Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3

pdf 81 trang phuongnguyen 2260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfap_dung_day_hoc_tich_cuc_de_ren_luyen_ky_nang_thuc_hanh_phep.pdf

Nội dung text: Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3

  1. Sáng kiến kinh nghiệm Đề Tài ÁP DỤNG DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH PHÉP NHÂN CHO HỌC SINH LỚP 3
  2. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ÁP DỤNG DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH PHÉP NHÂN CHO HỌC SINH LỚP 3 1
  3. PHẦN I. MỞ ĐẦU I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của dạy phép nhân trong việc dạy môn Toán trong tiểu học. Việc dạy học ở các trường tiểu học nước ta có một quá trình phát triển lâu.Chương trình môn Toán ở bậc Tiểu học gồm có 5 tuyến kiến thức chính là: Số đại số, các yếu tố hình học, đo các đại lượng, giải toán.Trong đó số lớn nhất trọng tâm đóng vai trò “cái trục chính” mà bốn mạch chuyển động chung quanh nó, phụ thuộc vào nó.Các biện pháp tính, của phép nhân và dãy tính.Trong ba mảng kiến thức này thì mảng các biện pháp tính là quan trọng nhất, đặc biệt là việc rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân , chia đóng vai trò hết sức chủ đạo, nó là trọng tâm của tuyến kiến thức số học, đại số và là hạt nhân của toàn bộ chương trình tiểu học. Bắt đầu từ năm 2003-2004, bảng nhân 2, 3, 4, 5 chính thức được đưa vào chương tình Toán lớp hai ở bậc tiểu học.Nói như vậy thấy tầm quan trọng và vai trò của phép nhân trong môn Toán.Trong các kỳ thi môn Toán của lớp 2, 3, 4, 5 đặc biệt là thi học sinh giỏi bậc tiểu học luôn xuất hiện các bài toán có liên quan đến phép tính nhân.Vì vậy tính nhân, chính là “ chìa khoá “ và “ cầu nối” giữa toán học và thực tiễn đời sống.Nó chiếm vị trí rất quan trọng trong chương trình môn toán lớp 3 và môn toán tiểu học nói chung nhất là về mặt thực hành tính toán. 2.Xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới dạy học môn toán ở tiểu học nói riêng. 2
  4. Công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước.Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội luôn luôn phát triển.Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường phải được điều chỉnh một cách hợp lý dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học. Đặc điểm của phương pháp dạy học cũ là có sự mất cân đối rõ rệt giữa hoạt động dạy của giáo dục và hoạt động của học sinh.Trong đó: - Giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, sách giáo viên (hướng dẫn giảng dạy).Vì vậy giáo viên thường làm việc một cách máy móc và ít quan tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. - Học sinh học tập một cách thụ động, chủ yếu chỉ nghe giảng ghi nhớ rồi làm theo bài mẫu.Do đó học sinh ít có hứng thú học tập, nội dung các hoạt động học tập thường rất nghèo nàn, đơn điệu, các năng lực vốn có của học sinh ít có cơ hội phát triển. - Giáo viên là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh. Học sinh ít khi được tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau.Tiêu chuẩn đánh giá học sinh là kết quả ghi nhớ, tái hiện những điều giáo viên đã giảng. Cách dạy học như vậy đang cản trở việc đào tạo những người lao động năng động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng với những đổi mới đang diễn ra hàng ngày. Do đó chúng ta phải có cố gắng đổi mới phương pháp dạy học để 3
  5. nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước trong thế kỷ XXI. 3.Xuất phát từ thực trạng việc dạy học môn toán cụ thể là kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3 trong nhà trường Tiểu học hiện nay. Trong chương trình môn học ở bậc tiểu học, môn toán chiếm số giờ rất lớn. Bốn phép tính cộng, trừ, nhân , chia được sử dụng hầu hết vào các khâu trong quá trình dạy học toán.Tuy vậy, phép nhân, phép chia là khái niệm trừu tượng.Vì vậy việc nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia là một vấn đề cấp bách và thường xuyên. Một trong những mục tiêu của môn Toán của bậc tiểu học là hình thành các kỹ năng thực hành tính toán.Bởi vậy, ngay từ lớp 2, học sinh đã được làm quen với bảng nhân với 2, 3, 4, 5 trong phạm vi 100.Sang lớp ba, học sinh học bảng nhân với 6, 7, 8, 9 và nhân chia ngoài bảng trong phạm vi1.000.000 (với số có một chữ số).Việc rèn luyện các kỹ năng thực hành phép nhân giúp cho học sinh nắm chắc một số tính chất cơ bản của các phép tính viết, thứ tự thực hiện các phép tính trong các biểu thức có nhiều phép tính , mối quan hệ giữa các phép tính (đặc biệt giữa phép cộng và phép nhân, phép nhân và phép chia).Đồng thời dạy học phép nhân , phép chia tên tập hợp số tự nhiên nhằm củng cố các kiến thức có liên quan đến môn toán như đại lượng và phép đi đại lượng các yếu tố hình học, giải toán. Ngoài ra rèn kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia con góp phần trọng yếu trong việc phát triển năng lực tư duy, năng lực thực hành, đặc biệt là khả năng phân tích, suy luận lôgíc và phẩm chất không thể thiếu được của người lao động mới. 4
  6. Xuất phát từ những lý do thực tế trên, qua nghiên cứu quá trình dạy học môn toán lớp 3 ở bậc tiểu học, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, kết hợp với những hiểu biết đã có và những điều mới mẻ lĩnh hội được từ các bại giảng về “phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học” của các thầy giáo trường Đại học Sư Phạm, trong khuôn khổ cho phép của một đề tài khoa học, tôi quyết định chọn đề tài: “áp dụng dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3” II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đề tài nhằm: - Tìm hiểu những vấn đề lí luận về đổi mới dạy học tích cực nói chung và dạy học tích cực trong môn Toán nói riêng. - Vận dụng dạy học tích cực để thiết kế bài dạy để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Toán Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng. - Đề tài này biểu hiện kết quả tự học, tự rèn luyện nâng cao tay nghề của bản thân, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, quý thầy cô của trường Đại học Sư phạm để đổi mới , nâng cao hiệu quả dạy học rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia cho học sinh lớp 3. III.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
  7. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu giáo trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.Tham khảo sáng kiến, kinh nghiệm của đồng nghiệp. - Phương pháp quan sát: Thông qua dự giờ. - Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc dạy phép nhân lớp 3(chương trình Toán 2000). - Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài và tác dụng của những ý kiến đề xuất về rèn kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia cho học sinh lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. IV.TÓM TẮT NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI Ngoài phần mở đầu, phần thực nghiệm và phần kết luận, đề tài gồm có các nội dung chính sau đây: chương: Trong chương trình này chúng tôi xin trình bày những vấn đề chung về dạy học tích cực. Chương II: Đây là chương chúng tôi xin trình bày về nội dung và phương pháp dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3. Chương III: Chúng tôi xin nói về thực trạng dạy học phép nhân trong nhà trường Tiểu học hiện nay. 6
  8. Chương IV: Chúng tôi xin phép được đề xuất một số ý kiến của bản thân và các đồng nghiệp để góp phần nâng cao hiệu quả của giờ dạy Toán nói chung và việc dạy học phép nhân cho học sinh lớp 3 nói riêng. V.MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, điều tra, quan sát tình hình thực tế và trực tiếp giảng dạy phép nhân cho học sinh lớp 3 chúng tôi đã nhận được kết quả như sau: - Tìm hiểu những nội dung và phương pháp giảng dạy học cho học sinh lớp 3. - Tìm hiểu, phân tích, tổng hợp chương trình sách giáo khoa Toán 3 và phân loại các bài toán có liên quan đến phép nhân ở lớp 3 thành những dạng cơ bản. - Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về dạy học tích cực để dạy học các nội dung trên. - Từ những kết quả ở phần trên, chúng tôi thiết kế thực nghiệm dạy học 2 tiết học và thu được kết quả đáng khích lệ. VI.TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU SAU ĐỀ TÀI Rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3 nói riêng, dạy học Toán ở tiểu học nói chung theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, đáp ứng được mục tiêu của giáo dục hiện đại. 7
  9. PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẠY HỌC TÍCH CỰC I.Dạy học tích cực là gì ? Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội.Nhờ có tính tích cực mà con người đã lao động sản xuất sáng tạo ra nhiều của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại, phát triển của xã hội, sáng tạo ra nền văn hoá, cải tạo môi trường, chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội. Bởi vậy hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục nhằm đào tạo những con người năng động thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng.Tính tích cực được xem là một điều kiện , đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục. 1.Tính tích cực của học sinh trong học tập: Tính tích cực của con người được biểu hiện trong hoạt động, đặc biệt trong những hoạt động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi học.Tính tích cực trong hoạt động học tập tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết mà nhằm lĩnh hội những tri thức mà loài người đã tích luỹ được.Tuy nhiên, 8
  10. trong học tập, học sinh cũng phải khám phá ra những gì đã nắm được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình.Đó là chưa nói lên tới một trình độ nhất định sự học tập tích cực sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học cũng làm ra những tri thức mới cho khoa học. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ có đúng đắn tạo ra hứng thú.Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là 2 yếu tố tạo nên tính tích cực.Tính tích cực sản sinh tư duy độc lập suy nghĩ, độc lập suy nghĩ là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa rõ, không chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng đã học, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn. Tính tích cực học tập đạt những cấp độ từ thấp lên cao như: - Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hoạt động của thầy, của bạn - Tìm tòi: Độc lập giải quyết các vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề - Sáng tạo: Tìm ra cách giải quyết mới độc đáo, hữu hiệu. 2.Độc lập với tính tích cực là tính thụ động: 9
  11. Tính thụ động học tập của học sinh được biểu hiện ở chỗ: - Học sinh chủ yếu ít nghe giảng, ghi nhớ rồi làm bài theo mẫu. - Học sinh ít hứng thú học tập, không thích phát biểu ý kiến. - Trong lớp học sinh ít chú ý vào vấn đề đang học, không kiên trì nên không hoàn thành các bài tập. Khi gặp khó khăn học sinh dễ chán nản, buông xuôi. Học sinh không tự giác đánh giá kết quả học tập của mình và của bạn. Do cách học như vậy nên học sinh thiếu năng động, tự tin , làm việc máy móc, không thể thích ứng được với những đổi mới đang diễn ra hàng ngày. 3.Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực: a)Dạy và học thông qua các tổ chức các hoạt động học tập của học sinh: Trong phương pháp tích cực, người học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu nhưng tri thức đã được giáo viên sắp đặt.Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kỹ năng mới, vừa nắm phương pháp “làm ra” kiến thức, kỹ năng đó không rập theo những khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.Dạy theo cách này thì giáo 10
  12. viên không chỉ đơn giản truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động.Chương trình dạy học giải pháp giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia vào các chương trình hành động của cộng đồng. b)Dạy và học chú trọng phương pháp rèn luyện tự dạy và học: Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào đầu óc trẻ khối lượng lớn kiến thức ngày càng nhiều.Phải quan tâm dạy cho trẻ phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học.Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp , kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì tạo ra cho họ lòng tham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập bị động sang học tập chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên. c)Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác: Trong một lớp học mà trình độ kiến thức tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải 11
  13. chấp nhận sự phân hoá về trình độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng dạy học tích cực ở trình độ cao thì sự phân hoá ngày càng lớn.Việc sử dụng các công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân.Lớp học là môi trường giao tiếp giữa thầy và trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập.Thông qua thảo luận , tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới.Bài học vận dụng được hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi học sinh và của cả lớp chứ không phải dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm của thầy giáo. Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp cao nhóm, tổ, lớp hoặc nhà trường.Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập nhất là lúc giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn , phát triển tình bạn, ý thức tổ chức , tinh thần tương trợ.Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. 12
  14. Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia, năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường cần phải chuẩn bị cho học sinh. d)Kết hợp đánh giá của thầy và sự đánh giá của trò: Trong dạy học đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động của học sinh mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh.Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh phát triển kỹ năng tự tạo điều kiện thuận lợi để học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau.Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh. Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong giải quyết các vấn đề thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị kỹ thuật, kiểm tra, đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học. Từ dạy và dạy thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức mà trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn hoạt động độc lập theo nhóm nhỏ để học sinh tự 13
  15. lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng , thái độ theo yêu cầu của chương trình.Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã.Trước đó, khi soạn giáo án giáo viên đã phải đầu tư công sức thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến bên ngoài tầm dự kiến của giáo viên. II.CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC THƯỜNG ĐƯỢC VÂN DỤNG TRONG DẠY HỌC TÍCH CỰC 1.Dạy học theo nhóm nhỏ: a)Ưu điểm của cách dạy học theo nhóm - Góp phần rèn luyện tinh thần tự chủ của học sinh: Một số hoạt động có thể giao cho học sinh tự làm, giáo viên không cần can thiệp trực tiếp vào. - Tạo ra cơ hội để học sinh hoà nhập cộng đồng. Học sinh tập lắng nghe ý kiến của người khác, tập lắng nghe ý kiến của chính mình. - Tạo ra cơ hội để học sinh nâng cao năng lực hợp tác, học sinh tự xác định trách nhiệm cá nhân đối với công việc chung của nhóm, nhận xét đánh giá ý kiến của bạn điều chỉnh suy nghĩ của mình. - Tạo điều kiện để học sinh phát huy hết khả năng của mình theo hướng phân hoá trong dạy học. b)Cấu tạo của một tiết học theo nhóm như sau: 14
  16. + Làm việc chung cả lớp: - Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức. - Tổ chức các nhóm: chia thành từng nhóm nhỏ(4-6 học sinh) - Giao nhiệm vụ: giáo viên giao việc cho mỗi nhóm và nhóm trưởng, cần nói rõ yêu cầu về nội dung công việc và thời gian thực hiện. + Làm việc theo nhóm: - Phân công trong nhóm: Mỗi nhóm bầu ra một nhóm trưởng, ngoài ra có thể bầu thư kí (nếu cần). - Các nhóm làm việc: Nhóm trưởng điều khiển nhóm hoạt động , mỗi thành viên trong nhóm đều phải hoạt động, không được ỷ lại vào nhóm trưởng và các thành viên khác trong nhóm, cần làm việc, suy nghĩ độc lập trước khi trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau, giáo viên theo dõi giúp đỡ các nhóm trưởng và giải quyết vướng mắc của các nhóm nếu có. - Cử đại diện(hoặc phân công) trình bày kết quả làm việc theo nhóm. + Tổng kết trước lớp: - Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả - Thảo luận chung 15
  17. - Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài. c)Một số cách chia nhóm Nhìn sơ bộ có thể chia nhóm theo cách ngẫu nhiên hoặc có chủ định, có thể giao cùng một nhiệm vụ cho các nhóm hoặc giao nhiệm vụ khác nhau cho mỗi nhóm. Xét theo các tiêu chí chia nhóm này, trong tiết học Toán ở Tiểu học có thể có một số cách chia nhóm như sau: - Chia ngẫu nhiên: chia ngẫu nhiên thường được tiến hành khi không cần sự phân biệt giữa các đối tượng học sinh, mọi học sinh đều phải hoạt động để cùng giải quyết vấn đề, cùng chiếm lĩnh tri thức, nhiệm vụ được giao khác nhau không nhiều về nội dung, ít có sự chênh lệch về độ khó, cùng chung nhu cầu.Để không tốn thời gian vào việc chia nhóm theo tổ, chia theo bàn, có thể chia ngầu nhiên “bằng đếm vòng tròn”. Chẳng hạn muốn chia lớp thành bốn nhóm: Ta cho học sinh lần lượt đếm 1, 2, 3, 4 rồi lại đếm 1, 2, 3 ,4 lặp đi lặp lại cho đến học sinh cuối cùng.Sau đó xác định 4 nhóm là tất cả học sinh mang số 1, nhóm 2 là tất cả học sinh mang số 2, nhóm 3 là tất cả học sinh mang số 3, nhóm 4 là tất cả học sinh mang số 4. + Chia thành các nhóm cùng trình độ: 16
  18. - Chia thành các nhóm có cùng trình độ khi cần có sự phân hoá về mức độ khó-dễ của nội dung bài học, bài tập cho từng đối tượng. - Thường chia thành 4 nhóm: Nhóm gồm các học sinh giỏi, nhóm gồm các học sinh khá, nhóm gồm các học sinh trung bình, nhóm gồm các học sinh yếu. - Nếu sự chênh lệch về trình độ học tập giữa các nhóm là quá cao, chẳng hạn có sự khác biệt về trình độ giữa lớp này với lớp khác, khi đó sự phân chia nhóm này trở thành sự chia nhóm trong một lớp ghép.Lớp ghép là hình thức tổ chức dạy học trong đó một giáo viên cùng một lúc dạy nhiều nhóm học sinh thuộc nhiều trình độ khác nhau trong cùng một lớp học. - Cần thận trọng khi chia thành các nhóm có cùng trình độ.Giáo viên cần thực sự nắm bắt trình độ của học sinh trong lớp để không chia sai, cần chú ý rằng trình độ có thể thay đổi theo thời gian.Sự chia sai gây ra phản tác dụng, chẳng hạn cho học sinh khá vào nhóm yếu ỷ lại không làm việc.Cần tránh tâm lý tự ti trong nhóm học sinh yếu hay tâm lý tự kiêu trong nhóm học sinh giỏi.Khi chưa tự tin về đánh giá của mình, giáo viên chỉ nên sử dụng hình thức chia này vào dạy lớp ghép hoặc thời gian hướng dẫn học sinh tự học. - Chia thành các nhóm có đủ trình độ: cách chia này thông thường sử dụng khi nội dung hoạt động dạy học cần có sự hỗ trợ lẫn nhau.Chẳng hạn, khi tổ chức thực hành ngoài lớp học, ôn tập hoặc giải bài tập khó. 17
  19. - Chia nhóm theo sở trường: cách chia này thường được tiến hành trong các buổi ngoại khoá.Mỗi nhóm gồm những học sinh có cùng một sở trường, hứng thú.Giáo viên có thể nêu tên, nêu tiêu chuẩn của thành viên và nhiệm vụ của các nhóm, rồi để các em tự xung phong vào các nhóm.Cách chia này ít được áp dụng ở Tiểu học vì sở trường hay hứng thú chưa được bộc lộ rõ ràng. Dạy học theo nhóm là một hình thức mới đối với đa số giáo viên.Dạy học theo nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới.Bằng cách trao đổi những ý kiến, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm điều gì. Do vậy thành công của bài học phụ thuộc vào sự tham gia nhiệt tình của mọi thành viên.Tuy nhiên, dạy học theo nhóm bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định của tiết học nên giáo viên hải biết tổ chức hợp lí và học sinh đã khá quen với cách dạy này thì mới có kết quả.Mỗi tiết học chỉ nên có từ 1 đến 3 hoạt động nhóm, mỗi nhóm hoạt động từ 5 đến 10 phút.Cần nhớ rằng trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của học sinh phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của phương pháp này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động.Cần tránh khuynh hướng hình thức và đề phòng lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới. 2.Phiếu học tập Toán Tiểu học Phiếu học tập có thể là một phần của vở bài tập, làm riêng cho một tiết học hoặc một phần của tiết học, coi như một phương tiện tổ chức hoạt động dạy học. 18
  20. Có nhiều loài phiếu học tập như: Phiếu kiểm tra, phiếu học và phiếu thực hành. - Nếu muốn kiểm tra thêm về lý thuyết xem học sinh có nhớ được thứ tự thực hiện các phép tính không thì có thể ghi thêm vào phiếu kiểm tra đoạn sau. Điền vào chỗ trống: Nếu trong biểu thức có các phép tính cộng trừ, nhân chia thì ta thực hiện các phép tính , rồi thực hiện các phép tính sau. - Để tránh tình trạng học sinh “quay, cóp” bài, nếu giáo viên ra đề nhiều để khác nhau, để hai người ngồi cạnh nhau không được chép bài của nhau thì tốt. - Nếu dùng phiếu kiểm tra, thì đầu giờ(hoặc cuối giờ) giáo viên phát phiếu cho học sinh và nêu thời gian làm bài, sau đó các em tự làm.Việc nhận xét bài làm, chấm và chữa như thế nào thì tuỳ từng trường hợp giáo viên có thể tiến hành theo các cách khác nhau(trong đó nên tăng cường việc để học sinh tự chấm bài). Tuy nhiên nên tránh dùng tràn lan lối kiểm tra viết bằng phiếu.Tốt nhất là nên phối hợp cân đối giữa các hình thức kiểm tra truyền thống với lối kiểm tra mới để vừa tổ chức được 100% học sinh làm việc trong kiểm tra đầu giờ, vừa rèn luyện được cho các em năng lực trình bày và diễn đạt bằng lời. d)Phiếu học: 19
  21. Có thể coi phiếu học là một hệ thống công việc được sắp xếp một cách khéo léo để học sinh tự làm, qua đó các em có thể tự mình tìm ra được kiến thức mới, giáo viên chỉ cần nói, hỏi hoặc dẫn rất ít. VD:Dạy bài “Bảng chi 6” (Tiết 20- Toán 3) Nội dung soạn phiếu học cho tiết này như sau: Việc 1: Tính Việc 2: Suy ra 1 x 6 = 6 : 6 = 2 x 6 = 12 : 6 = 3 x 6 = 18 : 6 = 4 x 6 = 24 : 6 = 5 x 6 = 30 : 6 = 6 x 6 = 36 : 6 = 7 x 6 = 42 : 6 = 8 x 6 = 48 : 6 = 9 x 6 = 54 : 6 = 10 x 6 = 60 : 6 = Việc 3: a)Chép lại bảng chia 6 ở việc 2 bằng bút chì(miệng đọc thầm) 20
  22. b)Tô lại băng bút mực(miệng đọc thầm) Giải thích: + Vì học sinh đã học bài giảng nhân 6 rồi nên mọi học sinh đều phải tự làm việc 1 mà giáo viên không phải giúp đỡ. + Sau khi học sinh đã hoàn tất việc 1 thì chuyển sang việc 2.Tuỳ trình độ học sinh ở từng lớp mà cách xử lý của giáo viên có thể khác nhau. - Lớp có nhiều học sinh khá giỏi thì trong việc 2 không cần phải ghi số 2 ở dằng sau 12 : 6 = , chỉ cần các mũi tên(Gợi ý từ phép nhân suy ra kết quả phép chia) là đủ các em hiểu rồi.Nói cách khác có thể để trống toàn bộ các kết quả của bảng chia 6 , học sinh tự tìm tất cả. - Lớp có nhiều học sinh trung bình thì giáo viên nên làm mẫu một trường hợp, chẳng hạn 12 : 6 = ? có thể làm như sau: - Giáo viên chỉ vào 2 x 6 = 12 nêu “Trong phép nhân này 12 là tích , 2 và 6 là thừa số.Ta đã biết là : Khi lấy tích chia cho thừa số 21
  23. này thì được thừa số kia, nên 2 x 6 = 12 ta suy ra 12 : 6 = 2.Do đó từ một phép nhân với 6 ta suy ra được kết quả của một phép chia 6”.Sau đó để học sinh tự làm 9 trường hợp còn lại. - Lớp có nhiều học sinh yếu thì sau khi hướng dẫn mẫu như trên, giáo viên có thể đàm thoại để hướng dẫn nhanh một trường hợp nữa.Sau đó để học sinh tự làm 8 trường hợp còn lại. Như vậy là tuỳ trình độ học sinh yếu thì sau khi hướng dẫn một chút là các em có thể tự làm được việc 2.Điều đó cũng có nghĩa là mọi học sinh tự lập được bảng chia cho 6. + Việc 3 thực chất là tổ chức cho trẻ học thuộc “bằng tay” (và miệng). Giáo viên có thể nêu: “Các phép chia cho 3 này ( chỉ các phép chia ở việc 2 ) rất quan trọng, phải học thuộc”, sau đó cả lớp đều tự làm việc. Cách làm ở việc 3 có mục đích thay thế cho lối học thuộc “đồng thanh to” khá phổ biến hiện nay ; không có lợi cho hoạt động học tập của các lớp bên cạnh.Đồng thời việc 3 còn cho phép giáo viên kiểm soát được hoạt động của học sinh, bởi vì dùng cách đọc đồng thanh, nếu có vài em không đọc thì giáo viên khó biết.Chúng ta có thể yên tâm là khi tay học sinh viết, miệng các em nói thầm theo thì sau hai lần như vậy các em sẽ thuộc( một cách tương đối ) bảng chia cho 6 mà lớp vẫn không bị quá ồn. Trong lúc học sinh làm việc 3, giáo viên chỉ cần động viên đôn đốc các em chứ không phải hướng dẫn gì cả. 22
  24. Như vậy là với phiếu học vừa nêu, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tự mình làm việc để tự chiếm lĩnh tri thức mới mà hầu như không phải hướng dẫn gì. c)Phiếu luyện tập: Phiếu luyện tập là hệ thống bài tập được viết sẵn trên giấy có chỗ trống để học sinh rèn luyện kỹ năng vận dụng các kiến thức mới vừa học được.Phiếu này tương ứng với các bước luyện tập củng cố trong cách dạy truyền thống. Có thể coi các cuốn vở bài tập in sẵn hiện nay là các phiếu luyện tập đã được đóng thành sách. Ví dụ về phiếu luyện tập của tiết “ Bảng nhân 6” ( Tiết 16 – Toán 3 ) 1.Đếm thêm 6 từ 6 đến 60 và điền vào ô trống: 6 12 2.Tính : 6 x 4 = 6 x 1 = 6 x 9 = 6 x 1 0 = 6 x 6 = 6 x 3 = 6 x 2 = 6 x 0 = 23
  25. 6 x 8 = 6 x 5 = 6 x 7 = 0 x 6 = 3.Tính: 5 9 8 4 6 x x x x x 6 6 6 6 6 4)Mỗi thùng dầu có 6 lít dầu.Hỏi 5 thùng như thế có bao nhiêu lít dầu? Ghi chú: Đối với những nơi không có điều kiện kinh tế để in (hoặc photocopy) phiếu học tập cho từng học sinh có thể khắc phục bằng cách: + Giáo viên ghi lần lượt các nội dung công việc lên bảng để học sinh làm vào vở, bảng con hoặc nháp. + Giáo viên lần lượt nêu nội dung công việc cho học sinh nghe rồi các em làm vào vở (hoặc nháp, bảng con) thay vì làm vào phiếu. Cả hai cách làm trên đều đỡ tốn kém tiền bạc nhưng lại tốn thời gian. 3.Trò chơi toán học: a.Quan niệm về trò chơi Toán học: Trò chơi Toán học là trò chơi trong đó chứa một yếu tố Toán học nào đó.Trò chơi có thể phân loại theo số người tham gia: Trò chơi tập thể, trò 24
  26. chơi cá nhân.Trò chơi có thể là trò chơi vận động, có thể là trò chơi trí tuệ, cũng có thể kết hợp vận động với trí tuệ. Vì là một trò chơi, trò chơi Toán học mang đầy đủ các đặc điểm của trò chơi, nhưng trò chơi toán học khác với trò chơi “phi toán” ở chỗ ít nhiều phải chứa trong nó một yếu tố kiến thức Toán học nào đó.Trò chơi Toán học cũng có thể là trò chơi tập thể hoặc trò chơi cá nhân, thường thuộc loại kết hợp cả vận động lẫn trí tuệ. Ơ lớp dưới trò chơi Toán học nặng về vân động, càng lên cao trí tuệ càng phải cao hơn. Trong nhà trường, trò chơi Toán học có thể tổ chức như một hoạt động dạy học Toán.Cơ sở tâm lí và sinh lí khẳng định hoạt động dạy học Toán dưới dạng trò chơi Toán học rất phù hợp với lứa tuổi tiểu học.Thực tế dũng cho thấy hình thức tổ chức trò chơi Toán học dễ được học sinh hưởng ứng và tích cực tham gia. Xét về mục đích phục vụ dạy học nói chung, trò chơi Toán học có thể là: - Trò chơi nhằm dẫn dắt hình thành tri thức mới. - Trò chơi nhằm củng cố kiến thức, luyện tập kỹ năng. - Trò chơi nhằm ôn tập, rèn luyện tư duy trong giờ ngoại khoá. Nếu phân loại theo các mạch kiến thức của Toán Tiểu học, ta có thể nói tới chẳng hạn: - Trò chơi về tính toán. 25
  27. - Trò chơi về vẽ hình, cắt và ghép hình. - Trò chơi về giải toán. b)Chuẩn bị và tổ chức một trò chơi toán học Căn cứ nội dung kiến thức, trình độ học sinh và điều kiện hiện có, giáo viên lựa chọn trò chơi để đưa vào dạy học như một hoạt động dạy học toán.Giáo viên phải đặc biệt chú ý xây dựng được rõ mục đích học tập của trò chơi.Các bước chuẩn bị và tiến hành trò chơi như sau: - Chuẩn bị: giáo viên chuẩn bị các dụng cụ cần thiết, có thể giao cho học sinh chuẩn bị các dụng cụ dễ kiếm. - Công bố luật chơi: giáo viên giải thích cách chơi, trong đó nêu rõ những ai chơi trực tiếp, ai cổ động ai đánh giá( người đánh giá không nhất định là giáo viên), chơi như thế nào, đánh giá như thế nào, chơi bao nhiêu lâu, phần thưởng là gì.Chú ý chọn hình thức ngắn gọn, rõ ràng để giải thích cách chơi.Không nên giải thích dài dòng khiến học sinh mất hứng thú ngay từ khi chưa tham gia trò chơi. - Tiến hành: Dù trực tiếp hay gián tiếp, tất cả các học sinh của lớp phải tham gia vào trò chơi, giáo viên theo dõi và tháo gỡ vướng mắc nếu cần. - Nhận xét: giáo viên nhận xét , khuyến khích học sinh. c)Ví dụ về trò chơi toán học: - Tên trò chơi: Đua ngựa 26
  28. - Mục đích : rèn luyện khả năng tư duy linh hoạt, củng cố phép chia có dư. - Chuẩn bị : Một băng giấy dài 25 ô, hai ngựa khác màu của bộ cá ngựa, hoặc hai vật tương đương cho ngựa. - Cách chơi: Mỗi lần hai người chơi.Mỗi người chọn một ngựa.Hai ngựa đứng ở hai đầu cùng tiến vào ở giữa.Gắp thăm để chọn người đi trước.Mỗi lần đi (chỉ được tiến không được lùi) ít nhất 1 ô, nhiều nhất 3 ô.Hai bên tính toán sao cho đến lượt đi mà đối phương không còn ô để tiến nữa thì mình thắng cuộc. 4.Dạy học kết hợp với các phương tiện thiết bị dạy học a.Đồ dùng dạy học toán: Đồ dùng dạy học Toán là bất cứ dụng cụ nào (đồ vật, mô hình, tranh ảnh, hay hình vẽ) được sử dụng trong dạy học Toán.Như vậy đồ dùng hay dạy học Toán hết sức đa dạng: từ những đồ vật đơn giản nhất như là que tính cho đến những dụng cụ đắt tiền như máy vi tính đều có thể coi là đồ dùng dạy học Toán. 27
  29. Tư duy của học sinh Tiểu học thường bắt đầu từ những biểu tượng cụ thể, nên kiến thức toán Tiểu học chủ yếu hình thành bằng con đường thực nghiệm.Chính điều này dẫn đến xu thế dạy học Toán theo cách tổ chức cho học sinh: hoạt động bằng tay với các đồ vật – hoạt động quan sát với các mô hình, hình vẽ – hoạt động chơi với lời nói – hoạt động trí óc.Trong rất nhiều trường hợp khó có thể tổ chức hoạt động mà không có đồ dùng dạy học Toán. Có thể phân loại đồ dùng dạy học thành hai loại: đồ dùng biểu diễn và đồ dùng thực hành. Đồ dùng biểu diễn là đồ dùng mà giáo viên sử dụng để giới thiệu đối tượng hay tính chất, hoặc để làm mẫu các thao tác khi hương dẫn cách sử dụng đồ dùng thực hành cho học sinh. Đồ dùng thực hành là đồ dùng dành cho học sinh, thường là dụng cụ để học sinh thao tác bằng tay vừa nhằm hình thành và củng cố kiến thức mới, vừa nhằm rèn luyện sự khéo léo, phát huy trí tưởng tượng không gian, phát triển thẩm mỹ. Có thể phân loại đồ dùng thành: đồ dùng có sẵn và đồ dùng tự làm. Đồ dùng dạy học có sẵn là đồ dùng do các cơ sở sản xuất chế tạo sẵn để trang bị hàng loạt cho các nhà trường.Giáo viên phải nắm được danh mục đồ dùng dạy học của trường mình để có thể lấy ra sử dụng trong năm học, tránh hiện tượng đồ dùng dạy học thì nằm trong kho mà học sinh vẫn phải học chay. Đồ dùng dạy học tự làm là đồ dùng mà giáo viên, học sinh tự làm ra theo mẫu thiết kế sẵn hoặc theo mẫu tự thiết kế. 28
  30. Chúng ta khuyến khích phát triển cả hai loại đồ dùng dạy học này.những đồ dùng phổ dụng, có thể sử dụng để dạy học nhiều đơn vị kiến thức, thì sản xuất hàng loạt.Những đồ dùng phục vụ dạy học ở những bài, những tiết cụ thể, thì giáo viên, học sinh cố gắng tự làm.Khi tự tìm tòi thiết kế đồ dùng dạy học, giáo viên hiểu sâu kiến thức hơn.Đây chính là lí do quan trọng để nhà trường khuyến khích và hỗ trợ việc tự làm đồ dùng dạy học. b)Một số chú ý về sử dụng đồ dùng dạy học Đồ dùng dạy học toán phải được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng cách.Đúng chỗ ở đây là phải biết sử dụng đồ dùng nào vào dạy học kiến thức nào.Điều này phù hợp với yêu cầu: đồ dùng phản ánh được lôgíc của kiến thức.Ví dụ: compa – dụng cụ vẽ đường tròn – không thể đem để hình thành biểu tượng đầu tiên về hình tròn, vì hình tròn là một phần mặt phẳng nằm bên trong đường tròn.Trong trường hợp này một miếng bìa hình tròn đồng màu là đồ dùng dạy học thích hợp hơn cả. Một biểu tượng cụ thể của sử dụng đúng lúc đúng chỗ là: Khi cần sử dụng thì sử dụng, khi không cần thì không sử dụng đồ dùng dạy học.Môn toán có một nhiệm vụ trọng đại là rèn luyện tư duy trừu tượng cho học sinh, cho nên lạm dụng việc sử dụng đồ dùng dạy học cũng làm hạn chế kết quả học không kém gì dạy “chạy”. Để biết sử dụng đồ dùng dạy học đúng lúc, đúng chỗ giáo viên phải nắm chắc kiến thức. Thông qua việc sử dụng đồ dùng dạy học có thể đánh giá được giáo viên có vững về kiến thức của tiết dạy hay không. Đúng cách ở đây tạm hiểu là thực hiện đúng các thao tác theo quy trình khi sử dụng đồ dùng dạy học. Ví dụ, khi cho học sinh quan sát miếng bài 29
  31. hình tròn thì phải từ từ di chuyển hình tròn để tất cả học sinh trong lớp được nhìn thấy một cách trực diện (tránh góc nhìn bé làm cho hình tròn trở thành hình elíp), khi dùng thước kẻ đoạn thẳng thì tay trái giữ thước, tay phải cầm thước kẻ sát dọc theo cạnh trên của thước; khi vẽ hình tròn thì phải vẽ tâm trước, đặt đầu nhọn của compa vào tâm, tay trái giữ cạnh có đầu nhọn, tay phải cầm cạnh kia của compa và quay; khi cân thì đặt vật cần cân lên một đĩa cân trước, rồi đặt dần các quả cân lên đĩa cân kia, từ lớn đến bé, cho đến khi thăng bằng c)Ví dụ minh hoạ về đồ dùng dạy học: + Ví dụ 1: thực hành đo , đong, cân. - Đo độ dài: Trước khi đo độ dài cần xác định rõ: cần đo đoạn thẳng nào, thước đơn vị nào , với độ chính xác nào( lấy số đo đến mấy chữ số ở phần thập phân). Trên cơ sở đó ta chọn dụng cụ đo và tiến hành đo. Chẳng hạn cần đo chiều dài lớp học, đơn vị mét.Ta chọn dụng cụ đo là thước mét có vạch chia đến centimet. Tiến hành đo: Đặt nối tiếp thước theo chiều dài của lớp, vừa đặt vừa đếm 1m, 2m, 3m, Khi còn cách hơn 1m thì quay đầu thước (để vạch số 0 chạm vào tường ) và đọc số decimet và centimet. Nếu đo bằng thước dây thì cách đo khác hơn một chút. - Đo dung tích: 30
  32. Trước tiên tiến hành đo cần xác định rõ: vật chứa cần đo dung tích, đơn vị đo và yêu cầu về độ chính xác.Trên cơ sở đó ta chọn dụng cụ đo và tiến hành đo. Chẳng hạn, cần đo dung tích của một chiếc bình, theo đơn vị lít và ta có chiếc ca 1 lít.Ta đong đầy từng ca nước và đổ vào bình.Đổ xong thì đếm: 1 ca, 2 ca, 3 ca Nếu ca cuối, ví dụ ca thứ 5, không đổ được hết nước vào bình thì nói : dung tích của bình là hơn 4 lít hoặc gần 5 lít tuỳ theo lượng nước còn lại trong ca là nhiều hay ít (ở những lần tập đo đầu tiên , nên chọn bình là số nguyên lần lít). - Đo khối lượng: Trước khi đo cần xác định rõ: vật cần đo khối lượng, dơn vị đo và yêu cầu về độ chính xác.Trên cơ sở đó ta chọn dụng cụ đo và tiến hành đo (việc đo khối lượng gọi đơn giản là cân). + Ví dụ 2: Cân đo khối lượng của một túi gạo nhỏ(dưới 5 kg) đơn vị kilogam, yêu cầu chính xác đến một trăm gam (một lạng) . Ta chọn dụng cụ đo là chiếc cân đĩa và các quả cân 5 kg, 2kg, 1kg, 500g, 200g, 100g (mỗi loại hai quả cân). - Tiến hành cân: Đặt túi gạo lên một đĩa cân , đặt quả cân 5 kg lên đĩa cân kia (đĩa quả cân).Cân lệch về phía quả cân, thay quả cân 5kg lên quả cân 2kg.Cân lệch về phía túi gạo, đặt tiếp quả cân 2kg vào đĩa cân, cân lệch về phía các quả cân.Thay một quả cân 2kg bằng quả cân 1kg, cân lệch về phía túi gạo, đặt thêm quả cân 500g vào đĩa cân, cân thăng bằng.Kết luận: túi gạo nặng 3kg và 500g hay ba cân rưỡi. 31
  33. + Ví dụ 3: - Các hình dùng để cho học sinh quan sát, nhận dạng hình vuông, hình tròn, hình tam giác, hình chữ nhật - Các hình cũng có thể dùng làm dụng cụ nhận dạng hình bằng tay (thông qua những trò chơi như trò chơi bịt mắt chọn hình). Học sinh tiểu học rất thích vẽ, có thể cho các em vẽ hình bằng tay trên giấy thường hoặc giấy vẽ hình bằng thước kẻ trên giấy kẻ ô vuông, với mục đích để các em nắm được đặc trưng của hình.Chú ý rằng, trên giấy kẻ ô vuông các yếu tố vuông góc, song song, bằng nhau, thẳng hàng, tính đối xứng dễ xác định.Vì thế học sinh sẽ vẽ chính xác và vẽ đẹp trên loại giấy này. 32
  34. CHƯƠNG II NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN KỸ NĂNG THỰC HÀNH PHÉP NHÂN CHO HỌC SINH LỚP 3 VỊ TRÍ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA DẠY PHÉP NHÂN CHO HỌC SINH LỚP 3 I.Vị trí của môn toán học ở tiểu học: Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam cùng các môn học khác, môn Toán có vị trí quan trọng vì: - Các kiến thức , kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần thiết cho mọi người lao động, rất cần thiết để học tập các môn học khác ở Tiểu học và học tập tiếp môn Toán ở trung học. 33
  35. - Môn Toán giúp học sinh nhận biết được các mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới thực.Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. - Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nền nếp tác phong khoa học. II.Vị trí và tầm quan trọng của dạy phép nhân trong dạy học toán lớp3: - Dạy học các phép tính nhân là một chủ đề quan trọng trong chương trình Toán lớp 3 và bậc Tiểu học, vì : + Đây là một trọng tâm lớn xuyên suốt trong trương trình Toán lớp 2, 3, 4, 5. +Đây là những kỹ năng rất cần thiết để học lên các cấp học trên (không chỉ trong môn Toán) và để giải quyết những bài toán do thực tiễn cuộc sống đặt ra. + Đây là một mảng rất khó, trìu tượng và rất hấp dẫn, nó ảnh hưởng lớn đến kết quả dạy Toán đại trà và việc bồi dưỡng phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh giỏi bậc Tiểu học. 34
  36. + Những kiến thức, kỹ năng về phép nhân là “cầu nối” giữa Toán học trong nhà trường và ứng dụng trong đời sống xã hội. + Nhờ được rèn luyện các kỹ năng thực hành phép nhân mà học sinh giải toán nhanh hơn, tìm ra nhiều cách giải khác nhau của bài toán. + Việc củng cố cho học sinh về tính chất của phép nhân, mối quan hệ giữa các phép tính giúp học sinh có khả năng tính nhanh rất tốt.Thông thường muốn tính nhanh ta phải thực hiện “trong óc” những phép biến đổi khác nhau để thực hiện phép tính về một dạng mới cho phép tránh được các tính toán cồng kềnh bằng bút, có thể thực hiện dễ dàng “trong óc”.Có thể nói tính toán (trong đó có tính nhanh) là một môn thể thao về tư duy.Không nên nghĩ rằng trong thời đại tin học ngày nay, các máy tính bỏ túi xuất hiện nhiều với giá rẻ, khi mà các máy tính với tốc độ tính toán với hàng triệu phép tính trong một giây đã trở nên một đồ dùng sinh hoạt bình thường trong gia đình thì việc tính nhanh, tính miệng , tính nhẩm không còn cần thiết nữa.Bởi vì các phương tiện tính toán không thể trợ lực hết cho ta trong mọi công việc hàng ngày.Nếu sử dụng một cách thái quá các công cụ ấy sẽ làm cho bộ óc trở nên lười biếng và trì trệ. Ví dụ: 413 x 3 a.Cách làm thông thường là tính viết: 413 x 3 1239 35
  37. b.Song nếu để ý nhận xét 413 = 400 + 10 + 3 thì có thể tính nhanh bằng cách nhẩm như sau: 413 x 3 = (400 + 10 + 3) x 3 = 400 x 3 + 10 x 3 + 3 x 3 = 1200 + 30 + 9 = 1239 Trong cách tính nhanh trên ta đã dùng tính chất phân phối của phép nhân với phép cộng để tách phép nhân 413 x 3 thành nhiều phép nhân đơn giản có thể làm bằng miệng. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN KỸ NĂNG THỰC HÀNH PHÉP NHÂN CHO HỌC SINH LỚP 3 I.Nội dung chủ yếu: - Các bảng nhân 6, 7, 8, 9 - Bảng nhân tổng hợp: Từ bảng 1-> bảng 10 - Phép nhân ngoài bảng ( tính viết ) 36
  38. + Nhân số có 2 chữ số với số có 1 chữ số + Nhân số có 3 chữ số với số có 1 chữ số + Nhân số có 4 chữ số với số có 1 chữ số + Nhân số có 5 chữ số với số có 1 chữ số - Nhân nhẩm - Tính giá trị biểu thức số có chứa đến 2 dấu phép tính - Tăng một số lên một số lần - So sánh hai số gấp kém nhau một số lần - Tính chu vi, diện tích của hình vuông, hình chữ nhật - Giải toán hợp II.Phương pháp dạy học phép nhân 1.Phương pháp chung Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học được tất cả các trường hợp trong cả nước quan tâm.Các phương pháp dạy học mới dựa trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả của giáo dục đào tạo.Để lĩnh hội được một lượng kiến thức tương đối về phép tính nhân, chia phải có phương pháp giảng dạy thích hợp giúp các em nắm chắc nội dung, từ đó áp dụng để giải các bài toán về phép nhân trong Toán học cũng như trong thực tiễn cuộc sống đặt ra. 37
  39. Dạy học môn Toán ở Tiểu học nói chung, đặc biệt dạy học phép nhân nói riêng, các biện pháp truyền thống như: trực quan , giảng giải, minh hoạ , luyện tập – thực hành, gợi mở – vấn đáp vân là những phương pháp mang lại hiệu quả cao nếu biết sử dụng đúng lúc đúng chỗ.Sở dĩ vậy vì kiến thức môn Toán vốn là những tri thức hết sức trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh.Tư duy của trẻ Tiểu học đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, các em chỉ có thể nhận thức được những gì là cụ thể , gần gũi, lúc này dạy học nhất thiết phải mang tính trực quan sinh động. Để giúp các em nắm vững kiến thức về phép nhân, có được kỹ năng, kỹ xảo, cách duy nhất là sau mỗi bài học , chúng ta phải cho học sinh thức hành luyện tập thương xuyên và liên tục. Tuy nhiên đổi mới phương pháp dạy học Toán đòi hỏi giáo viên cần kế thừa, phát triển các mặt tích cực trong hương pháp dạy học truyền thống đồng thời mạnh dạn vận dụng các xu hướng dạy học hiện đại.Sau đây chung tôi được xin giới thiệu một số phương pháp đang được vân dụng rộng rãi, đa dạng và tỏ ra có hiệu quả, thích hợp với định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta. 2.Một số phương pháp dạy học tích cực 2.1.Vấn đáp tìm tòi Vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra những câu hỏi để học sinh trả lời, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt ba phương pháp vấn đáp. 38
  40. - Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi, học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận.Đây là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học và kiến thức sắp học hoặc khi cần củng cố kiến thức vừa mới học. - Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề bài nào đó.Giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu dễ nhớ.Phương pháp này sẽ hiệu quả hơn khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe nhìn. - Vấn đề tìm tòi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết.Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến - tranh luận giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò nhằm giải quyết một vấn đề xác định.Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên giống như người tổ chức sự tìm tòi , còn học sinh giống như người tự lực tìm kiến thức mới.Vì vậy khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có niềm vui của sự khám phá, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. 2.2.Dạy học đặt và giải quyết vấn đề Từ những năm 1960, giáo viên ở nước ta đã làm quen với thuật ngữ phương pháp nêu vấn, quan tâm tới các tình huống có vấn đề để thu hút học sinh vào quá trình nhận thức tính tích cực.Cho đến nay đa số giáo viên chưa vận dụng thành thạo phương pháp này.Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lí các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành đạt trong 39
  41. cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh.Vì vậy tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa tìm phương pháp dạy học mà phải đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. - Dạy học đặt và giải quyết vấn đề cần chú ý: + Một vấn đề (đối với người học) được biểu thị bởi một hệ thống những mệnh đề và câu hỏi(hoặc yêu cầu hành động) thoả mãn điều kiện. Người học chưa giải đáp được câu hỏi đó hoặc chưa thực hiện được hành động đó. Người học chưa được học một quy tắc có tính chất thuật giải nào để giải đáp câu hỏi hoặc thực hiện yêu cầu đặt ra. + Thế nào là bài toán (tình huống) có vấn đề ? Bài toán có vấn đề cần thoả mãn các vấn đề sau: Tìm tòi một vấn đề : Bài toán phải bao hàm một vấn đề theo nghĩa đã nêu ở trên. Gợi nhu cầu nhận thức : người học phải cảm thấy cần thiết, thấy có nhu cầu, hứng thú và mong muốn giải quyết vấn đề đó. Gây niềm tin ở khả năng người học, làm cho họ thấy tuy họ chưa có lời giải ngay nhưng họ đã có một kiến thức, kỹ năng liên quan đến vấn đề đặt ra và nếu tích cực suy nghĩ thì có nhiều hy vọng giải quyết được vấn đề đó. 40
  42. - Cách tạo bài toán(tình huống) có vấn đề: + Dự toán nhờ nhận xét lạc quan, đo đạc thực nghiệm. + Lật ngược vấn đề. + Khái quát hoá. + Giải bài tập mà chưa biết thuật giải để giải trực tiếp. + Tìm sai lầm trong lời giải. + Phát hiện nguyên nhân sai lầm và sửa chữa sai lầm. Ví dụ: ở Tiểu học, để giúp học sinh xây dựng quy tắc tính diện tích vuông, giáo viên có thể nêu vấn đề: Chúng ta đã biết cách tính diện tích hình chữ nhật.Vậy làm thế nào để tính được diện tích hình vuông? Trên cơ sở nhận xét: Hình vuông chính là một hình chữ nhật đặc biệt có các cạnh bằng nhau.Học sinh có thể tự rút ra quy tắc: Muốn tính diện tích hình vuông ta lấy cạnh nhân với cạnh. - Tổ chức hướng dẫn học sinh giải các bài toán có vấn đề: Giáo viên Học sinh + Chọn lọc và đưa ra các bài + Tìm hiểu nội dung bài toán 41
  43. toán có vấn đề + Nghiên cứu + Giúp hiểu các khái niêm +Trao đổi và dự toán + Đưa ra câu hỏi và hướng dẫn + Suy nghĩ về lời giải và cách học sinh giải quyết + Khuyến khích các ý tưởng + Báo cáo và trình bày + Lắng nghe và quan sát + Khắc sâu và mở rộng hiểu biết Trong dạy học đặt và giải quyết vấn đề, thường phân biệt 3 cấp độ: + Thuyết minh giải quyết vấn đề. Giáo viên tạo tình huống có vấn đề, học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề. + Tự nghiên cứu vấn đề: Giáo viên chỉ tạo tình huống có vấn đề, học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề. Hiện nay, nhiều giáo viên Tiểu học thường áp dụng ở cấp độ thuyết trình giải quyết vấn đề và chủ yếu tạo tình huống có vấn đề là một bộ phận của tiết học. 3.Dạy học các nội dung có liên quan đến phép nhân a.Phép nhân hai số tự nhiên 42
  44. Trong trường Tiểu học, Phép nhân được xây dựng trên cơ sở phép cộng các số hạng bằng nhau. Phép nhân được tiến hành theo các vòng số a.1.Khái niệm phép nhân: - Phép nhân hai số tự nhiên được định nghĩa như là phép cộng các số hạng bằng nhau.Với hai số tự nhiên a b đã cho phép cộng: a + a + a + + a (b số hạng) Được viết thành a x b và gọi số a và số b là thừa số, kết quả của phép nhân a x b gọi là tích. Chẳng hạn: 7 + 7 ghi là 7 x 2 7 + 7 = 7 x 2 Cách viết: 7 x 2 = 14 Cách đọc: 7 lấy 2 lần được 14 hay: 7 nhân 2 bằng 14 Trong đó: 7 là thừa số 2 là thừa số 14 là tích 43
  45. a.2.Giới thiệu một số tính chất của phép nhân - Tính chất giao hoán: a x b = b x a.Ví dụ: 6 x 7 = 7 x 6 - Tính chất kết hợp: (a x b) x c = a x ( b x c) Ví dụ: (7 x 5) x 2 = 7 x (5 x 2) = 7 x 10 = 70 - Nhân với số 1 : a x 1 = 1 x a = a Ví dụ: 5 x 1 = 1 x 5 = 5 - Nhân với số 0: a x 0 = 0 x a = 0 Ví dụ: 9 x 0 = 0 x 9 = 0 a.3.Nhân trong bảng Trọng tâm là xây dựng các bảng nhân từ bảng nhân 1 đến bảng nhân 10.Cách giải quyết: Dựa vào định nghĩa phép nhân là phép cộng các số hạng bằng nhau mà xây dựng được công thức nhân trong bảng.Có thể vận dụng tính chất giao hoán của phép nhân để không phải xây dựng cả 10 công thức trong mỗi bảng nhân.Chẳng hạn, ở bảng nhân 6 thì các trường hợp sau đây được coi là đã được học: 6 x 1 = 6 vì 1 x 6 = 6 (ở bảng nhân 1) 6 x 2 = 12 vì 2 x 6 = 6 (ở bảng nhân 2) 6 x 3 = 18 vì 3 x 6 = 6 (ở bảng nhân 3) 6 x 4 = 24 vì 4 x 6 = 6 (ở bảng nhân 4) 44
  46. 6 x 5 = 30 vì 5 x 6 = 6 (ở bảng nhân 5) Còn lại các trường hợp 6 x 6 cho đến 6 x 10 là những công thức mới, cần dựa vào phép cộng 6, 7, 8, 9, 10 số hạng đều là 6 để tìm kết quả mỗi phép nhân. Cũng có thể vận dụng tính chất kết hợp của phép cộng mà tiến hành xây dựng các công thức đó.Chẳng hạn 6 x 6 = ? sau khi đã học 6 x 5 = 30 thì có thể “cộng thêm” vào 30, khi đó có thể viết 6 x 6 = 6 x 5 + 6 = 36. Do đó 6 x 6 = 36. Ý nghĩa của vận dụng tính chất kết hợp của phép cộng là ở chỗ 6 x 6 = 6 + 6 + 6 + 6 + 6 +6 = 30 + 6 = 36 mà 30 = 6 x 5 nếu có 6 x 6 = 6 x 5 + 6 a.4.Nhân ngoài bảng: Trong chủ đề có các nội dung sau đây: - Nhân một số với một tổng.Nhân một số với một số. - Phép nhân có thừa số tròn chục. - Nhân số có hai chữ số với số có một chữ số. - Nhân số có một chữ số với số có hai chữ số. Về nhân số có hai chữ số với số có một chữ số. + Cơ Sở lý luận: Nhân một tổng với một số: 34 x 2 = (30 + 4) x 2 45
  47. = 30 x 2 + 4 x 2 = 60 + 8 = 68 + Kỹ thuật tính: Nhân từ phải sang trái: 34 2 nhân 4 bằng 8, viết 8 x 2 2 nhân 3 bằng 6, viết 6 bên trái số 8 68 23 4 nhân 3 bằng 12, viết 2 nhớ 1 x 4 4 nhân 2 bằng 8, thêm 1 bằng 9, viết bên trái số 2 92 Về phép nhân số có một chữ số với số có hai chữ số.Nhờ tính chất giao hoán của phép nhân mà đưa về trường hợp nhân số có hai chữ số với số có một chữ số. Chẳng hạn: 2 x 34 = 34 x 2 - Nhân số 3, 4, 5 chữ số với số có một chữ số tiến hành tương tự như nhân số có hai chữ số với số có một chữ số. Mẫu 1: nhân số có hai chữ số với số có một chữ số (không nhớ) 46
  48. Giáo viên viết Giáo viên nói 12 * 3 nhân 2 bằng 6, viết 6 x 3 * 3 nhân 1 bằng 3, viết 3 (bên trái số 6) Mẫu 2: Giáo viên viết Giáo viên nói 26 * 3 nhân 6 bằng 18, viết 18 nhớ 1 x 3 * 3 nhân 2 bằng 6, thêm 1 bằng 7, viết 7 (bên trái số 8) 78 54 * 6 nhân 4 bằng 24, viết 4 nhớ 2 x 6 * 6 nhân 5 bằng 30, thêm 2 bằng 32, viết 32 324 Đặt tính rồi tính: a. 38 11 b. 42 13 x3 x 6 x 2 x 3 96 66 84 39 47
  49. Ví dụ 2: Bài 2(Sách Toán 3 – trang 23) a. 38 27 b. 53 45 c. 84 32 x 2 x 6 x 4 x 5 x 3 x 4 76 162 212 225 252 128 Ví dụ 3: nhân số có ba chữ số với số có một chữ số Bài 2 (Sách Toán 3 – trang 55) Đặt tính rồi tính: a. 437 205 b. 319 171 x 2 x 6 x 3 x 5 874 820 957 855 4.Tính giá trị biểu thức: - Khi giải các bài toán thực hiện một dãy tính, giáo viên cho học sinh nhắc lại các quy tắc về thứ tự thực hiện các phép tính trong một biểu thức. - Khi biểu thức không có dấu ngoặc mà chỉ có phép tính nhân, chia thì ta thực hiện các phép tính theo thứ tự từ trái sang phải. Chẳng hạn: 49 : 7 x 5 = 7 x 5 = 35 48
  50. - Nếu trong biểu thức không có dấu ngoặc đơn và có phép tính cộng, trừ, nhân, chia thì ta thức hiện các phép tính nhân, chia trước rồi thức hiện các phép tính cộng, trừ sau: Chẳng hạn: 60 + 35 : 5 = 60 + 7 86 – 10 x 4 = 86 - 40 = 67 = 46 - Nếu trong biểu thức mà có dấu ngoặc đơn thì theo thứ tự thực hiện các phép tính trong dấu ngoặc đơn trước. Giáo viên phải làm mẫu một vài ví dụ cho học sinh áp dụng. Cuối cùng giáo viên uốn nắn những sai lầm học sinh mắc phải. 4.1.Dạng 1:Biểu thức không có ngoặc đơn mà chỉ có phép tính nhân, chia Ví dụ 1: Bài 1 trang 80 – Toán 3 : Tính giá trị biểu thức: a. 253 + 10 x 4 = 253 + 40 = 293 b. 500 + 6 x 7 = 500 + 42 = 542 41 x 5 – 100 = 205 – 100 = 105 30 x 8 + 50 = 240 + 50 = 290 93 – 48 : 8 = 93 – 6 = 87 69 + 20 x 4 = 69 + 80 = 149 Ví dụ 2: Bài 2 trang 81 – Toán 3 49
  51. Tính giá trị biểu thức: a. 375 – 10 x 3 = 375 – 30 = 345 b. 306 + 93 : 3 = 306 + 31 =337 64 : 8 + 30 = 8 + 30 = 38 5 x 11 – 20 = 55 – 20 = 35 4.2.Biểu thức có dấu ngoặc đơn Ví dụ 3 : Bài 2 trang 82 – Toán 3 a. (65 + 15) x 2 = 80 x 2 = 160 b. (74 – 14) : 2 = 60 : 2 = 30 48 : (6 : 3) = 48 : 2 = 24 81 : (3 x 3) = 81 : 9 = 9 Ví dụ 4 : Bài 3 trang 83 – Toán 3 a. 123(42 – 40) = 123 x 2 = 246 b. 72 : (2 x 4) = 72 : 8 = 9 (100 + 11) x 9 = 111 x 9 = 999 64 : (8 : 4) = 64 : 2 = 32 4.3.Tìm một thành phần chưa biết của phép tính 4.3.1.Dạng 1: Tìm thừa số chưa biết: - Phương pháp dạy: giáo viên yêu cầu học sinh gọi tên đúng thành phần và kết quả của phép tính nhân.Học sinh nêu quy tắc tìm thừa số chưa biết (Muốn tìm thừa số chưa biết ta lấy tích chia cho thừa số đã biết). Ví dụ: Bài 2 trang 120 – Toán 3 50
  52. Tìm x: a. X x 7 = 2107 b. 8 x X = 1640 c. X x 9 = 2763 X = 2107 : 7 X = 1640 : 8 X = 2763 : 9 X = 301 X = 205 X = 307 Mở rộng “dành cho học sinh khá giỏi”. Muốn tìm thừa số chưa biết ta lấy tích chia cho các thừa số đã biết. Chẳng hạn ta lấy tích chia cho các thừa số đã biết. Chẳng hạn tìm X? X x 2 x 3 = 18 Học sinh có thể làm như sau: Cách 1: X x 2 x 3 = 18 Cách 2: X x 2 x3 = 18 X = 18 : 2 : 3 X = 18 : 3: 2 X = 9 : 3 X = 6 : 2 X = 3 X = 3 Cách 3: X x 2 x 3 = 18 Cách 4: X x 2 x 3 = 18 X x 6 = 18 (t/c kết hợp phép nhân) X = 18 : (2 x 3) X = 18 : 6 X = 18 : 6 X = 3 X = 3 4.3.2.Dạng 2: Tìm số bị chia 51
  53. Cách dạy: + Giáo viên yêu cầu học sinh gọi tên đúng thành phần và kết quả của phép tính.Ví dụ: 6 : 2 = 3 trong đó 6 là số bị chia, 2 là số chia, 3 là thương. + Học sinh nhắc lại quy tắc tìm số bi chia: Muốn tìm số bị chia ta lấy thương nhân với số chia. Ví dụ: Bài 3 trang 116 – Toán 3 a. X : 3 = 1527 b. X : 4 = 1823 X = 1527 x 3 X = 1823 x 3 X = 4581 X = 7292 - Mở rộng: Muốn tìm số bị chia trong trường hợp phép chia có dư, ta lấy thương nhân với số chia rồi cộng với số dư.Trường hợp này dành cho học sinh khá, giỏi (không có trong sách). Ví dụ: X : 4 = 1296(dư 3) X = 1296 x 4 + 3 X = 5184 + 3 X = 5187 4.3.3.Dạng 3: Tìm số chia - Cách dạy: 52
  54. + Giáo viên yêu cầu học sinh gọi tên đúng thành phần và kết quả của phép chia.Học sinh nêu được quy tắc tìm số chia (Muốn tìm số chia ta lấy số bị chia chia cho thương số). Ví dụ : Bài 2 trang 39 – Toán 3 Tìm X ? a.12 : X = 2 b. 42: X = 6 c. 27 : X = 3 X = 12 : 2 X = 42 : 6 X = 27 : 3 X = 6 X = 7 X = 9 d.36 : X = 4 e. X : 5 = 4 X = 36 : 4 X = 4 x 5 X = 9 X = 20 - Bài nâng cao dành cho học sinh khá giỏi (không có trong sách giáo khoa). Ví dụ: 63 : X = 5(dư 3) X = (63 – 3) : 5 X = 60 : 5 X = 12 53
  55. - Trong phép chia có dư, muốn tìm số chia ta lấy số bị chia trừ đi số dư được bao nhiêu đem chia cho thương số. 4.4.Tính nhẩm - Cách dạy: + Tính nhẩm trong bảng, giáo viên yêu cầu học sinh thuộc lòng các bảng nhân, chia từ 1 đến 10 rồi nhớ lại và viết kết quả. Ví dụ: Bài 1 trang 49 – Toán 3 Tính nhẩm: 6 x 9 = 54 28 : 7 = 4 7 x 7 = 49 65 : 7 = 8 7 x 8 = 56 36 : 6 = 6 6 x 3 = 18 48 : 6 = 8 6 x 5 = 30 42 : 7 = 6 7 x 5 = 35 40 : 5 = 8 + Tính nhẩm ngoài bảng: Ví dụ: Bài 4 trang 113 – Toán 3 Tính nhẩm: a. 2000 x 2 = b. 20 x 5 = 4000 x 2 = 200 x 5 = 3000 x 2 = 2000 x 5 = Giáo viên làm mẫu: 54
  56. 2000 x 2 = ? 20 x 5 = ? Nhẩm : 2 nghìn x 3 = 6 nghìn Nhẩm : 2 chục x 5 = 10 Vậy 2000 x 3 = 6000 Vậy 20 x 5 = 100 200 x 5 = ? Nhẩm: 2 trăm x 5 = 10 trăm Vậy 200 x 5 = 1000 - Các trường hợp còn lại để học sinh tự làm. 4.5.So sánh các biểu thức - Đây là dạng bài tập nhằm mục đích rèn kỹ năng tính giá trị biểu thức, so sánh số. - Cách dạy: Giáo viên yêu cầu học sinh phải tính(hoặc nhẩm) giá trị của mỗi biểu thức, rồi mới so sánh các giá trị đó. Ví dụ : Bài 3 trang 82 – Toán 3 > (12 + 11) x 3 > 45 (70 + 23) : 3 > 30 484 : (2 + 2) > 180 < 33 x 3 93 : 3 484 : = 4 99 31 121 55
  57. 4.6.Bài tập trắc nghiệm khách quan 4.6.1.Đúng ghi Đ, sai ghi S: - Mục đích: Rèn kỹ năng tính giá trị biểu thức cho học sinh. - Yêu cầu : học sinh phải tính ( hoặc nhẩm) giá trị của mỗi biểu thức rồi mới ghi đúng hoặc sai. - Ví dụ: Bài 2 trang 80 – Toán 3 a. 37 – 5 x 5 = 12 b. 13 x 3 – 2 = 13 180 : 6 + 30 = 60 80 + 30 : 6 = 35 30 + 60 x 2 = 150 30 + 60 x 2 = 150 282 – 100 : 2 = 91 282 – 100 : 2 = 232 Cách làm: Giáo viên làm mẫu theo hai cách sau: Đ Cách 1: 37 – 5 x 5 = 12 37 – 25 12 Cách 2 : (nhẩm) : 37 – 5 x 5 = 5 x 5 = 25 56
  58. 37 – 25 = 12 Đ Vậy 37 – 5 x 5 = 12 Học sinh chọn một trong hai cách để làm các trường hợp còn lại. 4.6.2.Câu hỏi ghép - Mục đích: rèn luyện kỹ năng tính giá trị biểu thức. - Cách dạy: Yêu cầu học sinh tính giá trị biểu thức rồi chọn kết quả để ghép. Ví dụ : Bài 4 trang 81 – Toán 3: Một số trong hình tròn là giá trị của biểu thức nào ? 80 90 39 50 + : 2 x 3 20 x 4 130 120 68 70 + 11 : 60 : 3 3 + 6 81 – 20 + 7 57
  59. 4.7.Bài tập vận dụng tính chất của phép tính, mối quan hệ của phép tính để tính giá trị biểu thức một cách hợp lí, thuận tiện(Tính nhanh). Ví dụ: Bài 1 trang 114 – Toán 3 Viết thành phép nhân và ghi kết quả: a) 4129 + 4129 = 4129 x 2 = 8258 b) 1052 + 1052 + 1052 = 1052 x 3 = 3156 c) 2007 + 2007 + 2007 + 2007 = 2007 x 4 = 8028 Để giải quyết bài toán, học sinh phải hiểu được mối quan hệ giữa phép nhân và phép cộng. Phép nhân chính là phép cộng các số hạng bằng nhau. Vậy từ phép cộng có các số hạng bằng nhau ta có thể chuyển thành phép nhân mà thừa số thứ nhất chính là số hạng.Thừa số số hai là số các số hạng. 4.8.Giải các bài toán có lời văn liên quan đến tính nhân: Có thể chia thành các dạng sau đây: Dạng 1: Các bài toán đơn Dạng 2: Các bài toán hợp Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu kỹ các dạng toán. 4.8.1.Các bài toán đơn 58
  60. Toán đơn là những bài toán mà khi giải chỉ dùng một phép tính.Dạng toán này học sinh đã được làm quen từ lớp 1, lên lớp 3 các em vẫn tiếp tục giải các bài toán đơn nhưng chỉ có một phép tính nhân hoặc chia. - Toán đơn chỉ có một phép tính nhân Ví dụ: Bài 2 trang 33 – Toán 3 Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con.Hỏi mẹ hái được bao nhiêu quả cam? Tóm tắt: Con: hái 7 quả cam Mẹ: hái gấp 5 lần : ? quả Giải: Số quả cam mẹ hái được là: 7 x 5 = 35(quả) Đáp số : 35 quả 4.8.2.Các bài toán hợp Toán hợp là các bài toán khi giải sử dụng hai phép tính trở lên. Ở Toán 3, sự phối hợp giữa bốn phép tính cộng, trừ , nhân , chia số tự nhiên đã tạo nhiều tình huống khác nhau rất phong phú và đa dạng.Cụ thể là: 59
  61. Dạng 1: Toán hợp giải bằng hai phép tính nhân, cộng. Ví dụ: Bài 1 trang 51 – Toán 3: Quãng đường từ nhà đến chợ huyện dài 5km, quãng đường từ chợ huyện đến bưu điện tỉnh dài gấp 3 lần quãng đường từ nhà đến chợ huyện. Hỏi quãng đường từ nhà đến bưu điện tỉnh dài bao nhiêu km ? Tóm tắt: 5km Chợ huyện Nhà ? km Giải: Quãng đường từ chợ huyện đến bưu điện tỉnh là: 5 x 3 = 15 (km) Quãng đường từ nhà đến bưu điện tỉnh là: 5 + 15 = 20 (km) Đáp số : 20 km Dạng 2: Các bài toán hợp giải bằng hai phép tính chia, trừ. 60
  62. Ví dụ: Bài 2 trang 53 – Toán 3 Một thùng có 24 lít mật ong, lấy ra 1/3 số lít mật ong đó. Hỏi trong thùng còn bao nhiêu lít mật ong ? Tóm tắt: Có 241 lít mật ong Lấy ra 1/3 số lít mật ong Còn lại; ? lít mật ong Giải Số lít mật ong đã lấy ra là: 24 : 3 = 8 (lít) Số lít mật ong còn lại trong thùng là: 24 – 8 = 16 (lít) Đáp số : 16 lít Dạng 3: Toán hợp giải bằng hai phép tính nhân, trừ. Ví dụ: Bài 3 trang 54 – Toán 3 Từ một cuộn dây điện dài 50m người ta cắt lấy 4 đoạn, mỗi đoạn dài 8m. Hỏi cuộn dây điện đó còn lại bao nhiêu mét ? Tóm tắt: 61
  63. 50m 8m ? m Giải Số mét dây điện đã cắt ra là: 8 x 4 = 32 (m) Số mét dây điện còn lại là: 50 – 32 = 18 (m) Đáp số: 18 m Dạng 4: Toán hợp giải bằng hai phép tính chia, cộng Ví dụ: Bài 3 trang 106 – Toán 3 Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây.Sau đó trồng thêm được 1/3 số cây đã trồng.Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây ? Tóm tắt 948 cây 62
  64. Đã trồng: ? Cây Trồng thêm: Giải Đổi 1kg = 1000g Số đường còn lại là: 1000 – 400 = 600 (g) Số đường đựng trong mỗi túi nhỏ là: 600 : 3 = 200 (g) Đáp số : 200g 4.9.Các bài toán có nội dung hình học: Có thể chia làm hai dạng Dạng 1: Toán đơn Dạng 2: Toán hợp Để giải được các bài toán có nội dung hình, giáo viên yêu cầu học sinh thuộc lòng các quy tắc tính chu vi, diện tích của hình vuông, hình chữ nhật. 63
  65. - Muốn tính chu vi hình vuông ta lấy số đo một cạnh nhân với 4. - Muốn tính cạnh hình vuông ta lấy chu vi chia cho 4. - Muốn tính diện tích hình vuông ta lấy cạnh nhân với cạnh. - Muốn tính diện tích hình chữ nhật ta lấy số đo chiều dài nhân với số đo chiều rộng(cùng một đơn vị đo). - Tính chiều dài hình chữ nhật bằng cách lấy diện tích chia cho chiều rộng. - Tính chiều rộng hình chữ nhật bằng cách lấy diện tích chia cho chiều dài. 4.9.1Các bài toán đơn có nội dung hình học Ví dụ 1 : Bài 2 trang 152 – Toán 3 Một miếng bìa hình chữ nhật có chiều rộng 5cm, chiều dài 14cm. Tính diện tích miếng bìa đó. Tóm tắt Chiều dài : 14 cm Chiều rộng : 5 cm Diện tích : ? cm Giải 64
  66. Diện tích miếng bìa hình chữ nhật là: 14 x 5 = 70 (cm2) Đáp số : 70 cm2 Ví dụ 2: Bài 3 trang 89 – Toán 3 Tính cạnh hình vuông, biết chu vi hình vuông là 24 cm Tóm tắt Giải Chu vi: 24 cm Cạnh hình vuông là: Cạnh: ? cm 24 : 4 = 6 (cm) Đáp số: 6 cm 4.9.2.Các bài toán hợp có nội dung hình học Ví dụ 1: Bài 3 trang 154 – toán 3 Một hình vuông có chu vi 20 cm.Tính diện tích hình vuông đó. Tóm tắt Giải Chu vi: 20 cm Cạnh hình vuông là: 65
  67. Diện tích: ? cm 20 : 4 = 5 (cm) Diện tích hình vuông là: 5 x 5 = 25(cm2) Đáp số: 25 cm2 Ví dụ 2: Bài 5 trang 179 – Toán 3 Hai tấm bài hình vuông, cạnh đều bằng 9cm. Ghép hai tấm bìa này lại thành một hình chữ nhật (xem hình vẽ). Tính diện tích hình chữ nhật đó bằng các cách khác nhau: 9cm 9cm Giải Cách 1: Cách 2: Chiều dài hình chữ nhật là Diện tích tấm bìa hình vuông là 9 x 2 = 18 (cm) 9 x 9 = 81 (cm2) 66
  68. Diện tích chữ nhật là Diện tích hình chữ nhật là 18 x 9 = 162 (cm2) 81 x 2 = 162 (cm2) Đáp số : 162 cm2 Đáp số: 162 cm2 CHƯƠNG III THỰC TRẠNG VIỆC DẠY HỌC VÀ PHÉP NHÂN, CHIA TRONG NHÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỆN NAY Qua việc tìm hiểu sách giáo khoa Toán 3 chương trình Tiểu học 2000, cùng với việc điều tra thăm dò ý kiến đánh giá của các giáo viên đang thực hiện dạy học chương trình Toán 2000, đặc biệt là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 3, chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau: Nội dung dạy học các phép tính nhân, chia môn Toán lớp 3 tương đối nhiều, đó là: Dạy bảng nhân 6, 7, 8, 9; dạy nhân số có 2, 3, 4, 5 chữ số có một chữ số; dạy gấp một số lên nhiều lần, giảm một số đi nhiều lần, tính giá trị biểu thức, so sánh hai số gấp nhau một số lần, dạy giải toán hợp có liên quan đến việc rút về đơn vị, dạy tính chu vi, diện tích hình vuông, hình chữ nhật. Số lượng bài tập nhiều.Mức độ yêu cầu của các bài toán này hầu hết là các bài tập ở dạng cơ bản, không có yêu cầu nâng cao, không có nhiều bài toán khó như một số sách tham khảo. 67
  69. Theo ý kiến nhận xét của một số giáo viên đang trực tiếp giảng dạy thì do khối lượng bài tập nhiều mà thời gian một tiết học chỉ có hạn (35 phút) nên học sinh trung bình hoặc sức học chưa được vững không làm hết bài.Những em học sinh khá, giỏi thì làm bài rất nhanh, thừa thời gian do đó giáo viên thường phải nghĩ thêm một số bài nâng cao để cho các em luyện thêm. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng với số lượng và yêu cầu đặt ra cho mỗi bài toán như vậy cũng tạo cơ hội cho người giáo viên và học sinh có đủ thời gian tổ chức hoạt động, nhất là hoạt động độc lập của học sinh. Đồng thời tạo cơ hội cho người giáo viên phát huy khả năng của mình trong dạy học, giáo viên phải đầu tư suy nghĩ để khai thác nội dung bài dạy ở nhiều khía cạnh khác nhau, đưa ra những tình huống khác nhau chứ không nên lệ thuộc vào sách giáo khoa. Tóm lại cả nội dung và phương pháp rèn kỹ năng thực hiện phép tính nhân, chia ở lớp 3 có những điểm là hợp lý, vừa sức với học sinh, song cũng có những điểm chưa thật sự hợp lý, kiến thức còn “nhẹ” so với trình độ nhận thức của học sinh hiện nay; muốn dạy học tốt giáo viên phải hiểu rõ những điểm này và dựa trên khả năng của học sinh mà xây dựng nội dung, sử dụng phương pháp dạy học sao cho phù hợp. Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu thức trạng việc dạy học và học ở trường Tiểu học, chúng tôi thấy có một vấn đề như sau: I.VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY CỦA GIÁO VIÊN 1.Những ưu điểm: - Giáo viên nắm vững nội dung và phương pháp dạy học.Bên cạnh đó, nội dung dạy học phép nhân của sách Toán 3 tương đối đơn giản, trọng tâm 68
  70. nên việc triển khai nói chung không gặp nhiều khó khăn.Chính vì những lý do trên mà hiện nay dạy học phép nhân được giáo viên thực hiện tương đối đon giản, nhẹ nhàng và đạt yêu cầu. Mặt khác, trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục Thành phố Hà Nội rất quan đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên.Hằng năm, giáo viên được tham gia các lớp tập huấn để nâng cao tay nghề.Ngoài ra, giáo viên được dự nhiều tiết chuyên đề của Quận và Thành phố.Do vậy, mỗi giáo viên đã nhận thức được tinh thần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán. Do quán triệt được tinh thần nên giáo viên đã thể hiện được tư tưởng đó khi dạy học môn Toán nói chung, dạy phép tính nhân lớp 3 nói riêng.Cụ thể là: - Giáo viên đã chủ động lập kế hoạch giảng dạy cho những tiết học, tuần học, sắp xếp và dành nhiều thời gian cho học sinh làm việc với sách giáo khoa, vở bài tập và các tài liệu tham khảo. - Trong giờ học, khi truyền đạt nội dung mới của bài, giáo viên đã biết kết hợp nhiều phương pháp truyền thống(giảng giải – minh hoạ, trực quan, vấn đáp ) với các phương pháp dạy học hiện đại (dạy học, nêu vấn đề, dạy học tập thể theo nhóm ) để dẫn học sinh tới kiến thức cần đạt được.Khi củng cố rèn luyện các kỹ năng, kiến thức của giờ học, giáo viên đã dầu tư, suy nghĩ hình thức củng cố bài học. 69
  71. - Về công tác kiểm tra, đánh giá, giáo viên đã có sự kết hợp hài hoà giữa việc thầy kiểm tra, trò tự kiểm tra đánh giá bài mình và kiểm tra đánh giá bài lẫn lộn. 2.Những mặt còn tồn tại Bên cạnh những ưu điểm trên thì việc dạy học phép nhân, chia của giáo viên còn một số điểm tồn tại sau đây: Bên cạnh một số đông giáo viên đã tích cực thay đổi phương pháp dạy học, không tránh khỏi một số đồng chí còn làm việc rất khuôn mẫu theo sách hướng dẫn, sách giáo khoa.Giáo viên chỉ chú ý sao cho học sinh giải được bài toán cụ thể trong sách giáo khoa chứ chưa chú ý đến việc phát triển đề toán thành các bài toán tương tự bằng việc yêu cầu học sinh thay đổi số liệu để giúp học sinh nắm vững dạng toán đồng thời giúp cho các em phát triển năng lực tư duy.Đa số học sinh đều nắm vững kỹ thuật tính nhân nên đối với dạng bài tập “Đặt tính rồi tính, tính giá trị biểu thức” học sinh làm tốt.Thế nhưng với những dạng bài tập cần suy luận hay cần dựa vào mối quan hệ giữa các phép tính, dựa vào các tính chất của phép nhân để giải thì học sinh làm chưa tốt.Đây cũng là lỗi do sự lạm dụng sách giáo khoa và vở bài tập nên học sinh thường làm việc như một cái máy.Bài nào khác dạng đi một chút là không làm được phải hỏi ý kiến của giáo viên. II.VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CỦA HỌC SINH 1.Những ưu điểm 70
  72. Qua điều tra và trực tiếp giảng dạy ở lớp 3, chúng tôi thấy học sinh làm tốt các bài tập về phép nhân trong sách giáo khoa.Kết quả đạt được là cao, song đối với các bài toán có yêu cầu nâng cao hơn, các em vẫn lúng túng.Đây là điều dễ hiểu vì mức độ yêu cầu của các bài toán trong sách giáo khoa khá đơn giản trong khi thực tế hàng ngày có những bài toán không phải là dễ. 2.Những mặt còn tồn tại - Bắt nguồn từ phía sách giáo khoa, với nội dung bài tập và mức độ yêu cầu chưa cao nên việc khắc sâu, củng cố các dạng toán chưa thật hiệu quả, tư duy của học sinh chưa được chú ý đúng mức.Bởi thế các em sẽ gặp nhiều khó khăn khi gặp các bài tập nâng cao hoặc những bài Toán diễn ra trong thực tế hàng ngày. - Bắt nguồn từ phía giáo viên, một số đông chí còn mang nặng dạy học theo phương pháp cổ truyền nên học sinh tiếp nhận kiến thức giải các bài toán riêng lẻ mà chưa có phương pháp tổng quát để áp dụng cho các bài toán khác nhau. CHƯƠNG IV MỘT SỐ Ý KIÊN ĐỀ XUẤT CỦA CÁ NHÂN 1.Như trên đã nói, chương trình Tiểu học hiện nay đang có xu hướng giảm tải kiến thức, đó là điều hợp lý.Song trong bất kỳ một lớp học nào cũng có đầy đủ các đối tượng học sinh: Giỏi, khá, trung bình, yếu, trong đó số học sinh 71
  73. khá giỏi là chủ yếu, nên chăng sách giáo khoa cần tăng cường những bài toán có yêu cầu cao hơn đối với học sinh khá giỏi ? 2.Mỗi bài dạy của giáo viên trên lớp có một đặc điểm riêng, đặc trưng riêng: Bởi thế giáo viên phải chú ý đến những đặc trưng này thì mới có thể có những bài dạy tốt. Khi dạy các tiết lý thuyết, giáo viên cần đặt mình vào vị trí của những học sinh.Điều quen thuộc của thầy giáo có thể lại là điều hết sức mới mẻ đối với trò.Tuy nhiên không một kiến thức mới nào lại không khởi nguồn từ những điều các em đã biết, bởi cái mới luôn là sự kế thừa của cái đã có trước đó.Hãy dựa vào những gì đã có để xây dựng tình huống có vấn đề làm xuất hiện ở học sinh nhu cầu tìm hiểu kiến thức mới.Không nên dạy theo cách truyền dạt kiến thức một chiều mà hãy suy nghĩ để có những gợi ý, những câu hỏi hợp lý lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học.Nên tăng cường những câu hỏi mà học sinh phải phán đoán, suy luận, lựa chọn và giải thích.Khi học sinh trả lời, đừng bỏ qua câu trả lời, nhiều khi chính những câu trả lời đó lại là một hướng để ta khai thác bài học.Nếu có thể hãy hướng dẫn cho mọi học sinh tranh luận với nhau mà thầy giáo là trọng tài.Mọi kiến thức đều sẽ bị lãng quên nếu chúng không được sử dụng.Vì vậy vừa giảng vừa luyện tập và cuối cùng đừng quên củng cố nội dung trước khi sang một phần mới. Sau bất cứ bài học lý thuyết nào cũng có bài học để học sinh luyện tập vận dụng kiến thức đã học.Một số giáo viên biến giờ luyện tập thành giờ chữa bài tập, đây là một sai lầm.Tiết luyện tập tốt là tiết dạy học sinh cách suy nghĩ giải toán.Khi dạy các tiết luyện tập chúng ta không nên đưa quá nhiều bài tập chỉ nên đưa ra khối lượng bài tập, chỉ nên đưa ra khối lượng vừa đủ để có điều kiện khắc sâu, củng cố các kiến thức được vận dụng và phát triển năng lực tư 72
  74. duy cần thiết trong giải toán.Hãy liên kết các bài tập thành từng nhóm bài có liên quan và giúp học sinh tìm ra đặc trưng của nhóm bài cũng như sự khác nhau giữa các nhóm.Đừng nóng vội mà hãy để thời gian cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi và giúp đỡ các em khai thác bài toán trên những phương diện khác nhau. Tiếp theo là với tiết ôn tập.Trong tiết này chúng ta hãy cố gắng tìm được sự liên kết các kiến thức ấy với nhau đồng thời chọn ra những bài tập có tính tổng hợp liên quan nhiều đến kiến thức để qua đó mà củng cố, khắc sâu mà nâng cao kiến thức cho học sinh. Vận dụng nhiều hình thức kiểm tra khác nhau để đánh giá tình hình học tập của học sinh. 3.Dạy học là một nghệ thuật, nghệ thuật ấy đạt đến đỉnh cao khi người thầy dạy cho học sinh biết cách học một cách sáng tạo.Muốn vậy phải khai thác tiềm năng học toán của các em.Hãy hướng dẫn các em nghiên cứu bài học bằng cách xem trước bài và ghi lại những thắc mắc, những điều chưa lý giải được để đến lớp với những câu hỏi có sẵn trong đầu. Toán học là một môn thể thao trí tuệ.Giáo viên hãy tổ chức cho các em “chơi” một cách sáng tạo, để tìm ra những điều lý thú trong đó .Như vậy có nghĩa là mỗi bài chúng ta không nên dừng lại ở việc tính ra kết quả, tìm ra đáp số mà còn yêu cầu học sinh suy nghĩ tìm tòi các cách giải khác nhau. Ví dụ như bài toán sau: Tìm một số biết rằng số đó nhân với 4 được bao nhiêu đem cộng với 4 thì được kết quả cuối cùng là 7744. 73
  75. Cách giải thứ nhất: Gọi số cần tìm là X Theo đầu bài, ta có X x 4 + 4 = 7744 X x 4 = 7744 – 4 X x 4 = 7740 X = 7740 : 4 X = 1935 Cách giải thứ hai: Áp dụng phương pháp giải từ cuối ta có lời giải như sau: Trước hết ta lập hồ sơ diễn đạt bài toán dưới dạng x 4 + 4 7744 : 4 - 4 74
  76. Số trước khi cộng với 4 là 7744 – 4 = 7740 Số cần tìm là 7744 : 4 = 1935 Vậy số cần tìm là 1935 Qua hai cách giải khác nhau giáo viên cho học sinh có thể so sánh để thấy được cách giải nào hay, dễ hiểu hơn.Học sinh dễ dàng thấy cách giải thứ hai là hay hơn với bài toán này. Như vậy chúng ta thấy rằng từ một bài toán, chúng ta đã giúp đỡ học sinh tìm ra nhiều điều lý thú, góp phần tích cực trong việc tạo hứng thú và phát triển tư duy cho học sinh. PHẦN III. THỰC NGHIỆM I.Mục đích thực nghiệm: Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài là áp dụng dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3 chương trình Toán xuất phát từ thực trạng dạy phép nhân và từ những đề xuất đã nêu ra, 75
  77. chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài, sự hiệu quả của các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, cũng như giúp học sinh tính nhân, chia chính xác, biết suy nghĩ tìm tòi phát triển trước những đề Toán gặp phải. II.Nội dung thực nghiệm: Chúng tôi đã tiến hành dạy 2 tiết thực nghiệm. Tiết 1: Nhân số có bốn chữ số với số có một chữ số (Tiết 113) Tiết 2: Luyện tập (Tiết 114) III.Hình thức – Phương pháp tổ chức thực nghiệm Trong 2 giờ dạy thực nghiệm, chúng tôi đã sử dụng các hình thức tổ chức, phương pháp sau đây: - Phương pháp vấn đáp – gợi mở. - Phương pháp thực hành luyện tập. - Phương pháp dạy học nêu vấn đề. Các hình thức tổ chức dạy học đã được sử dụng: - Dạy học theo lớp. - Dạy học theo nhóm. - Dạy học bằng phiếu học tập. 76
  78. - Tổ chức trò chơi học tập. IV.Thời gian và địa điểm thực nghiệm: - Địa điểm: Lớp 3B Trường Tiểu học Cát Linh. - Thời gian dạy: Tiết 1: Từ 14 giờ cho đến 14 giờ 35 phút ngày 18-5-2006. Tiết 2: Từ 14 giờ cho đến 14 giờ 35 phút ngày 25-5-2006. V.Kết quả thực nghiệm: Căn cứ vào tiến trình dạy, kết quả thu và chấm bài của học sinh cho thấy.Đa số học sinh đều tiếp thu tốt, hiểu bài và vận dụng nhanh, thực hiện phép tính tốt, trình bày khoa học, sạch đẹp. Kết quả như sau: Tổng số học sinh: Học sinh 77
  79. Loại Điểm 9- Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm điểm 10 dưới 5 T iết dạy S T S T S T S T ố bài ỉ lệ ố bài ỉ lệ ố bài ỉ lệ ố bài ỉ lệ T iết 1 T iết 2 PHẦN IV. KẾT LUẬN I.NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA CHO BẢN THÂN VÀ CHO ĐỒNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH LÀM ĐỀ TÀI Trong quá trình làm đề tài: “Áp dụng dạy học tích cực để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3”, tôi đã học và tìm hiểu nội 78
  80. dung dạy học phép nhân cho học sinh lớp 3; các phương pháp dạy học tích cực để dạy nội dung này.Điều này rất có ích cho tôi trong công tác dạy học.Bản thân tôi rút ra được một kinh nghiệm như sau: Muốn dạy tốt môn Toán, giúp học sinh hiểu, làm tốt các bài tập, trước hết giáo viên phải hiểu và nắm chắc các kiến thức và kỹ năng dạy các biện pháp tính đồng thời phải biết hướng khai thác để giúp trẻ phát triển tư duy sáng tạo trong học Toán.Giáo viên không nắm vững nội dung dạy học khi lên lớp sẽ lúng túng, hướng dấn học sinh không mạch lạc làm cho hoạt động suy nghĩ của các em luẩn quẩn và gây mất niềm tin ở các em. Muốn có giờ dạy học tốt, giáo viên phải thực sự có lòng yêu nghề mến trẻ, không ngại khó, ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo, tìm tòi cái mới để dạy.Có được như vậy mới tất yếu bài giảng sẽ thành công. Để đảm bảo mục tiêu của giáo viên hiện đại, trong quá trình dạy học người giáo viên cần phải dạy cho học sinh các kỹ năng quan sát, phân tích, đặt vấn đề và lập kế hoạch giải quyết vấn đề, rèn cho học sinh tính kiên nhẫn, tinh thần say mê dưới sự gợi mở của thầy. Trong đánh giá, việc chấm tay đôi với học sinh hoặc để cho học sinh tự chấm bài mình, được chấm bài bạn là một điều hết sức quan trọng. Trong quá trình ấy người giáo viên sẽ trực tiếp chỉ ra cho học sinh được cái hay, cái được trong khi làm các bài tập toán.Đồng thời cũng là cơ hội để các em tự đánh giá nhận xét kết quả làm việc của mình, của bạn.Dùng điểm số để khuyến khích sáng tạo, tích cực của học sinh. 79
  81. Dạy học là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý.Chính vì vậy, trong dạy học người giáo viên phải luôn luôn tôn trọng nhân cách của trẻ, không được gây ức chế cho học sinh bởi nếu có thì sẽ không bao giờ phát triển hết khả năng và sức sáng tạo của các em.Hãy giữ gìn tâm sự để trở thành người bạn lớn mà các em có thể chia sẻ mọi vấn đề trong học tập và trong cuộc sống. II.Triển vọng nghiên cứu sau đề tài Kết quả sau đề tài có thể được sử dụng để nghiên cứu dạy học các phép tính nhân nói chung trong sách Toán lớp 3. 80