại chỗ Bấm đại vào đâu đó trên miền vẽ được bấm, tỏ ý chờ đợi bạn gõ chi đó từ bàn phím. Bạn gõ gì đi, chẳng hạn Xuất hiện dòng chữ Thao Cam Vien. Bạn gõ xong Gõ Thao Cam Vien (“Thảo Cầm Viên”) chút xíu, các dấu chọn tự động xuất hiện quanh dòng chữ. Ta có một đối tượng mới Đưa dấu trỏ vào dòng chữ sao cho nó biến thành dạng Dòng chữ Thao Cam Vien xuất hiện trên nền xám
  55. chữ I, kéo dấu chọn ngang qua dòng chữ Thao Cam Vien Bấm vào ô liệt kê Font Size List và chọn trị số 72 Dòng chữ Thao Cam Vien to lên như hình 1 Di chuyển dòng chữ Thao Cam Vien vào giữa bản vẽ, ngay bên trên hình sư tử Hình 1 Dòng chữ bạn vừa tạo ra là một đối tượng thuộc loại tiêu ngữ (artistic text), có kiểu chữ mặc định là AvantGarde. Cỡ chữ được thể hiện ở ô Font Size List, tính bằng đơn vị point. Nếu chỉ quen ước lượng cỡ chữ bằng “li”, có lẽ bạn nên tập làm quen với đơn vị point, được dùng phổ biến trong nhiều phần mềm máy tính. Thật ra cũng không cần cố gắng chi đặc biệt, hiện giờ bạn đã biết chữ 72 point cao cỡ nào rồi đó. Ghi chú • Chúng tôi chỉ hướng dẫn bạn gõ chữ Việt không dấu và dùng các kiểu chữ phổ biến, nhằm giúp bạn dễ dàng theo sát bài tập được trình bày. Iện vẫn còn tồn tại nhiều phương án chữ Việt trên Windows, chúng tôi không thể giả định bạn đang dùng chữ Việt theo phương án nào. • Kiểu chữ trong tiếng Anh gọi là font, nhiều người quen gọi là “phông” hoặc cẩn thận hơn, là “phông chữ”. Thôi thì gọi sao tùy bạn. Bạn có thể chọn kiểu chữ khác từ ô liệt kê Font List trên thanh công cụ Property Bar. Bấm vào đâu đó trên miền vẽ Chọn chỗ cho tiêu ngữ thứ hai Gõ SAIGON Các dấu chọn tự động xuất hiện quanh SAIGON SAIGON xuất hiện trên nền xám, thể hiện trạng thái Kéo dấu trỏ ngang qua SAIGON sẵn sàng thay đổi Chọn cỡ chữ 100 point trên ô liệt kê Font Size List SAIGON trở nên “to đẹp” hơn Chọn kiểu chữ Arial Black trên ô liệt kê Font List SAIGON trở nên “dầy cơm” hơn Di chuyển SAIGON vào bản vẽ, đặt ngay dưới hình sư tử Bấm vào ô màu nào đó trên bảng màu (tùy ý bạn) Chọn màu tô cho SAIGON Chọn View > Enhanced Dùng chế độ hiển thị đẹp nhất (hình 2) Ấn Ctrl+S Ghi bản vẽ lên đĩa